Sau
buổi cơm tối Hoàng Phi Bằng có ư định vào sảnh đường đọc
sách như mọi tối, nhưng chân vô ư bước ra cửa thung lũng
hướng động Đông, chàng đi một ṿng t́m không khí Xuân,
lúc này ngoài trời hoàng hôn chưa xuống, giao điểm huyền
đăng c̣n hẹn sẽ soi sáng thung lũng một thời gian ngắn.
Chàng hướng mắt vào những gốc tùng bách, có ánh tàn
dương rót chiếu qua khe lá, trên cành cây gió đẩy đưa
lung linh, tạo ra t́nh hẹn cây cỏ cùng nhau múa.
Đèn trời treo
trên không trung tự tạo cảnh thế gian cực kỳ đẹp. Chàng
trực nhớ:– Hôm nay là rằm tháng Giêng, ở đây cũng đă khá
lâu rồi nhỉ ? Quả nhiêu chàng khám phá trong động có một
không gian về đêm ảo diệu. Cảm xúc nhất là ba con suối
thác ngàn, sóng nước gồ ghề theo ghềnh đá, gió thổi ào
ào mà nước vẫn yên lặng tự nhiên chảy, lúc ánh sáng mờ
như đang xoay ḿnh vào trong mây, như trải cát vàng một
giắt ngan lưng trời, dưới đáy suối lung linh một tỏ một
mờ, khác nào kỳ quan chưa hề lộ ở thế gian này.
Suối nước tạo ra
có hai hoàng hôn trong một mặt trời có trăng cùng thệ
nguyện sống chết có nhau, phản chiếu bóng ngọn Vân Sơn
Đài ṿi vọi hiện ra một động Thủy Nguyệt, nước chảy vằng
vặc ngan qua động, trong đêm có thể thấy trăng diềm dưới
nước, trăng trôi nước chảy theo vung trời, một quan cảnh
thực hư bất phân trần tục hay là tiên giới.
Trong thung lũng
có chàng Hoàng Phi Bằng suy nghĩ phong phú :– như đang
tưởng chừng có bóng hiệp khách luyện nội công dưới gốc
tùng già, thân đến từ hạ giới mà hồn phách phối cảnh
thần tiên, quả thực cảnh sống b́nh an rất đẹp trong
chàng .
Kỷ niệm của chàng
là nhật lạc tây sơn và trăng Xuân ḥa hợp, cùng gió thổi
nhẹ mênh mang vào động mang theo hương hoa Phong Lan
rừng. Chàng cảm xúc, viết trên phiến đá bài thơ Lạc Việt
Xuân :
Lạc Viêt
Xuân trăng lạnh vàng
Ta đă thấy
không giang nàng lang thang
Lạc Việt
Xuân trăng em sang
Ta đă thấy
bóng em tàng xuân sơn .
Nhiệp điệu của
mỗi ngày thành quen lệ, cứ ánh tà dương vừa xuống, đôi
mắt chàng hướng lên lưng trời thấy dăm ba đôi cánh hạc
đi về hướng Nam, gợi chàng để ḷng theo hạc, hai chân
nhót nhẹ phi thân lên đỉnh núi.
Chàng gọi vào
không trung :– Hạc kia ơi, đi về đâu, dẫu chân trời lạc
nhật, nào cũng phải ở cùng tại hạ nhé ?
Chàng theo hướng
hạc bay về đỉnh núi Nam, khi đến nơi th́ ra hạc ở cùng
dăy Thất Long, thế mà lâu nay nào hay biết . Lạc nhật đă
ch́m vào đêm thanh vắng, chàng không ngại đường xa, tăm
tối, phi thân lên ngọn vách núi cheo leo, chưa đầy nửa
canh giờ đă bắt được hai con hạc nhỏ nặng sáu mươi cân,
chiều cao một thước, đem về động, cột chân hạc lại, cho
chúng sống dưới thân cây tùng bách, gần bờ suối để hạc
được tự do ăn cá, ếch, nhái v.v...
Vốn chàng yêu
thương cầm thú liền khuyên bảo hạc :
― Hạc ơi, sống ở
đây không cần làm việc thâu đêm mà cũng có ăn đầy đủ.
Hạc sẽ hài ḷng, không buồn chán đâu, ư định của mỗ muốn
chuyển cả làng hạc về đây định cư. Hạc ơi, sống với t́nh
chân thực của mỗ có được hay không ?
Sáng sớm, chàng
ra suối, hạc thấy người là khiếp sợ, cả hai con hạc chạy
tránh né, nhưng tránh làm sao được, chân mỗi con hạc đă
có hai kiềng sắt lủng lẳng, có sợi dây gân dài thườn
thượt. Những ngày đầu chàng bắt cá, bắt nhái cho hạc ăn,
từ ấy hạc thân thiện với chàng. Nay hạc tự bắt cá lấy,
muốn ăn bao nhiêu tùy ḷng, có những buổi trưa Hoàng Phi
Bằng ngủ chung với hạc bên cạnh tùng bách, lúc này hạc
xem chàng không c̣n xa lạ, hạc xem như đồng loại chỉ
khác dung mạo, cách sống và ngôn ngữ.
