Năm 2009 có thể
coi là một năm có nhiều biến động và thách thức đối với Việt Nam.
Nhân dịp đầu năm dương lịch, Blog Góc nh́n Kinh tế muốn cùng quư vị
và các bạn điểm lại các sự kiện chính, các thành công cũng như thất
bại của Việt Nam trong năm vừa qua.
Kinh tế VN trong năm
2009
Việt Nam bước vào năm 2009 trong khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu
đang trên đà tăng tốc. Là một nước tăng trưởng dựa nhiều vào xuất
khẩu và đầu tư nước ngoài, VN chịu ảnh hưởng lớn từ doanh số xuất
khẩu giảm sút và đầu tư nước ngoài thu hẹp. Trong 11 tháng đầu năm,
kim ngạch xuất khẩu của VN giảm 11.4% so với cùng kỳ năm trước. Đầu
tư nước ngoài trong 10 tháng đầu năm chỉ xấp xỉ 25% so với cùng kỳ
năm trước. Đây là những thử thách to lớn đối với nền kinh tế và với
chính phủ – với tư cách là người lèo lái con thuyền này.
Lèo lái tốt trong khủng hoảng: Trong bối cảnh như vậy, tăng trưởng
kinh tế ước tính của năm 2009 vẫn lên tới 5.2% (sau khi đă khấu trừ
lạm phát). Việt Nam là nước duy nhất trong khối ASEAN luôn tăng
trưởng trong tất cả 4 quư của năm 2009. Thành tích tăng trưởng này
được Ngân hàng Thế giới tán dương với nhận định “kinh tế Việt Nam
chèo chống tương đối tốt qua cuộc khủng hoảng,” c̣n IMF th́ tuyên bố
“Việt Nam chắc sẽ làm tốt hơn các nước láng giềng trong giai đoạn
hồi phục”.
Duy tŕ được tốc độ tăng trưởng tương đối tốt trong điều kiện thế
giới ch́m đắm trong cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại Suy
thoái rơ ràng là thành tích ấn tượng nhất trong lĩnh vực quản lư
kinh tế của chính phủ trong năm 2009.
Thị trường chứng khoán VN (TTCK) hồi phục: TTCK bắt đầu năm 2009 với
VN-Index nằm ở mức 315 điểm, sau đó tụt xuống thấp nhất ở mức 235
điểm vào ngày 24 tháng 2 (giảm 25.4%). Từ đó tới nay, TTCK đă hồi
phục mạnh mẽ, VN-Index đạt trần vào ngày 22 tháng 10 với mức 624
điểm, tức là tăng khoảng 100% so với hồi đầu năm và 165% so với thời
điểm chỉ số này chạm đáy. Tuy nhiên, VN-Index đă liên tục giảm trở
lại từ cuối tháng 10 và hiện nay chỉ c̣n ở mức 440 điểm (số liệu
trong ngày 16 tháng 12). Đà giảm điểm này có lẽ c̣n kéo dài nữa do
vấn đề thanh khoản (liquidity) trong hệ thống ngân hàng ở VN.
Thâm hụt mậu dịch và sức ép phá giá tiền tệ: Ngược lại với các điểm
sáng kể trên, kinh tế Việt Nam vẫn c̣n đang gặp phải vô số khó khăn
trong ngắn hạn. Thâm hụt mậu dịch quốc tế vẫn liên tục tăng từ hàng
chục năm nay tạo nên sức ép thường trực lên giá trị của đồng VND. VN
đă phải tuyên bố phá giá 5.4% giá trị đồng VND vào hồi cuối tháng 11
vừa rồi mặc dù chỉ vài ngày trước đó các chính trị gia hàng đầu của
đất nước vẫn khẳng định như đinh đóng cột là không có chuyện phá giá.
Đầu tư nước ngoài ít thực chất: Do sức ép phải duy tŕ được thành
tích kêu gọi vốn nước ngoài, Việt Nam đă phải chấp nhận cho FDI đi
mạnh vào các khu vực “bong bóng” như bất động sản và du lịch thay v́
vào các khu vực công nghệ, kỹ thuật, hạ tầng, hay giáo dục là các
khu vực có tác dụng nâng cao năng suất của nền kinh tế về dài hạn.
