Nhận lại anh em, t́m lại bạn bè
Chăm là một
trong 54 nhóm chủng tộc bất khả phân của dân tộc Việt Nam. Dân số
người Chăm hiện nay khoảng 100.000 người, trong đó hơn 2/3 định cư
tại Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết và B́nh Tuy ; số c̣n lại sinh
sống tại Châu Đốc, Tây Ninh và Sài G̣n.
Cũng nên biết, trong thực tế, có khoảng 400.000 người Chăm sinh sống
tại khắp nơi trên thế giới, đông nhất là tại Kampuchia (270.000
người), kế đến mới tới Việt Nam (100.000 người), sau là Thái Lan
(15.000 người) và cuối cùng là Liên Bang Mă Lai, năm 1979 đă tiếp
nhận khoảng 10.000 người Chăm đến từ Kampuchia. Hải ngoại có khoảng
200 người Việt gốc Chăm (hơn 50 gia đ́nh), đa số định cư tại Hoa Kỳ.
Tài liệu nói về nhóm dân cư này tuy có nhiều nhưng cũng rất thiếu.
Đa số các tài liệu viết về các sinh hoạt có tính văn hóa và xă hội
trong khi phần lịch sử và sinh hoạt chính trị của nhóm dân cư này
hoàn toàn thiếu vắng, nếu có chăng th́ nội dung cũng bị bóp méo để
phù hợp với nhu cầu tuyên truyền của các chế độ đương quyền. Chính
v́ thế mỗi khi đề cập tới cộng đồng người Chăm, người Việt thường có
một nhận thức rất mơ hồ, chỉ biết đại khái đó là một sắc tộc thiểu
số ở miền Trung và Châu Đốc có nước da ngăm đen, phong tục tập quán,
tín ngưỡng và văn hóa khác với người Kinh. Trầm trọng hơn, phần lớn
những người lănh đạo đất nước cũng không nắm rơ nguồn gốc những cộng
đồng chủng tộc đă góp phần tạo thành dân tộc Việt Nam, do đó khó có
thể xây dựng một chính sách dân tộc phù hợp với ước vọng của từng
cộng đồng. Chính v́ thế nội dung loạt bài viết về người Chăm này
nhằm khai thông bế tắc đó. Nhận lại anh em, t́m lại bạn bè là chặng
đường cần thiết trước khi cùng nhau xây dựng một tương lai chung.
Người Chăm và các danh xưng
Chăm là tên một nhóm dân cư, trước kia là thần dân vương quốc Chiêm
Thành (Campa, Champa, hay Chăm Pa) cũ, đă có mặt từ lâu đời tại miền
Trung trước khi người Kinh đến đây lập nghiệp.
Trước khi đi vào chi tiết, tưởng cũng nên phân biệt người Chăm và
người Chămpa. Chăm là nhóm dân cư gốc Nam Đảo (malayo-polynésien)
sinh sống trên những vùng đất thấp dọc duyên hải miền Trung, Chămpa
là toàn thể các nhóm dân cư thuộc vương quốc Chiêm Thành cũ gồm cả
người Chăm đồng bằng lẫn người Thượng (gốc Nam Đảo hoặc Môn Khmer),
sinh sống rải rác trên các vùng rừng núi phía Tây dăy Trường Sơn,
hay Tây Nguyên.
Champa là tên một loài hoa màu trắng hồng nhạt, hay trắng vàng nhạt,
có hương thơm ngào ngạt có thể t́m thấy tại khắp nơi trên duyên hải
miền Trung. Người Việt gọi là hoa sứ, tên khoa học là Michelia
Champaca Lin. Không biết người Champa đă chọn loài hoa sứ này đặt
tên cho xứ sở ḿnh từ hồi nào, nhưng chữ Champa đă được t́m thấy
trên một bia kư có từ thế kỷ thứ 6 tại Mỹ Sơn, viết bằng chữ Phạn
(sanscrit). Trước đó, trong bộ Geographica năm 150 sau công nguyên,
Claudius Ptolémée (90-168), nhà địa lư gốc Hy Lạp và là sứ giả của
hoàng đế La Mă Marc-Aurèle Antonin tại Alexandrie (Ai Cập), đă có
lần nói tới một xứ tên Zamba trên vùng Viễn Đông. Sách Tân Đường thư,
do Âu Dương Tu và Tổng Kỳ biên soạn thế kỷ 10, phiên âm là Chiêm Bà
khi nói về Hoàn Vương Quốc (vương quốc Lâm Ấp cũ). Về sau Champa
được người Việt biết qua tên phiên âm Hoa ngữ là Chiêm Thành (Tchan-tcheng).
Trước kia người Việt gọi cộng đồng người Chăm là Chiêm, Chàm, Hời…
Những danh xưng này được đọc theo cách viết của người Trung Hoa, hay
theo cách phát âm của người miền Trung, do đó không phản ánh trung
thực danh xưng chính xác của người Chăm hiện nay.
― Chiêm là tên gọi những cư dân sinh sống trên lănh thổ Chiêm Thành;
danh xưng Chiêm thỉnh thoảng vẫn được nhắc nhở trong sử sách và tài
liệu nghiên cứu, ngoài dân gian ít ai nói tới.
― Chàm là cách đọc trại đi từ chữ Champa; danh xưng Chàm hiện c̣n
rất thông dụng trong dân gian, một vài địa danh c̣n giữ chữ Chàm kèm
theo như Cù Lao Chàm tại Quảng Nam, Tháp Chàm tại Phan Rang, quận
Phan Lư Chàm, xă Ma Lâm Chàm tại B́nh Thuận... Trong nước, những nhà
dân tộc học đă thay chữ Chàm bằng danh xưng Chăm từ lâu; điều này đă
làm hài ḷng cộng đồng người Chăm tại cả Thuận Hải lẫn Châu Đốc, v́
là cách gọi đúng nhất theo lối phát âm từ chữ Chăm-pa.
― Danh xưng Hời rất ít được nhắc đến, người chỉ thấy chữ này xuất
hiện một vài lần trong tập thơ Điêu Tàn, năm 1937, của Chế Lan
Viên. Hời là cách đọc trại đi từ chữ Hroi (H’roi hay Hờ Roi), tên
của một bộ lạc sơn cước sinh sống trên vùng rừng núi phía Tây các
tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngăi và B́nh Định. Người Hroi thật ra cũng là
người Chămpa, v́ trước kia là thần dân của vương quốc Chiêm Thành cũ
di tản lên Tây Nguyên tránh loạn rồi định cư luôn tại đây, họ vẫn
c̣n giữ ngôn ngữ và một số phong tục tập quán của người Chăm đồng
bằng trong những sinh hoạt thường nhật. Ngoài ra c̣n phải kể thêm
những nhóm Bahnar Chăm, Bru-Vân Kiều, Kaho, Raglai, Rhadé, Djarai,
Stiêng, Churu v.v..., tất cả đều là thần dân của vương quốc Chiêm
Thành cũ di tản lên cao nguyên trong những giai đoạn loạn lạc rồi ở
luôn tại đây. Trên khắp cao nguyên, những nhóm người mới ḥa nhập và
pha trộn với các nhóm người cũ tạo thành những sắc dân hỗn hợp mang
hai ḍng máu Chăm-Thượng trong những thời điểm khác nhau. Người Chăm
lai Thượng gọi là Chăm Pal, nhưng người Việt ít biết đến tên này. V́
không có truyền thống đặt tên cho từng nhóm người, dân chúng gốc
Kinh gọi chung tất cả những cư dân sinh sống trên miền núi phía Tây
là người Hroi, sau đó biến âm thành người Hời.
Chữ Hời mang một nội dung xấu, đó là những nhóm man di chuyên đi
cướp bóc, v́ trong quá khứ người Hroi đă nhiều lần tiến công vào các
làng xă người Kinh cướp bóc lương thực, trong những giai đoạn khó
khăn, dưới thời các chúa Nguyễn. Sau này người Chăm tại Thuận Hải
gọi những cư dân gốc Chăm sinh sống tại các tỉnh Quảng Nam, Quảng
Ngăi và B́nh Định là Chăm Hoi hay Chăm Hroi. Sử sách Việt Nam thời
Nguyễn gọi chung là Mọi Đá Vách.
Ngoài ra cũng có một số người Chăm lai Việt gọi là Chăm Yuôn (Yuôn
hay Yun có nghĩa là người Việt). Người Việt gọi là Kinh Cựu, nhưng
danh xưng này rất ít người biết đến v́ người Kinh Cựu luôn tự nhận
ḿnh là người Kinh. Cũng nên biết những binh sĩ hay tội đồ gốc Kinh,
bị đày ra vùng biên địa giáp ranh với Chiêm Thành, đă lập gia đ́nh
với những phụ nữ Chăm (mà họ cho là người Kinh cổ xưa), từ đó mới
sinh ra chữ Kinh Cựu.
Về ngôn ngữ, người Chăm được nhiều nhà nhân chủng học xếp vào họ Nam
Đảo (Malayo Polynésien), nghĩa là có nguồn gốc xuất phát từ các hải
đảo phía Nam vùng biển Đông Nam Á. Điều này có thể đúng khi đối
chiếu văn minh, văn hóa của người Chăm với văn minh, văn hóa của các
dân tộc cùng hệ ngôn ngữ tại Đông Nam Á vào thời tạo dựng. Nhưng qua
những khám phá khảo cổ gần đây, văn minh và văn hóa của người Chăm
tại Việt Nam không hoàn toàn do ngoại nhập mà có sự pha trộn yếu tố
văn minh và văn hóa của những nhóm cư dân bản địa có mặt từ trước.
Trong thực tế không có bộ tộc nguyên thủy nào có tên Chăm. Chăm chỉ
là tên gọi của nhiều nhóm dân cư sau này chọn sinh sống trên lănh
thổ của vương quốc Champa hay Chiêm Thành cũ, gọi chung là người
Chămpa, chứ không phải tên riêng của một nhóm chủng tộc. Sau này
cộng đồng người Chăm đồng bằng chấp nhận danh xưng Chăm, và đồng hóa
nguồn gốc Nam Đảo của ḿnh với nền văn minh và văn hóa Chiêm Thành
cũ, để phân biệt với các nhóm Chămpa khác xuất phát từ nhiều nguồn
gốc ngôn ngữ và chủng tộc khác nhau. Có thể nói vương quốc Chiêm
Thành xưa kia là một liên bang đa chủng và đa văn hóa.
Nền văn hóa cổ Champa
Sau khi đă thống lănh toàn bộ các khu vực có dân cư sinh sống trên
vùng duyên hải miền Trung, từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ 8, các nhóm
người hải đảo gốc Malayo Polynésien bắt đầu thiết đặt nền tảng vật
chất để trị v́ lâu dài : xây dựng kinh thành, phổ biến lối sống định
canh và tổ chức xă hội theo kiểu lănh chúa. V́ tŕnh độ văn hóa
không cao nhưng giỏi chinh chiến, những nhóm này một mặt chỉ lưu giữ
một phần của nền văn minh hấp thụ qua các đạo sĩ và thương nhân Ấn
Độ (chữ Phạn và văn hóa Ấn Độ) đến đây trao đổi hàng hóa hay tạm trú,
mặt khác vẫn duy tŕ một số tập tục, văn hóa bản địa cổ truyền của
ḿnh. Qua những di tích và văn hóa c̣n lại, người ta nhận thấy tất
cả đều có sự pha trộn giữa yếu tố bản địa và Ấn Độ. Tuy vậy, với
thời gian, văn hóa Ấn Độ dần dần trở thành yếu tố độc tôn, lấn át
văn hóa bản địa ở phía Nam và Trung Hoa ở phía Bắc.
Nhưng các đạo sĩ và thương gia Ấn Độ chỉ truyền bá văn minh, văn hóa,
tổ chức xă hội, kỹ thuật hàng hải, buôn bán và canh tác nông nghiệp
của họ cho giới vương quyền và các lănh chúa địa phương mà thôi,
quần chúng dân gian không được chiếu cố tới. Sự phân biệt này có
nhiều lư do, thứ nhất là quần chúng dân gian không có tŕnh độ văn
hóa cao, thứ hai là họ không phải là thành phần có quyền quyết định,
thứ ba là sự tuân thủ các điều luật của đạo Bà La Môn, đẳng cấp này
không thể giao tiếp với đẳng cấp kia. Và qua đó, những đạo sĩ Bà La
Môn dần dần được các lănh chúa trọng vọng và giữ những vai tṛ cao
trong triều chính để giúp họ cai trị hữu hiệu và lâu bền.
Luật Manu của đạo Bà La Môn (Brahmanism) phân chia xă hội thành bốn
đẳng cấp (castes). Đứng đầu là Brahman, tức giới đạo sĩ (phần lớn là
người Ấn Độ), được cho là sinh ra từ miệng của Brahma (Phạm Thiên),
nắm quyền văn hóa tư tưởng và học thuật. Thứ hai là Ksatriya (Lư Đế
Lợi), tức đẳng cấp vua chúa, quí tộc, chiến sĩ (phần lớn là người
Chăm gốc Nam Đảo), được sinh ra từ hai cánh tay của Brahma nên nắm
quyền chính trị và quân sự. Thứ ba là Vaisya (Phệ Xá), tức giới
thương gia và phú nông (đa số là người Chăm giàu có và người Thượng
gốc Nam Đảo), được sinh ra từ hai đùi của Brahma nên có quyền làm
kinh tế và xây dựng. Thứ tư là Sudra (Thủ Đà), tức đẳng cấp thợ thủ
công, bần dân (đa số là các sắc dân miền núi và tù binh), được sinh
từ hai bàn chân của Brahma chỉ để bị sai khiến và làm nô dịch.
Tuy vậy, trong giai đoạn đầu, do chịu ảnh hưởng của nền văn hóa
Trung Hoa và Phật giáo phái Đại Thừa, không thấy có sự phân chia
đẳng cấp xă hội trong những bia kư t́m được trên lănh thổ Bắc Chiêm
Thành. Ngược lại trên lănh thổ Nam Chiêm Thành, đẳng cấp Sudra vẫn
tiếp tục tồn tại cho tới thế kỷ 19. Ngày nay đẳng cấp Brahman chỉ
c̣n thấy trong các dịp tế lễ của giáo dân đạo Bà La Môn (các thầy
Paseh, Tapah) và đạo Bani mà thôi (các thầy Char, Po Adhya, Po Bac),
nhưng đă biến dạng rất nhiều so với nguyên thủy.
Người Chăm theo đạo Bà La Môn được gọi là Chăm Jăt, tức người Chăm
chính thống. Đạo Bà La Môn trở thành tôn giáo chính trong giai đoạn
đầu, từ thế kỷ 3 (theo bia Vơ Cảnh ở Nha Trang). Tuy gọi là tôn giáo
chính nhưng chỉ giới vương tôn quí tộc mới có quyền hành lễ và dự lễ
mà thôi, quần chúng dân gian hoàn toàn bị cấm. Đạo Bà La Môn lúc ban
đầu phát triển mạnh tại miền Nam Chiêm Thành rồi phát triển ra miền
Bắc từ thế kỷ thứ 4, dưới triều vua Bhadravarman I (Fan-houta hay
Phạm Hồ Đạt), người sáng lập ra triều đại Gangaraja (sông Gange, Ấn
Độ). Đạo Bà Là Môn giữ vai tṛ độc tôn trong các triều chính cho đến
thế kỷ 10, sau đó nhường vai tṛ lại cho đạo Phật Tiểu Thừa (Thevada).
Dưới triều vua Indravarman II (thế kỷ 9), pháp danh Paramabuddhaloka,
đạo Phật và đạo Bà La Môn cùng nhau phát triển, nhiều tu viện và
chùa được xây dựng tại Đồng Dương thờ Buddha và thần Siva.
Phật giáo Tiểu Thừa tuy được du nhập cùng lúc với đạo Bà La Môn
nhưng không phát triển mạnh v́ không thừa nhận tính cực đoan của
giai cấp cầm quyền đương thời, do đó chỉ lưu hành trong giới dân
gian. Phật giáo tại Champa có hai phái : phái Arya Sammitinikaya (Tiểu
Thừa) và phái Sarva Stivadanikaya (Đại Thừa), đa số Phật tử Chăm
trong giai đoạn đầu theo phái Tiểu Thừa. Miền Nam Chiêm Thành không
có dấu vết ǵ về Phật giáo Đại Thừa ; ngược lại tại miền Bắc, do ảnh
hưởng Trung Hoa, Phật giáo Đại Thừa do các tu sĩ Trung Hoa mang vào
phát triển mạnh từ thế kỷ thứ 6 đến thứ 9, nhất là trong giới dân
gian sinh sống tại châu thổ sông Hồng và sông Mă (Cửu Chân, Nhật
Nam), sau đó th́ mất hẳn.
Ngôn ngữ của người Chăm cũng rất khó xác định. Nói người Chăm có một
ngôn ngữ đặc thù là không đúng. Thổ dân bản địa lúc ban đầu có lẽ đă
trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ cổ Mă Lai, kế là thổ ngữ Nam Đảo. Về
sau một số dân cư từ phía Nam tràn lên miền Bắc và miền núi lập
nghiệp góp phần pha trộn ngữ âm Môn Khmer vào tiếng địa phương. Rồi
những đợt di dân từ ngoài biển (Java, Sumatra), những dân tộc phương
Bắc (Văn Lang, Trung Hoa) và những nền văn minh khác (Ấn Độ, Ả Rập)
liên tiếp gia nhập vào vùng đất này, ngôn ngữ của người Chămpa đă
biến đổi, phân hóa thành nhiều hệ khác nhau (nhất là các sắc dân
miền núi), mặc dầu vậy yếu tố Nam Đảo vẫn là mạnh nhất, ảnh hưởng và
chi phối đến lối phát âm chính của người Chăm.
Tại miền Bắc, do ảnh hưởng của Trung Hoa những bậc vương tôn có thể
đă sử dụng chữ Hán trong các văn thư trao đổi với các quan lại nhà
Hán tại Giao Chỉ cho tới năm 192, lúc đó c̣n là lănh thổ thuộc nhà
Hán (quận Tượng Lâm). Nhưng đến đời con cháu Khu Liên, người sáng
lập vương quốc Lâm Ấp đầu thế kỷ thứ 3, nhiều phái bộ được cử sang
Giao Chỉ triều cống, các văn thư đều viết bằng chữ Hồ (tức chữ Phạn
cổ). Điều này chứng tỏ người Ấn Độ (tu sĩ và thương nhân) đă vào Lâm
Ấp truyền giáo và giao thương trước thế kỷ thứ 2 và đă phổ biến chữ
viết. Những địa danh và tên các vương triều từ thế kỷ thứ 3 trở đi
đều mang tên Ấn Độ, kể cả tên nước (Campapura là tên một địa danh
tại miền bắc Ấn Độ). Chữ Phạn trở thành chữ quốc ngữ của vương quốc
Champa cổ từ thế kỷ 2. Những bia kư t́m được đều được khắc bằng chữ
sanskrit, tức chữ Phạn cổ.
Lâu dần chữ Phạn cổ có nhiều thay đổi. Người Chăm pha trộn và biến
cải chữ Phạn cổ thành tiếng "Chăm mới", nhất là từ sau thế kỷ 15 khi
vương quốc miền Bắc bị tan ră, dân chúng Nam Chiêm Thành chỉ sử dụng
chữ "Chăm mới" và c̣n áp dụng cho đến ngày nay. Chữ "Chăm mới" có
nhiều trùng hợp với các loại chữ viết của các dân tộc hải đảo Đông
Nam Á, nhất là với ngôn ngữ Malaysia và Indonesia.