Hạc có tính trang
điểm làm đẹp, thường chải chuốt bộ lông cánh thẳng thớm
óng ả, đôi khi hạc đến gần xỉa tóc cho Hoàng Phi Bằng,
không bao lâu chàng tháo kiềng sắt nơi chân cho hạc, hạc
không phản ứng, sống b́nh thường, đi đi, lại lại xem
Hoàng Phi Bằng như là bạn thân duy nhất ở cơi đời.
Hạc tự do tung
tăng múa, vui mừng trong thung lũng, đôi khi hạc bay ra
khỏi động rồi lại bay về, rủ theo cả bầy vào động có lúc
hơn năm mươi con hạc, nó tha hồ ăn cá, ếch, nhái lúc nào
cũng có, hạc không c̣n lo đời sống vất vả thâu đêm như
xưa, bầy hạc kéo nhau từ giă phía Nam, Thất Long, chọn
Vân Sơn Đài làm nơi đất lành chim đậu.
Hoàng Phi Bằng
tiếp tục xuống đáy suối mỗi ngày, ôn lại nội ngoại công,
mật ngữ "Thiên Đế Cư", lần này chàng miệt mài tịnh luyện,
vô t́nh chàng thả lỏng thân thể, vụt qua một khắc đă ra
ngoài ḍng nước chảy xiết, kỳ diệu thay điểm cuối cùng
có dấu ấn "Âm Dương Ngũ Bích Lạc Việt Phổ". Sách đá chép
năm vơ học âm dương Lạc Việt.
Chàng suy nghĩ:–
Trên đỉnh núi ắt chắc phải có cái ǵ ấy khác lạ ? Mà mỗ
đă trông thấy như ngũ bích, nhưng không để ư trong đó có
những ǵ ? Liền thu tịnh trở về động, phi thân lên đỉnh
núi quả thực thấy mặt bằng rộng hơn ch́n mươi thước, nền
đá h́nh khối lăng trụ, bích ngũ giác đài thẳng đứng mười
hai thước, lộ ra những phiến đá đồ sộ, trang trí thành
ngũ phù điêu, chữ viết bằng tay ấn sâu vào phiến đá, ắt
người xưa nội công phải phi thường. Từ trên bích núi,
chàng phi thân xuống nền đá phẳng phiu, đầu ngó ngược
lên thấy rơ đây là kiến trúc h́nh thù ngũ giác đài không
có mái nhà. Chàng bỡ ngỡ, đảo mắt một ṿng, trước mặt là
ngũ bích đồ, tức khắc lĩnh hội :
― Nhất bích. Đăng
kiếm bát lư "Đăng Thiên Lĩnh Nam" Đèn trời treo Bát Quái
Lĩnh Nam.
Nhị bích. Quyền
năng pháp đao "Công Quyền Lĩnh Nam" Pháp đao vơ học Lĩnh
Nam.
Tam bích. Huyệt
mục đạo đường "Huyệt Pháp Lĩnh Nam" Nguồn cội huyệt thể
Lĩnh Nam.
Tứ bích. Mục khí
môn trường "Mục Trường Lĩnh Nam" Tổ khí mục nội ngoại
công Lĩnh Nam.
Ngũ bích. Tinh
hoàn dược thảo "Dược Giới Lĩnh Nam" Trị liệu tinh cốt
Lĩnh Nam.
Chàng đề khí phi
thân ra khỏi ngũ bích đài, trở về động để chuẩn bị kiếm
và đèn hồng sáp, cho ngày mai lên đỉnh ngũ bích đài công
phu .
Hôm sau chàng trở
lại đứng trước Nhất bích đồ, bái ba lần như thể ra mắt
sư phụ "Đăng Thiên Lĩnh Nam". Chân chàng tấn trụ, tay
cằm đăng, tay cằm kiếm tự luyện theo h́nh đồ pháp của
bích đăng. Lúc đầu khởi động xuất chiêu, thân pháp c̣n
vụng về, tay chân tiến thủ không chuẩn . Luyện đến một
trăm h́nh đồ mới thấy có phần thân pháp linh động, thân
thể lay chuyển nhẹ bổng, nhịp thở linh hóa nhập theo ánh
đèn hồng sáp, chàng phi thân lên không trung, xuất ra
trăm thức, bảy quyền "Đăng Thiên Hầu" trong "Đăng Thiên
Lĩnh Nam" bao phủ một ṿng tṛn màu trắng gió thổi mạnh,
tiếp theo tiếng động tứ bề "ầm ầm", bạt một vùng cổ thụ,
cây trốc gốc ngă rạp xuống đất.