Tỉ lệ FDI đầu tư vào bất động sản trong năm 2008 là 36.8% và trong
10 tháng đầu năm 2009 là 30% ($5.67 tỉ trong tổng số khoảng $19 tỉ).
Nếu tính cả số FDI đầu tư vào dịch vụ du lịch th́ vốn FDI vào bất
động sản và du lịch chiếm tới 76% trong tổng số vốn FDI đầu tư vào
VN trong 10 tháng đầu năm 2009.
Khả năng trả nợ của quốc gia ngày càng bị đánh giá thấp: Xếp hạng
tín dụng quốc gia đang ngày càng kém đi. Hiện nay các khoản nợ quốc
gia của Việt Nam được Moody xếp hạng Ba3 và Standard & Poor’s xếp
hạng BB. Hồi giữa năm 2008, Standard & Poor’s đă hạ thấp mức xếp
hạng chỉ số tín dụng quốc gia của Việt Nam từ “ổn định” (stable)
xuống “tiêu cực” (negative). Một báo cáo gần đây của Nomura c̣n
khuyến cáo rằng Việt Nam đang đứng trước khả năng tiếp tục bị đánh
tụt hạng tín dụng. V́ bị xếp hạng tín dụng thấp, khả năng huy động
vốn qua phát hành trái phiếu chính phủ ra nước ngoài ngày càng khó
khăn.
Cuộc đánh đổi giữa kiềm chế lạm phát và tăng trưởng tín dụng: Việt
Nam hứng chịu sức ép lạm phát trong suốt cả năm 2009 do tăng trưởng
tín dụng nhanh và giá nguyên vật liệu thô tăng. Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
đă t́m cách kiềm chế đà tăng này bằng cách yêu cầu các ngân hàng duy
tŕ mức tăng tín dụng cả năm không quá 30%. Tuy nhiên, chỉ trong 11
tháng từ đầu năm, tăng trưởng tín dụng đă lên tới 36%. V́ thế, mức
lạm phát cả năm hiện nay được dự tính sẽ vào khoảng 6.8%. Ngân hàng
phát triển Châu Á hồi cuối tháng 9 vừa qua c̣n dự báo lạm phát của
năm 2010 ở Việt Nam có thể lên tới 8.5% nếu chính phủ tiếp tục duy
tŕ gói kích thích tài chính.
Để ngăn chặn khả năng lạm phát quá cao, hồi cuối tháng 11 này, NHNN
đă phải tăng lăi suất cơ bản và yêu cầu các ngân hàng thương mại (NHTM)
hạn chế cho vay vào các mục đích phi sản xuất. Hậu quả là nguồn tín
dụng cho chứng khoán và nhà đất bị thu hẹp một cách bất ngờ. Chính
v́ vậy mà TTCK tiếp tục tụt dốc không phanh, c̣n thị trường bất động
sản th́ cũng được VNeconomy mô tả là “bong bóng đang x́ hơi”.
Hiệu quả sử dụng vốn quá thấp: Một thước đo thường được sử dụng để
xác định hiệu quả sử dụng vốn là Tỉ lệ vốn tăng thêm trên sản lượng
(ICOR-Incremental Capital Output Ratio). Ti lệ này cho biết mức độ
hiệu quả của việc sử dụng vốn trong sản xuất. ICOR càng cao có nghĩa
là Việt Nam càng phải sử dụng nhiều vốn hơn chỉ để sản xuất ra một
sản lượng như trước.
Nghiên cứu của Deutsche Bank cuối năm 2007 đă kết luận “không may là
hiệu quả của vốn đầu tư của Việt Nam đă ngày càng kém đi trong nhiều
năm trở lại đây ICOR của Việt Nam [năm 2006] là 4.2, cao hơn nhiều
so với Trung Quốc khi đó là 3.7 hay Ấn Độ là 3.3”. Theo một nghiên
cứu được Intellasia trích đăng lại th́ ICOR trong năm 2007 là 4.76.
Có vẻ như chỉ số này của năm 2009 c̣n kém hơn nữa. Khi được đề nghị
dự báo về chỉ số cho năm 2009, ông Bùi Bá Cường của Tổng cục Thống
kê đă trả lời: “Đầu tư của nhà nước tăng bất thường lên hơn gấp rưỡi
– tính theo giá thực tế, mà tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 5,2% th́
rơ ràng là ảnh hưởng đến ICOR rồi”.
