Mục Lục

Rừng Người Lao Động
Vấn Nạn Đất Nước
Câu Lạc Bộ Dân Chủ
Văn Học Nghệ Thuật
Dân Chủ Đa Nguyên
Trung Tâm Việt Học
   Tiểu Thuyết Giả Sử

Anh Hùng Nam Việt
   

 

 

Télévision

Lật Lại Hồ Sơ Đen

Việt Nam Trung Hoa

Nghệ Thuật & Đời Sống

Hôm Nay &  Mai Sau

Dặm Trường Quê Hương

Đất Nước Anh Hùng
   

 

Thảo Luận

B́nh Luận

Ư Kiến

Báo Lưu Trữ
   

   

Lật Lại Hồ Sơ Cũ

   
Hồ Chí Minh
Cải Cách Ruộng Đất
Truyện Tranh
Truyện Cổ
Kim Văn Kiều
Lịch Sử 
Ngũ Châu
Y-Dược

Nữ Công Gia Chánh

 

   

Chủ Nhiệm: Huỳnh Tâm

Chủ Bút : Viên Dung

Tổng B.T: Sông Dinh

Ban Biên Tập :

Cao Đại Hưng, Trần B́nh, Chu Hồng Đức, Nguyễn Giang Thành, Mai Hiệp, Vĩnh Phú, Huỳnh B́nh Ḥa, Hoa Trà, Chu Định, Trường Tứ Hải, Phạm Tô Phàm, Tử Hối, Đ́nh Trang, Thiện Đạo, Phan Ngọc Bích, Tri Liêng .

 
 

   Tiếp nhận thư tín :

 

          Trang Nhà  :

 
   

 

 

 

 

Links

Google

Saigonbao.com
Thông Luận
Tổ Quốc
Nhân Ái
Đất Việt

Báo Sóng Thần

Goken

Cao Đài Paris

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ngọc Tỷ 18 đời Hung Vương
Ân Hùng Vương 18
Ải Nam Quang
Ải Chi Lăng
Hịch Trần Hưng Đạo
Đền Thờ Văn Miếu
Văn Miếu
Bia Văn Miếu
Bia Danh Tiến Sĩ
Trống đồng
Ngọc Lũ
Lịch sử Việt Nam cận đai
Cổ Mộ Lư Thái Tổ
Hồ Hoàng Kím
Hồ Hoàng Kiếm
Triều Nguyễn
Ngai Vàng
Đế đô Phong Châu
Cổ Loa Thành
Bạch Đằng Giang
 Trần Hưng Đạo
Trưng Trắc
Nguyễn Trăi
Quang Trung
Đền Kiêm Qui
Duy Tân
Tự Đức
Hàm Nghi
Đề Thám
Cường Để
Đinh Tiên Hoàng
Lê Đại Hành
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 

Những thuyền nhân mới

   Tưởng Năng Tiến

Đời nhịp sầu lỡ bước,

bước hoang mang rồi.

( “ Thuyền Viễn Xứ” – Phạm Duy )

Bà X khoảng bốn mươi tuổi, hiện đang sống với chồng và con gái trong một căn nhà do chính họ làm chủ ở California. Bà nói thông thạo hai thứ tiếng: Anh và Việt. Phục sức giản dị, trông buồn bă và lo lắng, bà X tuy dè dặt nhưng hoàn toàn thành thật khi trả lời mọi câu hỏi được đặt ra.

Bà rời khỏi VN vào năm 1980, khi c̣n là một cô bé, cùng với chị và anh rể. Ghe bị cướp ba lần, trong khi lênh đênh trong vịnh Thái Lan. Chị bà X bị hăm hiếp ngay lần thứ nhất. Khi người anh của bà X xông vào cứu vợ, ông bị đập búa vào đầu và xô xuống biển. Lần thứ hai, mọi chuyện diễn tiến cũng gần như lần đầu. Riêng lần cuối, khi bỏ đi, đám hải tặc c̣n bắt theo theo mấy thiếu nữ trẻ nhất trên thuyền. Chị bà X là một trong những người này.

