Hai mặt của khái niệm “dân quyền”
“Dân quyền” là
một khái niệm xuất hiện vào đầu thế kỷ 20 trong ngôn ngữ chính trị
Việt Nam do ảnh hưởng của các “sách mới” (tân thư) bằng chữ Hán được
du nhập từ ngơ Trung Quốc [1].
Hiểu theo nghĩa
thông thường, “dân quyền” có nghĩa là quyền lực của dân, đối
lập với quân quyền (quyền lực của nhà vua). Nói đến dân quyền có
nghĩa là quyền lực tối cao (sovereignty, souveraineté) thuộc
về nhân dân. Ví như hai chữ dân quyền trong đoạn thơ sau đây, trích
từ bài thơ Tỉnh quốc hồn ca II của Phan Châu Trinh:
Niên hạn
chẳng kỳ kèo lâu chóng,
Cốt cho ta hiệu phỏng
tinh thần.
Quyền vua đổi lại quyền
dân,
Chánh cang trước phải
vài phần khai minh. [2]
Nói “quyền vua đổi lại quyền dân” có nghĩa là chuyển từ chế
độ quân chủ sang chế độ dân chủ; quyền lực tối cao chuyển từ nhà vua
– hay nói rộng hơn là hoàng gia, sang tay nhân dân. Khi được hiểu
theo nghĩa này, hai chữ dân quyền đồng nghĩa với khái niệm “dân chủ”
(democracy, démocratie) của phương Tây. Cần lưu ư là khi nói
về chế độ dân chủ, Phan Châu Trinh sử dụng nhiều danh từ khác nhau:
dân quyền, dân trị chủ nghĩa, chủ nghĩa dân chủ, b́nh dân chủ nghĩa,
v.v.
Trong các tác phẩm của Phan Bội Châu, chúng ta cũng t́m thấy hai chữ
“dân quyền” được sử dụng theo ư nghĩa tương tự. Như đoạn văn sau đây
trích từ tác phẩm Việt
Nam quốc sử khảo
(viết vào năm 1908 và xuất bản lần đầu tại Nhật Bản vào năm 1909): “Dân
quyền đáng sợ đến như vậy đấy! Ở châu Á ta, bậc đại hiền Mạnh Tử có
nói rằng: “Dân là quư vua là thường”. Những vị vua tốt ở châu
Âu cũng nói với dân rằng: “Ta là công bộc của các ngươi”. Sao vậy?
V́ rằng, chính phủ phải dựa vào nhân dân để mà được yên, nhân dân
cũng nhờ vào chính phủ mà có giá trị. Nhân dân có nghĩa vụ giám đốc
chính phủ. Nhân dân mà làm tṛn nghĩa vụ của ḿnh th́ chính phủ
không dám làm sai; chính phủ có nghĩa vụ bảo vệ nhân dân. Chính phủ
mà làm tṛn nghĩa vụ của ḿnh, th́ nhân dân không đến nỗi mất chỗ
nương tựa. Chính phủ tức là chỉ đại biểu cho cả nước mà thôi. C̣n
cái căn bản, cái then chốt th́ toàn là ở dân. Vua phải lấy dân làm
trời, dân chính là trời của kẻ đứng đầu cai trị nước. Ngày nay, dân
quyền đă mất hết, th́ có dân cũng như không có dân. Có dân mà như
không có th́ cái được coi là trời không c̣n nữa”. [3]
Nhưng “dân quyền” c̣n có một nghĩa thứ hai rất ít được chú ư đến.
Theo ư nghĩa này, dân quyền có nghĩa là quyền của người dân hay
quyền của công dân [4]. Chữ quyền ở đây tương đương với chữ
“right” trong tiếng Anh hoặc “droit” trong tiếng Pháp.
Trong tác phẩm Tân Việt Nam (viết năm 1907 - trong thời gian hoạt
động tại Nhật Bản), Phan Bội Châu tŕnh bày về một nước Việt Nam mới
sau khi giành được độc lập và tiến hành “duy tân” (đổi mới) theo
khuôn mẫu của Nhật Bản như sau: “Sau khi đă duy tân rồi, th́ uy
quyền nước ta ta cầm, nhân đạo của ta ta giữ, nền văn minh thông
suốt, cửa tự do mở rộng, báo chí tràn đường, tân thư đầy ngơ, đơn từ
kiện cáo, bút lưỡi hùng đàm, luận bàn đủ các việc nội trị ngoại giao.
Người viết văn được rộng đường trước thuật. Bao nhiêu ẩn t́nh của
chú phu xe, của người lính ngựa, của bà mẹ goá, của đứa con côi,
thảy thảy đều đạt tới tai vua. Đến khi đó, người nước ta sẽ sung
sướng ngây ngất như khen biển lớn là không cùng, mắt xem khó hết,
như lạ v́ trời xanh sao quá rộng, tay khó với vin. Tự do như thế,
sướng biết chừng nào!” [5]
Hoặc: “Sau khi đă duy tân rồi (…) Mọi thứ dân quyền đều được b́nh
đẳng”. [6]
Ư
nghĩa thứ hai của khái niệm dân quyền càng rơ nét hơn trong tư tưởng
chính trị của Phan Châu Trinh – người đề xướng con đường cứu nước
theo một hướng hoàn toàn khác: giành quyền tự trị bằng phương pháp
đấu tranh chính trị (bất bạo động).