Hiệu quả sử dụng vốn thấp đồng nghĩa với giá thành cao và khả năng
cạnh tranh của hàng hóa ở Việt Nam sẽ phải kém đi tương đối. Điều
này hoàn toàn bất lợi cho một nền kinh tế dựa vào xuất khẩu. Các
lănh đạo của Việt Nam hiểu rơ vấn đề này, ngay đến như Tổng Bí thư
Nông Đức Mạnh cũng b́nh luận: “ICOR tăng cao thế là rất đáng lo ngại
nhưng cần có đánh giá thêm của các nhà khoa học”.
Nền kinh tế “chạy” không nhanh nhưng luôn “quá nóng”: Điểm đau đầu
nhất mà chính phủ của Thủ tướng Dũng đang gặp phải có lẽ là kinh tế
Việt Nam đang bị coi là ở trong t́nh trạng “quá nóng” mặc cho tốc độ
tăng trưởng không thực sự cao nếu so sánh với tốc độ phát triển kinh
tế của các nước Đông Á hay Trung Quốc một vài thập niên trước. Mấu
chốt của vấn đề này có lẽ ở chỗ cơ cấu kinh tế của Việt Nam đang bị
mất cân đối nghiêm trọng và cần phải được điều chỉnh về cơ bản.
Hiện nay các chủ nợ như ADB đang kêu gọi Việt Nam nên tăng trưởng
chậm lại và tập trung vào giải quyết các vấn đề đang tồn đọng, tái
cấu trúc cơ cấu kinh tế nhằm duy tŕ được khả năng tăng trưởng bền
vững trong dài hạn.
Chính trị
Thay
đổi đường lối đối ngoại với Mỹ và Trung Quốc: Năm 2009 đánh dấu một
bước chuyển đổi quan trọng trong chiến lược đối ngoại của Việt Nam.
Điểm dễ thấy là Việt Nam đang tích cực t́m cách thúc đẩy quan hệ
song phương với Hoa Kỳ. Trong những tháng cuối năm, lịch thăm viếng
của lănh đạo cấp cao Việt Nam tới Mỹ có thể nói là dày đặc: Chủ tịch
Nguyễn Minh Triết thăm Mỹ vào tháng 9, Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm
thăm Mỹ vào tháng 10, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân thăm Mỹ vào
tháng 11 c̣n Bộ trưởng Quốc pḥng Phùng Quang Thanh th́ thăm Mỹ vào
tháng 12. Phía Hoa Kỳ th́ một mặt đang cân nhắc việc bán vũ khí cho
Việt Nam, mặt khác đang t́m cách lôi kéo Việt Nam tham gia vào một
tổ chức mậu dịch có tên là Hiệp định Đối tác Hợp tác Xuyên Thái B́nh
Dương (Trans-Pacific Partnership Agreement).
Bên
cạnh đó, Việt Nam cũng tỏ ra cứng cỏi hơn và công khai hơn trong
cách ứng xử với Trung Quốc ở Biển Đông. Từ đầu năm trở lại đây, báo
chí trong nước liên tục đăng tải các sự kiện có liên quan tới Biển
Đông. Các kênh truyền h́nh cũng làm các chuyên đề về Biển Đông trong
khi các trường Đại học và các nhóm nghiên cứu th́ tổ chức các hội
thảo khoa học trong nước và quốc tế nhằm thu hút sự chú ư của dư
luận thế giới. C̣n nhớ, cách đây chưa lâu, như hồi năm 2005, khi sự
kiện hải quân Trung Quốc thảm sát dân thường Việt Nam trên Vịnh Bắc
Bộ, việc đưa tin và thảo luận công khai về các vấn đề này vẫn bị coi
là hết sức nhạy cảm.