Thế mà ngọn quang
đăng vẫn đứng thẳng băng trước gió, kiếm đăng cùng xuất
qua Tây, thủ Đông, cương Nam, nhu Bắc quang đăng vẫn
quyện theo chiêu thức thần tốc mà biến, xem chừng đăng
hồng sáp đến lúc phải bị tiện nhẵn thành trăm mảnh, cuối
cùng chàng thu đăng về chỉ thấy một luồng khói lam, bay
ra phảng phất mùi của sáp.
Chàng nghĩ thầm:–
Trong đăng có kiếm pháp quả là kỳ diệu. Chàng tiếp tục
theo h́nh tượng mà dụng kiếm đăng, lúc này ngọn đèn lắc
lư đến đâu th́ kiếm theo đến đó, đăng chung thủy ḥa vào
kiếm, thành vơ học tuyệt luân, những dây kiếm liên hoàn,
gồm một trăm tám mươi chín chiêu thức. Kế bên có cả thảy
bảy mươi hai h́nh tượng Kinh Dịch ở trong "Đăng Thiên
Lĩnh Nam" . Chàng suy nghĩ :– Đương nhiên phải có nghĩa
lư của nó mà ta chưa thấu hiểu . Một lần nữa chàng tự
hỏi: – Tại sao bên trái không có chiêu số mà chỉ có
những gạch dài và đoản như thế này, ư nghĩa là ǵ ?
Rồi chàng tự luận :
– Đúng là sáu mươi bốn quẻ dịch bao hàm tất cả định luật
của vũ trụ chi phối vạn vật. Nhưng lại có tám h́nh tượng
đồ chiêu số, quả thực đây là bát quái đồ, gồm sáu mươi
bốn quẻ dịch, điểm khởi đầu, bát quái chỉ vào Càn khôn,
Lưỡng nghi, Tứ tượng, Thái cực, Ngũ hành, Vô cực là tám
phép căn bản trong bát quái đồ, người ta thường gọi Càn,
Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn .
Chàng suy nghĩ
tiếp:– Nếu đem kiếm "Đăng Thiên Lạc Việt " mà so sánh
lợi hại với kiếm "Tuyệt cao kỳ kiếm" hay "Phong tâm kiếm"
và "Hoàng Kiếm" th́ "Đăng Thiên Lạc Việt", cao diệu hơn
trăm phần, cộng với kinh dịch biến hóa không biết đâu mà
lường, ngoài ra c̣n có học thuật bát quái Lĩnh Nam bày
pháp đồ trận. Lúc nàt chàng mới vỡ lẽ nguyên lư của "Đèn
Trời Treo Bát Quái Lĩnh Nam". Có ghi rất rơ ràng, khi
khởi động phải từ Âm chuyển Dương, tức là dùng sức con
mèo di chuyển, như tay rút sợi tơ, đến khi dùng sức chế
địch cũng là lúc nộ khí bùng nổ phan gian đổ hải, chàng
thi triển lần cuối, quả thực không sai. Một nụ cười hài
ḷng .
Ngày thứ, Hoàng
Phi Bằng đến Nhị bích "Công quyền Lĩnh Nam" cũng thi lễ
bái ba lần. Chàng dụng theo h́nh pháp trong bích quyền
thứ nhất, khởi động quyền "Thần vơ" hai chân tấn trụ che
bộ hạ, tay trái nắm tṛn như quả đấm, tay phải x̣e ra
thành một hư quyền bái tổ, khi chàng đấm để ngửa bàn tay
biến thành một quyền chuẩn huyệt "Đơn điền" đến quyền "Thanh
ngưu" thân người gù xuống rồi thẳng lên, năm ngón tay
trái và phải vận nội công biến thành con trâu rừng húc
địch thủ, tay trái xuất ra nửa ṿng tṛn làm hư quyền,
tay phải đưa vào nửa hư quyền biến thành quyền đă hổ.
Tay trái–phải liên hoàn biến thủ, tấn công một ṿng tṛn,
quyền tấn bảo vệ hạ bộ, chuyển quyền về bộ hô hấp, đấm
tiếp vào hệ thần kinh thượng phế nội công của địch, chân
phóng cước vào thần kinh bộ điền để phế vơ công của địch
thủ, cùng lúc chàng phi thân, hai tay xuất quyền thành
một đe, một búa, tùy ư đánh nơi nào địch thủ cũng bị
trọng thương "Công Quyền Lĩnh Nam" như nước chảy không
bao giờ cạn, như mây gió trên trời chưa bao giờ đứng lại .
Hai tay chắp lại, x̣e ra như cánh đại bàng tung ḿnh vào
không gian, tiếp theo, phi thân đảo ngược đầu xuống hai
tay quyền xoay nội công đâm thẳng xuống đỉnh đá, thân
pháp vừa đảo ngược lên th́ hóa thành một vùng trời bụi
mịt mù, tản đá lớn biến thành vô số mảnh đá vụn bay tứ
phía .