Vào cuối tháng 4 năm 1911, Phan Châu Trinh lần đầu tiên đặt chân đến
nước Pháp. Được đi thăm một số thắng cảnh tại thủ đô Paris, được
ngắm và nghe thuyết minh về những bức tượng đồng của các chí sĩ đă
đổ máu cho nền dân chủ ở Pháp, ông đă ứng khẩu một bài tứ tuyệt
trong đó có hai câu thơ:
Thử bang đệ nhất dân
quyền tổ
Bách vạn đầu lô cấu tự
do. [7]
Nghĩa đen là: “Nước này là nước tổ dân quyền bậc nhất, Trăm vạn cái
đầu đă rơi để mua lấy tự do”.
Tiến sĩ Nguyễn Văn Dương đă dịch thơ thành hai câu sau đây:
Nơi đây xứ gốc quyền
dân chủ,
Trăm vạn đầu rơi đổi tự
do.
Trong hai câu thơ chữ Hán này, hai chữ dân quyền gắn liền với hai
chữ “tự do” (freedom, liberté).
Đối với Phan Châu Trinh, tự do không phải là một khái niệm triết lư
cao siêu hoặc một quan niệm về nhân sinh thoát ly đời sống thực tế,
mà là một khái niệm của triết học chính trị gắn liền với cuộc sống
đời thường của con người. Để có thể hiểu rơ những danh từ như “dân
quyền”, “tự do” được t́m thấy trong các tác phẩm của ông, chúng ta
cần gắn liền chúng với tư tưởng của các nhà triết học chính trị Thời
kỳ Khai sáng (thế kỷ 17-18) và bản Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân
quyền (Déclaration des Droits de l'Homme et du Citoyen) năm
1789 - một trong những văn kiện căn bản của cuộc Cách mạng Pháp.
Vào đầu thế kỷ 20, khái niệm nhân quyền (quyền con người) chưa thịnh
hành như ngày nay, cuộc đấu tranh cho dân quyền ở nước ta gắn liền
với cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và sự h́nh thành ư thức
quốc gia. Xét trong bối cảnh đó, hai chữ “dân quyền” (quyền
công dân) có giá trị tương đương với hai chữ “nhân quyền” (quyền
con người) mà chúng ta thường dùng ngày nay.
Như vậy, trong quan niệm chính trị của Phan Châu Trinh, dân chủ gắn
liền với tự do. Có thể thấy rơ điều này qua một câu thơ trong
Tỉnh quốc hồn ca II: “Công quyền là thánh, tự do là thần”[8].
Diễn dịch ra ngôn ngữ đời nay, câu thơ đó có nghĩa: hai nguyên tắc
thiêng liêng cần được đề cao là công quyền và tự do.
Công quyền
(public power, pouvoir public) có nghĩa là: quyền lực chính
trị là của chung, không thể là của riêng ai, bởi v́ mục đích cuối
cùng của nó là phục vụ cái chung (công), lợi ích chung (công ích)
chứ không nhằm phục vụ cho lợi ích riêng của một cá nhân, một nhóm
người, một ḍng họ hay một đảng phái chính trị nào, dù là Đảng (“đảng”
viết hoa). Một đảng chính trị cho dù có xưng danh là “Đảng của
toàn dân” cũng không thể được gọi là công quyền. Chỉ có một Nhà
nước của toàn dân phục vụ cho lợi ích của cả cộng đồng mới có thể
được gọi là công quyền. Một Nhà nước như thế đương nhiên phải bảo
đảm đầy đủ các quyền tự do căn bản của người dân.
Tư duy của Phan Châu Trinh là tư duy minh bạch, thể hiện rơ lập
trường đứng về phía nhân dân của một trí thức yêu nước. Chính v́ dị
ứng với một phương pháp tư duy như thế mà hàng loạt các nhà chính
trị và lư luận vốn yêu thích độc tài hơn tự do đă t́m cách xuyên tạc,
tung hoả mù xung quanh cuộc đời và tư tưởng chính trị của ông, khiến
cho các thế hệ sau hiểu sai và đánh giá sai về ông. Ở chiều sâu của
thái độ dị ứng đó là nỗi sợ hăi của các nhà lănh đạo độc đoán,
chuyên quyền: sợ chính nhân dân của ḿnh, sợ khi dân trí được nâng
cao th́ người dân sẽ đứng lên đ̣i quyền làm chủ!
Quan hệ biện chứng giữa dân chủ và tự do
Như vậy, khái niệm dân quyền ở nước ta trong những thập niên đầu thế
kỷ XX đồng nghĩa với khái niệm “dân chủ tự do” (liberal democracy)
ngày nay.
Diễn giải bằng ngôn ngữ chính trị học thời nay, chế độ dân chủ tự do
(liberal democracy) bao gồm hai yếu tố: dân chủ (democracy)
và chủ nghĩa tự do hiến định (constitutional liberalism). Từ
dân chủ trong các ngôn ngữ phương Tây (democracy, démocratie)
có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp được La-tinh hoá, ghép bởi hai chữ
dēmos (nhân dân) và kratos (sự cai trị). Nói đến cơ chế
dân chủ là nói đến quy tŕnh để chọn lựa ra chính quyền, nhất là hệ
thống bầu cử và ứng cử. Xét về mặt này, sự tham gia của đông đảo
người dân - tính về mặt số lượng, là tiêu chí để đánh giá hệ thống
chính trị đó là dân chủ nhiều hay ít. Nhưng mặt thứ hai – chủ nghĩa
tự do hiến định, mới thể hiện thực chất của một chế độ dân chủ; đó
là những nguyên tắc, những thiết chế bảo đảm cho các quyền tự do căn
bản của mỗi công dân. Thiếu yếu tố thứ hai này, một hệ thống chính
trị dù bề ngoài có vẻ dân chủ th́ trong thực tế cũng chỉ là một nền
dân chủ h́nh thức, giả dối, không có thực chất.