Bé Bích Hằng bị thất lạc từ năm 1984 cho đến nay. Lúc mới sanh,  bé có mang một đốm nâu trên đùi chân phải (a brown birth mark on top of right thigh). Nếu Bích Hằng c̣n sống th́ năm nay được khoảng 39 tuổi. Bị cướp Thái Lan bắt khi vượt biên, lúc 14 tuổi.

 Địa chỉ liên lạc:
Email: chatimcon@gmail.com
Mobile Number:714 487 4241 
Other: 714 839 1587

Vào trại tị nạn, bà X được sắp xếp sống ở barrack dành cho trẻ em không thân nhân (unaccompanied children barrack). Hội Hồng Thập Tự mau chóng t́m ra thân nhân của bà X –  gia đ́nh của một người bác, sinh sống ở California từ năm 1975 – và bà được bảo trợ, để đi định cư ngay sau đó.

Dù trải qua những kinh nghiệm hăi hùng, và dù sống xa bố mẹ, những năm niên thiếu của bà X rất b́nh thường. Bà là một học sinh trung b́nh, có hạnh kiểm tốt, và nhiều bè bạn. Bà X chưa bao giờ thử dùng cần sa, ma túy hoặc bất cứ một chất kích thích hay gây nghiện nào.

Sau trung học, bà X tiếp tục chương tŕnh kế toán tại một đại học cộng đồng. Bà lấy chồng sớm, vào năm 20. Ông chồng cũng là một người gốc Việt, hiện  đang làm kỹ sư cho một công ty điện tử, được mô tả là “hiền lành và hiểu biết.” Ông bà, cùng hai con, đă nhiều lần trở lại Việt Nam thăm viếng gia đ́nh.

Cuộc sống của bà X hoàn toàn ổn thỏa cho đến một ngày cuối tháng 1 năm 2010. Chiều hôm đó, bà X được báo tin con trai bị mất tích –  khi chơi trượt sóng, ở băi biển, gần trường. Bà X đến nơi đúng lúc xác con vừa được t́m thấy tại nơi xảy ra tai nạn, với vết thương ở đầu v́ va phải đá ngầm, ‘đầu cháu cũng bị vỡ, bên trán trái, đúng ngay vào chỗ mà hải tặc đă dùng búa đánh  vào ông anh rể của tôi....’

Sau biến cố này, bà X thường xuyên bị ám ảnh bởi ác mộng (hoặc những hồi ức sống động y như thực) có liên quan đến chuyến vượt biên từ... ba mươi năm trước. Cùng lúc bà X bỗng trở nên âu lo, buồn chán, lănh đạm, hay nghi ngại, và  mất hẳn niềm tin vào cuộc sống...”

 Nam thuyền nhân mới ( ẢNH : Hu ỳnh Tâm )

Tôi liếc nh́n đồng hồ, ngưng ghi chép, và cho bà X cái hẹn tới. Tôi thường quên “khách hàng,” ngay sau khi họ bước ra khỏi cửa. Tôi cần khoảng trống cho những người kế tiếp, cũng như cho... chính ḿnh. Riêng chiều hôm đó, dù bà X đă ra về từ lâu, tôi vẫn cứ nghe (như) có tiếng sóng ở trong ḷng...

Tôi chợt nhớ ra là ḿnh cũng đă lênh đênh nhiều ngày trong vùng vịnh Thái Lan, và cũng là nạn nhân của hải tặc. Thuyền của chúng tôi c̣n bị cướp cạn – vào lúc trời gần sáng, khi trôi giạt vào một làng chài – trước khi được cảnh sát đưa vào trại tị nạn Songkhla, ở miền Nam nước Thái.

Tôi t́nh nguyện làm xướng ngôn viên, một thời gian khá lâu, ở trại tị nạn này.  Công việc hàng ngày chấm dứt đúng vào lúc 10 giờ tối, với thông báo (cuối cùng) của ban phát thanh:

 “Đồng hồ của pḥng thông tin chúng tôi bây giờ là 10 giờ tối, xin mọi người vui ḷng trở về lô lều của ḿnh, và điều chỉnh mọi âm thanh vừa đủ nghe để khỏi làm phiền người bên cạnh, đang cần sự yên lặng để nghỉ ngơi. Kính chúc đồng bào một đêm an lành và ngon giấc.”Tôi luôn luôn cảm thấy (đôi chút) ngập ngừng, trước khi bắt đầu câu nói cuối cùng: “Kính chúc đồng bào một đêm an lành và ngon giấc.”