Chàng thu quyền
trở về thấy cảnh vật ngổn ngang, gật đầu đắc ư :– Th́ ra
năm chiêu quyền biến hóa vô lường, từ năm chiêu quyền
thành năm mươi, năm mươi thành hai trăm năm mươi và một
lần năm nữa thành một ngàn hai trăm năm mươi, chiêu thức
cứ thế, vô cùng tận . Chàng chú ư luyện quyền quên cả
trời đă lạc nhật, cũng đúng lúc bụng đói, đành phải
xuống động dùng cơm tối .
Hôm sau Hoàng Phi
Bằng mở cửa Đông động ra thung lũng luyện tập lại "Công
quyền Lĩnh Nam" và "Đăng thiên Lĩnh Nam" thấy tinh thần
sảng khoái, trí tuệ cảm giác nhẹ nhàn thư thái . Chàng
tự suy nghĩ tiếp:– Chính nơi đây khởi cốt cho mỗ được
tận hưởng quả lành. Mỗ không phụ ḷng động Lạc Việt, từ
đây lấy quyết định làm người hữu ích cho đời.
Chàng luyện tập
thuần thục vơ học mới, nhờ thụ hưởng vốn có của họ Hoàng,
khi chàng c̣n thuở lên bốn, được gia đ́nh giáo dục tinh
thần nhân nghĩa, khí, cương, nhu, trí, tín và vốn chàng
thông minh truyệt chúng, cơ chất linh động, cho nên
Hoàng Phi Bằng tiếp nhận vơ học rất nhanh .
Bỗng chàng suy
nghĩ mênh mang, vội định thần trí rồi đi thẳng vào động
đóng cửa lại, đem theo một bầu nước, đi lên đỉnh núi
luyện tập cho hết ba pho vơ học c̣n lại . Chàng đứng
trước tam bích "Huyệt Pháp Lĩnh Nam" thi lễ bái sư. Nh́n
vào bích huyệt thấy một người h́nh khắc chạm trổ công
phu, những điểm chấm nhạt cạn, đậm, sâu, trên khắp hệ
thần kinh, những điểm chấm đen lớn nhỏ phân biệt yếu
huyệt tử sinh, những điểm huyệt cạn quan trọng như huyệt
thần kinh gây mê.
H́nh đồ, đếm được
tất cả ba trăm hai mươi bốn huyệt lớn nhỏ, đặc biệt ghi
chú trên tượng h́nh cả thảy ba mươi sáu yếu huyệt tử,
bảy huyệt cải tử, bảy mươi hai yếu huyệt giải độc, mười
hai huyệt phế nội công. Chàng để ḷng suy nghĩ:– Muốn
biết hiệu quả th́ ḿnh tự thử nghiệm th́ mới biết được
nguyên lư của huyệt . Chàng không ngại lấy thân ḿnh thử
nghiệm, liền điểm vào các huyệt trên tay trái, như huyệt
"Khúc tŕ" nới cườm tay, huyệt "Mạch môn" trong ḷng bàn
tay, huyệt "Hi tông" nơi mu bàn tay, huyệt "Tía quyết"
tại cổ tay, huyệt "U cốc" ẩn trong khuỷu tay và huyệt "Hỏa
hầu" nằm sâu trong hai xương tay.
Yếu huyệt "Hồn
môn" tổng hối của các đường huyết mạch trên cánh tay,
biến năng lực toàn thân bủn rủn, hóa thành vô dụng, quả
nhiên cuộc thử nghiệm trên cánh tay thành công. Từ đó,
chàng có ư tưởng mới, như một chất liệu ngoài khả năng
để hết tâm vào kỳ thư vơ học tuyệt kỷ. Chàng tiếp tục
thử nghiệm cánh tay phải, cũng nhận được cùng cảm giác
tương tự như cánh tay trái . Tiếp theo những huyệt dễ
dàng thấy được gồm có, huyệt "Phục hổ" trên vế đùi,
huyệt "Cự cốt" dưới đùi, huyệt "Dương tiền" tại bắp chân,
huyệt "Vĩ long cốt" nơi mông, riêng huyệt "Hồ thanh ngư"
để giải tổng hối đường huyết mạch khi bị trúng độc.
Chàng đă thử
nghiệm hết tay chân, bây giời mới đến thân trước, gồm
huyệt "Trung đỉnh" trước ngực, "Trung đỉnh" ở phía dưới
"Đơn trung", điểm vào huyệt "Khuyết bồn" "Thiên khu" ở
bụng dưới, nơi nách dưới huyệt "Vân đài", sau cùng giải
khai huyệt "Kiên trinh" và "Đại truy" để thân trước trở
về b́nh thường .