Nỗ
lực bang giao với Vatican chưa thành công: Trong nỗ lực đặt quan hệ
ngoại giao với Vatican, Chủ tịch Triết đă hội kiến với Đức Giáo
hoàng Bennedict XVI tại Vatican hồi giữa tháng 12 vừa rồi. Ngay
trước buổi hội kiến này, Chủ tịch Triết đă trả lời báo Corriere
della Sera rằng “chúng tôi đang xúc tiến để thiết lập bang giao
chính thức với Vatican”. Cuộc gặp với Đức Giáo hoàng đă kéo dài tới
40 phút, gấp đôi thời lượng dự tính ban đầu. Thế nhưng kết cuộc th́
hai bên vẫn chưa đi tới được thỏa thuận cuối cùng về việc thiết lập
bang giao.
Theo
các hăng tin nước ngoài, một trong những khúc mắc hai phía cần tập
trung giải quyết là tài sản của Giáo hội bị chính phủ tịch thu sau
năm 1954 ở miền Bắc, và sau 1975 ở miền Nam. Một vấn đề khác có lẽ
cũng quan trọng không kém là việc Việt Nam từ trước tới nay vẫn dành
quyền phủ quyết các quyết định bổ nhiệm nhân sự của Vatican trên
lănh thổ Việt Nam.
Nếu
như Vatican chịu nhượng bộ Việt Nam trên vấn đề tranh chấp đất đai
th́ có lẽ sẽ là dấu chấm hết cho các cuộc đấu tranh đ̣i đất của các
nhà thờ Công giáo từ Bắc vào Nam.
Quản
lư blog và hạn chế phản biện: Năm 2009 cũng đánh dấu bước chuyển
biến mới trong chính sách của Việt Nam đối với giới bloggers và
những người làm công tác phản biện. Tháng 8 năm qua được đánh dấu
bởi một loạt các vụ bắt giữ những bloggers có tên tuổi ở Việt Nam
như Bùi Thanh Hiếu và Phạm Đoan Trang. Từ phía chính quyền, bà
Nguyễn Thanh Nga của Bộ Ngoại giao chỉ khẳng định họ bị bắt giữ v́
“có những dấu hiệu xâm hại an ninh quốc gia”. Tuy nhiên bà Nga không
nói rơ đó là các dấu hiệu ǵ, và những dấu hiệu này sau đó cũng
không thấy được nhắc tới nữa.
Gần đây, từ đầu
tháng 11 vừa qua, trang mạng Facebook – là trang được những người
trẻ tuổi ở Việt Nam ưa chuộng – đă bị hầu hết các nhà cung cấp dịch
vụ internet (ISPs) ở Việt Nam ngăn chặn. Facebook tuy không phải là
một trang cung cấp dịch vụ blogging nhưng là một mạng lưới xă hội
cực mạnh giúp người dùng nhanh chóng phổ biến các thông tin cho bạn
bè và những người trong mạng lưới của ḿnh. Theo VOA, Bộ Thông tin
và Truyền thông (TT&TT) của Việt Nam khẳng định họ không có liên hệ
ǵ đến việc giới sử dụng Internet ở trong nước hiện không truy cập
được trang mạng Facebook.
Nếu VOA đưa tin đúng, th́
tuyên bố này của Bộ TT&TT không có nghĩa Facebook không bị chặn, mà
chỉ có nghĩa việc chặn này không phải do Bộ TT&TT làm.
Liên
quan tới phản biện, Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg do Thủ tướng Dũng
kư hồi tháng 7 vừa rồi đă yêu cầu các tổ chức nghiên cứu “nếu có ư
kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nhà
nước, cần gửi ư kiến phản biện đó cho cơ quan Đảng, nhà nước có thẩm
quyền, không được công bố công khai với danh nghĩa hoặc gắn với danh
nghĩa của tổ chức khoa học công nghệ”. Việc này đă gây ra một số
phản ứng trong giới nghiên cứu và phản biện chính sách. Điển h́nh
nhất là sự kiện Viện Nghiên cứu Phát triển (IDS) đă tuyên bố đóng
cửa vào ngày 14 tháng 9 vừa qua. IDS là một “think tank” tư nhân có
uy tín vào bậc nhất ở Việt Nam do các nhà khoa học có tên tuổi thành
lập. Sự kiện IDS giải thể để phản đối quyết định này đă gây ra chấn
động khá lớn trong giới trí thức Việt Nam.