Đạo Hồi được người Ả Rập truyền bá vào Đông Nam Á từ thế kỷ thứ 7,
mạnh nhất là trong các quần đảo Sumatra, Java, bán đảo Mă Lai và các
hải đảo nhỏ phía đông nam Philippines. Người "Java" (cách gọi chung
những nhóm dân cư hải đảo thời đó) hấp thụ giáo lư đạo Hồi qua các
giáo sĩ và thương nhân Ả Rập trốn chạy những cuộc thánh chiến đẫm
máu đang xảy ra quanh vùng biển Địa Trung Hải và Trung Đông từ thế
kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 9. Yếu tố hấp dẫn dân cư Nam Đảo theo đạo
Hồi là tính (thiện) tuyệt đối của nó : không tôn thờ h́nh tượng và
xây dựng đền đài như đạo Bà La Môn.
Dân cư hải đảo, đa số là thành phần ngư dân, đă theo đạo rất đông v́
không muốn tham gia xây dựng đến đài tôn thờ các vị thần Ba La Môn
giáo nữa. Khi các nhóm "hải tặc Java" (cách gọi những ngư phủ không
hành nghề đánh cá mà chỉ chuyên đi cướp bóc ngoài khơi Biển Đông) đổ
bộ lên miền Trung, họ đă mang theo một số sinh hoạt của nền văn minh
và văn hóa Hồi giáo đến với các nhóm dân cư bản địa. Đó chỉ là những
hiện tượng rời rạc v́ đa số dân cướp biển không có tŕnh độ văn hóa
cao nên không thể vừa cướp bóc vừa truyền đạo.
Nhiều thuyền buôn Ả Rập từ các hải cảng Basra, Siraf và Oman đă đến
buôn bán với Chiêm Thành trong các thế kỷ 7 và 9, nhưng không được
đón tiếp nồng hậu v́ ngôn ngữ bất đồng, do đó không thể truyền đạo
cho dân chúng địa phương. Hơn nữa thương nhân Ả Rập không ở lại như
người Ấn Độ v́ sợ cướp bóc, thêm vào đó họ cũng không thích hợp với
khí hậu nhiệt đới gió mùa của miền Trung. Đạo Hồi được truyền bá vào
vương quốc Chiêm Thành qua trung gian các nhà ngoại giao và thương
nhân Java và Sumatra ngoài khơi Biển Đông. V́ lẽ đó, đạo Hồi tại
Chiêm Thành có nhiều khác biệt so với đạo Hồi chính thống.
Mốc thời gian đạo Hồi được du nhập vào Chiêm Thành là thế kỷ 10.
Dưới thời vua Indravarman III (918-959), tể tướng Po Klun Pilih
Rajadvara nhận cho một số gia đ́nh hoàng tộc Rahdar Ahmed Abu Kamil,
Naqib Amr, Ali (trốn chạy chính sách cai trị khắc nghiệt của những
tiểu vương Java) vào tị nạn. Những người này đă nhân dịp truyền bá
luôn giáo lư đạo Hồi cho các gia đ́nh hoàng gia Chiêm Thành.
Trong các thế kỷ sau mới có thêm các giáo sĩ, thương gia và giáo dân
Hồi giáo Java từ Biển Đông vào giảng dạy giáo lư, lần này cho quần
chúng. Qua tư cách và lối sống đạo của các người Hồi giáo Java, giáo
lư đạo Hồi chinh phục nhanh chóng đức tin của quần chúng Chiêm Thành,
thật ra họ cũng không muốn bị tước hết tài nguyên nhân vật lực để
xây dựng những đền đài Bà La Môn giáo nữa. Nhiều người Chăm đă được
thương nhân và giáo sĩ Java đưa sang Ả Rập học đạo. Đạo Hồi được
đông đảo người theo và trở thành tôn giáo thứ hai của vương quốc
Chiêm Thành, sau đạo Bà La Môn, từ thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ 15. Chữ
Ả Rập được du nhập vào vương quốc Chiêm Thành cùng với đạo Hồi,
nhưng không lấn át được chữ Phạn.
Vị vua theo đạo Hồi được biết đến nhiều nhất là Po Alah (Po Ovlah,
Po Âu Loah hay Po Allah), trị v́ 36 năm (1000-1036) tại Sri Bini
(Qui Nhơn). Po Alah học đạo ở La Mecque 37 năm rồi mới về nước trị
v́. Dưới triều vua Po Alah, đạo Bà La Môn và đạo Hồi phát triển rất
mạnh, nhiều đền thờ Siva và nhà thờ Hồi giáo được xây dựng tại
Amavarati (Mỹ Sơn-Quảng Nam). Đạo Hồi rất thịnh hành tại Thuận Hải (các
tỉnh Ninh Thuận, B́nh Thuận ngày nay), nhưng cũng biến cải dần theo
thời gian, theo phong tục và lối sống của người địa phương mất tính
chính thống của đạo Hồi Ả Rập. Đạo Hồi tại Thuận Hải có tên là đạo
Bani (Hồi giáo biến cải), người Chăm theo đạo Bani được gọi là Chăm
Bani để phân biệt với người Chăm theo đạo Hồi chính thống, gọi là
Chăm Islam. 3/5 người Chăm tại Thuận Hải theo đạo Bà La Môn, 2/5 c̣n
lại theo đạo Bani. Tuy vậy tại Thuận Hải cũng có ba làng Chăm Islam
(2 ở Văn Lâm và 1 ở Phước Nhơn, huyện Ninh Phước, chiếm tỷ lệ 30% so
với người theo đạo Bani).
Về sau, khi bị áp bức và chiến tranh đe dọa, một mảng lớn giáo dân
theo đạo Bà La Môn và đạo Hồi chạy sang Chân Lạp và Java sinh sống.
Khi định cư tại Chân Lạp, người Chăm bị nhóm Hồi giáo Mă Lai đồng
hóa, cộng đồng Chăm và Mă Lai tại đây được gọi chung là Khmer Islam.
Tại Chân Lạp sau một thời gian xung đột chính trị và tôn giáo với
người Khmer (theo đạo Bà La Môn và Phật giáo Tiểu Thừa), một số
người Chăm đă chạy về Châu Đốc lập nghiệp, đa số là thành phần tu sĩ,
trí thức, nông dân và thương nhân. Người Chăm tại đây học kinh Coran
viết bằng chữ Ả Rập. Được những thương nhân Ả Rập di cư truyền cho
cách thức buôn bán, người Khmer Islam và Chăm Islam rất giỏi buôn
bán.
Tại miền Trung, các thầy Char (Po Char) của người Chăm Bani thay mặt
giáo dân giữ đạo. Tín đồ Bani chỉ giữ đạo vào mùa chay (ramadan) mà
thôi, không nhất thiết phải cầu kinh 5 lần một ngày hay ăn chay
trường. Ngược lại người Chăm theo đạo Hồi tại Châu Đốc giữ đạo đúng
theo luật của Hồi giáo chính thống : tín đồ đều hướng về La Mecque 5
lần trong ngày để cầu nguyện, họ rất kiêng cử trong việc ăn uống và
rất khắt khe trong việc lập gia đ́nh.
Truyền
thuyết về các ḍng vương tôn
Theo truyền
thuyết, các ḍng vương tôn cầm quyền tại Chiêm Thành đều xuất thân
từ hai ḍng họ lớn. Mỗi ḍng họ lấy một vật tổ (totem) làm biểu
tượng. Ḍng vương tôn ở phía Nam lấy cây Cau (Kramukavansa) làm biểu
tượng, những nhà nghiên cứu gọi là chi bộ, bộ tộc hay thị tộc Cau.
Ḍng vương tôn ở phía Bắc lấy cây Dừa (Narikelavansa) làm biểu hiệu,
gọi là chi bộ, bộ tộc hay thị tộc Dừa. Chỉ những truyền nhân xuất
thân từ hai ḍng họ này mới được công nhận lên ngôi vua, tức phải
thuộc đẳng cấp Brahman và Ksatriya. Những người dân thường, cho dù
có tài giỏi hay anh dũng đến đâu cũng không được công nhận là vua
nếu không chứng minh có liên hệ huyết thống đến hai ḍng họ này, tức
phải do một phụ nữ mang ḍng máu vương tôn sinh ra.
Trong lịch sử
Chiêm Thành, nhiều người xuất thân là dân thường phải biện hộ có
thần linh yểm trợ để lên ngôi vua như Phạm Văn (nguyên là một người
chăn dê gốc Hoa), Lưu Kỳ Tông (một người Việt muốn lên làm vua nhưng
không được dân chúng tuân phục) hay nhiều vị tướng khác sau khi đă
hạ đối thủ chính trị.
Thật ra người
dân thường khó giữ được ngôi cao trong xă hội Chiêm Thành v́ không
bao giờ có cơ hội, hơn nữa những người thuộc giai cấp vương tôn, đặc
biệt là giới vương tôn nữ phái, chỉ lập gia đ́nh với những ḍng
vương tôn với nhau, do đó không có những cuộc hôn nhân không môn
đăng hộ đối và ít có những cuộc hôn nhân dị chủng, dị giáo. Phụ nữ
quí tộc Chăm chỉ chọn chồng cùng đẳng cấp, đa số cung phi của các
vua Chiêm Thành đều xuất thân từ các gia đ́nh quí tộc. Khi một vua
Champa cưới một người vợ ngoại quốc, ông ta chỉ có thể lập gia đ́nh
với con gái của những vua chúa thuộc các vương triều khác, chứ không
thể lấy một người thường dân.
Xă hội Chiêm
Thành tuy theo chế độ mẫu hệ nhưng lại phụ quyền. Trong gia đ́nh,
người đàn bà, gọi là Mẹ cả, đảm nhiệm vai tṛ chọn người kế thừa,
bàn thảo tương lai con cái, chọn chồng cho con gái, đứng ra cưới hỏi,
ǵn giữ bàn thờ tổ tiên, giữ ǵn hương hỏa. Ngoài xă hội, người đàn
ông có toàn quyền quyết định việc canh tác, giao thiệp và buôn bán,
nhưng chỉ người con trai hay đàn ông nào được sinh ra bởi một người
mẹ thuộc ḍng quí tộc mới được chấp nhận làm vua hay giữ vai tṛ cao
trong triều đ́nh.
Tài liệu cổ và
truyền thuyết Chăm cho biết truyền nhân của những ḍng họ vị vua cai
trị vương quốc Champa là hai vị nữ thần được sinh ra bởi nữ thần
Sakti Bhagavati, vợ của Siva : Visitrasaga cho các vua phía Nam và
Uroja cho các vua phía Bắc. Chỉ những người mang ḍng máu từ những
phụ nữ này mới được giữ những địa vị cao và nắm giữ vai tṛ lănh đạo,
con cháu của họ có thể là những người sinh sống tại đồng bằng hay
trên miền núi.
H́nh tượng
Linga (bộ phận sinh dục tượng trưng cho sức mạnh của phái nam, biểu
tượng của khả năng tái tạo) tượng trưng cho thần Siva (nam tính)
hiện thân qua nữ thần Uroja. H́nh tượng Yoni (cơ quan sinh sản của
phái nữ, biểu tượng của khả năng dưỡng dục) tượng trưng cho nữ thần
Bhagavati (nữ tính) hiện thân qua nữ thần Visitrasaga. Uroja c̣n
được gọi là thần Núi, Visitrasaga là thần Biển. Tượng Uroja được xây
dựng trên các triền núi ở phía Bắc, tượng nữ thần Bhagavati được tôn
thờ nhiều trên những vùng b́nh nguyên phía Nam, cạnh các bờ biển. [Vị
thần bảo vệ vương quốc Nam Chiêm Thành là nữ thần Yan Po Nagar (Bà
Mẹ Đất Nước hay Thiên Y Thánh Mẫu)]. Chính những phân chia ḍng tộc
Nam và Bắc này mới nảy sinh ra huyền thoại về các bộ tộc Cau và Dừa.
Về bộ tộc Cau,
theo truyền thuyết, vào thời xa xưa một vị vua cai trị phương Nam
một hôm thấy bên cạnh cung đ́nh có một cây cau trổ một buồng trái
thật lớn và thật đẹp. Đến ngày trổ hoa, buồng cau không nở, nhà vua
thắc mắc liền sai một gia nhân trẻ tuổi trèo lên hái xuống xem sao.
Gia nhân mang xuống dâng lên vua. Vua lấy gươm báu chẻ mo cau ra th́
thấy một em bé mặt mũi hồng hào đẹp đẽ. Nhà vua rất vui mừng, nhận
làm con nuôi và đặt tên là Radja Po Klong, tức hoàng tử Po Klong (Po
Klău). Mo cau bọc hoàng tử được dùng làm mộc đỡ của hoàng gia và mũi
nhọn của mo cau được biến thành gươm báu của nhà vua. Mộc đỡ và gươm
báu sau này trở thành biểu tượng cho uy quyền của các vị vua Chiêm
Thành phía Nam.
Hoàng tử Po
Klong không chịu bú sữa của người thường mà chỉ bú sữa của một con
ḅ tơ ngũ sắc. Đó cũng là lư do giải thích tại sao người Chăm ở phía
Nam sau này từ chối giết và ăn thịt ḅ. Hoàng tử Po Klong càng lớn
lên càng đẹp và khỏe mạnh. Nhà vua sau đó gả con gái và cho kế
nghiệp. Khi lên ngôi, Po Klong cho xây một cung thành tuyệt mỹ trải
rộng trên bảy ngọn đồi, đặt tên là Băl.
Băl sau này là
thủ đô của các tiểu vương quốc Champa theo tiếng "Chăm mới", như Băl
Cău ở Phan Rang, Băl Canar ở Phan Rí (thôn Tịnh Mỹ) của bộ tộc Cau.
Chuyện ḅ ngũ sắc là dựa theo truyền thuyết Ḅ Thần của đạo Bà La
Môn bên Ấn Độ, ư muốn nói ḅ là một vị thần, dân chúng phải tôn thờ
không được ăn thịt hay sử dụng phó sản của ḅ để tỏ ḷng tôn kính
thần linh.
Về bộ tộc Dừa,
các ḍng vương tôn phương Bắc cũng dựa theo truyền thuyết trên để
tạo sự huyền bí về ḍng dơi vương quyền của ḿnh, nhưng đổi buồng
cau thành buồng dừa và mo cau thành mo dừa. Theo lời kể lại, một vị
hoàng tử được sinh ra từ một mo dừa, làm con nuôi một vị vua, lấy
một cô công chúa và sau đó được tôn lên làm vua. Không rơ vị vua này
tên ǵ, các nhà nghiên cứu Chăm học và khảo cổ chưa t́m ra sử tích.
Thật ra, các
ḍng vương tôn phía Bắc, v́ chịu ảnh hưởng muộn màng nền văn minh Ấn
Độ, phải t́m trong kho tàng dân gian một câu chuyện huyền bí đề cao
ḍng tộc vương quyền của ḿnh để tỏ ra ngang hàng với các ḍng vương
tôn phía Nam. Tuy nhiên, do chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa Trung
Hoa lúc ban đầu, thay v́ phải thờ vật tổ (cây Cau hay Ḅ Thần) như
người phía Nam, người Chăm phía Bắc đề cao cây Dừa như một biểu
tượng huyền bí của uy quyền–như người Hoa đề cao con rồng hay con
phượng. Hơn nữa, vật tổ của người Chăm phương Bắc không mang ư nghĩa
tôn giáo mà chỉ thuần túy là một biểu tượng. Tượng mà người Chăm
miền Bắc tôn thờ là Buddha, Siva và các vị thần Ấn Độ khác. Một vị
vua làm được nhiều tốt cho dân chúng, khi chết đi được dân chúng tạc
tượng và lập đền thờ tôn kính như một vị Phật. Tên vị vua quá cố
thường được kết hợp với tên thần Isvara (tức Siva), do đó tên sau
cùng của các vị vua quá cố thường có thêm chữ "vara" (như
Bradresavara, Sambhudresavara) để thần thánh hóa ngôi vị của ḿnh,
vua là do thần sai xuống cai trị dân gian.
Qua sự phân
chia này, trong suốt ḍng lịch sử của vương quốc cổ Champa, các bia
kư ghi lại rất nhiều tranh chấp giữa hai bộ tộc về quyền lănh đạo,
không bộ tộc nào chịu nhường bộ tộc nào. Bộ tộc Dừa bị coi là bộ tộc
b́nh dân (không tinh khiết) thường bị các ḍng vương tôn bộ tộc Cau
(tự nhận là truyền nhân chính thống) khinh thường. Tuy nhiên v́
quyền lợi của đất nước, nhiều lúc hai bộ tộc này đă biết kết hợp lại
với nhau thành một để đối phó với kẻ thù chung.
T́m
hiểu cộng đồng người Chăm tại Việt Nam
Thời kỳ xác
định bản thể
Vương quốc Chiêm Thành (Champa) cổ cho đến nay vẫn c̣n là một bí ẩn
đối với người Việt Nam. Vương quốc này ở đâu, xuất hiện từ thời nào,
phát triển ra sao và tại sao biến mất ? Không sử sách Việt Nam nào
nhắc đến. Đọc lại sử xưa, những nhân vật lịch sử Chiêm Thành, với
những tên phiên âm Hán hóa, thường được nhắc tới một cách mơ hồ, đôi
khi với những lời lẽ xúc phạm, từ đó sinh ra hiểu lầm rồi hiểu sai
dẫn đến tâm lư phân biệt đối xử hay khinh thường, không thông cảm
lẫn nhau.
Đây là thiếu sót lớn trong quan hệ giữa người Việt và người Việt với
nhau. T́nh trạng này cần sớm chấm dứt v́ cộng đồng người Chăm ngày
nay là thành tố bất khả phân của dân tộc Việt Nam. Quá khứ của người
Chăm cũng là quá khứ chung của người Việt Nam. T́m hiểu lịch sử
vương quốc Chiêm Thành xưa, chính v́ thế, không những là một bắt
buộc lịch sử mà c̣n là một biểu lộ t́nh cảm để hàn gắn những tai họa
mà cộng đồng người Việt Nam nói chung đă gây ra cho những dân tộc
anh em trước khi cùng nhau bắt tay xây dựng lại một đất nước chung.
Quan niệm về đất đai, lănh thổ và tổ chức chính trị
Trước khi đi sâu vào phần t́m hiểu lịch sử vương quốc Chiêm Thành
xưa, tưởng cũng nên duyệt lại một số quan niệm về đất đai và lănh
thổ của người Kinh và người Chăm. Nắm vững yếu tố này, chúng ta sẽ
dễ dàng theo dơi những chuyển biến lịch sử tiếp theo và kết quả tất
yếu của nó. Khuyết điểm của những nhà viết sử hay nghiên cứu dân tộc
học là thường dựa trên những quan điểm văn hóa và t́nh cảm của ḿnh
để phê phán các dân tộc khác, hiểu lầm và ngộ nhận là không tránh
khỏi.
Đất đai và lănh thổ tuy là những giá trị cụ thể nhưng quan điểm của
người Kinh và người Chăm rất khác nhau. Đối với người Kinh, đất đai
và lănh thổ vừa là một giá trị vật chất vừa là một biểu tượng t́nh
cảm, trong khi đối với người Chăm đó là một giá trị tâm linh và là
một biểu tượng thần quyền.