C̣n lại trên năm
mươi yếu huyệt, chàng không thể xem thường tự lấy thân
thử nghiệm, ḷng chàng bồi hồi lo măi, muốn thử nghiệm
mạng ḿnh để xem thế nào. Trong lúc lo âu, th́ trực giác
nhớ ra ư mới, tại sao mỗ không dùng một số dă thú để thử
nghiệm, có như vậy th́ mới thấu hiểu thuật "Huyệt Bản
Lạc Việt" chứ. Hoàng Phi Bằng suy ra lư lẽ, tuy người và
vật huyệt mạch khác nhau, nhưng chủ yếu là tập luyện
điểm huyệt làm sao cho trúng những điểm cần biết để sau
này có dịp thực hiện những cái biết của hôm nay.
Hoàng Phi Bằng
liền phi thân xuống núi, một canh giờ sau t́m được một
con nghé rừng đem về động, chàng thử nghiệm theo từng
vùng yếu huyệt, chàng phóng huyệt từng điểm một vào hệ
thần kinh toàn thân, như huyệt "Nê hoàn cung" ở đỉnh đầu
con nghé để rồi chứng nghiệm qua loài người, nhất là các
huyệt trọng yếu "Thái dương" ở trước trán, "Thiên tiền"
"Thiên trụ" ở sau gáy, "Đại thủy" sau cần cổ, "Phong phù"
sau lưng, "Trí đường" nơi sau lưng, "Huyết trợ" nơi ngực,
"Trương môn" nơi dưới nách chỗ eo lưng, "Vĩ long cốt"
nơi mông .
Đến vùng lưng và
vai th́ có huyệt "Phong phiến" huyệt "Chi thất", sau
lưng c̣n có huyệt, "Mạch môn", "Hạ tam lộ" và "Thần môn
thập". Tam thức có huyệt "Trí đường" "Trương môn", ở hai
vai có huyệt "Phong tŕ" và "Phong thủ" .
Về phần hô hấp
sau cần cổ, có các huyệt "Đại thủy" và "Thiên linh", ở
giữa ót có huyệt "Phúc xà", cương khí ở đơn điền huyệt "Bát
lư", hạ khí sinh lư huyệt "Khí môn", trên ngực tim phế
huyệt "Đỉnh môn", ở giữa tim có huyệt "Tam thai âm",
trung tâm hô hấp có huyệt "Tam thai dương" những huyệt
này có khả năng điều ḥa nhập định, giải khai huyệt "Mệnh
môn", giữa lưng có huyệt "Kiên trinh" gần "Đại truy" và
"Huyết bàn", c̣n huyệt "Huyết trợ" có tác dụng gây hôn
mê.
Chàng tập đi tập
lại mấy lần không sót một huyệt nào, con nghé rừng bị
hành hạ không chịu nổi bởi những chiêu quyền "Huyệt Bản
Lạc Việt" con nghé đành phải tắt thở, v́ hai huyệt chí
tử "Nê hoàn cung" và "Thái dương", nghé rừng lăn ra chết
không kịp rống lên tiếng cuối cùng để từ giả Hoàng Phi
Bằng .
Bộ kỳ thư "Huyệt
Pháp Lĩnh Nam" do một khuyết danh người Lĩnh Nam viết
ra, nay Hoàng Phi Bằng mới được thụ đắc. Chàng nhờ thiên
phú tư chất cho nên tiếp nhận bí quyết điểm huyệt, giải
khai, ngoài ra chàng c̣n học trong "Huyệt Pháp Lạc Việt"
ở phần chương cuối về phương pháp chế biến tiên đơn trị
liệu chứng bệnh nan trị, ngoài ra c̣n phương thuốc giải
độc và chế biến độc liệu tinh vi. Nói về vơ học và Đông
y th́ vô bờ bến, c̣n sự hiểu biết của con người lại hạn
chế.
Hoàng Phi Bằng
tiếp tục khám phá h́nh đồ, chàng đếm được có ba trăm sáu
mười lăm đốt xương, kết lại thành sườn thân thể, nhờ vậy
con người di chuyển linh động, tương ứng với thời gian
ngày tháng trong một năm, trong h́nh đồ c̣n ghi chú tỷ
mỉ, người đàn ông có thập nhị xương sườn mỗi bên, bát
trường, tứ đoản, người đàn bà có thập tứ xương sườn.
Luận về huyết thống của gia đ́nh, chồng, vợ, con ḥa tan
trong nước, c̣n người xa lạ không thể ḥa tan được.
