Vào trại tị
nạn, bà X được sắp xếp sống ở barrack dành cho trẻ em không
thân nhân (unaccompanied children barrack). Hội Hồng Thập Tự
mau chóng t́m ra thân nhân của bà X – gia đ́nh của một người
bác, sinh sống ở California từ năm 1975 – và bà được bảo trợ,
để đi định cư ngay sau đó.
Dù trải qua
những kinh nghiệm hăi hùng, và dù sống xa bố mẹ, những năm
niên thiếu của bà X rất b́nh thường. Bà là một học sinh trung
b́nh, có hạnh kiểm tốt, và nhiều bè bạn. Bà X chưa bao giờ thử
dùng cần sa, ma túy hoặc bất cứ một chất kích thích hay gây
nghiện nào.
Sau trung học,
bà X tiếp tục chương tŕnh kế toán tại một đại học cộng đồng.
Bà lấy chồng sớm, vào năm 20. Ông chồng cũng là một người gốc
Việt, hiện đang làm kỹ sư cho một công ty điện tử, được mô tả
là “hiền lành và hiểu biết.” Ông bà, cùng hai con, đă nhiều
lần trở lại Việt Nam thăm viếng gia đ́nh.
Cuộc sống của
bà X hoàn toàn ổn thỏa cho đến một ngày cuối tháng 1 năm 2010.
Chiều hôm đó, bà X được báo tin con trai bị mất tích – khi
chơi trượt sóng, ở băi biển, gần trường. Bà X đến nơi đúng lúc
xác con vừa được t́m thấy tại nơi xảy ra tai nạn, với vết
thương ở đầu v́ va phải đá ngầm, ‘đầu cháu cũng bị vỡ, bên
trán trái, đúng ngay vào chỗ mà hải tặc đă dùng búa đánh vào
ông anh rể của tôi....’
Sau biến cố
này, bà X thường xuyên bị ám ảnh bởi ác mộng (hoặc những hồi
ức sống động y như thực) có liên quan đến chuyến vượt biên từ...
ba mươi năm trước. Cùng lúc bà X bỗng trở nên âu lo, buồn chán,
lănh đạm, hay nghi ngại, và mất hẳn niềm tin vào cuộc sống...”
|
Vào thời điểm đó,
suốt cả thập niên 1980, không ai trong số hàng triệu người
Việt ở khắp những trại tị nạn Á Châu (kể cả những đứa bé thơ)
có được một giấc ngủ b́nh thường – nói chi đến chuyện “an lành”
hay “ngon giấc.” Ác mộng của những kẻ hốt hoảng, bồng bế dắt
díu nhau bỏ chạy khỏi quê hương, đều gần giống như nhau: bị
săn đuổi, bắt bớ, đánh đập, hăm hiếp, bơ vơ, lạc lơng, đói
khát giữa biển trời bao la, hay bị ch́m đắm giữa đại dương
giông băo … Sau mộng mị, chúng tôi thường thức giấc giữa khuya
– toát đẫm mồ hôi v́ sợ hăi và mệt nhọc – nằm định thần một
lát rồi … thở phào nhẹ nhơm khi nhận ra rằng ḿnh đă thoát, và
(chỉ) vừa trải qua một giấc mơ thôi! Mộng dữ như thế thưa dần,
với thời gian, rồi dứt hẳn nơi phần lớn những người tị nạn –
sau khi cuộc sống của họ đă được ổn định nơi vùng đất mới.
Tiến tŕnh này, tuy thế, không đồng nhất. Có một số người,
thỉnh thoảng, vẫn cứ bị mộng mị và những hồi ức hăi hùng theo
đuổi. Số ít hơn th́ sống hoàn toàn b́nh thường và an lành, một
thời gian khá lâu – hoặc rất lâu – rồi bỗng dưng lại bị ám ảnh
bởi những hồi tưởng hay những cơn ác mộng (có liên hệ đến
những chuyện khủng khiếp) mà họ đă trải qua. Trường hợp sau,
theo cẩm nang hiện dụng của khoa Tâm Thần Học [DSM - IV - TR
(Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorder, Fourth
Edition.
Text Revision) Washington, DC, American Psychiatric
Association, 2000] có tên gọi là hội chứng Post Traumatic
Stress Disorder With Delay Onset. Xin tạm dịch là Hội Chứng
Hậu Chấn Thương Tâm Lư Phát Chậm. Tôi nghi ngại là bà X rơi
vào trường hợp cuối này.
Trong lần hẹn kế tiếp, bà X bớt dè dặt hơn, và khóc nhiều lần
khi nhắc đến người chị (vẫn biệt vô âm tín) với niềm ân hận về
sự vô tâm của ḿnh, suốt ba mươi năm qua. Cho đến nay, vẫn
không thể nào biết được có bao nhiêu thuyền nhân đă bị lâm vào
hoàn cảnh (thương tâm) tương tự như thế.