Vụ
án xâm phạm an ninh quốc gia Lê Công Định: Năm 2009 cũng được đánh
dấu bởi vụ án xâm phạm an ninh quốc gia liên quan tới luật sư Lê
Công Định và các đồng sự của ông. Vụ án này gây chấn động lớn trong
dư luận không phải v́ tính nghiêm trọng của nó mà v́ sự nổi tiếng cá
nhân của những người bị bắt trong vụ án như Luật sư Định hay ông
Nguyễn Tiến Trung và Trần Huỳnh Duy Thức cùng với việc nhà nước Việt
Nam nhanh chóng công bố các video có ghi h́nh ảnh họ đọc biên bản
nhận tội.
Khác
với các vụ án của các thế hệ đi trước như Lê Chí Quang hay Nguyễn
Khắc Toàn, vụ án liên quan đến nhóm của LS Định đă được giới trí
thức, sinh viên, và các chuyên viên cổ cồn trắng nói chung đặc biệt
quan tâm. Lư do như đă nói ở trên là v́ sự nổi tiếng cá nhân của họ.
Thí dụ như LS Định có vợ là một cựu hoa hậu, c̣n ông Nguyễn Tiến
Trung th́ đă từng hội kiến với nhiều chính khách lớn của nước ngoài.
Tuổi tác, học vấn và sự thành đạt của họ cũng khiến họ được ngưỡng
mộ và đồng cảm. Ngoài ra, nhận thức của công chúng thành thị ở Việt
Nam cũng đă có những bước chuyển biến khá rơ nét so với hồi năm
2001.
Theo
báo chí Việt Nam, nhóm của LS Định đă cấu kết với một số người Việt
phản động ở nước ngoài nhằm thành lập ra các tổ chức đảng với mục
tiêu lâu dài là cạnh tranh quyền lực với ĐCS. Nhà nước Việt Nam coi
hoạt động này là vi phạm pháp luật (hiến pháp Việt Nam quy định ĐCS
là đảng duy nhất có độc quyền lănh đạo đất nước). Việt Nam trước đây
từng có các đảng anh em bên cạnh ĐCS. Tuy nhiên, những người anh em
này sau đó được cho là không cần thiết nữa nên đă tự nguyện giải
thể.
Xă hội
GS.
Ngô Bảo Châu được báo Times vinh danh: Tờ báo này đă b́nh chọn GS
Châu là người có một trong 10 phát minh tiêu biểu của khoa học Thế
giới năm 2009. Đây là một thành tích cá nhân của GS Châu, nhưng cũng
là một niềm vui cho những người Việt Nam làm khoa học và cũng là một
điểm sáng của nền giáo dục Việt Nam vốn trước nay bị chê bai là yếu
kém.
GS
Châu sinh năm 1972 và lớn lên ở Việt Nam. Ông từng học ở khối phổ
thông chuyên toán trường Đại học Khoa học tự nhiên thuộc Đại học
Quốc gia Hà Nội. Có thể coi ông là sản phẩm của nền giáo dục Việt
Nam, và đặc biệt là sản phẩm của mô h́nh “trường chuyên, lớp chọn” –
là một mô h́nh cũng bị phê phán nhiều v́ khuyến khích trẻ em học
lệch về một số môn học nhất định.
Bauxite Tây Nguyên và mối lo mang tên Trung Quốc: Năm 2009 cũng được
đánh dấu bởi sự phản đối quyết liệt của dư luận, đặc biệt là trong
giới trí thức Việt Nam trong và ngoài nước, về các dự án khai thác
bauxite ở Tây Nguyên. Hàng loạt các tên tuổi lớn đại diện cho trí
tuệ Việt Nam đă cùng kư tên vào một bản kiến nghị gởi lên Quốc hội
và Chính phủ yêu cầu đ́nh chỉ các dự án này. Sự lên tiếng của các
nhà khoa học đă tạo ra một làn sóng công luận rộng răi khắp cả nước
về vấn đề này. Từ chỗ không chủ trương đưa ra Quốc hội, các dự án ở
Tây Nguyên đă được đưa ra thảo luận công khai trong phiên họp lần
thứ 5 của cơ quan lập pháp hồi tháng 5 năm qua.
Lư
do mà phe phản đối đưa ra là dự án này không có hiệu quả kinh tế và
tai hại về môi trường. Tuy nhiên, có lẽ vấn đề gây phản ứng dữ dội
nhất trong công chúng là vai tṛ của Trung Quốc trong dự án này.