Trong lúc chàng
suy nghĩ về xương, tự nói:– Ḿnh chỉ cần lấy vài đốt
xương quan trọng trong thân thể th́ kẻ ấy sẽ trở thành
phế nhân, cũng như cứu người bằng một đốt xương tương
ứng với con vật. Nghĩ đến đây chàng cần phải biết về bộ
xương con người, theo hướng dẫn trong "Huyệt Pháp Lĩnh
Nam" th́ có những xương như bả vai, bàn chân, ống chân,
ống chân phụ, cổ chân, gót, cùi chỏ, bàn tay, cánh tay
ni ngoại, cổ tay, cườm tay, đ̣n gánh, bàn tọa, bánh chè,
đùi, g̣ má, hàm, hông, mông, xương sống, sụn, sườn những
xương này dụng ư để phế vơ công của địch thủ. Ngoài ra
c̣n có những xương để hủy một địch thủ như xương cổ,
đỉnh đầu, màng tang, mỏ ác, ức, ót, xương trán, trong
bích phổ có nói rơ, "Tùy tính thiện ác của địch thủ mà
quyết định phế thân".
Động Lạc Việt cho
chàng một gia tài vơ học, mà đă thất truyền cách đây hơn
năm trăm năm, chỉ có những nguyên khởi hạnh tốt mới thụ
đắc được những ǵ có trong động, ở đây cũng là không
gian thanh bạch để người kiệt chúng dưỡng năng lực,
luyện khí.
Trưa hôm sau
chàng trở lại đáy núi để dầm ḿnh xuống suối, chàng ngủ
một lúc bốn thời canh ở dưới đáy suối, sâu hơn bảy thước.
Khi thức dậy chàng trở lại điểm khởi đầu của "Âm Dương
Ngũ Bích Lạc Việt Phổ", rồi đi theo ḍng suối ôn tuyền
ấm áp, đến một cửa đá hẹp chàng không ngại khó, đi vào
cho biết, đi được tam khác giờ th́ phát hiện ra một lâu
đài nguy nga lớn hơn sảnh đường tại động Đông, chàng
kinh hoảng sợ người chủ động khiển trách, rồi tự ḷng
gọi lớn – Tại hạ xin bái kiến chủ gia, nhưng không thấy
tiếng trả lời, chàng gọi một lần nữa:– Hoàng Phi Bằng
tiểu nhân xin yết kiến chủ gia, cũng không nghe tiếng
trả lời, không thấy ai ra đón tiếp, chàng tự ư chân bước
rón rén vào, đi hết một ṿng tṛn trong cung điện, rồi
đi lại hai ṿng cũng không thấy ai, chỉ duy chàng thấy
ngọc, ngà, châu báu, ngân kim vô số kể, xếp đặt thứ tự,
vật nào ra vật ấy, có đánh dấu số lượng vào bảng gỗ.
Chàng thừa biết
đây là kho tàng, v́ chàng vốn là con nhà gia tộc quư tộc
cho nên không xa lạ ǵ những thứ vật này, chính hiện
trong người chàng cũng có một miếng ngọc bội gia bảo họ
Hoàng truyền cho. Chàng liền suy nghĩ, nếu đây là thực,
không phải mộng du, đây là sự thực của kho tàng, đủ để
xây dựng giang sơn Bách Việt .
Ḷng chàng vui
mừng khôn xiết, nói thành lời: – Từ nay mỗ sung công kho
tàng này vào "Hợp Việt Trừ Hán" thay v́ "Hợp Việt Xuất
Hán", hy vọng mỗ là gia chủ của kho tàng này. Nỗi ḷng
vui mừng đến xúc động mạnh, vừa cười vừa khóc, chàng quỳ
xuống đất chấp hai tay hướng về Đông bấm ấn Tư cúi đầu
ba lạy, mười hai gật đầu, niệm :– Thưa Người từ ngôi cao,
cho đệ tử sử dụng gia tài này vào việc độ đồng sinh .
Nghi lễ đă thành, rồi tiếp tục đi ra phía sau cung điện,
th́ thấy một ngơ ngách hướng đi lên, chàng cũng ḷ ṃ đi
cho biết, đến ngơ đường cùn, có bốn vách đá cao hơn ba
trượng, rộng năm trượng, ánh sáng chiếu vào hiện h́nh
phiến đá chữ nhật, chàng định thần hiểu. Đây chính là
lối lên đỉnh núi "Âm Dương Ngũ Bích Lạc Việt Phổ" rồi .
Liền vận nội công xê dịch một phiến đá nặng hơn hai ngàn
cân, lúc xê dịch mới biết phiến đá này là cửa đi xuống
kho tàng, cùng lúc khám phá mặt trái phiến đá sần sùi
h́nh như có viết chữ, lập tức tay đẩy phiến đá ra ngoài
ánh sáng, chàng hiểu ngay đây chính là mật quyết của tứ
bích mục "Mục Trường Lĩnh Nam" Chàng bước ra ngoài khép
bích phổ lại như cũ, không vui mừng nào hơn chàng hít
một luồng không khí sâu vào ḷng ngực để cho tinh thần
thoải mái.