Nữ thuyền nhân mớ ( ẢNH : Hu ỳnh Tâm )

Vào thời điểm đó, suốt cả thập niên 1980, không ai trong số hàng triệu người Việt ở khắp những trại tị nạn Á Châu (kể cả những đứa bé thơ) có được một giấc ngủ b́nh thường – nói chi đến chuyện “an lành” hay “ngon giấc.” Ác mộng của những kẻ hốt hoảng, bồng bế dắt díu nhau bỏ chạy khỏi quê hương, đều gần giống như nhau: bị săn đuổi, bắt bớ, đánh đập, hăm hiếp, bơ vơ, lạc lơng, đói khát giữa biển trời bao la, hay bị ch́m đắm giữa đại dương giông băo … Sau mộng mị, chúng tôi thường thức giấc giữa khuya – toát đẫm mồ hôi v́ sợ hăi và mệt nhọc – nằm định thần một lát rồi … thở phào nhẹ nhơm khi nhận ra rằng ḿnh đă thoát, và (chỉ) vừa trải qua một giấc mơ thôi! Mộng dữ như thế thưa dần, với thời gian, rồi dứt hẳn nơi phần lớn những người tị nạn – sau khi cuộc sống của họ đă được ổn định nơi vùng đất mới. Tiến tŕnh này, tuy thế, không đồng nhất. Có một số người, thỉnh thoảng, vẫn cứ bị mộng mị và những hồi ức hăi hùng theo đuổi. Số ít hơn th́ sống hoàn toàn b́nh thường và an lành, một thời gian khá lâu – hoặc rất lâu – rồi bỗng dưng lại bị ám ảnh bởi những hồi tưởng hay những cơn ác mộng (có liên hệ đến những chuyện khủng khiếp) mà họ đă trải qua. Trường hợp sau, theo cẩm nang hiện dụng của khoa Tâm Thần Học [DSM - IV - TR (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorder, Fourth Edition. Text Revision) Washington, DC, American Psychiatric Association, 2000] có tên gọi là hội chứng Post Traumatic Stress Disorder With Delay Onset. Xin tạm dịch là Hội Chứng Hậu Chấn Thương Tâm Lư Phát Chậm. Tôi nghi ngại là bà X rơi vào trường hợp cuối này.

Trong lần hẹn kế tiếp, bà X bớt dè dặt hơn, và khóc nhiều lần khi nhắc đến người chị (vẫn biệt vô âm tín) với niềm ân hận về sự vô tâm của ḿnh, suốt ba mươi năm qua. Cho đến nay, vẫn không thể nào biết được có bao nhiêu thuyền nhân đă bị lâm vào hoàn cảnh (thương tâm) tương tự như thế.

Ngay vào đầu thập niên 90, khi cuộc sống mới vừa tạm ổn định, người Việt tị nạn đă thực hiện một “project” nhỏ, lấy tên là “Xin Đừng Quên Tôi (Forget – Me – Not).” Nhóm chủ trương tin là “... có nhiều bằng chứng cho thấy rằng một số thiếu nữ Việt nam bị bắt cóc trước đây hiện đang sinh sống đâu đó tại Thái Lan, Singapore và tại các vùng biên giới Mă Lai.” Do đó, họ cho phổ biến khắp nơi một lời nhắn ngắn:

“Ai có tin tức liên quan đến các cô gái bị hải tặc bắt cóc xin liên lạc với Vietnam & The World Foundation, P.O.Box 4108, Hungtington Beach, CA 92605 – 4018, USA.”