Có thể nói dân chủ và tự do gắn bó với nhau như hai mặt của một đồng
tiền: dân chủ thiếu tự do chỉ là dân chủ giả hiệu, một thứ độc tài
được che đậy; ngược lại, tự do thiếu dân chủ không thể là tự do vững
bền.
Trong một bài báo nổi tiếng công bố vào năm 1997, Fareed Zakaria đă
nhận xét rằng “… suốt gần một thế kỷ qua tại phương Tây, dân chủ
thường được hiểu là dân chủ tự do – một hệ thống chính trị được xác
định không chỉ bằng thiết chế bầu cử tự do và công bằng, mà c̣n bằng
chế độ pháp trị (rule of law), sự chia tách các quyền lực và thiết
chế bảo vệ các tự do cơ bản như tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự
do tôn giáo và tự do sở hữu tài sản”. Thế nhưng, trong khi hai
yếu tố đó bện chặt với nhau ở các nước phương Tây có truyền thống
dân chủ lâu đời th́ khi trào lưu dân chủ lan truyền sang phần c̣n
lại của thế giới, hai yếu tố đó lại phát triển một cách riêng rẽ:
“Dân chủ đúng là đang nở rộ. Nhưng chủ nghĩa tự do hiến định th́
không” [9].
Điểm đặc sắc của bài báo này là Zakaria đă chứng minh một cách rất
thuyết phục sự xuất hiện của một hiện tượng mới mẻ trên chính trường
thế giới vào nửa sau của thế kỷ XX. Đó là hiện tượng xảy ra tại rất
nhiều quốc gia Á, Phi và Mỹ La-tinh sau khi giành được độc lập: các
chính quyền mới thành lập tự nhận là dân chủ nhưng lại t́m cách hạn
chế các quyền tự do của cá nhân, từ đó h́nh thành những chế độ nửa
dân chủ hoặc giả dân chủ với nhiều màu sắc và mức độ khác nhau mà
Zakaria gọi tên là chế độ “dân chủ phi tự do” (illiberal
democracy).
Trong một thời đại mà dân chủ đă trở thành giá trị phổ biến
toàn nhân loại, không một Nhà nước nào lại công khai tự nhận ḿnh là
độc tài hay chuyên chế. Nhưng một số cá nhân, ḍng họ, hoặc tập đoàn
chính trị vẫn t́m ra cách để áp đặt sự thống trị mới bằng những thủ
đoạn mới và những phương tiện hiện đại hơn. Bằng cách tiếp thu phần
nào các phương pháp dân chủ nhưng lại t́m mọi cách hạn chế các quyền
tự do căn bản của công dân, các chế độ này khoác áo dân chủ, nhân
danh nhân dân để thiết lập các h́nh thức độc tài kiểu mới tinh vi
hơn, nham hiểm hơn so với các chế độ độc tài, chuyên chế đă từng có
trong lịch sử nhân loại.
Các chế độ dân chủ phi tự do suy cho cùng cũng chỉ là dân chủ h́nh
thức, giả hiệu, nửa vời, v́ trong thực tế chúng luôn luôn t́m cách
hạn chế bằng cách này hay cách khác sự tham gia của người dân vào
đời sống chính trị. Trường chính trị trở thành nơi thao túng của các
cá nhân, ḍng họ hay tập đoàn nắm sức mạnh chính trị hoặc kinh tế,
người dân về h́nh thức th́ được “giải phóng” nhưng trong thực
tế vẫn là con ngựa để người ta cưỡi. Mối quan hệ thống trị - bị trị
vẫn c̣n nguyên, sự khác biệt chỉ là thay màu da của kẻ thống trị:
Ngày xưa là ông chủ da trắng cai trị đầy tớ da màu, ngày nay th́ ông
chủ và đầy tớ cùng một màu da.
Quan niệm của Zakaria giúp chúng ta có cái nh́n sáng tỏ hơn về t́nh
h́nh của đất nước ta hiện nay cũng như con đường h́nh thành của chế
độ dân chủ trong tương lai. Trong thời gian gần đây, cùng với công
cuộc đổi mới về kinh tế, nhiều người đă bày tỏ hy vọng Đảng Cộng sản
Việt Nam sẽ dần dần từ bỏ mô h́nh chính trị “chuyên chính vô sản” để
chuyển dần sang một thể chế dân chủ thật sự. Thế nhưng, quan sát sự
chuyển biến về chính trị ở nước ta trong khoảng hai thập niên vừa
qua, chúng ta thấy rơ các nhà lănh đạo cộng sản chỉ say sưa t́m kiếm
một mô h́nh “dân chủ phi tự do” để thay thế cho mô h́nh “dân chủ vô
sản” đă lỗi thời chứ không hề mặn mà với việc trả lại cho người dân
các quyền tự do căn bản để mọi người có thể góp phần vào sự nghiệp
chung của đất nước.