Ngay vào đầu thập niên 90, khi cuộc sống mới vừa tạm ổn định,
người Việt tị nạn đă thực hiện một “project” nhỏ, lấy tên là
“Xin Đừng Quên Tôi (Forget – Me – Not).” Nhóm chủ trương tin
là “... có nhiều bằng chứng cho thấy rằng một số thiếu nữ Việt
nam bị bắt cóc trước đây hiện đang sinh sống đâu đó tại Thái
Lan, Singapore và tại các vùng biên giới Mă Lai.” Do đó, họ
cho phổ biến khắp nơi một lời nhắn ngắn:
“Ai
có tin tức liên quan đến các cô gái bị hải tặc bắt cóc xin
liên lạc với Vietnam & The World Foundation, P.O.Box 4108,
Hungtington Beach, CA 92605 – 4018, USA.”
Và mới đây, trên báo Việt Tide – phát hành từ Wesminster,
California – vào tháng 12 năm 2009 (tôi không c̣n nhớ rơ số)
người ta đọc được mẩu nhắn tin: “Xin giúp t́m bé Bích Hằng”
“Khẩn cầu và xin các bạn giúp người cha và gia đ́nh t́m lại
đứa con gái bị cướp biển Thái Lan bắt và thất lạc lúc 14 tuổi,
hơn 25 năm, từ 1984 đến nay. Muôn ngàn đa tạ và muôn đời mang
ơn các bạn (*).”
Cuối thế kỷ trước, có người đă hỏi (khó) ông Phạm Văn Đồng như
sau: nguyên
“Xin thủ tướng cho biết ư kiến về sự kiện thuyền nhân hồi
1975, nhất là hồi 1978, 1979… Về nhân và trách nhiệm trong
những sự kiện ấy, với những hiện tượng bán băi thu vàng và khá
nhiều tầu, thuyền bị hải tặc băo tố và ch́m trong đại dương…
Là người đứng đầu chính phủ, một trong những người lănh đạo
cao nhất của đảng cộng sản, thủ tướng nh́n nhận ra sao trách
nhiệm của ḿnh trong cuộc di dân rộng lớn và bi thảm ấy?”
(Bùi Tín, “Hai Câu Hỏi Cần Trả Lời Rơ Ràng Trước Khi Thế Kỷ 20
Khép Lại,” Cánh Én, Feb.1999:05).Thế kỷ XX đă khép lại. Ông
Phạm Văn Đồng đă ĺa đời. Tuy thế, ác mộng vẫn không ngừng
quấy nhiễu bà X, song thân của bé Hằng, cùng không biết bao
nhiêu thuyền nhân khác nữa v́ họ (không may) đă trải qua “cuộc
di dân rộng lớn và bi thảm ấy.”
Và thế kỷ mới, thế kỷ XXI, đang bắt đầu với... những thuyền
nhân mới! Tuy có tên gọi là nouveaux boat people nhưng họ
không di chuyển bằng thuyền.
“Trong cuộc hành tŕnh dài bằng phần nửa ṿng trái đất, họ
thường bám trên các xe vận tải hạng nặng xuyên qua Châu Âu.
Trốn trong những thùng chứa hàng trong xe, họ phải ép xác, có
khi chịu đựng không ăn uống trong nhiều ngày...”
“Năm ngoái, hải quan Pháp đă khám phá được mười mấy xác chết
người Á Châu v́ ngộp ở trong xe hàng, không biết có phải là
Việt Nam không. Ngày nay hải quan ở Calais và ở Douvres có một
phương pháp khoa học hơn, là đo lượng khí cac-bô-nic (CO2)
thải ra để biết trong xe có người hay không....”
“Những mẫu chuyện xót xa thực sự trên phải ghép lại thành một
cuốn phim dài, thật dài, mới nói hết những ǵ trong tâm tư họ
và những ǵ đă xảy ra ở Việt Nam sau hơn ba mươi năm ḥa b́nh
và thống nhất đất nước...” (Phương Vũ Vơ Tam Anh, “Người Việt
Khốn Khổ Tại Paris”).
“Ba
mươi năm ḥa b́nh và thống nhất đất nước,” xét một cách khách
quan, đă mang lại nhiều đổi thay tích cực (rất đáng kể) cho
những thuyền nhân mới. Họ ra đi có tổ chức, và trật tự hơn. Họ
không c̣n bị những lời mắng nhiếc, rủa xả tàn tệ (“đồ ma cô đĩ
điếm, trây lười lao động, chạy theo bơ thừa sữa cặn, ôm chân
đế quốc...”) tới tấp ném theo sau, như đám thuyền nhân cũ.
Cũng không c̣n chuyện bán bến thu vàng, một cách bừa băi, như
trước nữa.