Và mới đây, trên báo Việt Tide – phát hành từ Wesminster, California – vào tháng 12 năm 2009  (tôi không c̣n nhớ rơ số) người ta đọc được mẩu nhắn tin: “Xin giúp t́m bé Bích Hằng”

“Khẩn cầu và xin các bạn giúp người cha và gia đ́nh t́m lại đứa con gái bị cướp biển Thái Lan bắt và thất lạc lúc 14 tuổi, hơn 25 năm, từ 1984 đến nay. Muôn ngàn đa tạ và muôn đời mang ơn các bạn (*).”

Cuối thế kỷ trước, có người đă hỏi (khó) ông Phạm Văn Đồng như sau: nguyên

 “Xin thủ tướng cho biết ư kiến về sự kiện thuyền nhân hồi 1975, nhất là hồi 1978, 1979… Về nhân và trách nhiệm trong những sự kiện ấy, với những hiện tượng bán băi thu vàng và khá nhiều tầu, thuyền bị hải tặc băo tố và ch́m trong đại dương… Là người đứng đầu chính phủ, một trong những người lănh đạo cao nhất của đảng cộng sản, thủ tướng nh́n nhận ra sao trách nhiệm của ḿnh trong cuộc di dân rộng lớn và bi thảm ấy?” (Bùi Tín, “Hai Câu Hỏi Cần Trả Lời Rơ Ràng Trước Khi Thế Kỷ 20 Khép Lại,” Cánh Én, Feb.1999:05).Thế kỷ XX đă khép lại. Ông Phạm Văn Đồng đă ĺa đời. Tuy thế, ác mộng vẫn không ngừng quấy nhiễu bà X, song thân của bé Hằng, cùng không biết bao nhiêu thuyền nhân khác nữa v́ họ (không may) đă trải qua “cuộc di dân rộng lớn và bi thảm ấy.”

Và thế kỷ mới, thế kỷ XXI, đang bắt đầu với... những thuyền nhân mới! Tuy có tên gọi là nouveaux boat people nhưng họ không di chuyển bằng thuyền. 

“Trong cuộc hành tŕnh dài bằng phần nửa ṿng trái đất, họ thường bám trên các xe vận tải hạng nặng xuyên qua Châu Âu. Trốn trong những thùng chứa hàng trong xe, họ phải ép xác, có khi chịu đựng không ăn uống trong nhiều ngày...”

“Năm ngoái, hải quan Pháp đă khám phá được mười mấy xác chết người Á Châu v́ ngộp ở trong xe hàng, không biết có phải là Việt Nam không. Ngày nay hải quan ở Calais và ở Douvres có một phương pháp khoa học hơn, là đo lượng khí cac-bô-nic (CO2) thải ra để biết trong xe có người hay không....”

“Những mẫu chuyện xót xa thực sự trên phải ghép lại thành một cuốn phim dài, thật dài, mới nói hết những ǵ trong tâm tư họ và những ǵ đă xảy ra ở Việt Nam sau hơn ba mươi năm ḥa b́nh và thống nhất đất nước...” (Phương Vũ Vơ Tam Anh, “Người Việt Khốn Khổ Tại Paris”).

“Ba mươi năm ḥa b́nh và thống nhất đất nước,” xét một cách khách quan, đă mang lại nhiều đổi thay tích cực (rất đáng kể) cho những thuyền nhân mới. Họ ra đi có tổ chức, và trật tự hơn. Họ không c̣n bị những lời mắng nhiếc, rủa xả tàn tệ (“đồ ma cô đĩ điếm, trây lười lao động, chạy theo bơ thừa sữa cặn, ôm chân đế quốc...”) tới tấp ném theo sau, như đám thuyền nhân cũ. Cũng không c̣n chuyện bán bến thu vàng, một cách bừa băi, như trước nữa.

 “Một thành viên người Việt lao động cho biết hiện trong nước có nhiều những ngân hàng quảng cáo thế chấp và cho vay để đi lao động nước ngoài như Ngân hàng Chính sách xă hội Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Quỹ Tín dụng Nhân dân Trung ương, Ngân hàng Quân Đội v.v... ” ( Huỳnh Tâm, “Dịch Vụ Xuất Khẩu Lao Động Theo Kiểu Việt Nam Ta” ).