Mặt khác, quan niệm của Zakaria cũng giúp chúng ta có được cái nh́n
khách quan, một sự đánh giá công bằng, đúng đắn hơn về các bậc tiền
bối. Có thể nói vào buổi đầu “mở cửa trí tuệ” để tiếp cận với nền
văn minh phương Tây, một số nhà nho yêu nước của Việt Nam, nhất là
Phan Châu Trinh, đă nắm vững được bản chất của chế độ dân chủ tự do,
hiểu rơ được những yếu tính của thể chế chính trị đó. Họ đă có cái
nh́n đúng đắn về chế độ dân chủ kiểu phương Tây, thấy rơ tính ưu
việt của nó so với chế độ quân chủ chuyên chế phương Đông cũng như
tầm quan trọng của nó đối với sự phát triển của đất nước trong tương
lai. Họ đă có được tầm nh́n viễn kiến, sáng suốt chứ không hề mơ hồ,
loạng quạng như khá nhiều trí thức hiện nay – những người tự cho
ḿnh là uyên bác, khôn ngoan, nhưng do chạy theo miếng mồi danh
lợi hoặc ăn phải cái bả lư luận của chủ nghĩa chuyên chế hiện
đại, v́ thế ra sức đem hết tài năng biện luận cũng như vận dụng mọi
thứ xảo thuật ngôn từ để chống lại dân chủ, tự do, biện hộ cho cường
quyền, làm bồi bút cho kẻ mạnh, bỏ rơi số phận của người dân thấp cổ
bé họng mà không hề cảm thấy lương tâm bị cắn rứt, cũng không biết
xấu hổ v́ sự thiển cận tri thức của bản thân.
Con đường dân chủ từ trên xuống
Nhưng làm thế nào để đi đến dân chủ, để có được tự do? Ngay từ đầu
thế kỷ trước, trong số các nhà yêu nước đă có hai cách suy nghĩ khác
nhau về con đường đấu tranh cho dân chủ.
Con đường thứ nhất là con đường tập trung mọi nỗ lực để giành độc
lập, sau đó mới tiến hành thiết lập chế độ dân chủ và ban hành các
quyền tự do căn bản. Đó là quan niệm của nhà yêu nước Phan Bội Châu.
Do chỗ coi độc lập dân tộc là mục tiêu hàng đầu, ông ra sức kêu gọi
toàn dân đoàn kết, dồn mọi nỗ lực để đánh đuổi Pháp, giành lại độc
lập cho đất nước, tạm gác các yêu cầu khác ra đằng sau.
Trong bài phú chữ Hán nhan đề “Hải ngoại huyết thư”, Phan Bội
Châu kêu gọi sự “đồng tâm” của mười hạng người: quư tộc, phú hào, sĩ
phu hiện thời, lính tập, tín đồ đạo Gia-tô (Ki-tô giáo), “du đồ hội
đảng”, nữ giới, những người làm việc cho Pháp (như thông ngôn, kư
lục, bồi bếp), những con em có mối thù nhà và những người ở ngoài
nước. Nói chung là toàn dân Việt phải đồng tâm, bởi v́: “Đồng
ḷng tất có thể bảo vệ được nước. Không đồng ḷng tất dẫn đến nước
bị diệt. Đồng ḷng tất có thể nô dịch người; không đồng ḷng tất
cuối cùng bị người nô dịch! […] Cái thuyết “Mười hạng người đồng
ḷng” (thập đồng tâm chi thuyết) của tôi ắt là một chốc mà gió cuốn
sấm động ở trong nước! Từ đó, gióng hồi chuông tự do của ta lên,
dựng ngọn cờ độc lập của ta lên [10].
Trong quan niệm của Phan Bội Châu, một khi giành lại được chủ quyền
quốc gia th́ quyền lực tối cao đương nhiên sẽ thuộc về tay nhân dân,
và như một hệ quả tự nhiên, người dân sẽ được hưởng đầy đủ các quyền
tự do căn bản: “Sau khi đă duy tân rồi, th́ dân trí sẽ mở mang,
dân khí sẽ lớn mạnh, dân quyền sẽ phát đạt; vận mệnh nước ta do dân
ta nắm giữ. Giữa đô thành nước ta đặt một ṭa Nghị viện lớn. Bao
nhiêu việc chính trị đều do công chúng quyết định. Thượng nghị viện
phải đợi Trung nghị viện đồng ư, Trung nghị viện phải đợi Hạ nghị
viện đồng ư mới được thi hành. Hạ nghị viện là nơi đa số công chúng
có quyền tài phán việc của Trung nghị viện và Thượng nghị viện. Phàm
nhân dân nước ta, không cứ là sang hèn, giầu nghèo, lớn bé đều có
quyền bỏ phiếu bầu cử. Trên là vua nên để hay nên truất; dưới là
quan nên thăng hay nên giáng, dân ta đều có quyền quyết đoán cả.
Những vua tệ quan hư không hợp công đạo, th́ khi hội nghị trong nghị
viện, dân ta hội nhau công nghị, được có quyền khiển trách, trừng
phạt. Đến khi ấy, trên quan dưới lại, ai mà hại dân, th́ không được
sống ở trong trời đất nữa” [11].
Nói cách khác, theo quan niệm này, độc lập - dân chủ - tự do
gắn liền với nhau như một thể hữu cơ, có yếu tố này tất sẽ có yếu tố
kia, không hề có trở lực. Một khi đă giành được độc lập, chế độ dân
chủ tất yếu được thiết lập, nhân dân ta đương nhiên sẽ được tự do. Ở
đây chúng ta không thấy sự hoài nghi đối với khả năng tha hoá của
quyền lực, sự cảnh giác đối với các nhà làm chính trị và đảng phái
chính trị, do đó không có sự nhấn mạnh các biện pháp pḥng ngừa nạn
lạm quyền. Có thể gọi đường lối chính trị này là “dân chủ từ trên
xuống”: dân chủ, tự do tùy thuộc vào quyền lực chính trị bên trên
chứ không tùy thuộc vào người dân bên dưới.