“Một thành viên người Việt lao động cho biết hiện trong nước có
nhiều những ngân hàng quảng cáo thế chấp và cho vay để đi lao
động nước ngoài như Ngân hàng Chính sách xă hội Việt Nam, Ngân
hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt
Nam, Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL, Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Việt Nam, Quỹ Tín dụng Nhân dân Trung
ương, Ngân hàng Quân Đội v.v... ” ( Huỳnh Tâm, “Dịch Vụ Xuất Khẩu Lao Động Theo Kiểu Việt Nam Ta” ).
Cách ra đi tuy
khác nhưng lối đi th́ không khác mấy. Lối nào th́ cũng gặp
những gian truân và tai hoạ y hệt như nhau. Bị trấn lột và hăm
hiếp giữa đường là lẽ thường t́nh – vẫn theo như tường thuật
của kư giả Huỳnh Tâm, trong bài phóng sự kế tiếp (thực hiện
vào 10 tháng 12 năm 2009) tại rừng Grande Synthe :
“Cộng đồng
người Czech, Afghanistan và Iraq trong khu rừng này là những
nhóm nhập cư bất hợp vào vào đất Pháp từ lâu đời nhưng không
thành công trên đường nhập cư vào Anh Quốc nên xoay qua tống
tiền những người đồng cảnh ngộ để kiếm sống, nạn nhân những
người Việt Nam khốn khổ. Những đám thổ phỉ này gặp người Việt
Nam như trúng số lớn, họ trấn lột người Việt bằng cách đếm đầu
người rồi buộc nộp măi lộ. Những phụ nữ Việt không may bị họ
bắt giữ ban ngày khi băng qua rừng một ḿnh phải chịu h́nh
phạt giải quyết sinh lư. Ai chống lại họ sẽ bị đàn áp dă man.”
Những thuyền nhân
mới không chỉ xuất hiện ở những cánh rừng Âu Châu. Họ có mặt ở
nhiều nơi, và bị xa lánh hay ngược đăi ở khắp mọi nơi. Nhân
loại, xem chừng, đă oải. Người ta không thể tiếp tục mở rộng
ṿng tay đón chào những kẻ khốn cùng, những người rơm (không
vốn liếng, không ngoại ngữ, không nghề nghiệp, không cả một
mảnh giấy tùy thân) cứ đến măi từ một xứ sở ... Độc Lập – Tự
Do – Hạnh Phúc!
Trâu chậm uống
nước đục.
V́ đến chậm nên
những thuyền nhân mới đi lấy chồng xa nhưng không được ở nhà
chồng mà phải sống trong nhà thổ, hay chỉ được sống chui (vĩnh
viễn) ở quê chồng.
V́ đến chậm nên
những thuyền nhân mới (muốn trở thành công nhân xuất khẩu lao
động) phải nộp tiền măi lộ mới được rời khỏi quê hương, và bị
quịt lương ở xứ người, với thái độ dửng dưng của tất cả các Sứ
Quán của nước CHXHCNVN.
V́ đến chậm nên
những thuyền nhân mới (tuổi vị thành niên) thay v́ được Cao Ủy
Tị Nạn t́m cho một cơ quan bảo trợ, đă trở thành những “món đồ
chơi” ở những nơi gọi là “Mecca for paedophiles” (Thánh Địa
Ấu Dâm) cho thiên hạ mua vui.
Theo Tuổi Trẻ
Online đọc được vào hôm 22 tháng 2 năm 2010, hiện nay “cả
nước có 255 địa bàn trọng điểm, 89 tuyến trọng điểm về buôn
bán phụ nữ và trẻ em. Đó là kết quả điều tra cơ bản, rà soát
của công an các địa phương vừa được văn pḥng thường trực
Chương tŕnh quốc gia pḥng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em
thống kê.
Theo đó, t́nh
trạng buôn bán phụ nữ, trẻ em diễn ra trên cả đường bộ, đường
thủy và đường hàng không. Trong đó, buôn bán phụ nữ sang Trung
Quốc chiếm khoảng 65% tổng số vụ. Các nạn nhân thường bị bán
với mục đích làm gái mại dâm, lấy chồng hoặc bóc lột sức lao
động. Có một số trường hợp bị bán để lấy nội tạng...”
Ông thủ tướng
Phạm Văn Đồng đă từ trần nhưng những người kế nhiệm th́ chưa.
Những vị này đều đă (và sẽ) có thể hạ cánh an toàn với khối
tài sản kếch xù dành cho chính ḿnh, cũng như cho thân nhân,
và ḍng họ. Tuy nhiên, tội ác chất chồng của họ th́ vẫn được
dân tộc Việt ghi nhận cẩn thận và (chắc chắn) sẽ không bao giờ
bị lăng quên.
|