Cách ra đi tuy khác nhưng lối đi th́ không khác mấy. Lối nào th́ cũng gặp những gian truân và tai hoạ y hệt như nhau. Bị trấn lột và hăm hiếp giữa đường là lẽ thường t́nh – vẫn theo như tường thuật của kư giả Huỳnh Tâm, trong bài phóng sự kế tiếp (thực hiện vào 10 tháng 12 năm 2009) tại rừng Grande Synthe :

“Cộng đồng người Czech, Afghanistan và Iraq trong khu rừng này là những nhóm nhập cư bất hợp vào vào đất Pháp từ lâu đời nhưng không thành công trên đường nhập cư vào Anh Quốc nên xoay qua tống tiền những người đồng cảnh ngộ để kiếm sống, nạn nhân những người Việt Nam khốn khổ. Những đám thổ phỉ này gặp người Việt Nam như trúng số lớn, họ trấn lột người Việt bằng cách đếm đầu người rồi buộc nộp măi lộ. Những phụ nữ Việt không may bị họ bắt giữ ban ngày khi băng qua rừng một ḿnh phải chịu h́nh phạt giải quyết sinh lư. Ai chống lại họ sẽ bị đàn áp dă man.”

Những thuyền nhân mới không chỉ xuất hiện ở những cánh rừng Âu Châu. Họ có mặt ở nhiều nơi, và bị xa lánh hay ngược đăi ở khắp mọi nơi. Nhân loại, xem chừng, đă oải. Người ta không thể tiếp tục mở rộng ṿng tay đón chào những kẻ khốn cùng, những người rơm (không vốn liếng, không ngoại ngữ, không nghề nghiệp, không cả một mảnh giấy tùy thân) cứ đến măi từ một xứ sở ... Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc!

Trâu chậm uống nước đục.

V́ đến chậm nên những thuyền nhân mới đi lấy chồng xa nhưng không được ở nhà chồng mà phải sống trong nhà thổ, hay chỉ được  sống chui (vĩnh viễn) ở quê chồng.

V́ đến chậm nên những thuyền nhân mới (muốn trở thành công nhân xuất khẩu lao động) phải nộp tiền măi lộ mới được rời khỏi quê hương, và bị quịt lương ở xứ người, với thái độ dửng dưng của tất cả các Sứ Quán của nước CHXHCNVN.

V́ đến chậm nên những thuyền nhân mới (tuổi vị thành niên) thay v́ được Cao Ủy Tị Nạn t́m cho một cơ quan bảo trợ, đă trở thành những “món đồ chơi” ở những nơi gọi là “Mecca for paedophiles” (Thánh  Địa Ấu Dâm) cho thiên hạ mua vui.

Theo Tuổi Trẻ Online đọc được vào hôm 22 tháng 2 năm 2010, hiện nay “cả nước có 255 địa bàn trọng điểm, 89 tuyến trọng điểm về buôn bán phụ nữ và trẻ em. Đó là kết quả điều tra cơ bản, rà soát của công an các địa phương vừa được văn pḥng thường trực Chương tŕnh quốc gia pḥng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em thống kê.

Theo đó, t́nh trạng buôn bán phụ nữ, trẻ em diễn ra trên cả đường bộ, đường thủy và đường hàng không. Trong đó, buôn bán phụ nữ sang Trung Quốc chiếm khoảng 65% tổng số vụ. Các nạn nhân thường bị bán với mục đích làm gái mại dâm, lấy chồng hoặc bóc lột sức lao động. Có một số trường hợp bị bán để lấy nội tạng...”

Ông thủ tướng Phạm Văn Đồng đă từ trần nhưng những người kế nhiệm th́ chưa. Những vị này đều đă (và sẽ) có thể hạ cánh an toàn với khối tài sản kếch xù dành cho chính ḿnh, cũng như cho thân nhân, và ḍng họ. Tuy nhiên, tội ác chất chồng của họ th́ vẫn được dân tộc Việt ghi nhận cẩn thận và (chắc chắn) sẽ không bao giờ bị lăng quên.

   Tưởng Năng Tiến