Qua những đợt di dân liên tục từ hơn một ngàn năm qua, lănh thổ của
người Kinh không ngừng mở rộng theo thời gian và cộng đồng người
Kinh ngày nay đă có mặt tại khắp nơi trên thế giới. Người Kinh tuy
rất quí đất đai nhưng đó chỉ là một tài sản cần phải bảo vệ, một kỷ
niệm cần phải giữ ǵn. Rất ít ai chịu giam ḿnh nơi chôn nhau cắt
rốn nếu điều kiện sinh sống nơi đó khó khăn. Nơi nào có thể an cư
lạc nghiệp được, nơi đó trở thành quê hương, nơi nào sinh sống khó
khăn th́ bỏ đi t́m nơi khác. Và khi ra đi, người Kinh mang theo cả
bàn thờ tổ tiên, gia phả và tín ngưỡng đi theo, do đó không có vấn
đề mất gốc hay mất cội nguồn.
Suy cho cùng, người Kinh vừa là một dân tộc du cư vừa là một dân tộc
phù sa, bởi v́, một mặt, lịch sử dân tộc Kinh là một lịch sử di dân
thường trực và cuộc di dân này đến nay chưa chấm dứt, mặt khác,
người Kinh chỉ gắn bó với những vùng đất thấp, đất đồng bằng cạnh
những ḍng sông hay trục lộ giao thông, ít ai chịu gắn bó đời ḿnh
với rừng núi hay biển cả bao la.
Trên phạm vi lớn hơn là lănh thổ. Lănh thổ bao gồm cả đất đai, bầu
trời và vùng nước, có lằn ranh nhất định và thuộc chủ quyền một quốc
gia. Đối với người Kinh, lănh thổ là một phạm trù ảo, không cụ thể,
cha chung không ai tiếc. Lănh thổ rộng hẹp ra sao là vấn đề trách
nhiệm của những người lănh đạo quốc gia, không ảnh hưởng ǵ đến đời
sống thường ngày của người dân.
Người Chăm th́ ngược lại, đất đai là một vật thể thiêng liêng không
thể sang nhượng và chối bỏ. Từ ngàn xưa cha ông đă ở đây th́ con
cháu đời sau phải ở đó, không ai tự quyền rời bỏ quê cha đất tổ định
cư nơi khác. Rời bỏ quê cha đất tổ là từ bỏ ḍng tộc, từ bỏ thần
linh. Chính v́ thế, trong suốt ḍng lịch sử đương đầu với người Kinh,
cộng đồng người Chăm chấp nhận mọi hy sinh và gian khổ để giữ đất và
bám đất, cho dù quê hương không c̣n hay bị tước mất. Tất cả những lễ
lạc trong triều chính và ngoài dân gian đều nhằm vinh danh các vị
thần cai quản đất đai, v́ đất là nguồn sống và cũng là nơi ngự trị
của các vị thần bảo vệ đất, che chở gia đ́nh và đồng tộc. Nếu v́ một
lư do nào đó ngoài ư muốn một người Chăm phải rời bỏ quê hương đi
nơi khác lập nghiệp, sinh hoạt tâm linh của người đó luôn gắn liền
với nơi sinh quán cũ, v́ không ai được quyền mang bàn thờ tổ tiên và
thần linh đi theo, con người lệ thuộc thần linh chứ không ngược lại.
Hơn nữa nếu phải ly hương, người đó cũng không thể đi ra ngoài lănh
thổ đă được thần linh che chỡ, nghĩa là chỉ giới hạn trong vùng đất
của đồng tộc mà thôi. Đó là lư do giải thích tại sao tại người Chăm
không di cư ra khỏi địa bàn cư trú của họ và tại nhiều nơi, nhất là
ở B́nh Thuận, người Chăm định cư tại một làng cách xa nơi sinh quán
cũ cả trăm cây số nhưng vẫn muốn lệ thuộc về hành chánh và nghi lễ
tại làng cũ. Đạo Hồi khi du nhập vào đây cũng phải thích nghi với
tâm lư tôn thờ thần linh của người Chăm để được chấp nhận và đă biến
cải thành đạo Bani. Tất cả chỉ v́ người phụ trách lễ nghi và sổ bạ
hành chánh địa phương là các thầy Paseh, Tapah (nếu là giáo dân đạo
Bà La Môn) và các thầy Char, Po Adhya, Po Bac (nếu là giáo dân đạo
Bani). Đây là một khó khăn về quản trị hành chánh mà các chính quyền
người Kinh không hiểu nổi và muốn xóa bỏ, nhiều tranh chấp đáng tiếc
đă xảy ra.
Nhiều người sẽ hỏi dân số vương quốc Chiêm Thành xưa bây giờ ở đâu ?
Không lẽ đă bị tiêu diệt hết sao ? Con số 100.000 người Chăm tại
B́nh Thuận và Châu Đốc có phản ánh đúng sự thật không ?
Câu trả lời là không và dân chúng gốc Chăm vẫn c̣n nguyên vẹn. Người
Chăm đồng bằng không đi đâu cả, họ đă ở lại trên lănh thổ cũ tại
miền Trung và với thời gian đă trở thành công dân Việt Nam một cách
trọn vẹn. Có thể nói không một người Việt Nam nào sinh sống từ lâu
đời tại miền Trung nào mà không mang ít nhiều ḍng máu Champa trong
người. Điều này cũng rất dễ khám phá, ít nhất là về h́nh dáng : da
ngăm đen, vai ngang, mặt vuông, tóc dợn sóng, ṿm mắt sâu, mắt bầu
dục hai mí, mũi cao, môi dầy, miệng kín. Cũng không phải vô t́nh mà
cách phát âm của người miền Trung khác hẳn phần c̣n lại của đất nước,
với nhiều âm sắc thấp của người Champa. Đó là chưa kể những danh từ
có nguồn gốc Champa. Cũng không phải t́nh cờ mà các điệu múa hát của
người Chăm trở thành những điệu múa hát trong cung đ́nh và ngoài dân
gian thời Nguyễn. Nêu ra một vài trường hợp cụ thể trên chỉ để chứng
minh một điều : dân cư vương quốc Champa cũ đă hội nhập hoàn toàn
vào xă hội Việt Nam. Nhắc lại quá khứ của người Chăm cũng là nhắc
lại quá khứ của cộng đồng người Việt tại miền Trung nói chung.
Về chính trị, vương quốc Champa được tổ chức theo định chế liên
bang. Trước khi bị xóa tên, vương quốc Chiêm Thành là một kết hợp
của nhiều tiểu vương quốc, từ đèo Ngang (Quảng B́nh) đến mũi Kê Gà (B́nh
Thuận). Mỗi tiểu vương cai trị một lănh thổ riêng, với một dân số
nhất định, sinh hoạt độc lập với các tiểu vương khác và không can
thiệp vào nội bộ của nhau. Một cách không chính xác, vương quốc
Chiêm Thành cũ (Campapura) có ít nhất năm tiểu vương quốc :
Indrapura (B́nh Trị Thiên), Amaravati (Quảng Nam), Vijaya (Nghĩa
B́nh), Kauthara (Phú Khánh) và Panduranga (B́nh Thuận). Có thể thêm
tiểu vương quốc Aryaru (Phú Yên) là sáu, nhưng sự hiện diện của tiểu
vương quốc này trong lịch sử Chiêm Thành không rơ ràng.
Trong mỗi tiểu vương quốc cũng có sự phân chia quyền hành giữa các
lănh chúa địa phương. Chính sách địa phương tản quyền này đă được
triều đ́nh Việt Nam công nhận năm 1471, khi thành Đồ Bàn, kinh đô
vương quốc Chiêm Thành, vừa bị đánh chiếm : đất Quảng Nam được chia
thành nhiều lănh địa khác nhau và giao cho những lănh chúa Champa
địa phương cai quản. Vương quyền trung ương Chiêm Thành chỉ giữ vai
tṛ thần quyền, ǵn giữ sự thống nhất và sự vẹn toàn lănh thổ mà
thôi, những sinh hoạt khác đều do các tiểu vương quốc địa phương đảm
nhiệm. Khi có nhu cầu hay gặp nguy biến, triều đ́nh trung ương nhân
danh thần linh bảo vệ vương quốc kêu gọi các tiểu vương địa phương
đóng góp nhân tài, vật lực xây dựng đền đài, chuẩn bị chinh chiến
hay triều cống các thế lực lớn mạnh hơn. Vị thần bảo vệ vương quốc
Chiêm Thành được biết đến nhiều nhất là nữ thần Yan Po Nagar (Bà Mẹ
Đất Nước hay Thiên Y Thánh Mẫu), đền thờ đặt tại Xóm Bóng, Nha Trang.
Về biên giới, lằn ranh phân chia giữa các tiểu vương quốc và vương
quốc Chiêm Thành cũ với các thế lực chính trị đương thời là một biên
giới thần quyền, không ai được quyền vượt qua và cũng không ai có
quyền xâm phạm. Vương triều Chiêm Thành không có tham vọng đất đai,
họ chỉ tập trung phát triển và bảo vệ những đất đai thuộc quyền sở
hữu mà thôi. Những chuyển biến lịch sử sau đây chứng minh điều đó.
Tượng Lâm : địa bàn xác định bản thể
Rất khó xác định mốc thời gian để biết vương quốc cổ Chiêm Thành đă
được h́nh thành từ hồi nào. Phần lớn những nhà khảo cổ và sử học đều
đồng ư là vương quốc này xuất hiện vào đầu công nguyên, tức là thời
gian người Chăm bắt đầu có chữ viết, chữ Phạn cổ. Nói như vậy không
có nghĩa là trước đó người Chăm không có lănh thổ, không có tổ chức
chính quyền và không có lịch sử riêng. Bản thể Chiêm Thành có trước
danh xưng. Tổ chức chính quyền của họ có thể đă thành h́nh cùng lúc
với sự xuất hiện của các Lạc hầu, Lạc tướng trên địa bàn lưu vực
sông Hồng và sông Mă của nước Văn Lang, thời Hùng Vương.
Những tài liệu có dấu vết thời gian rơ ràng (sử liệu cổ Trung Hoa và
các bia kư) ghi nhận vương quốc cổ Chiêm Thành chính thức xuất hiện
của vào khoảng thế kỷ thứ 2, năm 192 khi quốc gia Lâm Ấp ra đời.
Thật ra vương quốc này trước đó có rất nhiều tên : Hồ Tôn Tinh,
Tượng Lâm. Sau này được đồng hóa với các tên Lâm Ấp, Hoàn Vương Quốc,
Chiêm Thành (Campapura), Phan Rang (Panduranga), cuối cùng là trấn
Thuận Thành (Pradara). Những tên gốc Phạn vừa kể đều do người Trung
Hoa hay người Việt đặt ra, dựa theo cách phát âm của người địa
phương mà gọi.
Về nước Hồ Tôn Tinh, sách Lĩnh Nam Chích Quái viết: "Xưa kia bên
ngoài lănh thổ Âu Lạc có một vương quốc mang tên Diệu Nghiêm [có
thể là Phù Nam]. Vị vua của vương quốc này có tên là Tràng Minh,
hiệu Quỷ Vương [Dasanana] có mười đầu. Phía bắc vương quốc
này có một vương quốc khác tên Hồ Tôn Tinh [quốc gia của người
khỉ] do vua Dasaratha cai trị. Hoàng tử Chung Tư [Rama], người kế
vị vua Dasaratha, có một người vợ là công chúa Bạch Tinh [Sita].
Công chúa Bạch Tinh có một sắc đẹp tuyệt trần không giống người phàm.
Quỷ Vương, mê hồn trước sắc đẹp của Bạch Tinh, mang binh sang đánh
nước Hồ Tôn Tinh cướp công chúa về nước. Hoàng tử Chung Tư, quá căm
giận, dẫn đầu một đoàn hầu binh xẻ núi băng biển tiến vào vương quốc
Diệu Nghiêm, giết Quỷ Vương, đưa công chúa Bạch Tinh về".
Theo nhận xét của học giả Huber (La Légende du Ramayana en Annam,
Etudes indochinoises), Hồ Tôn Tinh có thể là vương quốc Champa cổ.
Những quốc gia chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ thời đó đều có sự
tích giống nhau, tại Indonésia trong các đền thờ Bà La Môn lớn đều
khắc chuyện thần thoại này trên tường đá. Chuyện Quỷ Vương có mười
đầu chỉ là cách mô tả thô thiển ngai vàng của các vị vua trong thần
thoại Ấn Độ và Phù Nam thường có h́nh con rắn hổ mang [naja] mười
đầu.
Về đất Tượng Lâm, các sử liệu Trung Hoa xác quyết đó là phần đất ở
vùng cực nam quận Nhật Nam xưa kia, trực thuộc quyền quản trị hành
chánh của Giao Châu thời Bắc thuộc, ngày nay là các tỉnh Quảng Nam,
Quảng Ngăi, B́nh Định (có tài liệu ghi đến cửa Đại Lănh, Phú Yên).
Những nhà khảo cổ phương Tây cho rằng Tượng Lâm có thể là phần đất
chạy dọc theo bờ biển, từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân, nằm trong lănh
thổ các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng B́nh, Quảng Trị và Thừa Thiên,
gọi chung là Thanh Nghệ Tĩnh và B́nh Trị Thiên. Một số học giả người
Chăm xác nhận lănh thổ Tượng Lâm bao gồm : Indrapura (B́nh Trị Thiên),
Amavarati (Quảng Nam) và Vijaya (Nghĩa B́nh), sau này gọi chung là
Bắc Chiêm Thành.
Như vậy, về văn hóa, Tượng Lâm là nơi tập cư của nhiều nhóm người
xuất thân từ nhiều nền văn hóa khác nhau, một sự pha trộn văn hóa tự
nhiên giữa các giống người vào thời hoang sơ. Đầu tiên là sự pha
trộn văn hóa giữa các nhóm Indonésien di cư (văn hóa Indus) và cổ Mă
Lai (văn hóa Sa Huỳnh), kế là với nhóm Việt tộc sơ sử (văn hóa Đông
Sơn), sau có thêm người Hán (văn hóa Khổng Mạnh) từ phương bắc di cư
xuống và người Môn Khmer (văn hóa Óc Eo-Phù Nam) từ tây-nam đi lên.
Cuối cùng là những nhóm Malayo-Polynésien (văn hóa Mă Lai - Đa Đảo
hay Nam Đảo) từ biển cả tràn vào hồi đầu công nguyên. Nhóm sau cùng,
hùng mạnh hơn, đă thu phục hay đồng hóa những nhóm có trước, để chỉ
c̣n yếu tố Nam Đảo độc tôn, và thiết đặt quyền cai trị lâu dài (thế
kỷ 1 trước và sau công nguyên). Một số cư dân bản địa, không chấp
nhận hay không chịu nổi sự cai trị của nhóm di dân mới tới, đă di
tản lên vùng rừng núi sinh sống và trở thành những nhóm sắc tộc
thiểu số ngày nay, nhưng không v́ vậy mà quan hệ giữa đồng bằng và
miền núi bị cắt đứt, dân cư hai vùng đă nương tựa nhau để tồn tại
cho đến ngày nay.
Sang thế kỷ thứ 2, một số thương nhân Ấn Độ đến vùng đất này buôn
bán và luôn tiện phổ biến nền văn minh và văn hóa mà họ thừa hưởng
cho thành phần cầm quyền địa phương và một số cơ chế tổ chức quốc
gia đă được thành h́nh từ miền Nam lên miền Bắc. Một tấm bia đá t́m
được ở làng Vơ Cảnh (Nha Trang) cho biết vị vương cai trị vùng đất
phía nam vào thế kỷ thứ 2 tên là Sri Mara, không có phần kế tiếp.
Nhiều học giả cho rằng vị vương đó là Khu Liên, người thành lập
vương quốc Lâm Ấp ở phía bắc, là sai. Sri Mara chỉ là một tiểu vương
Champa ở phía nam, trong khi Khu Liên là một tiểu vương khác ở phía
bắc.
Do nằm cạnh lănh thổ với Trung Quốc, sự h́nh thành vương quốc Champa
phía bắc được biết đến nhiều nhất bởi các nguồn sử liệu Trung Hoa để
lại và cũng nhờ đó người ta biết thêm quan hệ giữa người Việt (các
Lạc hầu và Lạc tướng) và người Chăm trong thời Bắc thuộc đă rất gắn
bó.
Cũng nên biết đất Giao Châu, tức nước Văn Lang cũ là thuộc địa của
nhà Đông Hán (-202 đến + 220) từ năm 111 trước công nguyên. Sau khi
diệt xong nhà Triệu (Triệu Đà), Hán Vũ Đế chia đất Âu Lạc (Văn Lang
cũ) ra làm ba quận : Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Theo Tiền Hán
thư, quận Giao Chỉ có 92.440 hộ gồm 746.237 dân, quận Cửu Chân có
35.743 hộ gồm 166.013 dân và quận Nhật Nam có 15.460 hộ gồm 69.485
dân. Quận Nhật Nam có năm huyện : Tây Quyển (Hà Tĩnh), Tỷ Cảnh hay
Ty Ảnh (Quảng B́nh), Châu Ngô (Quảng Trị), Lô Dung (Thừa Thiên) và
Tượng Lâm (từ Quảng Nam trở xuống).
Không chấp nhận sự cai trị của người Hán, một số dân cư (các nhóm
Lạc hầu, Lạc tướng) từ các quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam hoặc
trốn lên các vùng rừng núi phía tây ẩn náu, hoặc chạy xuống các vùng
cực nam (huyện Tượng Lâm) hợp lực với những nhóm dân cư bản địa
chống lại quân Hán. Huyện Tượng Lâm trở thành địa bàn tranh chấp
quyền lực giữa quan quân nhà Hán với các nhóm cư dân bản địa trong
suốt thời kỳ Bắc thuộc. Trương Tôn, thái thú quận Cửu Chân (25-56
trước công nguyên), mô tả dân chúng huyện Tượng Lâm là "những giống
người c̣n man di, chỉ biết bắt cá và săn thú rừng, không biết cày
cấy. Bọn người này rất bất trị, thường hay nổi lên chống lại thiên
triều, đốt nhà, giết người, cướp của, rồi rút vào rừng sâu mỗi khi
quân tiếp viện đến".
Tại Giao Chỉ, năm 42, một Lạc tướng tên Thi Sách nổi lên chống lại
sự cai trị hà khắc của quân Hán nhưng thất bại, ông bị quân đô hộ
giết chết. Vợ là Trưng Trắc, cùng em là Trưng Nhị, tiếp nối cuộc
kháng chiến chống lại nhà Hán. Hai Bà chiêu mộ nghĩa binh gốc Nam
Đảo phía nam và Lạc Việt phía bắc, đánh đuổi quân đô hộ ra khỏi xứ
sở. Binh lực của Hai Bà chiếm 65 thành tŕ trong các quận Nhật Nam,
Cửu Chân và Giao Chỉ. Hán vương (Quang Vũ Đế) phải cử Phục Ba tướng
quân Mă Viện mang đại quân sang đánh dẹp và chiếm lại những phần đất
đă mất. Để xác nhận uy quyền của nhà Hán, Mă Viện cho dựng cột đồng
khắc sáu chữ : "Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt" [Trụ đồng ngă
xuống, Giao Chỉ không c̣n]. Thông điệp này thật ra là một lời
nhắn nhũ cho các quan quân địa phương : muốn giữ yên đất Giao Chỉ
phải ngăn chặn phiến quân từ phía nam tràn lên, nếu không đất Giao
Chỉ sẽ mất. Quan quân địa phương ở đây phải hiểu là quan quân nhà
Hán và quan quân Lạc Việt hợp tác với nhà Hán cai trị đất Giao Chỉ (gọi
chung là người Kinh, tức người định cư trên đồng bằng).
Lệnh của Phục Ba tướng quân Mă Viện có lẽ đă được đông đảo dân chúng
địa phương nghe theo nên, theo truyền thuyết, khi đi ngang trụ đồng
mỗi người phải ném một cục đá vào chân trụ đồng để nó luôn được đứng
vững. Sự kiện này giải thích sự qua lại ở khu vực biên giới phía nam
quận Giao Chỉ của các thương nhân phía bắc rất là tấp nập. Lâu dần
trụ đồng bị lấp, ngày nay không c̣n dấu vết do đó không biết ở đâu.