Thực tế lịch sử đă cho thấy mặt mạnh cũng như mặt yếu của quan niệm
chính trị này. Mặt mạnh của nó là kêu gọi sự đồng tâm, đoàn kết nhằm
tạo ra một sức mạnh vĩ đại trong công cuộc chống ngoại xâm, giành
độc lập. Nhưng mặt yếu của nó là ít chú ư đến việc bảo đảm tự do cho
mỗi người dân và không dự pḥng các biện pháp hạn chế sự tập trung
quyền lực. Dân chủ được hiểu như một thứ quà tặng được ban bố bởi
nhà cầm quyền: dân chủ nhiều hay ít là tùy theo ư muốn, sở thích của
những người đang nắm quyền, người dân được hưởng tự do nhiều hay ít
là do ḷng tốt, thiện chí của đẳng cấp thống trị. Mặt khác, quan
niệm này không vạch ra con đường đấu tranh của nhân dân để giành lấy
dân chủ, tự do, cũng không nêu rơ những điều kiện để bảo đảm cho
quyền tự do của từng cá nhân hay từng nhóm thiểu số.
Điều cần ghi nhớ: đây không phải chỉ là quan niệm của Phan Bội Châu
mà là quan niệm của phần lớn các lănh tụ và nhà tư tưởng chính trị ở
các nước Á, Phi, Mỹ La-tinh vào thời đó. Trong thời kỳ hồn nhiên,
ngây thơ của phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc, phần lớn
những người yêu nước đều mong muốn đất nước ḿnh được độc lập, tạm
gác các yêu cầu khác lại phía sau, v́ vậy ngay cả giới trí thức cũng
không nh́n thấy hiểm họa của việc các nhà chính trị có thể lợi dụng
ḷng yêu nước và chiêu bài giải phóng dân tộc để thoả măn tham vọng
trở thành những ông vua kiểu mới, thiết lập các vương triều kiểu mới.
Sự phổ biến rộng răi quan niệm này đă góp phần lớn lao vào việc hun
đúc ḷng yêu nước, tạo ra sự đồng tâm hiệp lực trong nhân dân nhằm
vào mục tiêu giải phóng dân tộc. Đồng thời, nhược điểm của nó cũng
đă bị một số nhà chính trị, một số nhà lănh đạo tôn giáo có tham
vọng chính trị hoặc một số đảng phái chính trị lợi dụng vào những
mục đích không trong sáng.
Lịch sử của thế
giới trong nửa sau của thế kỷ 20 cho thấy: cùng với sự phát triển
của phong trào đấu tranh để giải phóng các dân tộc bị áp bức, hàng
loạt các quốc gia mới ra đời, nhưng sự cáo chung của chủ nghĩa thực
dân không tất yếu dẫn đến các chế độ dân chủ tự do tại các quốc gia
mới giành được độc lập. Bởi lẽ độc lập dân tộc là một khái niệm nằm
trong mối quan hệ giữa dân tộc này với dân tộc khác, giữa quốc gia
này với quốc gia khác, trong khi dân quyền (tức dân chủ
và tự do) lại là một khái niệm thuộc về mối quan hệ giữa
mỗi người dân với Nhà nước trong phạm vi một quốc gia. Quốc gia được
độc lập không có nghĩa là mọi công dân đều được giải phóng, dân tộc
được giải phóng không có nghĩa là mọi người dân được tự do. Trong
các quốc gia Á, Phi, Mỹ La-tinh, nơi mà xu thế dân chủ - tự do chưa
h́nh thành hay c̣n rất mong manh, một số cá nhân hay ḍng họ, đảng
phái chính trị vẫn có thể dựa vào công lao giành độc lập và chiêu
bài đoàn kết toàn dân để ra sức tập trung quyền lực lẫn quyền lợi
vào tay ḿnh. Như vậy, xét về mặt nội trị, quan hệ thống trị - bị
trị vẫn chưa bị xoá bỏ mà chỉ bị thay thế.
Đă từng có một
thời người ta c̣n tin tưởng một cách ngây thơ rằng người trong cùng
một nước cai trị lẫn nhau sẽ nhân đạo hơn, dân chủ hơn so với sự cai
trị của ngoại bang. Thực tế lịch sử đă làm cho người dân các nước
thuộc thế giới thứ ba phải mở mắt để nh́n ra một sự thật: kẻ thống
trị là “đồng chủng” – thậm chí là “đồng bào”, không hề kém phần độc
ác, nguy hiểm so với kẻ thống trị là ngoại bang. Ngược lại, người
dân đôi khi c̣n bị trói tay, không thể đấu tranh để tự bảo vệ ḿnh,
bởi v́ các nhà thống trị đời mới hiểu rơ văn hoá, tâm lư dân tộc,
học được nhiều hơn từ kinh nghiệm của chủ nghĩa chuyên chế cổ xưa.
Truyền thống không phải bao giờ cũng tốt đẹp, mà truyền thống được
các nhà độc tài, chuyên chế ca ngợi lại thường là những lề thói cổ
hủ, những tập quán lạc hậu đáng lẽ phải vứt bỏ đi. Không phải ngẫu
nhiên mà các nhà độc tài Á Đông ngày nay thích học hỏi thuật cai trị,
t́m ṭi những mánh lới để “giữ ghế” từ các phim truyện Tàu
hay các pho sách như Tam Quốc Chí, Đông Châu Liệt Quốc
nhiều hơn là từ các tác phẩm chính trị học hiện đại.