Chàng tiếp tục
xoay chiều về phía trái của bốn phiến đá c̣n lại, miệng
vui mừng chàng hô lớn: – Ôi hay, tất cả bí mật vơ học
trên đỉnh Vân Sơn Đài nay đă lộ ra dưới ánh sáng mặt
trời, đúng là đỉnh núi cổ động Lạc Việt. Cũng lúc ấy
chàng xoay lưng lại, đôi mắt đă dán dính vào hai phiến
đá, Tứ bích mục "Mục Trường Lĩnh Nam" và Ngũ bích dược "Dược
Giới Lĩnh Nam" mà chàng chưa học đến, chàng cười thành
tiếng "ha hà" nói :– Hẹn ngày mai đệ tử trở lại. Trời đă
sẩm tối, chàng bái biệt ngũ bích đài phi thân xuống động
.
Sáng sớm chàng
trở lại đỉnh ngũ giác đài, sương mù c̣n bao phủ dày đặc,
chàng tiến đến trước phiến đá. Nhất bích đăng "Đăng
Thiên Lĩnh Nam" đọc mật quyết, như có tiếng âm vang từ
bích núi "Đây là ẩn dụ pháp Đăng Thiên Lĩnh Nam, người
nhận lấy hưởng đắc hữu khởi" Hoàng Phi Bằng quỳ xuống
tiếp nhận, ḷng ghi nhớ mật quyết.
"Vơ gốc nhu
thủ cương xuất khởi nghiệp
Khí nương thu
nhập khởi tiếp truyền ra
Công phu hương
ngọc bay xa
Chiêu thánh vơ
thần tôn giá tại ḷng
Thượng sư dụng
năng đồng phối hạc
Hạ phàm thụ
cứu gác xe tiên
Kim thân tụ
khí chân truyền
Chín từng vơ
khuyết thiên truyền minh tri".
Khi đọc mật quyết
trong ḷng chàng cảm ứng được, rồi tự giải ư nghĩa mất
quyết. Tay cằm đao chuyển pháp theo khả năng của thần
khí diệu biến. Cả ngày chàng công phu chuyển đăng nhập
mật quyết vào thần vơ học. Cùng lúc dụng khí thả lỏng
vào đơn điền, thu hút âm dương, tam khí biến "Tinh, Khí,
Thần" hợp nhất. Vốn ḷng chàng trong sáng, mới khai
thông nguyên khí lục phủ ngũ tạng, vơ học chảy vào tứ
chi như suối reo mùa Xuân, cùng Tứ thời quân phương toát
ra muồi thơm của các loài hoa, đang rơi nhè nhẹ trên
không trung, biểu hiện cá tính thiện nhân .
Những ngày trước
chàng đă luyện nội ngoại công, nhờ vậy mới biết sử dụng
ḥa, cương, nhu, vũ, thuận. Mỗi lúc vận dụng nguyên khí
đạt thành âm dương, thông nhuần mọi lư "kim, mộc, thủy,
hỏa, thổ" và ngũ hành trong thân thể, như "tâm thuc hỏa,
phế thuc kim, thận thuc thuỷ, tỳ thuc thổ, can thuc mộc".
Xem ra chàng đả thông tất cả bát mạch, mười hai thường
mạch "tim, phế, tỳ, can, thận" "ngũ tạng" cùng tâm bảo
có sáu bộ phận thuc âm. "đại trường, tiểu trường, đởm,
bàng quang, tam tiêu" thuc dương "âm kiểu, dương kiểu"
Bát mạch bảo vệ âm dương, phối hợp hành đăng .
Nay đă đạt được
huyệt mạch hóa chuyển thần kỳ, ngũ tạng thông hai yếu
huyệt "Vân môn" và "Trung phủ" vào các huyệt nhỏ ở hai
cánh tay, mười đầu ngón tay xuất chiêu đanh như thép .
C̣n một cách khác, khi vận động các huyệt hội hợp về
Thiếu dương với "Đới mạch" biến thành Thiếu âm th́ đôi
bàn tay sắt thép. Tay chuyển như đao xuất mọi vật sẽ tan
vỡ.
Sự miệt mài công
phu đă ngoài khả năng ư tưởng vơ học của chàng. Hiện
thời nếu có địch thủ đang cằm bảo đao, hay bảo kiếm cũng
vô dụng, địch thủ khó mà chạm vào vạt bào của chàng .
Phần ngoại công
đao pháp của chàng cũng đă đến tuyệt luân. Tuy chàng
được ân hưởng vơ học vô sư, nhưng lúc nào cũng ghi nhớ
ngũ bích phổ là sư phụ hiện hữu, chàng hành lễ nguyện:–
Đệ tử kính dâng trí tuệ, thể xác, linh hồn này xin sư
phụ vô danh bốn phương, tùy nghi sử dụng nơi nào cũng
được, đệ tử Hoàng Phi Bằng khắc cốt ghi xương, tạ ơn,
kính xin đệ đầu tam bái.