Nhiều người cho rằng Trung Quốc hiện nay đang t́m cách ḅn rút tài
nguyên thiên nhiên của Việt Nam, từ ếch nhái, cua, cá, rắn rết, hải
sâm, rong biển, ba ba thuồng luồng đến quặng kim loại. Đó là chưa kể
sự xuất hiện bất thường của rất đông công nhân người Trung Quốc trên
các công trường bauxite ở Tân Rai và Nhân Cơ gây ra quan ngại về an
ninh quốc gia.
Những bức xúc này, kèm theo việc Trung Quốc liên tục lấn át và gây
hấn trên Biển Đông đă khiến nhiều người Việt lo ngại và bất b́nh.
Năm 2009 có lẽ là năm mà mối lo mang tên Trung Quốc ở Việt Nam được
bộc lộ rơ ràng nhất trong công luận.
Thất
vọng lớn của bóng đá nam tại SEA Games: Đội tuyển U23 làm tan nát
ḷng người hâm mộ – vốn rất đông – ở Việt Nam khi để thua trước
Malaysia trong trận chung kết bóng đá nam hôm 17 tháng 12 năm qua.
Xă
hội Việt Nam hiện nay là một xă hội yêu bóng đá, đặc biệt là bóng đá
nam. Người Việt yêu bóng đá tới mức Việt Nam có bao nhiêu huy chương
vàng trong bảng tổng sắp của SEA Games cũng không có ư nghĩa ǵ đặc
biệt nếu VN không thành công ở môn bóng đá nam. Thanh niên Việt Nam
chỉ xuống đường ăn mừng (và một số xuống đường để quậy phá) nếu đội
tuyển U23 của Việt Nam thắng lợi. Và đội tuyển này đă làm đúng những
ǵ người hâm mộ Việt Nam mong muốn – trừ ở trận chung kết.
Bóng
đá không phải là một môn thể thao mà Việt Nam có thế mạnh. Việt Nam
từng đạt được huy chương của Thế Vận Hội ở một số môn như taekwondo
và cử tạ. Đối với môn bóng đá nam, trong suốt 50 năm qua, Việt Nam
chưa lần nào dành được huy chương vàng ở giải đấu khu vực Đại hội
Thể thao Đông Nam Á.
V́
sao người Việt yêu thích môn bóng đá đến vậy là một câu hỏi khó trả
lời. Có lẽ v́ người Việt nói chung rất ít chơi thể thao, v́ thế cũng
không biết đến nhiều môn thể thao đa dạng. Bóng đá là môn được nhiều
người chơi nhất, cũng v́ thế là môn được nhiều người xem nhất. Từ
chỗ đó, nó được nhà nước đầu tư nhiều nhất, và được các doanh nghiệp
tài trợ và được quảng bá nhiều nhất.
Bát
Nhă và Làng Mai: Sự kiện tu sinh Làng Mai bị buộc phải rời khỏi tu
viện Bát Nhă không phải là một sự kiện lớn có ảnh hưởng sâu rộng đến
đời sống người Việt nhưng lại được các phương tiện thông tin đại
chúng ở nước ngoài theo dơi từng bước.
Cần
nhắc lại rằng ở Việt Nam hiện nay chỉ có một giáo hội Phật giáo được
công nhận có tên là Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN). Giáo hội
này được tổ chức theo mô h́nh như một hệ thống cơ quan công quyền,
bao gồm cơ quan trung ương, các tỉnh hội (thành hội) phật giáo ở các
tỉnh. Bên dưới nữa là các ban đại diện phật giáo ở các quận, huyện,
thị xă. Có thể nói đây là một guồng máy thống nhất, được tổ chức
chặt chẽ, và độc quyền trên mọi hoạt động liên quan đến Phật giáo ở
Việt Nam.