Cuộc đấu tranh
để gỡ bỏ ách thống trị mới do đó trở nên khó khăn hơn, gian khổ hơn
so với trước đây, bởi lẽ đẳng cấp thống trị ngày nay dựa vào công
lao giải phóng dân tộc như một lá bùa để bảo vệ đặc quyền đặc lợi.
Người yêu nước thường xuyên bị chụp mũ là phản bội Tổ quốc, người
đấu tranh cho dân quyền luôn luôn bị gán cho cái nhăn hiệu là “tay
sai của phương Tây”, bị vu cáo là “những người câu kết với thực dân,
đế quốc để phá hoại sự an b́nh của đất nước”. Trong khi đó kẻ phản
bội nhân dân, chạy theo quyền lợi riêng tư lại nghiễm nhiên khoác
lên ḿnh cái áo của cách mạng, của dân tộc. Họ luôn mồm nói về nhân
dân, miệng thơn thớt hai chữ “bà con”, nói leo lẻo hai tiếng “đồng
bào”, nhưng lại lén lút kéo cả gia đ́nh, ḍng họ vào các vị trí
quyền lực, chia chác nhau tiền ăn cắp từ ngân sách hay từ các nguồn
vốn vay của nước ngoài, tự do ăn của đút, hăng hái bao che nhau để
lọt qua lưới pháp luật. Ngược lại, họ sẵn sàng sử dụng những biện
pháp hết sức khắc nghiệt để đàn áp, bịt miệng bất cứ ai – từ những
trí thức ưu tú cho đến những thanh niên đầy nhiệt huyết của đất nước
mỗi khi những người này mở miệng phê phán những khuyết điểm, đ̣i hỏi
sửa chữa những mặt tiêu cực của chế độ hay nêu lên những yêu sách,
nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Ngày nay, mỗi
khi đọc lại các áng văn thơ của Phan Bội Châu, cùng với sự trân
trọng tấm ḷng yêu nước và sự hy sinh vô vị lợi của ông cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, chúng ta chỉ c̣n t́m thấy ở đó các hoài
niệm về quá khứ chứ không t́m ra được những bài học mới cho những
vấn đề của hiện tại và tương lai. Quốc gia đă được độc lập, dân tộc
đă được giải phóng, tại sao mỗi người dân lại không cảm thấy ḿnh
được tự do? Câu hỏi ấy, chúng ta không t́m thấy lời giải đáp trong
các tác phẩm của “ông già Bến Ngự”.
Con đường đấu tranh cho dân chủ từ dưới lên
Khác với Phan
Bội Châu, con đường đi đến dân chủ, tự do trong quan niệm của Phan
Châu Trinh là con đường đấu tranh giành dân chủ, tự do theo chiều
hướng từ dưới lên.
Là một người
trước sau như một, luôn luôn đề cao phương châm “dựa vào sức ḿnh là
chính”, không ỷ lại, không phụ thuộc vào bất cứ quốc gia nào khác,
nhà yêu nước đất Quảng Nam xác định rất rơ rằng: dân quyền (tức là
dân chủ và tự do) không phải là những món quà được ban tặng, mà phải
đấu tranh để giành lấy:
Thử xem các
nước đông tây,
Xưa nay Trời
giúp loài ngây bao giờ?[12]
Cuộc đấu tranh
để thiết lập một chế độ dân chủ thật sự (quyền vua đổi lại quyền
dân) đ̣i hỏi sự hy sinh. Cái giá phải trả cho tự do thường là
rất đắt, thậm chí như ở nước Pháp xưa kia, “trăm vạn đầu rơi” là cái
giá phải trả để có được tự do.
Nói cách khác,
theo Phan Châu Trinh, con đường đi đến chế độ dân chủ là con đường
đấu tranh do chính người dân tự thực hiện, không chờ đợi Nhà nước
ban phát. Con đường đó bắt đầu bằng việc mở cửa trí tuệ (khai dân
trí), khôi phục sức mạnh tinh thần của người dân (chấn dân
khí).
Nh́n lại toàn
bộ quá tŕnh hoạt động của Phan Châu Trinh, chúng ta thấy ông đă
nhiều lần nêu ra trước chính phủ Pháp những yêu sách về một số quyền
tự do mà ông coi là cần thiết đối với người dân nước ta như: quyền
được xét xử một cách công bằng, quyền tự do học hành, tự do báo chí,
tự do tư tưởng, tự do hội họp và lập hội, v.v. Trong bản thảo bài
thơ Tỉnh quốc hồn ca II, ông nhấn mạnh đến ba quyền tự do
căn bản có thể được coi là tiền đề của chế độ dân chủ: tự do tư
tưởng, tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội [13]. Có
thể nói: dân trí chỉ có thể được mở mang, dân khí chỉ có thể được
chấn hưng khi nhân dân tự ḿnh lao vào cuộc đấu tranh giành lấy các
quyền tự do căn bản ấy.
Nhưng để thực
hiện con đường đó, mỗi cá nhân không thể đấu tranh một cách riêng lẻ
mà phải hợp tác với nhau để tạo thành sức mạnh. Nhân nói chuyện về
đề tài “Đạo đức và luân lư Đông Tây” (tháng 11 năm 1925),
Phan Châu Trinh đă nhắc lại những câu châm ngôn về sức mạnh hợp quần
của ông cha ta ngày xưa như “Không ai bẻ đũa cả nắm” hay
“Nhiều tay làm nên bộp”. Liên hệ đến thực tế của nước Pháp, ông
nói: “Bên Pháp, mỗi khi người có quyền thế, hoặc Chính phủ, lấy
sức mạnh mà đè nén quyền lợi riêng của một người hay một hội nào,
th́ người ta hoặc kêu nài, hoặc chống cự, hoặc thị oai, vận động kỳ
cho đến được công b́nh mới nghe.