Cũng có thể Mă Viện, sau khi diệt hai Bà Trưng, đă thi hành một
chính sách cai trị mềm dẻo hơn để lấy ḷng dân chúng địa phương, v́
không có sử sách nào nhắc đến những cuộc bạo động của người phương
Nam chống lại thiên triều trong suốt hơn 50 năm sau đó.
Trụ đồng này là mốc ranh giới đầu tiên giữa nhà Hán và dân cư gốc
Nam Đảo. Sự kiện này chứng minh các nhóm dân cư gốc Kinh theo nhà
Hán sinh sống trên phần đất phía nam quận Nhật Nam rất sợ những cuộc
tiến công của người Nam Đảo phía dưới. Về địa điểm của trụ đồng, sử
cổ Trung Hoa (Hậu Hán Thư và Thủy Kinh chú) ghi chép rằng nó nằm ở
phần lănh thổ cực nam của nhà Hán (quận Nhật Nam) ở huyện Cửu Phong
(c̣n gọi là Cự Phong, tỉnh Quảng Trị ngày nay). Những nguồn sử khác
(Tấn thư, nam Tề thư và Lương thư) cũng xác nhận trụ đồng được dựng
lên ở phía nam huyện Tượng Lâm (phía bắc Thừa Thiên). Có sách (Tân
Đường thư) ghi trụ đồng được dựng lên ở phía nam Quảng Châu.
Dấu ngoặc về hai Bà Trưng
Nguồn gốc của hai Bà Trưng cũng cần được nghiên cứu lại, v́ trong
thời kỳ này đất Giao Chỉ chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa. Sau gần
hai thế kỷ bị đô hộ (từ –111 đến +42) chế độ mẫu hệ của người Lạc
Việt bị chế độ phụ hệ do người Hán mang tới lấn át, mất dần ảnh
hưởng rồi biến mất trong xă hội thượng lưu và giới quí tộc. Người
phụ nữ bản địa tuy mất đi vai tṛ lănh đạo xă hội, nhường chỗ cho
phái nam, nhưng uy quyền của họ vẫn được tôn trọng trong phạm vị gia
tộc và gia đ́nh.
Trong thời Bắc thuộc, nhà Đông Hán muốn xóa bỏ nền văn hóa Đông Sơn
của các nhóm Lạc Việt để chỉ c̣n văn hóa Trung Hoa, các quan cai trị
đă thay thế chế độ mẫu hệ bằng chế độ phụ hệ, cải đổi lối ăn mặc và
canh tác nông nghiệp. Chế độ mẫu hệ của các ḍng Lạc hầu, Lạc tướng
bị xóa bỏ dần theo từng chính sách cai trị của các quan thái thú từ
Bắc triều gởi xuống. Có lẽ phần lớn các nhóm Lạc Việt sinh sống trên
lưu vực sông Hồng chấp nhận sự cai trị của người Hán, chỉ một số ít
c̣n lại từ chối sự hội nhập này đă rút lên miền núi sinh sống và trở
thành những nhóm người Mường ngày nay (gia đ́nh hai Bà Trưng có lẽ ở
trong nhóm này), hay chạy xuống phía nam kết hợp với các nhóm Nam
Đảo, vẫn c̣n mang nặng yếu tố mẫu hệ.
Sử sách Trung Hoa nói rằng hai Bà Trưng, thuộc ḍng "man di", là chị
em sinh đôi, quê tại xă Cổ Lai, huyện Châu Diên, quận Phong Châu (làng
Hạ Lôi, huyện Yên Lăng, tỉnh Phúc Yên ngày nay). Trưng Trắc lấy
chồng là Thi Sách, người huyện Châu Diên (Vĩnh Yên) và định cư tại
quê chồng. Sử sách Việt Nam cho rằng hai Bà thuộc ḍng Lạc hầu, Lạc
tướng (văn hóa Đông Sơn), quê ở huyện Mê Linh (ngoại thành Hà Nội),
từ Ba V́ đến Tam Đảo, đất bản bộ cũ của các vua Hùng, sinh sống bằng
nghề nuôi tằm, do đó mới có tên Trứng Chắc (kén dầy) và Trứng Nhị (kén
mỏng), sau đó đọc trại thành Trưng Trắc, Trưng Nhị.
Thi Sách là một quan lại bản địa thuộc ḍng Lạc tướng, hợp tác với
quan quân nhà Hán cai trị Châu Diên. Sau khi cưới Trưng Trắc, có thể
đă bị ảnh hưởng bởi ư chí độc lập của gia tộc bên vợ, đă chống lại
sự cai trị của quan quân nhà Hán. Trong giai đoạn này, có lẽ yếu tố
mẫu hệ c̣n mạnh nên Thi Sách đă không được sự hưởng ứng của dân
chúng địa phương nên đă thất bại. Khi Thi Sách bị sát hại, Trưng
Trắc đă cùng với em là Trưng Nhị nổi lên chống lại quân Hán th́
không những đă được dân chúng Giao Chỉ ủng hộ mà cả dân chúng phía
nam (Cửu Chân, Nhật Nam, đặc biệt là huyện Tượng Lâm) hưởng ứng và
tôn lên làm lănh tụ. Yếu tố mẫu hệ nổi bật trong đạo quân kháng
chiến, trong năm tộc lớn thời đó hai Bà đă kén chọn được 62 vị tướng,
trong đó hơn phân nửa (32 người) là phụ nữ như Thánh Thiên công chúa,
Man Thiện, Diệu Tiên, bà Lê Chân, Bát Nàn, Hoàng Thiều Hoa, Đào Kỳ,
Xuân Nương, Liễu Giáp, Việt Huy, Ả Di, Ả Lă, Ả Tắc, Nàng Đê, v.v...
và 21 t́ tướng, trong đó gần phân nửa là phụ nữ.
Cũng nên biết chữ "ả, nương, nàng, đào, liễu" là những từ Hán để chỉ
người phái nữ. Yếu tố Phật giáo cũng nổi bật trong cách đặt tên
người : Man Thiện, Diệu Tiên, Bát Nàn là những pháp danh Phật giáo.
Yếu tố vương quyền cũng bắt đầu xuất hiện với những tước vị như
người Hán : công chúa Thánh Thiên được phong binh hàm B́nh Tây đại
nguyên soái, bà Lê Chân giữ chức Tiên Phong nữ tướng quân... Nhưng
sự kiện nổi bật nhất là đạo binh của hai Bà Trưng đă biết dùng voi
xung trận, một loại quân dụng hoàn toàn xa lạ với người Hán. Đây là
bằng chứng cho thấy sự hợp tác giữa các nhóm dân cư sông Hồng và
phía bắc miền Trung rất là mật thiết v́ thuần phục voi là nghề của
những người miền núi tây-nam Bắc phần.
Những cuộc nổi dậy của người Chăm ở Tượng Lâm
Sau biến cố hai bà Trưng, có lẽ chính sách cai trị của quan quân
Đông Hán đă cởi mở hơn nên đất Giao Chỉ trở nên yên b́nh trong hơn
năm thế kỷ. Ngược lại, t́nh h́nh chính trị phía nam, huyện Tượng Lâm,
luôn giao động.
Mùa hè năm 100, hơn 2.000 dân Tượng Lâm nổi lên phá đồn, đốt thành,
giết một số quan quân cai trị. Chính quyền đô hộ phải huy động quân
của các quận huyện khác đến dẹp, giết được chủ tướng, cuộc nổi loạn
mới tạm yên. Từ đó chính quyền nhà Hán không dám ức hiếp một cách
thô bạo dân cư tại đây nhưng đặt họ dưới quyền cai trị trực tiếp, do
một binh trưởng sứ cầm đầu, pḥng hờ những cuộc nổi loạn sau này.
Để lấy ḷng dân cư địa phương, quan quân nhà Hán tổ chức phát chẩn
cho dân nghèo, miễn thuế hai năm...
Mục đích của chính sách cai trị trực tiếp này là thu thuế và nhận
phẩm vật triều cống (vàng, bạc, sừng tê giác, ngà voi, móng chim ưng,
hương liệu, vải lụa...) càng nhiều càng tốt. Thuế và phẩm vật triều
cống do những lănh chúa địa phương (thuần phục nhà Hán) thay mặt
thiên triều quyên góp trong dân chúng. Như vậy nhà Hán vừa có thu
nhập vừa không hao tốn ngân quỹ, lại duy tŕ được ảnh hưởng trên
vùng đất đó, bù lại lănh chúa địa phương được thiên triều sắc phong
và được bảo vệ khi bị tấn công.
Theo sử liệu cổ của Trung Hoa (Hậu Hán thư, Lưu Long truyện, Mă Viện
truyện) ghi lại th́ người huyện Tượng Lâm luôn chống đối lại chính
sách cai trị của nhà Hán và thường tranh chấp lẫn nhau về quyền cai
trị tại vùng đất này. Tượng Lâm ở quá xa chính quốc nên sự cai trị
trực tiếp của những quan đô hộ và binh lực thiên triều làm hao tốn
công quỹ mà lợi ích chính trị và kinh tế chưa chắc đă cao.
Năm 136, khoảng 1.000 dân Tượng Lâm nổi lên chống lại sự cai trị của
nhà Hán, họ đánh huyện Tượng Lâm, đốt thành, giết trưởng lại (huyện
trưởng). Năm sau thứù sử Giao Chỉ là Phàn Diễn phải điều hơn 10.000
binh sĩ từ hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân vào đàn áp nhưng thất bại.
Thay v́ đi dẹp loạn, đoàn quân này lại phối hợp với dân Tượng Lâm
chống lại và chiếm đóng một số thành quách trong quận, quan quân
Đông Hán rút lui khỏi huyện Tượng Lâm.
Năm 138, Giả Xương, một quan thị ngự sử nhà Hán đi sứ phía nam, đă
cùng với các quan thái thú trong quận Nhật Nam gom quân đi dẹp những
cuộc nổi loạn của dân Tượng Lâm. Nhưng sau gần một năm cố gắng, tất
cả đều thất bại, không những thế họ c̣n bị dân quân địa phương bao
vây hơn cả năm trời. Từ đó nhà Hán mất tin tưởng ở đám quan quân địa
phương và chỉ tin dùng quan quân từ Trung Hoa đưa xuống. Năm sau Hán
Thuận Đế sai tướng Cổ Xương huy động 40.000 quân ở các châu Kinh,
Dương, Duyên, Dự (Trung Hoa) xuống đàn áp cuộc nổi dậy. Cổ Xương bị
quân nổi loạn đánh bại, Hán vương sai một tướng khác tên Lư Cố mang
viện binh tiếp trợ nhưng Lư Cố viện bảy lư do để hoăn binh. Cuộc
tiến quân bị khựng lại và t́nh h́nh tạm yên trở lại.
Những kế sách của Lư Cố là ly gián nội bộ những người nổi loạn bằng
cách mua chuộc những lănh chúa địa phương nhằm làm suy yếu tiềm lực
của dân quân Tượng Lâm ; tránh can thiệp bằng quân sự vào những
tranh chấp cục bộ của người địa phương; chỉ để lại một quan lại
người địa phương thay mặt thiên triều cai trị; vấn đề lănh đạo địa
phương để cho người địa phương chọn lấy, người thắng cuộc được thiên
triều tấn phong; quan cai trị địa phương phải là một lănh chúa thần
phục thiên triều; tước Vương Hầu (dành cho người nhà Hán) và Liệt
Thổ (dành cho người địa phương).
Để thực hiện mưu kế của Lư Cố, Hán vương phong Trương Kiều làm thứ
sử Giao Chỉ và Chúc Lương làm thái thú Cửu Chân ; cả hai có nhiệm vụ
thu thuế và nhận phẩm vật từ những quan lại được nhà Hán tấn phong.
Trương Kiều đă thu phục được hàng chục ngàn thường dân Nhật Nam và
Tượng Lâm qui thuận Hán triều.
Năm 144, dân chúng quận Nhật Nam và huyện Tượng Lâm lại nổi lên
chống lại ách cai trị của nhà Hán, nhưng bị thứ sử Hạ Phương đánh
bại. Năm 157, một người tên Chu Đạt cùng với dân chúng Cửu Chân, nổi
lên giết huyện lệnh ở Cư Phong và thái thú Nghê Thức chiếm quyền
lănh đạo. Sự kết hợp tự nhiên giữa dân chúng hai quận Cửu Chân và
Nhật Nam gây nhiều bối rối cho các quan quân cai trị. Dưới sự chỉ
huy của đô úy quận Cửu Chân là Ngụy Lăng, quân Hán phản công quyết
liệt, giết hơn 2.000 dân Cửu Chân, phe nổi loạn phải chạy xuống phía
nam chiếm quận Nhật Nam và chống trả lại. Trong ba năm liền, từ 157
dến 160, lực lượng nghĩa quân huyện Tượng Lâm, khoảng 20.000 người,
tiến lên đánh quân Hán và chiếm nhiều huyện khác của Nhật Nam. Vài
năm sau, năm 178, Lương Long cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại quân
Hán, chiếm được nhiều vùng đất từ Giao Chỉ đến Hợp Phố và từ Cửu
Chân đến Nhật Nam ; năm 181 Hán vương cử Lă Đại mang đại quân sang
đánh dẹp t́nh h́nh mới tạm yên.
Đến đời Hán Sơ B́nh (190-193), nhân nội t́nh Trung Hoa loạn lạc, dân
chúng Tượng Lâm, phối hợp với dân cư hai quận Cửu Chân và Nhật Nam,
nổi lên đánh đuổi quân Hán và đạt thắng lợi sau cùng. Năm 192, tiểu
vương quốc Champa đầu tiên phía bắc chính thức ra đời, dưới tên Lâm
Ấp. Tiểu vương quốc này là đầu tàu đấu tranh giành độc lập của người
Kinh và sự thống nhất của Chiêm Thành.
T́m
hiểu cộng đồng người Chăm tại Việt Nam
Thời kỳ mở
nước và dựng nước
Từ sau nửa thế kỷ thứ hai sau công nguyên, phần lănh thổ cực nam
Giao Chỉ trở nên khó trị, dân cư bản địa liên tục nổi lên chống lại
chính sách cai trị hà khắc của chính quyền đô hộ nhà Hán. Huyện
Tượng Lâm trở thành nơi tranh chấp thường trực giữa quan quân đô hộ
và nhân dân địa phương.
Năm 190, người Tượng Lâm nổi lên giết thứ sử Chu Phù và chiếm huyện
thành. Vài năm sau, năm 192, dân cư Tượng Lâm lại nổi lên giết huyện
lệnh (huyện trưởng) và tôn Khu Liên, con một quan công tào (xă
trưởng) địa phương, lên làm vua. Khu Liên tự tiện xén một phần lănh
thổ cực nam của quận Nhật Nam - huyện Tượng Lâm – thành lập một
vương quốc riêng : Lâm Ấp.
Lâm Ấp : một biến cố lịch sử
Cho đến nay gần như không một sử gia Việt Nam nào quan tâm đến biến
cố Lâm Ấp. Có lẽ nhiều người cho rằng Lâm Ấp không quan trọng v́
không dính líu ǵ, nếu không muốn nói là thù địch, với người Việt
Nam. Tất cả đều rất lầm. Cuộc nổi dậy của người Lâm Ấp là của chính
dân tộc Việt Nam, người Việt cổ, vào thời đó. Lâm Ấp là một biến cố
lịch sử trọng đại, mở đầu giai đoạn đấu tranh giành độc lập của
những dân tộc bị đặt dưới ách đô hộ của người Hán.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa, một lănh thổ đặt dưới
quyền kiểm soát trực tiếp của thiên triều đă tự tách ra và tuyên bố
độc lập. Sự kiện này trái với nguyên tắc tổ chức chính quyền của
người Hoa, v́ từ thế kỷ thứ hai trước công nguyên trở đi, dưới thời
nhà Hán, nguyên tắc trung ương tập quyền đă là nền tảng của các
chính sách cai trị của người Trung Hoa, không có ngoại lệ. Giao Chỉ
thời đó là một phần lănh thổ Trung Hoa, các quan cai trị đều do
thiên triều trực tiếp chỉ định, mọi ư đồ ly khai hay tự trị đều bị
trừng trị. Mục đích của chính sách trung ương tập quyền này là giữ
ǵn và bảo vệ sự toàn vẹn giống ṇi, người Hán không chấp nhận bất
cứ một pha trộn chủng tộc nào ngoài chủng tộc Hán với nhau.
Một lấn cấn khó chịu là trong suốt thời Bắc thuộc, đại bộ phận giới
"quí tộc" Lạc Việt (Lạc hầu và Lạc tướng), và người Kinh - bị khuất
phục bởi văn minh và văn hóa do người Hán mang lại - đă hợp tác với
người Hán trong việc quản trị đất nước, đương nhiên ở những địa vị
thấp hơn. Những cuộc nổi dậy chống lại chính sách cai trị hà khắc và
muốn tách khỏi văn minh và văn hóa của người Hán, phần lớn đều do
người Mường (hai Bà Trưng năm 42 và bà Triệu năm 248) và người Nam
Đảo (Mai Thúc Loan năm 722) khởi xướng. Những cuộc nổi dậy của người
Kinh - Lư Bí, Triệu Quang Phục, Lư Phật Tử (thế kỷ 6 và 7), Phùng
Hưng và Dương Thanh (thế kỷ 8), Khúc Thừa Mỹ và Dương Đ́nh Nghệ (thế
kỷ 10) - đều xuất phát từ động cơ bất măn của những người cộng tác
không được ưu đăi hơn là ư chí giành độc lập hay muốn tách khỏi ảnh
hưởng của người Hoa. Chỉ đến thời Ngô Quyền ư chí độc lập của người
Việt mới rơ ràng nhưng người Kinh lại xem người Chăm là đối thủ, nên
đă không ngừng phân biệt đối xử v́ văn hóa khác biệt và uy hiếp họ
trong suốt thời kỳ tự chủ, quên hẳn quá khứ ruột thịt đă qua.
Trở về với Lâm Ấp, khi thành lập vương quốc riêng có lẽ Khu Liên
không có ư định tách rời ảnh hưởng văn minh và văn hóa Trung Hoa,
nhưng với thời gian quyết tâm tách khỏi quỹ đạo Trung Hoa ngày càng
rơ nét. Sở dĩ có sự đoạn tuyệt này là v́ tổ chức chính trị xă hội
của người Hoa không c̣n phù hợp với nền tảng chính trị xă hội Lâm Ấp
nữa.
Vào thời kỳ này, thương nhân và tu sĩ Ấn Độ đă giao tiếp mật thiết
với người Chăm sinh sống ven biển miền Trung. Khi ở lại chờ thuận
buồm xuôi gió trở về quê cũ, những người Ấn này đă truyền cho giới
quí tộc địa phương văn minh và văn hóa của họ, và đương nhiên truyền
luôn cả cách thức tổ chức xă hội. Khác với người Hoa, tổ chức xă hội
của người Ấn dựa trên nguyên tắc tản quyền và phân quyền, phù hợp
với nếp sống và ước nguyện tự trị của người địa phương nên rất được
ưa chuộng. Đặc điểm của người Ấn là không dùng bạo lực để áp đặt văn
hóa hay uy quyền chính trị của ḿnh trên những xă hội khác, kém hơn,
mà để các thân hào địa phương tự nguyện làm thay, sau khi hấp thụ
văn minh và văn hóa của họ.