Thiền sư (TS) Nhất Hạnh và các tu sĩ Làng Mai được chào đón ở Việt
Nam hồi năm 2005 và 2007 với tư thế là các vị khách chứ không phải
là một giáo hội cạnh tranh. Khi đệ tử của ông là thượng tọa (TT) Đức
Nghi đứng ra xin mở các khóa tu ngắn hạn vào hồi tháng 8 năm 2006,
nhà nước Việt Nam đă đồng ư và cơ sở của sự đồng ư này là TT Đức
Nghi là người của GHPGVN và các khóa tu ở Bát Nhă chỉ là các khóa tu
ngắn hạn. Theo các văn bản qua lại giữa TT Đức Nghi với nhà nước và
GHPGVN, các khóa tu ngắn hạn này có thời gian 3 tháng cho mỗi khóa,
và sẽ nối tiếp nhau từ cuối tháng 8/2006 tới năm 2010.
Thế
nhưng trong các thư từ trao đổi giữa TS Nhất Hạnh và TT Đức Nghi th́
TS Nhất Hạnh muốn Bát Nhă trở thành một cơ sở vĩnh viễn của Làng Mai
ở Việt Nam, hoạt động độc lập với GHPGVN. V́ chính quyền Việt Nam
không chấp nhận một giáo hội khác ngoài GHPGVN, việc tu sinh Làng
Mai ở Bát Nhă phải giải tán là kết quả tất nhiên.
Đă có nhiều
tiếng nói lên án việc chính quyền buộc các tu sinh Làng Mai phải
giải tán. Thế nhưng có vẻ như câu chuyện thực sự ở đây là việc chính
quyền Việt Nam chỉ chấp nhận một giáo hội Phật giáo, và chuyện TS
Nhất Hạnh muốn phá bỏ quy định này của nhà nước – và ông đă không
thành công.
Vụ án PCI và
RBA: PCI và RBA chỉ là hai vụ án hối lộ do Nhật Bản và Úc phanh phui,
nhưng đều liên quan tới quan chức Việt Nam.
Chính v́ thế, chúng có ảnh
hưởng tai hại tới h́nh ảnh các quan chức Việt cũng như đến tính khả
tín của toàn bộ bộ máy nhà nước nói chung. Nhật Bản thậm chí c̣n
quyết định ngừng viện trợ ODA cho Việt Nam trong một thời gian xuất
phát từ vụ án này.
Trong vụ án PCI, quan chức Việt Nam có dính líu tới hối lộ là ông
Huỳnh Ngọc Sỹ. Tuy nhiên, việc điều tra và đưa ông Sỹ ra xét xử từ
phía Việt Nam đă tỏ ra chậm chạp. Trong số nhiều lư do được đưa ra
có cả lư do cần thời gian để dịch tài liệu do phía Nhật Bản cung
cấp.
Hiện
nay ông Sỹ đang ngồi tù nhưng lại không liên quan ǵ tới vụ án hối
lộ của Nhật. Ông Sỹ bị ngồi tù v́ đă cho thuê trái phép trụ sở của
PMU Đông Tây để lấy tiền chia chác. Tuy nhiên, theo VNexpress ông
chỉ chịu mức án nhẹ (3 năm thay v́ 5-6 năm tù theo đề nghị của VKS)
v́ ông có “công nhiều hơn tội” (?) và có “nhiều đơn từ, công văn của
các ban ngành, tập thể “tha thiết” đề nghị ṭa… giảm nhẹ h́nh phạt”
cho ông.
Khác
với vụ PCI, vụ RBA chỉ mới bắt đầu từ hồi tháng 10 vừa qua. Theo văn
bản giải tŕnh của Thượng nghị sĩ Bob Brown của Úc trước QH nước này
vào ngày 27 tháng 10 th́ tập đoàn Reserve Bank of Australia (RBA) đă
hối lộ ông Lê Đức Minh, là con trai của cựu thống đốc Lê Đức Thúy.
Theo văn bản của TNS Brown th́ “vào năm 2002, khi Việt Nam chuyển từ
tiền giấy sang tiền polymer, Securency (chi nhánh của RBA) đă kết
hợp với công ty CFTD ở Hà Nội và chi nhánh của nó là Banktech. Hồi
đầu năm 2002, phó giám đốc Banktech Lê Đức Minh đă đứng ra thực hiện
thương vụ này. Securency đă trả nhiều triệu đô la hoa hồng cho các
giám đốc của CFTD có quan hệ với các nhân vật chính trị của Việt
Nam”.
Phía
Úc vẫn chưa đưa vụ án ra ṭa và nhà nước Việt Nam vẫn chưa có phản
ứng chính thức nào về sự kiện này.
|