V́ sao mà
người ta làm được như thế? Là v́ người ta có đoàn thể, có công đức
biết giữ lợi chung vậy. Họ nghĩ rằng nếu nay để cho người có quyền
lực đè nén người này th́ mai ắt cũng lấy quyền lực ấy để đè nén ḿnh,
cho nên phải hiệp nhau lại pḥng ngừa trước” [14].
Trong quan niệm
của Phan Châu Trinh, “đoàn thể” [15] là những h́nh
thức tổ chức do người dân lập ra để dựa vào đó đấu tranh với chính
phủ hoặc những người nắm quyền lực, nhằm bênh vực cho một công dân
hoặc một nhóm người bị áp bức.
Như vậy, đoàn
thể là tập thể, nhưng không phải là tập thể h́nh thành do sự chỉ đạo
từ trên xuống - trong đó cá nhân bị ḥa tan, bởi v́ một tập thể như
thế chỉ là lá chắn của cường quyền, là tấm b́nh phong để những kẻ
nắm quyền nhân danh tập thể thu vén lợi ích về cho riêng ḿnh hay
phe phái ḿnh. Đoàn thể là tập thể được h́nh thành từ dưới lên, do
người dân tự thành lập nhằm bảo vệ lợi ích cho chính ḿnh. Cá nhân
gia nhập vào đoàn thể là để rèn luyện ư thức cộng đồng (công đức),
vừa hướng đến lợi ích chung, đồng thời cũng để bảo vệ lợi ích của cá
nhân (của chính ḿnh và của người khác). Đoàn thể là chỗ nương tựa
của những người nghèo, kẻ yếu.
Có thể nói khái
niệm về đoàn thể của Phan Châu Trinh rất gần gũi với quan niệm về xă
hội dân sự ngày nay. H́nh thành các đoàn thể chính là để khôi phục
tinh thần “trọng công ích”; điều này cũng nằm trong mục tiêu “khai
dân trí”, “chấn dân khí” nhằm phục hồi sức mạnh tinh thần của dân
tộc.
Người dân cần
phải có quyền thành lập các tổ chức dân sự để đáp ứng các nhu cầu
b́nh thường hay bảo vệ các quyền lợi chính đáng của ḿnh. Đó chính
là điều kiện cần thiết để nâng cao dân trí, giúp người dân từng bước
tập làm chủ xă hội về mọi mặt. Viện cớ “bảo đảm sự lănh đạo của
Đảng” để chặn đứng nhu cầu này, t́m mọi cách để hạn chế hay bóp
chết xă hội dân sự đồng nghĩa với việc từ chối trao quyền lại cho
nhân dân, và như thế là vô t́nh hay cố ư dung dưỡng thói lạm quyền,
tiếp tục bao che cho tham nhũng.
Việc thực hiện
ba quyền tự do căn bản (tư tưởng, ngôn luận, hội họp và lập hội) gắn
liền với sự h́nh thành của đoàn thể (xă hội dân sự). Đó chính là
tiền đề của một chế độ dân chủ được h́nh thành từ dưới lên, do sức
mạnh đấu tranh của nhân dân chứ không phải do sự ban ơn của một lănh
tụ vĩ đại hay một đảng phái chính trị nào đó. Xét theo chiều hướng
này, người dân giành lấy tự do, thiết lập dân chủ dựa vào sức
ḿnh và sự hợp tác với những người khác trong cộng đồng chứ
không mỏi cổ trông chờ một ông vua Minh Trị đời nay hay ngưỡng vọng
một lănh tụ vĩ đại, một vĩ nhân siêu phàm nào đó.
Một số nhà
nghiên cứu do chỉ t́m hiểu một quăng đời của Phan Châu Trinh, do
thiếu hiểu biết về khoa chính trị học của thế giới, hoặc do thành
kiến, thiên vị, đă vô t́nh hay cố ư giải thích sai tư tưởng chính
trị của ông, biến ông thành một nhà vận động văn hoá hay một nhà
giáo dục thuần túy chỉ chủ trương khai dân trí, chấn dân khí. Cách
giải thích đó đă biến nhà cải cách Phan Châu Trinh thành một “nhà
cải lương” hiểu theo nghĩa xấu (thoả hiệp, nửa vời, không có lập
trường kiên định và nhất quán)
.“Chính
ḷng tin yêu đó - chứ không phải những máy bay siêu thanh hay tàu
ngầm hiện đại, mới là sự bảo đảm vững chắc nhất cho một chính quyền
“của dân, do dân và v́ dân”.”
Nếu nh́n lại
toàn bộ quá tŕnh hoạt động của nhà yêu nước đất Quảng Nam – kể cả
giai đoạn sống lưu vong ở Pháp, chúng ta phát hiện ra một sự thật:
khai dân trí, chấn dân khí chỉ là bước khởi đầu của
một cuộc vận động duy tân bền bỉ, lâu dài và có định hướng rơ rệt.
Định hướng ấy nằm trong hai chữ “dân quyền”. Dân quyền xét theo ư
nghĩa thứ nhất (quyền lực chính trị thuộc về nhân dân, tức dân
chủ) chính là mục đích sau cùng của cuộc đấu tranh. Nhưng để đạt
được mục đích xa ấy, cuộc đấu tranh trước mắt phải nhắm đến dân
quyền hiểu theo nghĩa thứ hai: thực hiện các quyền tự do căn bản của
người dân (tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội).