Tranh chấp văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ trong nội bộ Lâm Ấp ngă ngũ
sau khi Khu Liên qua đời, chữ Phạn cổ (sanscrit, một loại chữ viết
xuất phát từ miền nam Ấn Độ cách đây hơn 2.000 năm) trở thành chữ
viết chính thức của các triều vương. Các bia kư t́m được trong giai
đoạn này đều khắc bằng chữ Phạn. Quốc thư trao đổi của Lâm Ấp với
Trung Hoa thời đó được viết bằng chữ "Hồ" (chữ của nước Hồ Tôn Tinh,
tức chữ Phạn) thay v́ chữ Hán. Văn hóa Ấn Độ, từ phía Nam đưa lên,
trở thành văn hóa của toàn vương quốc Lâm Ấp. Đạo Bà La Môn và đạo
Phật được phổ biến rộng răi trong quần chúng, lấn át ảnh hưởng đạo
Khổng và đạo Lăo của văn hóa Trung Hoa để lại trong vương quốc. Cũng
nên biết thờ cúng ông bà là tín ngưỡng dân gian của người bản địa,
Kinh hay Chăm, do đó rất được kính trọng, giáo lư và nghi lễ các tôn
giáo khác phải thích hợp theo nếu muốn được ủng hộ.
Về chính trị, các vị vua Lâm Ấp đều gán ghép tên ḿnh với một thần
linh, thường là với Siva (c̣n gọi là Isvara) để có độc quyền cai trị.
Uy quyền vua thể hiện qua cái lọng màu trắng mà dân gian không được
dùng. Phụ tá nhà vua là các quan lại trung ương và địa phương, được
phân chia thành ba hạng : đứng đầu là hai vị tôn quan (senapati và
tapatica-hai tể tướng vơ và văn), kế là thuộc quan gồm ba hạng :
luân đa đinh (dandavaso bhatah-tướng chỉ huy cấm vệ), ca luân trí đế
(danay pinang, quan hầu trầu) và ất tha già lan (yuvaraja-kế vương),
sau cùng là ngoại quan (quan lại địa phương). Quân lực Lâm Ấp khoảng
từ 40 đến 50.000 người, gồm kỵ binh, tượng binh và thủy binh.
Triều đ́nh Trung Hoa có lẽ cũng muốn chấm dứt t́nh trạng tranh chấp
văn hóa và chính trị kéo dài quá lâu này nên đă chấp nhận sự ly khai
một cách miễn cưỡng, họ đặt tên quốc gia mới này là Lâm Ấp, thay v́
Hồ Tôn Tinh hay Tượng Lâm như trước kia, và duy tŕ mối quan hệ tốt
để nhận càng nhiều phẩm vật triều cống càng tốt.
Về danh xưng, Lâm Ấp chỉ là sự biến nghĩa của chữ Tượng Lâm.
Đối với nhà Đông Hán, danh xưng Lâm Ấp là một khinh miệt, v́ đó chỉ
là một phần đất nhỏ không quan trọng ở vùng cực nam để thiên triều
phải quan tâm trực tiếp. Sách Thủy Kinh Chú giải thích : "Lâm Ấp là
huyện Tượng Lâm, sau bỏ chữ Tượng để chỉ c̣n chữ Lâm". Cũng nên biết
ngôn ngữ Trung Hoa trong thời kỳ này có nhiều hạn chế trong việc
phiên âm các tên ngoại quốc : Lâm Ấp là cách phát âm Việt hóa từ chữ
Lin-yi, phiên âm từ chữ "Hindi" hay "Indi", tức người Ấn. Có người
nói đó là cách phiên âm từ chữ Phạn "Indirapura" (đất của người Ấn
Độ). Về sau người Chăm đặt tên phần đất từ Quảng B́nh đến Thừa Thiên
là Indrapura (đất của Indra, thần sấm sét). Lâm Ấp cũng có thể do sự
phát âm Việt hóa từ chữ "Krom" hay "Prum" (hai tộc của người Việt cổ)
mà ra. B́nh dân hơn người ta giải thích : Lâm là rừng, Ấp là thôn
nhỏ v.v... Nói chung, cho dù diễn giải thế nào Lâm Ấp là một định
chế độc lập với vương triều Trung Hoa tại Giao Chỉ.
Về tên gọi Khu Liên cũng thế, có rất nhiều tranh căi. Sử sách Trung
Hoa viết tên vị vua đầu tiên của Lâm Ấp là Khu Liên, có sách viết là
Khu Quỳ, Khu Đạt hay Khu Vương. Nhiều sử gia cho rằng Khu Liên thuộc
ḍng dơi của bộ tộc Dừa ở phía Bắc… Thật ra Khu Liên không là tên
của người nào cả, đó chỉ là cách gọi một cách kính trọng một người
có ngôi vị cao trong một định chế tập thể (làng, xă, huyện…). Đối
với dân chúng địa phương, "Khu" không phải là tên riêng mà là tước
vị của một tộc trưởng (lănh chúa), phiên âm từ chữ "Kurung" (như các
vua Hùng) của người Việt cổ – hay chữ "Varman" của người Chăm từ
tiếng Phạn, có nghĩa là tước tộc trưởng, lănh chúa hay vua.
Trước đó, năm 137, các quan đô hộ nhà Hán gọi quân phản loạn ở Tây
Quyển (Quảng B́nh) là "rợ Khu Liên". Như vậy Khu Liên chỉ là tên gọi
chung những người không cùng văn hóa với người Hán ở phía nam Giao
Chỉ. Tên gọi này không liên quan ǵ đến danh xưng Sri Mara (tên một
vị vương tôn người Chăm khác cùng thời kỳ, con bà Lona Lavana ở
Panduranga) t́m thấy trên một bia kư bằng đá granít (ngang 1 mét,
dày 1 mét, cao 2,5 mét) ở làng Vơ Cạnh (nay thuộc xă Vĩnh Trung),
Nha Trang.
Về địa lư, vương quốc Lâm Ấp ở đâu, rộng hẹp như thế nào ? C̣n rất
nhiều điểm tối, không ai rơ. Theo sử cổ Trung Hoa th́ lănh thổ vương
quốc này là huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam, phía nam huyện Lô
Dung (Thừa Thiên ngày nay). Đường Thư nói Lâm Ấp từ huyện Tây Quyển
(Quảng B́nh) trở xuống. Đại Nam Nhất Thống Chí nói Tượng Lâm là B́nh
Định và Phú Yên. Thủy Kinh Chú cho biết thủ phủ Lâm Ấp lúc đầu
không biết ở đâu, sau được biết đặt tại Khu Lật (Huế, Thừa Thiên),
phía Nam có sông Lô Dung (sông Hương) chảy qua. Một cách tóm lược,
dựa vào sử sách xưa, lănh thổ Lâm Ấp có thể đă trải dài từ Quảng
B́nh đến Quảng Nam.
Một số chuyên gia Champa cho rằng Lâm Ấp là lănh thổ
Indrapura (đất của thần Indra), từ mũi Hoành Sơn đến đèo Hải Vân, do
vương triều Gangaraja, tức những người Ấn Độ đến từ sông Gange, khai
sinh ra. Sự kiện này cần được ghi nhận với tất cả dè dặt v́ cho đến
nay chưa một dấu tích bia kư nào giải thích sự kiện này.
Các triều vương Lâm Ấp
1. Triều vương thứ nhất (192-366) : khai sinh vương quốc
Khu Liên lên ngôi năm 192, trị v́ trong nhiều năm, nhưng không biết
mất năm nào và ai là người kế vị. Sử cổ Trung Hoa (Lương thư) cho
biết trong khoảng thập niên 220-230, con cháu Khu Liên có gởi phái
bộ đến thống đốc Quảng Đông và các thái thú Giao Châu (Lă Đại và Lục
Dận) triều cống và duy tŕ quan hệ ngoại giao.
Sự kiện nổi bật sau thời Khu Liên là cuộc dấy binh của bà Triệu năm
248 tại quận Cửu Chân chống lại quân Đông Ngô (Trung Hoa). Bà Triệu,
c̣n gọi là Triệu Trinh Nương, là một thiếu nữ Mường cưỡi voi ra trận
làm khiếp đảm quân địch. Bà Triệu cũng là mẫu người lư tưởng của chế
độ mẫu hệ : thân h́nh nẩy nở (vú dài ba thước ta !?) và can đảm (dám
đứng ra gánh vác việc nước). Có lẽ trong giai đoạn này con cái của
Khu Liên gia nhập vào đội quân của bà Triệu rất đông v́ cuộc khởi
nghĩa này được sử Trung Hoa ghi nhận là cuộc nổi dậy của nhân dân
Lâm Ấp.
Nhà Đông Ngô phong danh tướng Lục Dận tước An Nam hiệu úy, tức thứ
sử, sang Giao Châu dẹp lọan. Lục Dận vừa dùng mưu vừa làm áp lực
chiêu dụ các bộ lạc nổi loạn ; sau hơn 6 tháng cầm cự quân của Bà
Triệu bị cô lập và bị đánh bại phải chạy về miền Nam lánh nạn. Lục
Dận xua quân xuống chiếm Khu Lật (Huế), bắt theo hàng ngàn thợ khéo
tay mang về Giao Châu rồi dâng cho nhà Đông Ngô năm 260. Những vùng
đất bị nghĩa quân Lâm Ấp chiếm đóng đều bị lấy lại. Lănh thổ Lâm Ấp
trở về vị trí cũ, tức huyện Tượng Lâm, quân Đông Ngô không dám tiến
xuống xa hơn.
Có lẽ truyền nhân đích tôn của Khu Liên đă chết trong cuộc khởi
nghĩa này v́ không c̣n được nhắc tới nữa. Sách Lương thư cho biết
năm 270, cháu ngoại của Khu Liên là Phạm Hùng (Fan Hiong hay Fan
Hsung) lên làm vua.
Cũng nên biết "Phạm" ở đây là cách phiên âm Hán hóa từ chữ "Po" (hay
Pô, Pḥ, Pha) của người Chăm, tức là người đứng đầu, lănh tụ hoặc là
ngài, chứ không phải là cách phiên âm từ chữ "varman" của người Ấn,
cũng có nghĩa là vua, vương, ngài, hay "họ Phạm" của người Việt Nam
mà ra. Cũng nên biết người Lâm Ấp theo chế độ mẫu hệ, chỉ có tên chứ
không có họ.
Dưới thời Phạm Hùng, lănh thổ Lâm Ấp được nới rộng tới thành Khu Túc,
cạnh sông Gianh, phía bắc và tới Khánh Ḥa (Kauthara) phía nam. Phạm
Hùng cũng đă chinh phục và thống nhất các tiểu vương quốc khác nằm
trong các lơm đất dọc duyên hải miền Trung : Amavarati (Quảng Nam),
Vijaya (Quảng Ngăi, B́nh Định) và một phần lănh thổ Aryaru (Phú Yên).
Nhưng sau hơn 10 năm chinh chiến (271-282), Phạm Hùng bị quân Tây
Tấn (do Đào Hoàng chỉ huy) đánh bại, năm 283 con là Phạm Dật (Fan
Yi) lên ngôi thay. Năm 284, Phạm Dật gởi một sứ bộ sang Trung Hoa
cầu ḥa ; Lâm Ấp được thái ḥa và Phạm Dật trị v́ 52 năm th́ qua đời.
2. Triều vương thứ hai (337-420) : mở rộng vương quốc
Phạm Dật qua đời năm 336, một tể tướng cướp ngôi vua tự xưng Phạm
Văn (Fan Wen). Phạm Văn không phải là người Chăm mà là một người gốc
Hoa quê ở Dương Châu, bị bán làm nô lệ cho một quan cai trị huyện
Tây Quyển tên Phạm Tương. Năm 15 tuổi, v́ phạm tội gian Văn phải
trốn theo một thương gia người Lâm Ấp sang Trung Hoa và Ấn Độ buôn
bán, nhờ đó đă học hỏi được kỹ thuật luyện kim và xây thành lũy của
người Hoa. Khi về lại Lâm Ấp năm 321, Văn trở thành người thân tín
của Phạm Dật và được giao trọng trách xây thành, đắp lũy, dựng cung
đài theo kiểu Trung Hoa, chế tạo chiến xa và vũ khí, chế biến dụng
cụ âm nhạc v.v... và được thăng chức tể tướng.
Dưới thời Phạm Văn, kỹ thuật luyện sắt (rèn kiếm, đúc lao) đạt đến
tột đỉnh. Nhà vua áp dụng văn minh Ấn Độ thẳng vào đời sống : cải tổ
lại hệ thống quan lại theo khuôn mẫu Ấn Độ, nhờ đó guồng máy tổ chức
chính quyền chạy đều và mang lại hiệu quả tốt ; xây dựng thủ phủ
chính trị tại Khu Lật (K’iu-sou, hay Thành Lồi, Huế), h́nh chữ nhật,
chu vi 2100 mét, tường cao 8 mét, có 16 cửa, dân chúng sống chung
quanh chân thành, mỗi khi có loạn, các cửa thành đều đóng lại. Với
thế mạnh này, Phạm Văn đánh thắng hai nước Đại Kỳ Giới và Tiểu Kỳ
Giới (có thể đây là hai vương quốc trên đất Lào ngày nay), chinh
phục nhiều bộ lạc khác như Che Phou, Siu Lang, Khiu Tou, Kan Lou và
Fou Tan (có thể là những bộ lạc thiểu số gốc Thái trên dăy Trường
Sơn), tăng cường số phụ nữ mang về từ các lănh thổ đánh chiếm được
và tăng nhân số trong quân đội (khoảng từ 40.000 đến 50.000 người).
Năm 340, Phạm Văn xin nhà Đông Tấn cho sát nhập quận Nhật Nam, gồm
các huyện Tây Quyển, Tỷ Cảnh, Chu Ngô, Lô Dung và một phần đất phía
nam quận Cửu Chân huyện Hàm Hoan (Thanh Hóa) vào lănh thổ Lâm Ấp
nhưng không được toại nguyện. Phạm Văn liền xua quân tiến công vào
nội địa Nhật Nam, chiếm huyện Tây Quyển, giết thứ sử Hạ Hầu Lâm, lấy
mũi Hoành Sơn (nam Thanh Hóa) làm biên giới phía bắc, cho xây lại
thành Khu Túc (cạnh sông Gianh) pḥng giữ. Từ đó phần lănh thổ từ
đèo Ngang trở xuống thuộc về Lâm Ấp và cũng kể từ đó phía bắc đèo
Ngang là nơi xảy ra những trận thư hùng giữa Lâm Ấp và Giao Châu
trong suốt hai thế kỷ 4 và 5. Năm 349 nhà Đông Tấn phản công, quân
Lâm Ấp bị đánh bại, Phạm Văn bị trọng thương và qua đời, con là Phạm
Phật (Fan Fo) lên thay.
Phạm Phật là một vị tướng tài ba, được nhiều sử gia cho là người mở
đầu vương triều Gangaraja (Bắc Chiêm Thành). Vừa lên ngôi, Phạm Phật
tấn công quân Đông Tấn tại Nhật Nam và vây thành Cửu Chân. Năm 351,
quân Lâm Ấp bị đánh bại phải bỏ chạy về phía tây tại Lăng Hồ, huyện
Thọ Lănh (Thanh Hóa), thành Khu Túc bị chiếm, ranh giới được thiết
lập lại tạihuyện Tỷ Cảnh gần sông Nhật Lệ (Quảng B́nh). Năm 359,
quân Đông Tấn chiếm huyện Thọ Lănh và đánh bại quân Lâm Ấp tại vịnh
Ôn Cấn, chiếm thành Khu Túc ; Phạm Phật xin ḥa và gởi sứ bộ sang
Trung Hoa triều cống (372 và 377). Phạm Phật mất năm 380 nhường ngôi
cho con là Phạm Hồ Đạt.
Phạm Hồ Đạt (Fan Houta) được nhiều học giả cho là vua Dharmamaharaja,
hiệu Bhadravarman I, người sáng lập vương triều Gangaraja. Dưới thời
Phạm Hồ Đạt, Phật giáo tiểu thừa (Thevada) phát triển mạnh, nhiều
nhà sư đến trực tiếp từ Ấn Độ sang truyền đạo. Thành Khu Lật (Huế)
vẫn là trung tâm chính trị nhưng đổi tên thành Kandapurpura, nghĩa
là Phật Bảo Thành (v́ là nơi có nhiều đền đài và h́nh tượng Phật và
Siva). Bên cạnh đó nhà vua c̣n cho xây dựng thêm một trung tâm tôn
giáo mới tại Amavarati, tức thánh địa Hào Quang (nay là Mỹ Sơn, một
thung lũng cách Đà Nẵng 70 km về phía tây). Nhiều đền thờ Bà La Môn
được xây dựng tại Mỹ Sơn để thờ thần Siva và tượng Linga, tượng
trưng sức mạnh phái nam. Ngôi đền đầu tiên được xây bằng gỗ vào cuối
thế kỷ 4 mang tên Bradresvara, kết hợp giữa tên vua Bradravarman I
và thần Isvara (hay Siva). Kể từ thế kỷ thứ 4 trở đi lănh tụ chính
trị và tôn giáo tại Lâm Ấp là một : thờ thần tức thờ vua, vua thay
mặt thần Siva cai quản muôn dân. Siva vừa là thần bảo hộ xứ sở vừa
là vị thần giữ đền (Dvarapala) để dân chúng đến thờ phượng và dâng
lễ vật.
Năm 399, Phạm Hồ Đạt mang quân chiếm quận Nhật Nam, giết thái thú
Khổng Nguyên, tiến công quận Cửu Đức, bắt sống thái thú Tào Bính
nhưng bị quân của thống chế Đỗ Viện đánh bại phải rút về dưới đèo
Ngang. Năm 413,Phạm Hồ Đạt mang bộ binh chiếm đóng Nhật Nam, ra lệnh
cho thủy binh đổ bộ vào Cửu Chân đốt phá các làng xă ven duyên. Thứ
sử Đỗ Tuệ Độ mang quân ra nghinh chiến, chém được con của Phạm Hồ
Đạt là Phạm Trân Trân (tiểu vương đất Giao Long) và tướng Phạm Kiện,
bắt làm tù binh hơn 100 người, trong có một hoàng tử tên Na Neng,
tất cả đều bị chém đầu. Phạm Hồ Đạt trốn vào rừng sâu rồi mất tích.
Trong khi chưa t́m được một vị vua mới, triều đ́nh Lâm Ấp tiếp tục
triều cống Trung Hoa để được yên về chính trị.
Trong thời gian từ 413 đến 420, con cháu Phạm Hồ Đạt tranh giành
ngôi vua, nội chiến xảy ra khắp nơi. Năm 413, một người con của Phạm
Hồ Đạt là Địch Chớn (Ti Chen), đạo sĩ Bà La Môn, được triều thần đưa
lên ngôi vua, hiệu Gangaraja (sông Gange bên Ấn Độ). Địch Chớn là
người đam mê văn hóa Ấn Độ muốn nhường ngôi cho em là Địch Khải (Ti
Kai) để sang Ấn Độ sống những ngày cuối đời, nhưng Địch Khải sợ bị
triều thần ám hại, dẫn mẹ chạy trốn vào rừng. Ngôi báu đành nhường
cho Manorathavarman, cháu Địch Chớn nhưng tể tướng Thiếu Lâm (Tsang
Lin) chống lại v́ người này không được sinh ra từ một người mẹ có
ḍng máu tinh khiết (tức đẳng cấp Brahman), nên bị Manorathavarman
giết chết.