Gặp lúc thời vận
hóa sinh tuấn kiệt, trời phú trí mỹ cho tuổi thanh xuân,
như Hoàng Phi Bằng vơ khí dũng sinh, đó là kết tụ nguyên
khí do từ tinh linh. Nay xuất hiện một kiếp sinh, trợ
người hèn kẻ yếu, pḥ nguy, định nhân quần, an xă tắc.
Lúc này ngoài
trời mới mới canh năm mà trong ḷng đă thúc dục, chàng
phi thân lên đỉnh núi, tinh sương mây mù phủ cả bầu trời,
những con gió rét mướt luồn trong núi ào ào, chàng định
thần chân đứng nhẹ trên ngũ giác đài, trước Nhị bích
quyền "Công Quyền Lĩnh Nam" liền đọc mật quyết, tiếng
th́ thầm trong bích núi chảy vào ḷng chàng "Mật pháp
Công Quyền Lĩnh Nam", có tiếng nói : "– Ngươi phải tinh
minh mẫn, nhận lấy hữu khởi". Một lần nữa Hoàng Phi Bằng
quỳ xuống tiếp nhận mật quyết :
"Biển trần vơ đức mang mang
Ánh thái dương giọi bước phương đông
Tổ sư thái vơ đức công
Xuất biến ni ngoại hiệp công phù đời
Trong vơ giáo có lời chỉ dạy
Gốc một đồng nguyên phải thực lành
Âm dương khí thánh chỉ rành
Công quyền đă dặn, ḷng thành thực nhơn".
Mật
quyết viết toàn ẩn dụ ngữ, người tinh thông kỳ thư mấy
cũng phải ngớ ngẩn trước những bao phủ lời học thánh.
Hoàng Phi Bằng tay quyền tinh thông xuất chiêu, phi thân
lên khoảng không đấm vào mé nghiêng triền núi, có sương
mù bao phủ, chàng đọc luôn mật quyết "Biển Trần vơ đức
mang mang" "Ánh thái dương giọi trước phương đông" rồi
xuất hai chiêu tiếng vang dội "rầm rầm" phát ra một ánh
sáng tung bay khắp nơi, trong giây chốc triền núi trở
nên trong vắt, không c̣n sương mù, liền xuất chiêu tiếp
mười hai quyền "thần vơ" phát ra hai tiếng "sẹt sẹt" cả
một vùng quang thông ánh sáng trên mười trượng. "Công
Quyền Lĩnh Nam" biến hóa ảo diệu, chiêu quyền xuất ra mà
ḷng người thảnh thơi, không bận rộn, chân bước theo
chiêu thức của quyền như người đằng vân, theo ánh sáng
như bước trên mây.
Xuất
quyền như thể hóa nhập, diệu chiêu biến hóa năm mươi
thức, hóa chiêu không ngừng biến năm trăm thức. Cứ thế
mà hóa vô cực chiêu thức, đến khi nội ngoại công tăng
tốc, không ai biết được nơi cùng tận của vơ học, tuy
chiêu số của chàng đă dừng lại, ấy mà lực đẩy của hậu
chiêu cương hóa, như băo táp "ào ào", thế mới biết "Công
Quyền Lĩnh Nam" đă ở ngoài giới phân định vơ học. Hoàng
Phi Bằng mừng rỡ, quỳ xuống hai tay chắp lại: – Kính xin
bái Sư, đệ tử Hoàng Phi tạ ơn Người.
Hoàng Phi Bằng tự ư sống theo lệ thường, mỗi sáng sớm
lên đỉnh ngũ giác đài công phu quyền, chàng vén mây mù,
sương lạnh đến tam bích huyệt "Huyệt Pháp Lĩnh Nam" đọc
một lúc thuộc hết lời mật quyết, rồi ngồi đối diện
"Huyệt Pháp Lĩnh Nam" tụ "Tinh Khí Thần" qua thân thể,
tay xuất chiêu vào chín yếu huyệt "Nê hoàn cung, Thái
dương, Thiên trụ, Đại thủy, Phong phù, Trí đường, Huyết
trợ, Trương môn, Vĩ long cốt" đọc mật quyết vận vào hai
tay phóng quyền "Châu thanh ngưu" hơn ba trăm hai mươi
bốn hạt cát bay ra, nhưng chỉ dính đúng ba trăm hai mươi
bốn yếu huyệt, phần c̣n lại rơi xuống đất.
Chàng không hài ḷng lối công phu này, nghĩ ra một
phương thức khác, chàng phủi tất cả đất cát dưới nền đá
qua một bên, rồi lấy ba trăm hai mươi bốn hạt cát dính
trên h́nh nhơn, để luyện tập. Chàng xuất chỉ lần thứ
nhất, măi đến lần thứ năm th́ đạt được như ư, ba trăm
hai mươi bốn hạt cát dính vào diểm yếu huyệt không rơi
ra ngoài một hạt cát nào, thế mới đúng như lời người
"Phải duyên cơ th́ dính như keo, trái duyên không dính
học hoài bèo trôi" . |