Chính là qua cuộc đấu tranh để thực hiện dân quyền (các quyền tự do)
mà dân trí được nâng cao, dân khí được củng cố, xă hội dân sự được
h́nh thành.
Khai dân trí,
chấn dân khí suy cho cùng là để đi đến dân chủ. Nhưng
người dân có thể đạt đến dân chủ bằng cách đấu tranh cho tự do.
Nh́n theo chiều hướng này, mỗi thắng lợi của tự do đánh dấu một bước
tiến trên con đường dân chủ hoá. Và một khi thiết lập được chế độ
dân chủ, tự do lại càng có điều kiện để lan toả rộng khắp trên quy
mô toàn xă hội. Bằng cách thực hành tự do, người dân từng bước tập
làm chủ Nhà nước, biến Nhà nước thành Nhà nước của toàn dân. Từ đó
h́nh thành nên ḷng tin yêu đối với chính quyền, một sự tin cậy sinh
ra từ thực tiễn và lư trí chứ không phải là sự mê muội, cuồng tín do
nhồi nhét các giáo điều lư luận, một t́nh yêu sinh ra từ ư thức
trách nhiệm của mỗi công dân chứ không phải từ sự sợ hăi trước cường
quyền. Đó chính là nguồn cội làm nên sức mạnh tinh thần của một dân
tộc.
Chính ḷng tin
yêu đó - chứ không phải những máy bay siêu thanh hay tàu ngầm hiện
đại, mới là sự bảo đảm vững chắc nhất cho một chính quyền “của dân,
do dân và v́ dân”. Nhất là trong hoàn cảnh của một quốc gia nhỏ bé
hơn, thua kém hơn về tiền tài hay vũ khí, nhưng lại muốn có một tư
thế hiên ngang, b́nh đẳng, không khuất phục trước một quốc gia láng
giềng to lớn hơn hàng chục, hàng trăm lần. |
Tài liệu tham khảo
- Nguyễn Văn
Dương, Tuyển tập Phan Châu Trinh. Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà Nội,
2006
- Phan Bội Châu,
Toàn tập. Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây - Nxb Thuận Hoá, Hà
nội - Huế, 2001, 10 tập
- Mai Thái Lĩnh,
“T́m hiểu quan niệm chính trị của Phan Châu Trinh”, talawas,
24.2.2007 - 24.3.2007; Thông Luận, 15/02/2009.
-
Fareed Zakaria, “The Rise of Illiberal Democracy”, Foreign Affairs,
November 1997.
-
Fareed Zakaria, “Sự trỗi dậy của các chế độ dân chủ phi – tự do”,
bản dịch tiếng Việt của Phạm Hồng Sơn (Mai Thái Lĩnh hiệu
đính).Thông Luận, 04/06/2009.
-
Hà Sĩ Phu, “Sự khác nhau giữa Dân chủ và Tự do”, talawas blog 2009;
Thông Luận, 29/05/2009; thư viện hà sĩ phu.
Chú thích
[1] Theo Tiến sĩ Vĩnh Sính, các “tân thư” ở Trung Hoa không dịch
trực tiếp từ các ngôn ngữ phương Tây mà dịch lại từ các bản dịch
tiếng Nhật.
[2] “Tỉnh quốc hồn ca II”, Tuyển tập Phan Châu Trinh, sđd, tr. 368
[3] “Việt Nam quốc sử khảo”, Phan Bội Châu, Toàn tập, t. 3, sđd, tr.
68-69
[4] Dân quyền: quyền lợi của nhân dân về chính trị, như tự do, b́nh
đẳng (droits du peuple) (Đào Duy Anh, Hán-Việt từ điển giản yếu).
[5] “Tân Việt Nam”, Phan Bội Châu, Toàn tập, t. 2, Nxb Thuận Hoá,
2001, tr. 180
[6] “Tân Việt Nam”, sđd, tr. 183
[7] Lưu Pháp kinh giảng chư lưu huyết chí sĩ đồng tượng hữu cảm khẩu
chiếm (Thơ ứng khẩu nói cảm xúc khi nghe giảng về tượng đồng những
chí sĩ đổ máu nhân lưu trú tại kinh đô nước Pháp), “Tây Hồ thi tập”,
Tuyển tập Phan Châu Trinh, sđd, tr. 140-141
[8] “Tỉnh quốc hồn ca II”, Tuyển tập Phan Châu Trinh, sđd, tr. 360
[9] “The Rise of Illiberal Democracy”, Foreign Affairs, November
1997.
[10] “Hải ngoại huyết thư” (Cuốn sách viết bằng máu gửi từ hải ngoại),
Phan Bội Châu, Toàn tập, t. 2, sđd, tr. 143, 145
[11] “Tân Việt Nam”, Phan Bội Châu, Toàn tập, t. 2, Nxb Thuận Hoá,
2001, tr. 179
[12] “Tỉnh quốc hồn ca I”, Tuyển tập Phan Châu Trinh, sđd, tr. 187
[13] Nguyên văn: Từ hội hè, suy nghĩ, nói năng. Hội hè: tự do hội
họp và lập hội, suy nghĩ: tự do tư tưởng, nói năng: tự do ngôn luận
và báo chí. Tuyển tập Phan Châu Trinh, sđd, tr. 368
[14] “Đạo đức và luân lư Đông Tây”, Tuyển tập Phan Châu Trinh, sđd,
tr. 943
[15] Đoàn: Hội họp lại. Đoàn thể: Nhiều người kết hợp thành đoàn (collectivité,
groupe). Xem: Đào Duy Anh, Hán-Việt từ điển giản yếu. |