3. Triều vương thứ ba (420-530) : tranh chấp với Trung Hoa
Năm 420, con cháu của Thiếu Lâm ám sát vua Manorathavarman và đưa
người em cùng mẹ khác cha của Địch Chớn là Văn Địch (Wen Ti) lên
thay. Văn Địch xưng hiệu là Phạm Dương Mại I (Yan Mah hay Fan Yang
Mai), có nghĩa là Hoàng tử Vàng, nhưng không trị vị lâu v́ bị chết
trong một cuộc tấn công của quân Đông Tấn. Con là thái tử Đốt, 19
tuổi, được nhà Đông Tấn phong vương năm 421, hiệu Dương Mại II.
Nhân t́nh thế loạn lạc bên Trung Hoa (nhà Tống dẹp nhà Đông Tấn),
năm 431, Dương Mại II dẫn hơn 100 chiến thuyền tấn công các làng ven
biển tại cửa Thọ Lănh, Tứ Hội và Châu Ngô (quận Nhật Nam và Cửu Chân)
nhưng bị đánh bại, quân Tống chiếm thành Khu Lật, Dương Mại II chạy
trốn ra Cù Lao Chàm (Quảng Nam). Năm 433, Dương Mại II xin "lănh"
đất Giao Châu về cai trị nhưng vua Tống không chịu, chiến tranh lại
xảy ra. Năm 443 vua Tống Du Long phong thống chế Đàn Ḥa Chi làm thứ
sử Giao Châu, cùng hai phó tướng là Tống Xác và Túc Canh Hiến, mang
đại quân đánh Lâm Ấp, Phạm Dương Mại II chạy thoát được ra cửa Tượng
Phổ, vịnh Bành Long (B́nh Định), tổ chức lại lực lượng, tăng cường
thêm nhiều đội tượng binh rồi ra lệnh tổng phản công nhưng không
địch nổi quân Nam Tống. Những người sống sót chạy sang Láng Cháng (Luang
Prabang tại Bắc Lào) tị nạn, một số chạy đến Champassak (Nam Lào) ẩn
náu. Đàn Ḥa Chi thu rất nhiều vàng bạc, châu báu, tượng đồng vàđập
phá rất nhiều đền đài. Sử Trung Hoa (Tống Thư) chép rằng Đàn Ḥa Chi
lấy được nhiều tượng vàng (mười người mới ôm xuể), đem nấu chảy thâu
được hơn 10 vạn cân (50.000 kí-lô vàng y?). Từ đó Trung Hoa biết Lâm
Ấp có nhiều vàng nên mỗi khi có dịp là tiến quân xuống đánh cướp.
Trong thời này, nhiều nhà sư Phật giáo Trung Hoa ái mộ nét kiến trúc
và tượng đài trong các đền thờ tại Mỹ Sơn sang Lâm Ấp t́m hiểu và
học hỏi rất đông, nhiều tượng Bồ Tát của Phật giáo Đại Thừa Trung
Hoa được t́m thấy trong các chùa (chùa Quảng Khê) trong vùng.
Trong lúc chạy trốn về phía nam, Dương Mại II chinh phục luôn các
tiểu vương tại Vijaya (B́nh Định), Aryaru (Phú Yên), thống nhất lănh
thổ phía Bắc. Năm 443, Dương Mại II về lại Khu Lật, thấy cảnh hoang
tàn, buồn rầu rồi mất năm 446. Lănh thổ phía Bắc của Lâm Ấp bị đẩy
lùi về huyện Lô Dung (Thừa Thiên), con cháu Dương Mại II lại tranh
chấp quyền hành.
Năm 455 con Dương Mại II là Phạm Chút (Fan Tou) lên ngôi,
hiệu Trần Thành (Devanika). Trung tâm chính trị vẫn tại Khu Lật,
nhưng Trần Thành cho xây dựng thêm một trung tâm văn hóa và tôn giáo
mới tại Amaravati, gọi là thánh địa Hào Quang (Mỹ Sơn, Quảng Nam).
Vương quốc Lâm Ấp tiếp tục được nới rộng xuống phía nam đến tận sông
Ba (Tuy Ḥa), thuộc lănh thổ Aryaru (Phú Yên) và vùng núi non phía
tây lân cận (cao nguyên Kontum, Darlac), và phía tây tới Champassak
(Nam Lào), nhiều bộ lạc Thượng sống trên dăy Trường Sơn cũng theo về
triều cống. Phạm Trần Thành mất năm 472, Lâm Ấp không có vua, nội bộ
triều đ́nh có biến động.
Năm 484, một người Khmer tên Phạm Đăng Căn Thăng (Kieou Tcheou Lo),
con vua Phù Nam Jayavarman tị nạn tại Lâm Ấp, cướp ngôi và cầm quyền
trong gần 20 năm. Năm 492, con Phạm Trần Thành là Phạm Chư Nông giết
Căn Thăng giành lại ngôi báu. Phạm Chư Nông bị chết đuối năm 498,
con cháu tiếp tục trị v́ đến năm 527 : Phạm Văn Tổn (Fan Wen Kuoan)
trị v́ từ 498 đến 502, Phạm Thiên Khởi hiệu Devavarman (510-514) và
Cao Thức Thắng Khởi hiệu Vijayavarman hay Bật Tôi Bật Ma (526-527).
4. Triều
vương thứ tư (529-757) : củng cố và ổn định lănh thổ
Năm 529,
Vijayavarman mất không người kế tự. Triều đ́nh Lâm Ấp phong Luật Đa
La Bật Ma lên làm vua, hiệu Rudravarman I. Năm 577 Luật Đa La Bật Ma
mất, con là Prasastadharma lên kế nghiệp, hiệu Phạm Phạn Chi (Sambhuvarman).
Dưới thời Phạm Phạn Chi, văn hóa Lâm Ấp tỏa rộng khắp Đông Nam Á.
Năm 598, nhà Tùy chiếm dóng Lâm Ấp và phân chia thành ba châu : châu
Hoan (Tỷ Cảnh), châu Ái (Hải Âm) và châu Trong (Khương). Năm 605,
Phạm Phạn Chi dời kinh đô về Sinhapura, thành phố Sư Tử (nay là Trà
Kiệu, cạnh sông Thu Bồn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam). Danh xưng
Campa (Chiêm Thành) chính thức xuất hiện trong hời này.
Năm 629 Phạm
Phạn Chi mất, con là Phạm Đầu Lê (Kandharpardharma) kế nghiệp. Năm
645 Phạm Đầu Lê qua đời, vương triều Lâm Ấp loạn lạc. Phạm Trấn Long
(Prabhasadharma), con Đầu Lê, vừa giành được ngôi vua liền bị giết
chết, dân chúng đưa con trai của một công chúa, em gái của Trấn
Long, tên Chư Cát Địa lên làm vua, hiệu Bhadresvaravarman (sự ghép
tên giữa thần Bradresvara và vị tổ Bradravarman). Chư Cát Địa làm
vua được một năm (646) th́ bị triều thần lật đổ, công chúa Tchou
Koti, con gái của chánh phi của Phạm Đầu Lê, được tôn lên làm nữ
vương, hiệu Jagaddharma. Đức độ của bà Jagaddharma rất được dân
chúng kính trọng. Sau khi qua đời, nữ vương Jagaddharma được dân
chúng lập đền thờ tại tháp Po Nagar (Xóm Bóng, Nha Trang).
Năm 653 Tchou
Koti nhường ngôi cho chồng (người Khmer) tên Prakasadharma (Po
Kiachopamo), hiệu Vikrantavarman I. Năm 685, Vikrantavarman I qua
đời, nhường ngôi cho con là Vikrantavarman II (Kientotamo).
Dưới thời
Vikrantavarman II, văn hóa Lâm Ấp tỏa khắp Đông Nam Á, các quốc gia
lân bang đều muốn kết thân. Năm 731, Vikrantavarman II qua đời, con
là Rudravarman II (Lutolo) trị v́ đến năm 757 th́ mất. Con là
Bhadravarman II lên thay nhưng bị các vương tôn miền Nam hạ bệ, chấm
dứt vai tṛ lănh đạo của vương triều miền Bắc.
T́m
hiểu cộng đồng người Chăm tại Việt Nam
Thời vàng
son
Sau thời kỳ dựng nước và mở nước khó khăn, từ thế kỷ thứ 4 vương
quốc Lâm Ấp đă trở thành một thế lực chính trị đáng kể trong vùng,
dưới thời Bradravarman I (Phạm Hồ Đạt), người sáng lập triều đại
Gangaraja phía Bắc. Là một kết hợp của nhiều tiểu vương quốc khác
nhau, lănh thổ phía Bắc giáp ranh với quận Cửu Chân, lănh thổ phía
Nam trải dài đến mũi Kê Gà (Varella, Phan Thiết). Hào quang của Lâm
Ấp chiếu sáng vùng trời Đông Nam Á, các quốc gia láng giềng đều t́m
đến để làm thân.
Cho đến nay không ai biết hai miền Nam Bắc đă thống nhất như thế nào,
nhưng từ thế kỷ 5 trở về sau thông thương giữa hai miền trở nên liên
tục và ồ ạt, lượng người và hàng hóa di chuyển từ miền Nam lên miền
Bắc thay đổi dần dần cán cân quyền lực. Người Chăm phía Bắc, v́ phải
thường xuyên đối phó với quân thù, trở nên thiện chiến ; khi mộ quân
hay trên đường chạy nạn, v́ bị quân Trung Hoa truy đuổi, họ khuất
phục luôn những tiểu vương quốc khác đă có mặt dọc bờ biển miền
Trung từ lâu đời, quen sống trong ḥa b́nh và an lạc. Với thời gian,
vương quyền miền Bắc suy yếu dần, v́ dồn hết tài nguyên nhân vật lực
cho chiến tranh, vai tṛ lănh đạo nhường lại cho các vương triều
phía Nam giàu có và hùng mạnh hơn.
Triều vương thứ năm (758-854) : vương triều Panduranga hay Hoàn
Vương Quố
Năm 757, môt tiểu vương phía Nam nổi lên hạ bệ Bhadravarman II - nhà
vua trẻ vừa lên ngôi - rồi tự xưng vương, hiệu Prithi Indravarman,
chấm dứt ḍng Gangaraja phía Bắc.
Theo bia kư đọc được, Prithi Indravarman là người đă thống nhất lănh
thổ Champa một cách chính danh nhất, v́ được triều thần công nhận là
"người thống lănh toàn bộ đất nước như Indra, thần của các vị thần".
Tuy đất nước đă được thống nhất, lănh thổ này vẫn chưa có tên. Khi
sang Trung Hoa triều cống, không biết sứ thần của Prithi Indravarman
đă giải thích như thế nào mà sử liệu cổ Trung Hoa đặt tên lănh thổ
mới của người Chăm trong thời kỳ này là Hoàn Vương Quốc, "vương
quyền trở về quê cũ". Để xác minh điều này, việc làm đầu tiên của
Prithi Indravarman là dời kinh đô Sinhapura (thành phố sư tử hay Trà
Kiệu, Quảng Nam) về Virapura (thành phố Hùng Tráng, nay là thôn
Palai Bachong, xă Ḥa Trinh, huyện An Phước - cách Sài G̣n 310 cây
số về phía Bắc trên quốc lộ 1, tỉnh Ninh Thuận).
Dưới thời Prithi Indravarman, văn minh và văn hóa Ấn Độ từ phía Nam
đưa lên lấn át toàn bộ sinh hoạt của người Chăm phía Bắc ; chữ Phạn
được phổ biến rộng răi trong giới vương quyền và các nơi thờ phượng
; đạo Bà La Môn được đông đảo người theo ; đạo Phật Tiểu Thừa (Thevada)
phát triển mạnh trong chốn dân gian ; đền đài, dinh thự và chùa tháp
được xây dựng lên khắp nơi, nhiều nhất là tại Khu Lật (Huế),
Amavarati (Mỹ Sơn), Sinhapura (Trà Kiệu)… để tạ ơn thần linh. Tuy
vậy nguyên tắc tự trị của các tiểu vương quốc phía Bắc vẫn được tôn
trọng, v́ không thấy di ảnh hay h́nh tượng nữ thần Bhagavati - vị
thần bảo hộ Panduranga được Prithi Indravarman chọn làm "Bà Mẹ xứ sở"
để dân chúng thờ phượng – trong các di tích khảo cổ trên lănh thổ
Chiêm Thành phía Bắc.
Về "Bà Mẹ xứ sở", ngôi tháp bằng gỗ trước kia thờ nữ vương
Jagadharma (646-653) được Prithi Indravarman cho xây dựng lại bằng
vật liệu cứng tại Aya Tră (Nha Trang), trên một ngọn đồi cao cạnh
cửa sông Cái (Xóm Bóng), để thờ tượng nữ thần Bhagavati (bằng vàng).
Tháp này về sau được biết dưới tên Po Nagar, hay Tháp Bà.
Truyền thuyết Chăm cho rằng Hoàn Vương Quốc trước kia do nữ vương Po
Nagar cai trị trong suốt 200 năm, từ 758 đến 958. Thời gian trị v́
lâu dài này là thời gian mà vương triều Panduranga thịnh hành. Nữ
vương Po Nagar - c̣n gọi là Yan Pu Nagara, Po Ino Nagar hay Bà Đen (nguời
Việt Nam gọi là Thánh Mẫu Thiên Y Ana) - là vị nữ thần được tạo nên
bởi áng mây trời và bọt biển, người tạo dựng ra quả đất, sản sinh gỗ
quí, cây cối và lúa gạo. Bà có 97 phu quân, trong đó chỉ một ḿnh Po
Yan Amo là người có uy quyền và được tôn trọng hơn cả. Bà có 38
người con gái, tất cả đều hóa thân thành nữ thần, trong đó có ba
người được người Chăm chọn làm thần bảo vệ đất đai và c̣n thờ phượng
cho tới ngày nay : Po Nagar Dara, nữ thần Kauthara (Khánh Ḥa) ; Po
Rarai Anaih, nữ thần Panduranga (Ninh Thuận) và Po Bia Tikuk, nữ
thần Manthit (Phan Thiết).
Prithi Indravarman là một quân vương tài giỏi, đất nước thái b́nh và
rất phồn vinh. Sự giàu có của Hoàn Vương Quốc hấp dẫn các vương quốc
lân bang, đặc biệt là Srivijaya (Palembang), Malayu (Malaysia),
Javadvipa (Java), Nagara Phatom (Thái Lan), Sriksetra (Miến Điện) và
Angkor (Chân Lạp) ; họ đến để trao đổi hoặc chờ dịp cướp phá.
Năm 774, quân Nam Đảo từ ngoài khơi đổ bộ vào Kauthara và Panduranga,
chiếm Virapura. Vua Prithi Indravarman đă chống trả lại mănh liệt
nhưng bị chết trong đám loạn quân (sau này được dân chúng tôn thờ
dưới pháp danh Rudraloka). Một bia kư đọc được ở tháp Po Nagar ghi "những
người đen đủi và gầy yếu từ miền xa đến, ăn những thức ăn khủng
khiếp hơn xác chết, lại có tính hung ác. Bọn người này đi mành đến
lấy cắp tượng linga của thần Sri Sambhu, đốt phá đền thờ [Po Nagar]".
Sau cuộc tấn công này quân Nam Đảo cướp đi rất nhiều báu vật, trong
đó có tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng.
Ngay khi Prithi Indravarman vừa tử trận, một người cháu gọi ông bằng
cậu tên Satyavarman được hoàng tộc tôn lên thay thế. Nhưng vừa lên
ngôi, Satyavarman đă cùng hoàng tộc chạy lên miền Bắc (B́nh Định)
lánh nạn. Tại đây, nhà vua được cộng đồng người Chăm và người Thượng
địa phương (Bahnar, Hré) giúp thành lập một đạo quân hùng mạnh tiến
xuống Kauthara tấn công quân Nam Đảo. Trước uy lực của Satyavarman,
quân Nam Đảo lên thuyền bỏ chạy ra khơi, tân vương dẫn hoàng gia về
lại Virapura. Tại đây, nhà vua xây thêm một cung điện mới trong
thành Krong Laa và không ngờ đă sáng chế ra một phong tục mới mà các
đời vua sau bắt chước theo, đó là tục trồng cây Kraik, biểu tượng
của hoàng gia, trước cung điện. Đền Po Nagar, bị quân Nam Đảo phá
hủy, được Satyavarman cho dựng lại bằng gạch, 10 năm sau (774-784)
th́ hoàn thành và tồn tại cho tới ngày nay. Năm 786, Satyavarman mất
(được dân chúng thờ phượng dưới pháp danh Isvaraloka), em trai út
của ông được hoàng tộc đưa lên ngôi, hiệu Indravarman I (786-801).
Hay tin Satyavarman từ trần, năêm 787, quân Java từ ngoài khơi lại
tràn vào Virapura cướp phá, sát hại rất nhiều binh sĩ và dân chúng,
phá tháp Ḥa Lai thờ thần Bhadradhipatisvara tại Virapura. Quân Nam
Đảo chia ra làm hai nhóm, một nhóm bắt theo nhiềuá phụ nữ cùng rbáu
vật chở về nước, một nhóm khác chiếm giữ Panduranga. Phải hơn mười
năm vất vả Indravarman I mới đuổi được quân Nam Đảo ra khơi để khiến
thiết lại xứ ở (năm 799). Tại Virapura, nhà vua xây lại tháp Ḥa Lai
bằng ba tháp mới, gọi là Kalan Ba Tháp, thờ các thần
Indrabhadresvara, Sankara và Narayana. Cũng vất vả lắm Indravarman I
mới dẹp yên được một số giặc giă nổi lên từ khắp nơi, như tại Candra
(phía bắc), Indra (đông-bắc), Agni (phía đông), Yama (đông-nam),
quan trọng nhất là loạn Yakshas (phía nam). Yakshas là những bộ lạc
Thượng cư ngụ trên lănh thổ đế quốc Angkor chứ không phải là quân
Khmer.
Đầu thế kỷ thứ 9, Indravarman I mất, em rể là hoàng thân Deva
Rajadhiraja lên thay, hiệu Harivarman I, mở đầu một trang sử mới.
Trong hai năm đầu tân vương dồn mọi nổ lực xây dựng lại đất nước và
phục hồi thế lực quân sự. Để nhận thêm sự ủng hộ của quần chúng, nhà
vua sai tể tướng Senapati Pangro trùng tu lại tháp Po Nagar và xây
thêm hai tháp mới cạnh tháp chính, một ở hướng nam và một ở hướng
tây-bắc để dân chúng đến chiêm bái tượng nữ thần Bhagavati, được tạc
lại bằng đá hoa cương.
Sau những cố gắng vượt bực, Hoàn Vương Quốc hưng thịnh trở lại,
Harivarman I quyết định trả thù những quốc gia đă tấn công và cướp
bóc đất nước của ông trước đó. Tháng 1-803, quân Chăm tấn công châu
Hoan (Tỷ Cảnh, nay là Thanh Hóa) và châu Ái (Hải Âm, nay là Nghệ
Tĩnh), mang về rất nhiều phẩm vật. Với lượng lúa gạo mang về miền
Bắc, thủy quân Hoàn Vương Quốc xuất dương trừng phạt vương quốc
Kelantan ở Java và Patani ở Malaysia. Khi trở về, nhà vua cho người
lên Tây Nguyên mộ thêm binh sĩ và được sự hưởng ứng nồng nhiệt của
người thiểu số. Với đạo quân này, hai lần (nam 803 và 817),
Harivarman I tiến vào cao nguyên Đồng Nai thượng, đánh bại quân
Khmer và kiểm soát một vùng đất rộng lớn.
Để có thêm nguồn lương thực, năm 808, Harivarman I xua quân đánh
chiếm châu Hoan và châu Ái lần nữa, nhưng bị thái thú Trương Châu
đánh bại : 59 người trong hoàng tộc bị bắt sống, nhiều thớt voi, tàu
chiến và quân trang quân dụng bị tịch thu, hơn 30.000 người bỏ xác
tại trận. Về con số ba vạn người bị chết này, tưởng cũng nên tương
đối hóa nó v́ thời đó người Hoa chưa phát minh ra số "không" (zéro)
do đó cái ǵ nhiều quá, đếm không xuể đều được ghi là "vạn" ; con số
ba vạn ở đây có thể do nhiều đơn vị khác nhau cùng báo cáo và cũng
có thể được thổi phồng để được triều đ́nh trung ương khen thưởng, v́
qua năm sau, năm 809, Harivarman I tái chiếm châu Hoan và châu Ái
một cách dễ dàng và mang về rất nhiều phẩm vật.
Không rơ Harivarman I mất năm nào nhưng con trai là tiểu vương (pulyan)
đất Panduranga lên kế vị năm 817, hiệu Vikrantavarman III. V́ tân
vương c̣n nhỏ tuổi, triều thần phong tể tướng Senapati Par, tiểu
vương đất Manidhi (?), làm phụ chính. Viên tể tướng này đă tổ chức
nhiều cuộc tấn công vào lănh thổ Kambujas (Kampuchea ngày nay), do
vua Jayavarman II cai trị, phá nhiều thành tŕ khmer trên cao nguyên
Đồng Nai thượng. Để tạ ơn Bà Mẹ Xứ Sở, trong khuôn viên Po Nagar,
Senapati Par cho xây thêm hai tháp mới về phía tây và tây-nam, thời
gian sau xây thêm ba tháp khác : một tại khu trung tâm thờ Sri
Shambu, một phía tây-bắc thờ Shandhaka và một phía nam thờ Ganesha.
Mặc dù vậy, trung tâm chính trị và tôn giáo vẫn được duy tŕ tại
Virapura, thủ phủ Panduranga.
Dưới thời Vikrantavarman III, Hoàn Vương Quốc rất là giàu có, quân
lực rất là hùng mạnh. Một bia kư, t́m được tại tháp Po Nagar, mô tả
Vikrantavarman III như sau : "[Người] đeo những dây vàng có đính
ngọc trai và ngọc bích, giống như mặt trăng tṛn đầy đặn, che một
chiếc lọng trắng bao phủ cả bốn phương trời bởi v́ lọng c̣n sâu hơn
cả đại dương, thân thể [Người] trang sức phủ kín bởi vương miện, đai,
ṿng, hoa tai, những tràng hồng ngọc... bằng vàng, từ đó phát ra ánh
sáng giống như những cây leo [sáng lấp lánh]". Thư tịch cổ Trung Hoa
(Cựu Đường thư) mô tả thêm : "[Vua] mặc áo cổ bối bạch diệp...
trên đeo thêm trân châu, dây chuyền vàng làm thành chuỗi...".
Đẳng cấp quí tộc và phụ nữ cung đ́nh cũng đeo trang sức quí : "Phu
nhân mặc vải cổ bối triệu hà... ḿnh trang sức dây chuyền vàng,
chuỗi ngọc trai". "[...] Quân đội được trang bị nhiều loại vũ khí
khác nhau...".
Với thời gian, Hoàn Vương Quốc trở thành nạn nhân của sự giàu có của
ḿnh, các thế lực lân bang liên tục tràn váo cướp phá. Trong suốt
hơn 20 năm, từ 854 đến 875, quân của đế quốc Angkor đă nhiều lần
tiến đánh Hoàn Vương Quốc, chiếm nhiều vùng đất rộng lớn dọc tả ngạn
sông Đồng Nai, đôi khi c̣n băng cao nguyên Langbian đột nhập vào
lănh thổ Panduranga cướp phá.
Vikrantavarman III mất năm 854 (được thờ dưới pháp danh
Vikrantasvara), không người kế tự, nội bộ triều đ́nh xảy ra tranh
chấp.
Triều vương thứ sáu (859-991) : vương triều Indrapura hay Chiêm
Thành
Sống măi trong xa hoa, vương triều Panduranga trở nên yếu đuối. Sau
hơn 20 năm chinh chiến với Angkor quyền hành trong nước lọt dần vào
tay các ḍng vương tôn miền Bắc, chính họ đă chống trả lại các đợt
xâm lăng của đế quốc Angkor.
Năm 859, một vương tôn mang nhiều chiến công, tên
Laksmindra Bhumisvara Gramasvamin, được triều thần đưa lên ngôi,
hiệu Indravarman II.
Mặc dù là truyền nhân đích tôn của các đời vua trước (ông nội là
Rudravarman II, cha là Bhadravarman II), Indravarman II lên ngôi do
"dày công tu luyện, do sức mạnh của trí tuệ trong sáng", v́ Indra là
thần trên các vị thần. Sau khi qua đời ông được dân chúng thờ dưới
tên Paramabuddhaloka.
Dưới thời Indravarman II, trung tâm quyền lực chính trị và tôn giáo
được dời lên phía Bắc tại Indrapura - thành phố Sấm Sét (nay là Đồng
Dương, cách Đà Nẵng hơn 50km về phía nam) trên bờ sông Ly Ly (một
nhánh sông Thu Bồn, cách thánh địa Trà Kiệu 15 cây số). Vị trí của
Indrapura rất thuận lợi trong việc pḥng thủ chống lại những cuộc
tiến công của quân Khmer và quân Nam Đảo.
Phật giáo Đại Thừa cũng phát triển mạnh trong giai đoạn này, nhiều
nhà sư Trung Hoa được phép đến Indrapura truyền đạo, xây chùa chiền
và thu nạp giáo đồ, nhưng không mấy thịnh hành. Indravarman II là
người đă dung ḥa được hai tôn giáo lớn nhất thời đó (Bà La Môn và
Phật giáo) trong dân gian và xă hội : nhiều Phật viện (Vihara), Phật
đường, tu viện, đền thờ được xây dựng khắp nơi lănh thổ, một bảo
tháp dài 1.330m tên Laksmindra Lokesvara được xây dựng cạnh đền thờ
Bà La Môn (một tượng Buddha thời này, cao 1,14m, được t́m thấy tại
Đồng Dương năm 1978).
Đẳng cấp tu sĩ (Brahman) rất được trọng vọng, đạo Bà La Môn rất
thịnh hành. Indravarman II rất tự hào v́ các đại thần dưới quyền đều
là những người Brahman và Ksatriya, và chính nhà vua cũng là một
Brahman.
Quốc hiệu Campapura (đất nước của người Chăm, theo tiếng Phạn cổ)
được Indravarman II chính thức sử dụng khi tôn vinh đất nước ḿnh.
Sử sách Trung Hoa phiên âm là Chang Cheng (phiên âm từ chữ Campapura
hay Campa mà ra), tiếng Việt là Chiêm Thành, tiếng Tây phương là
Champa. Trong thực tế, Campa là tên của một cây có hoa màu trắng,
nhụy vàng, hương rất thơm. Tiếng Việt gọi là hoa đại hay bông sứ.
Loài hoa này được trồng quanh cung điện của các vua Chăm và đền thờ
của người Chăm ; sau này được trồng tại nhiều nơi thờ tự của các tôn
giáo khác ở miền Trung và các gia trang có sân vườn rộng. Mỗi dịp lễ
lạc người Chăm thường hái bông sứ dâng lên bàn thờ, mùi hương tỏa
ngát không gian của đền thờ. Campa cũng là tên một địa danh miền bắc
Ấn Độ, trên con sông Hasdo, tỉnh Madhya Pradesh, gần thành phố
Bhagalpur (Bilaspur). Thời đó, v́ mến mộ văn minh và văn hóa Ấn Độ,
các vị lănh đạo Champa thường đặt tên triều vương, lănh thổ và thành
phố của ḿnh theo tên các địa danh đă có tại Ấn Độ.
Chiêm Thành dưới thời Indravarman II rất là hùng mạnh, hai miền Nam-Bắc
đă được thống nhất trong ḥa b́nh. Trong những năm 861, 862 và 865,
quân Chiêm Thành tổ chức nhiều cuộc tấn công vào phủ An Nam, mang về
rất nhiều lương thực và của cải. Năm 889 vua Angkor là Yasovarman
hai lần tiến quân vào Chiêm Thành nhưng đều bị đánh bại và chết
trong rừng sâu (năm 890), một phần đất trên Đồng Nai thượng và lănh
thổ đông-bắc Angkor (cao nguyên Rattanakiri và Mondolkiri) đặt dưới
quyền kiểm soát của Chiêm Thành.
Năm 890 Indravarman II mất, cháu là hoàng thân Jaya Sinhavarmadeva
Campapura Paramesvara kế vị, hiệu Jaya Sinhavarman I. Tân vương được
nhiều danh tướng Ajna Jayendrapati, Ajna Narendranpavitra, Sivacarya,
Po Klun Pilih Rajadvara… tận t́nh giúp đỡ. Nhà vua tiếp tục cho xây
thêm nhiều đền đài tráng lệ, tu viện Phật giáo quanh thánh địa Đồng
Dương. Tượng nữ thần Bhagavati được cho đúc lại bằng vàng thờ trong
chính điện tháp Yan Po Nagara.
Uy quyền của vương triều Indrapura nới rộng lên đến Tây Nguyên. Cao
nguyên Darlac-Kontum do một tiểu vương người Thượng, tên
Mahindravarman, cai trị. Nhiều đền đài Chăm được xây cất trong thung
lũng sông Bla gần Kontum (đền Kon Kor được xây cất năm 914 thờ thần
Mahindra Lokesvara).
Jaya Sinhavarman I mất năm 898, con là Jaya Saktivarman lên thay
(899-901). Những vị vua tiếp theo - Bhadravarman II (901-918) và con
là Indravarman III (918-959) - tiếp tục sự nghiệp của cha ông trong
lănh vực tôn giáo : đạo Bà La Môn trở thành quốc giáo.
Qua trung gian những gia đ́nh hoàng tộc gốc Nam Đảo - Rahdar Ahmed
Abu Kamil, Naqid Amr Ali - trốn chạy chính sách cai trị khắc nghiệt
của những tiểu vương Java, được tể tướng Po Klun Pilih Rajadvara
nhận vào tị nạn, đạo Hồi chính thức được phổ biến trong chốn hoàng
gia. Với thời gian, đạo Hồi được đông đảo quần chúng b́nh dân tin
theo. Nhân cơ hội, những gia đ́nh quí tộc tị nạn này truyền bá luôn
văn minh và văn hóa Nam Đảo, đặc biệt là lối kiến trúc và cách điêu
khắc, cho nghệ nhân Chăm. Vào thời này, người Chăm đă nắm vững kỹ
thuật đi biển, biết buôn bán và giao hảo tốt với các quốc gia lân
bang : Trung Hoa và Java.
Vừa lo ngại vừa ganh tị sức mạnh và sự giàu có của Chiêm Thành, năm
945 vua Khmer là Rajendravarman II cùng binh sĩ băng rừng từ Angkor
vào Kauthara, cướp tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng - vị thần bảo
vệ xứ sở và là biểu tượng uy quyền của Chiêm Thành - trong tháp Yan
Po Nagara mang về nước ; từ sau ngày đó, vương triều Indravarman III
suy yếu hẳn.
Dưới thời Indravarman III, biến cố quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn
vong của vương quốc Chiêm Thành là sự h́nh thành một vương quốc độc
lập phía Bắc : nước Đại Cồ Việt, nhưng chỉ thực sự để lại hậu quả
qua các triều vua sau. Năm 959, Indravarman III từ trần, con là Jaya
Indravarman I lên thay năm 960.
Việc làm đầu tiên của tân vương là cho tạc lại tượng nữ thần
Bhagavati bằng đá hoa cương để dân chúng đến thờ, năm 965 mới xong.
Năm 972, Jaya Indravarman Iraq từ trần, con là Phê Mi Thuế,
Paramesvaravarman I (972-982), lên thay.
Sinh hoạt chính trị của Chiêm Thành trong giai đoạn này rất
là hỗn độn, năm 978, một người tên Kinan Tache mang phẩm vật sang
Trung Hoa triều cống để được phong làm vua Chiêm Thành nhưng không
được nhà Tống nh́n nhận. Trong lúc đó, lợi dụng t́nh trạng loạn lạc
tại Đại Cồ Việt (loạn thập nhị sứ quân, từ 944 đến 972), quân Chiêm
Thành nhiều lần tiến lên đánh phá những quận huyện ở phía nam, gây
nhiều thiệt hại nhân mạng và tài sản.
Năm 979, hay tin Đinh Tiên Hoàng bị ám sát, Ngô Nhật Khánh, một sứ
quân Đại Cồ Việt, thuyết phục vua Paramesvaravarman I, dẫn hơn một
ngàn chiến thuyền từ Chiêm Thành vào chiếm Hoa Lư, nhưng không thành.
Ngô Nhật Khánh bị giết, quân Chăm phải rút về.
T́nh h́nh chính trị của Đại Cồ Việt trong giai đoạn này cũng không
lấy ǵ làm sáng sủa : triều đ́nh không có vua, Hạng Lang tức Đinh Vệ
Vương c̣n quá nhỏ (6 tuổi), mẹ là thái hậu Dương Vân Nga không thể
một ḿnh đảm đương việc nước v́ phía Bắc quân Tống lăm le tiến xuống,
phía Nam quân Chiêm sẵn sàng tiến lên. Năm 980, Dương Vân Nga nhường
cho Lê Hoàn làm vua Đại Cồ Việt, hiệu Lê Đại Hành hoàng đế. Tân
vương sai sứ sang Trung Hoa báo tin, dâng vài tù binh Chiêm vừa bắt
được làm quà biếu. Vua Tống nhận tặng phẩm nhưng lại muốn duy tŕ
ảnh hưởng tốt với Chiêm Thành, sai thống đốc Quảng Châu cho những tù
binh Chiêm ăn uống rồi thả về nước.
Bực ḿnh trước tin này, Lê Đại Hành sai Từ Mục và Ngô Tử Canh sang
Chiêm Thành yêu cầu vua Chiêm sang bái kiến.
Paramesvaravarman I, sau khi nhận lại tù binh từ nhà Tống và tin
chắc sẽ được Bắc triều bênh vực nếu bị Lê Đại Hành tấn công, đă
không những không sang bái kiến mà c̣n bắt giam sứ giả. Lê Đại Hành
rất giận nhưng chưa có phản ứng.
Sau khi đánh đuổi quân Tống ra khỏi lănh thổ phía Bắc cuối năm 980,
Lê Đại Hành củng cố lại lực lượng chẩn bị tấn công Chiêm Thành. Đầu
năm 982, nhà vua dẫn đặi quân tiến vào Indrapura. Đây là cuộc Nam
chinh đầu tiên của người Việt. Paramesvaravarman I tử trận ngay tại
cửa thành, chấm dứt triều đại Indrapura.
Lê Đại Hành tiến vào kinh đô Indrapura (Đồng Dương), giết tướng giữ
thành Tỳ My Thuế, bắt sống hàng trăm vũ nữ trong hậu cung, tịch thu
rất nhiều báu vật mang về nước. Bên ngoài binh lính Việt đốt phá
thành tŕ, san phẳng lăng tẩm các vị vua Chiêm, bắt theo hàng ngàn
tù binh, trong đó một nhà sư Ấn Độ tên Thiền Trước Tăng (bhiksu).
Lănh thổ Bắc Chiêm Thành (B́nh Trị Thiên) bị chiếm đóng từ 982 đến
983.
Sau chiến thắng này, văn hóa và nghệ thuật (nhất là âm nhạc) Chiêm
Thành chính thức được du nhập vào đời sống cung đ́nh và dân gian
Việt. Đền đài, dinh thự tại Hoa Lư được trang trí bằng những chiến
lợi phẩm do các thợ Chiêm Thành chạm trổ và sản xuất ra.
Indravarman IV (Xá Lợi Đà Ngô Nhựt Hoàn), được tôn lên làm vua khi
Paramesvaravarman I vừa tử trận, chạy vào Panduranga lánh nạn và
chịu triều cống nhà Lê mới được yên. Năm 985 Nhật Hoàn sai pháp sư
Kinkoma sang Trung Hoa xin nhà Tống cứu viện nhưng được khuyên là
nên duy tŕ quan hệ tốt với Đại Cồ Việt.
Nội bộ nhà Lê cũng xảy ra tranh chấp về quyền lănh đạo trên lănh thổ
Bắc Chiêm Thành, người th́ đề nghị cai trị trực tiếp, người th́
khuyên tản quyền. Cuối cùng một giải pháp trung gian được áp dụng :
nơi nào c̣n đông đảo người chăm cư ngụ th́ giao cho người địa phương
quản lư, nơi nào đông dân cư gốc Kinh sinh sống th́ triều đ́nh Đại
Cồ Việt đặt quan cai trị trực tiếp. Sự kiện này chứng tỏ sự cộng cư
giữa các nhóm cư dân địa phương sau khi Lâm Ấp giành được độc lập
vẫn c̣n khắng khít, nhưng từ khi người Kinh bắt đầu cai trị trực
tiếp lănh thổ Bắc Chiêm Thành chống đối bắt đầu xảy ra.
Năm 983, một quản giáp (trưởng làng) người Kinh sinh sống trên lănh
thổ Bắc Chiêm Thành tên Lưu Kỳ Tông nổi lên chém đầu một người con
nuôi của Lê Đại Hành, lúc đó là một quan cai trị trực tiếp, rồi xây
thêm thành lũy quanh Phật Thành (Fo Che) pḥng thủ lănh thổ Bắc
Chiêm Thành, mộ hơn 10.000 người và nhiều voi ngựa đánh Đại Cồ Việt.
Lê Đại Hành tiến quân xuống đánh nhưng cuộc chiến đă không xảy ra,
v́ sau khi vượt núi Đông Cổ và sông Bà Ḥa (Thanh Hóa), đại quân của
nhà Tiền Lê chịu không nổi sương lam chướng khí phải rút về.
Năm 986, hay tin vua Indravartman IV (Ngô Nhựt Hoàn) của người Chăm
từ trần, Lưu Kỳ Tông liền tự xưng vương và xin nhà Tống thừa nhận.
Sự tiếm quyền này xúc phạm đến tín ngưỡng của người Chăm v́ Lưu Kỳ
Tông không xuất thân từ vương tộc hay đẳng cấp tôn giáo nào, và là
một đe dọa cho cộng đồng người Hoa địa phương. Một người Chăm gốc
Hoa tên Poulo Ngo dẫn theo khoảng 150 người đổ bộ lên đảo Hải Nàm và
vùng duyên hải nam Quảng Châu tị nạn. Năm 988, thêm 300 người khác
do Ho Siuan dẫn đầu đổ bộ lên bờ biển Quảng Châu. Người Chăm gốc Nam
Đảo c̣n lại theo Bằng Vương La (Cu-th́-lợi Hà-thanh-bài Ma-la), một
người Champa sinh sống tại Phật Thành, kháng chiến chống Lưu Kỳ
Tông.
T́m
hiểu cộng đồng người Chăm tại Việt Nam
Thời kỳ xung
đột
Biến cố Đại Cồ Việt, năm 939, thay đổi hẳn tương quan lực lượng giữa
các thế lực trong vùng. Do chưa bao giờ là một định chế chính trị có
tổ chức, các vương quyền người Việt chọn khuôn mẫu Trung Hoa để quản
trị đất nước. Với thời gian, chọn lựa này vô t́nh quyết định luôn
chỗ đứng của hai nền văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ trong khu vực ;
người Pháp đặt tên vùng đất này là bán đảo Ấn Hoa (Indochine), không
phải là Đông Dương (Biển Đông) như chúng ta dịch lại. Cũng do chưa
bao giờ là một thế lực hùng mạnh có thể bành trướng sang Trung Hoa,
người Việt thường tiến về phía Nam để tránh nạn khi có nội chiến hay
t́m đất mới để khai phá. Cuộc Nam tiến tuy không rầm rộ nhưng tiệm
tiến này thu hẹp dần lănh thổ của người Chiêm Thành, để rồi mất hẳn
dưới thời Gia Long. Và cũng do có một vị trí địa dư đặc biệt, tranh
chấp Bắc-Nam và nhu cầu thống nhất lănh thổ đă xảy từ thời vương
quốc Chiêm Thành chứ không phải mới đây giữa người Việt Nam với nhau.
Triều vương thứ bảy (991-1044) : vương triều Vijaya
Năm 989 Lưu Kỳ Tông, một người Kinh tự nhận là vua lănh thổ Chiêm
Thành phía Bắc từ năm 983, bị Bằng Vương La (Cu-th́-lợi Hà-thanh-bài
Ma-la), một vương tôn Chăm phía Nam, nổi lên lật đổ và được dân
chúng tôn lên làm vua, hiệu Harivarman II (Dương-to-pai hay Dương Đà
Bài). Harivarman II xưng vương tại Phật Thành (Vijaya), nhưng tổ
chức vương quyền vẫn đặt tại Indrapura (Đồng Dương), ư muốn đề cao
nguồn gốc thần quyền của ông từ bộ tộc Dừa. Harivarman II được nhiều
sử gia xác nhận là người sáng lập vương triều thứ bảy của Chiêm
Thành.
Năm 990, một người Việt tên Dương Tiến Lộc - làm quan quản giáp đi
thu thuế tại châu Ái và châu Hoan (Thanh Hóa, Nghệ An) - hô hào
người Kinh và Chăm nổi lên chống lại nhà Lê. Dương Tiến Lộc có yêu
cầu Harivarman II giúp đỡ nhưng bị từ chối. Hay tin có phản loạn, Lê
Đại Hành liền mang quân vào đánh dẹp, Dương Tiến Lộc cùng những
người phản loạn bị giết chết, hơn 360 tù binh Chăm bị bắt mang về
miền Bắc, một số được tuyển làm nài điều khiển voi trong binh lực
nhà Lê.
Năm 992, quan hệ giữa nhà Lê và vương triều Vijaya trở nên b́nh
thường và, để tỏ ḷng biết ơn Harivarman II từ chối không ủng hộ
cuộc phản loạn của Dương Tiến Lộc, Lê Đại Hành trả tự do cho hơn 300
tù binh Chăm về nước. Cũng nên biết làn ranh phân chia Đại Cồ Việt
và Chiêm Thành trong giai đoạn này được xác định tại đèo Ngang, tức
địa phận Di Luân, gần cửa sông Gianh (Quảng B́nh). Cùng thời gian
này, quan hệ giữa Chiêm Thành và Trung Hoa trở nên b́nh thường,
Harivarman II được nhà Tống công nhận, hai bên trao đổi nhiều phẩm
vật quí giá. Nhân dịp này Harivarman II yêu cầu vua Tống giao trả
những người Chăm tị nạn tại Quảng Châu trước đó (986-988) về lại
Chiêm Thành.
Mối giao hảo thân thiết giữa Chiêm Thành và Trung Hoa không làm vua
Lê hài ḷng. Năm 994, Lê Đại Hành cho người vào Viyaja yêu cầu
Harivarman II triều cống nhưng bị từ chối, vua Lê liền cất quân sang
đánh. Quân Chiêm tuy có đẩy lui được cuộc trừng chinh này nhưng hao
tổn cũng khá nhiều, Harivarman II chấp nhận sẽ triều cống trở lại.
Nhưng Lê Đại Hành yêu cầu phải triều cống tức khắc và buộc
Harivarman II phải đích thân sang bái kiến mới vừa ḷng. Vua Chiêm
liền sai một thân tín tên Chế Đông sang thay mặt, Lê Đại Hành trách
là vô lễ ; Harivarman II phải sai cháu là Chế Cai sang chầu và hứa
sẽ không quấy phá vùng biên giới nữa mọi việc mới yên. Tuy vậy trong
những năm 995 và 997, do thiếu đói v́ mất mùa quân Chiêm có tràn
sang cướp phá một số làng xă dọc vùng biên giới rồi rút về liền. Lê
Đại Hành cũng chỉ củng cố lại một số địa điểm pḥng thủ chứ không
trả đũa ; một số gia đ́nh nông dân nghèo gốc Kinh được đưa vào lập
nghiệp trên một phần lănh thổ Bắc Chiêm Thành, sau này có tên là Bố
Chánh, Địa Lư và Ma Linh.
Năm 999, Harivarman II mất, con là Po Alah (Po Ovlah hay Âu Loah) -
một tín đồ Hồi giáo trung kiên đă từng sang La Mecque hành hương -
lên thay, hiệu Yanpuku Vijaya (Dương-phổ-cu Bi-trà-xá-lợi). Trung
tâm quyền lực đặt tại Vijaya, tức thành phố Chiến Thắng (c̣n có tên
là Phật Thệ, Phật Thành hay Chà Bàn, Đồ Bàn, nay là thị trấn An Nhơn).
Toàn bộ vương tộc tại Indrapura (Đồng Dương) được đưa về Sri Bini
(Qui Nhơn) định cư, v́ nơi này ít bị uy hiếp hơn khi có chiến tranh.
Dưới thời Yanpuku Vijaya (999-1010), đạo Hồi cùng với đạo Bà La Môn
phát triển mạnh mẽ. Tân vương tổ chức lại quân đội và cử nhiều phái
đoàn sang Trung Hoa thông sứ với hy vọng được nhà Tống bảo vệ khi bị
Đại Cồ Việt tấn công.
Năm 1005, hay tin Lê Đại Hành mất, Yanpuku Vijaya mang quân tấn công
Đại Cồ Việt, lúc đó do Lê Long Đĩnh (1005-1009), một hôn quân, cai
trị. Hai bên giữ thế giằng co, bất phân thắng bại trong 40 năm
(1005-1044). Yanpuku Vijaya mất năm 1010, Sri Harivarmadeva lên thay,
hiệu Harivarman III. Tân vương cai trị đến năm 1018 th́ mất, Chế-mai-pa
Mộ-tài (Chemeipai Moti) lên thay, hiệu Paramesvaravarman II.
Trong lănh thổ người Kinhù, Lư Công Uẩn lật đổ nhà Lê, thành lập nhà
Lư (năm 1010), hiệu Thái Tổ, đổi quốc hiệu là Đại Việt. E ngại uy
dũng và mến mộ đức độ của Lư Thái Tổ, Chiêm Thành và Chân Lạp cử
người sang triều cống. Giao hảo giữa Chiêm Thành và Đại Việt rất là
tốt đẹp, nhưng chỉ kéo dài được mười năm. Năm 1020, do mất mùa và
đói kém, quân Chiêm Thành tiến chiếm hai châu Bố Chánh và Ma Linh (Quảng
B́nh). Năm 1021, thái tử Phật Mă, trưởng nam của Lư Thái Tổ, chiếm
lại hai châu bị mất. Năm 1026, quân của thái tử Phật Mă chiếm luôn
châu Điền (Thừa Thiên). Lư Thái Tổ mất năm 1028, Phật Mă lên thay,
xưng hiệu Thái Tôn. Vua Chiêm Thành không những không chịu thông sứ
với Đại Việt mà c̣n xua quân đánh phá các làng ven biển tại châu
Điền, châu Ái (Thanh Hóa) và châu Hoan (Nghệ An). Sau khi củng cố
lại lực lượng tại châu Hoan, Lư Thái Tôn sát nhập ba châu Bố Chánh,
Địa Lư và Ma Linh vào lănh thổ Đại Việt và cử vơ quan vào trấn thủ.
Năm 1030, Paramesvaravarman II qua đời, triều đ́nh Viyaja rối loạn.
Một vương tôn tên Chế Li (Cheli) tiếm ngôi, xưng hiệu Vikrantavarman
IV. Nội chiến liền xảy ra, rất là khốc liệt. Con cháu
Paramesvaravarman II nổi lên chống lại. Năm 1038, con Vikrantavarman
IV là hoàng tử Địa Bà Thích cùng với một số thủ hạ trong binh đội
địa phận Bố Chánh (hơn 100 người do các tướng Bố Cả, Lan Đồ Thích,
Lạc Thuẩn, La Kế và A Thát Thích chỉ huy) nổi lên giành ngôi với vua
cha nhưng không thành, phải chạy vào Đại Việt xin tị nạn. Tại đây
Địa Bà Thích hai lần xin nhà Lư (1039 và 1040) đưa về làm vua, nhưng
không được chấp nhận.
Trước đe dọa của chính con ḿnh, năm 1401 Vikrantavarman IV - sau
khi liên minh được với vương quốc Angkor là vua Surayavarman I - yêu
cầu nhà Lư giao hoàng tử Địa Bà Thích phản nghịch về xử tội, nhưng
không thành. Quân Chăm liền tấn công Đại Việt, Vikrantavarman IV bị
giết ngay trong trận đầu, con là thái tử Sạ Đẩu (Po Tik) lên thay,
hiệu Jaya Sinhavarman II. Tân vương sai sứ sang Trung Hoa xin vua
Tống tấn phong đồng thời cũng xin được bảo vệ, nhờ đó được yên b́nh
vài năm. Năm 1043, quân Chiêm dùng thuyền đổ bộ vào một số làng xă
ven biển đánh phá và chỉ rút lui khi quân Lư tiến tới.
Năm 1044, viện cớ Chiêm Thành không chịu triều cống từ hơn 16 năm
qua và c̣n quấy rối lănh thổ, Lư Thái Tôn dẫn đầu một đại binh gồm
10.000 thủy quân xuống đánh. Jaya Sinhavarman II vừa tổ chức phản
công vừa cho người sang Trung Hoa cầu cứu. Quân Chiêm chận quân Đại
Việt tại phía nam sông Thu Bồn (Quảng Nam) nhưng bị thua to: gần
30.000 binh sĩ và hơn 60 voi trận phơi thây trên chiến trường, hơn
5.000 quân Chiêm và 30 voi trận bị bắt sống. Jaya Sinhavarman II
cũng bị tử thương trong trận này, tướng Quách Gia Gi (Isvaras) liền
cắt lấy đầu mang sang trại vua Lư làm lễ vật xin hàng. Lư Thái Tôn
thấy quân Chiêm bị giết quá nhiều liền ra lệnh không cho binh sĩ
giết người vô cớ. Quân Đại Việt tiếp tục tiến xuống phía Nam, chiếm
đế đô Phật Thệ (Vijaya hay Đồ Bàn), bắt được vương phi Mỹ Ê cùng
nhiều cung nữ và nghệ nhân mang về đất Bắc.
Trên đường về nước, khi đến sông Lư Nhân (sông Hương), Lư Thái Tôn
cho người mời Mỹ Ê sang chầu nhưng bà nhảy xuống sông tự tử để giữ
tiết với chồng. Quư mến sự thủy chung này, vương phi Mỹ Ê được Lư
Thái Tôn phong tước Hiệp chánh hộ thiên và cho lập đền thờ. Những tù
binh Chiêm Thành sau đó được cấp ruộng đất và cho định cư tại Hưng
Hóa (Nghệ An) trong hai xă Vĩnh Khương và Đăng Châu. Nông dân Đại
Việt cũng di cư vào các vùng đất mới tại Bố Chánh, Địa Lư và Ma Linh
lập nghiệp.
Trong số tù binh Chăm có một thiền sư Phật giáo tên Thảo
Đường. Tăng sư Thảo Đường lập ra phái Thiền tông thứ ba tại Đại Việt.
Nhiều chùa Phật giáo Tiểu Thừa tại miền Bắc Việt Nam (chùa Vạn Phúc
ở Bắc Ninh, chùa Thiên Phúc ở Sơn Tây) do nhân công gốc Chăm xây
dựng. Thợ Chăm dạy cho thợ Đại Việt cách đúc tượng Phật và xây cất
chùa kiểu Ấn Độ. Nghệ nhân Chiêm Thành dạy cho các cung nữ triều
đ́nh nhà Lư các điệu nhạc Chiêm Thành (các điệu nam ai, nam oán...).
Triều vương thứ tám (1044-1074) : loạn sứ quân
Quách Gia Gi là một vương tôn thuộc đẳng cấp Ksatriya (chiến sĩ).
Sau khi đầu hàng nhà Lư, ông được triều thần tôn lên làm vua năm
1044, hiệu Jaya Paramesvaravarman I. Trước một đất nước bị kiệt quệ
v́ chiến tranh, Quách Gia Gi một mặt phải giao hảo tốt với Trung Hoa
và Đại Việt để được yên thân, mặt khác tập trung sức lực c̣n lại
b́nh định loạn lạc ở phía nam. Trước kia, theo thỏa hiệp giữa
Vikrantavarman IV và Surayavarman I (vương quốc Angkor), quân Khmer
vào giúp Chiêm Thành dựng trại tại Panduranga, khi Vikrantavarman IV
mất quân Khmer không những không chịu rút quân về mà c̣n muốn chiếm
giữ luôn lănh thổ Panduranga.
Năm 1050, viện cớ một tiểu vương tại Panduranga không tuân phục
triều đ́nh trung ương, Jaya Paramesvaravarman I cùng cháu là hoàng
thân Yavaraja Mahasenapati mang quân chinh phạt và cũng nhân dịp
đánh đuổi quân Khmer ra khỏi lănh thổ. Tiểu vương Panduranga thua
trận, một số binh sĩ và dân chúng đất Pănrăn (Phan Rang) phải trốn
trong các hầm đất, hang động hoặc chạy lên núi trốn, một số khác
chạy theo quân Khmer về bên kia biên giới lánh nạn. Toàn bộ tài sản,
súc vật của dân chúng Pănrăn bị tịch thu mang về Vijaya làm chiến
lợi phẩm ; những tù binh bị mang về làm nô lệ và hạ xuống làm đẳng
cấp Sudra. Tiểu quốc Panduranga bị đặt dưới quyền cai trị trực tiếp
của triều đ́nh trung ương Vijaya. Trong giai đoạn này, người Chăm
chạy loạn lên Tây Nguyên (đặc biệt là cao nguyên Đắc Lắc) lánh nạn
một số đă ở lại định cư vĩnh viễn, ḥa trộn với những nhóm dân cư có
trước để thành người Rhadé.
Dẹp xong loạn phía Nam, Jaya Paramesvaravarman I xây dựng lại đất
nước. Nhà vua cho dựng lại các tượng đài bằng đá hoa cương trong
tháp Po Nagar, cấp cho những vị tu sĩ giữ đền 50 nô lệ Chăm, Khmer,
Hoa, Miến, Xiêm, 15 cân vàng, 15 cân bạc, và nhiều vật dụng quí giá
khác. Nhà vua mất năm 1060, con trai trưởng lên kế vị hiệu
Bhadravarman III, trị v́ được một năm (1060-1061) th́ mất.
Năm 1061, em trai của Bhadravarman III là Chế Củ lên thay, hiệu
Rudravarman III. Rudravarman III là một người tinh khôn, một mặt
giao hảo b́nh thường nhà Lư để tránh bị nghi ngờ, mặt khác chuẩn bị
quân sĩ tiến đánh Đại Việt. Năm 1068, Rudravarman III mang quân đánh
vào các làng của người Việt tại Ma Linh và Địa Lư, quân Lư thua phải
rút lên phía Bắc.
Năm 1069, Lư Thánh Tôn (lên ngôi năm 1054) cùng Lư Thường Kiệt mang
30.000 quân và 200 chiến thuyền tiến chiếm Sri Bini (Qui Nhơn), rồi
đế đô Vijaya (B́nh Định), giết tướng giữ thành là Bố B́ Đà La trên
sông Tu Mao (nay là Hà Giao). Rudravarman III băng rừng chạy sang
Chân Lạp tị nạn. Tại đây hoàng gia Chăm bị người Khmer bạc đăi,
Rudravarman III về lại Vijaya chịu cho quân Đại Việt bắt sống, cùng
với 3.000 quân và gia quyến, hơn là qui thuận Angkor. Tuy vậy thành
Vijaya vẫn bị quân Đại Việt tràn vào đốt phá trước khi rút về nước.
Dân số Vijaya lúc đó được ghi nhận là hơn 2.560 gia đ́nh. Để chuộc
lại tự do, Rudravarman III xin dâng ba tỉnh phía bắc Chiêm Thành gồm
Bố Chánh (hay Bố Chính), Địa Lư và Ma Linh (Quảng B́nh và bắc Quảng
Trị ngày nay). Lănh địa Indrapura bị xóa tên và trở thành ba tỉnh
của Đại Việt. Nhà Lư đổi tên Ma Linh thành châu Minh Linh, Địa Lư
thành châu Lâm B́nh, châu Bố Chánh được giữ nguyên tên.
Thật ra ba châu Bố Chánh, Địa Lư và Ma Linh đă thuộc về Đại Việt từ
lâu, từ đời nhà Tiền Lê (năm 982), cách đó gần 80 năm. Do sức ép về
dân số, nhiều gia đ́nh nông dân nghèo khó không có đất canh tác trên
đồng bằng sông Hồng và sông Cả đă tự động di cư đến đây rồi khai phá
đất hoang và canh tác hoa mầu. Trong cuộc sống cộng cư, với thời
gian, có thể những nhóm di dân cư này đă ḥa trộn với các nhóm dân
cư gốc Kinh có mặt từ trước, khi vương quốc Lâm Ấp được thành h́nh,
hoặc với người Chăm địa phương từ nhiều đời để tạo thành các nhóm "dân
miền Trung". Yếu tố Chăm do đó không c̣n mạnh mẽ, nếu không muốn nói
là mất hẳn ảnh hưởng trên vùng đất này, nhường chỗ cho yếu tố Kinh,
đầy sức sống và đông đảo hơn. Nói một cách khác, sự dâng đất này là
một h́nh thức công nhận quyền sở hữu chính thức của nhà Lư trên một
vùng đất đă thoát khỏi sự kiểm soát của chính quyền trung ương Chiêm
Thành từ lâu. Sự dâng đất này c̣n ngụ ư là Chiêm Thành sẽ không mang
quân sang quấy phá nữa, v́ thần linh bảo vệ hoàng tộc và đất đai
không c̣n nữa. Đất ở ba châu này thật ra có ph́ nhiêu hơn ở vùng
Thanh Hóa (tức châu Điền), nhưng không ph́ nhiêu bằng đất ở
Amavarati (Quảng Nam). Sự tranh chấp giữa Đại Việt và Chiêm Thành về
sau trên phần lănh thổ này v́ tự ái dân tộc nhiều hơn v́ sự mầu mỡ
của đất đai.
Sau khi nhượng hẳn cho Đại Việt ba châu phía Bắc, Rudravarman III
mất uy tín trước các tiểu vương. Chiêm Thành bị loạn sứ quân, không
ai c̣n nghe ai nữa. Hơn mười tiểu vương tự tuyên bố độc lập, kẻ mạnh
mang quân đi đánh tiểu vương quốc yếu để mở rộng lănh thổ hoặc gây
thanh thế. Các tiểu vương ở phía Nam, liên minh với đế quốc Angkor,
biến Panduranga thành trung tâm chống lại vương triều và các tiểu
vương phía Bắc. Năm 1074, buồn phiền trước cảnh đất nước loạn lạc và
bị các tiểu vương phía Nam xua đuổi, Rudravarman III (Chế Củ) dẫn
gia đ́nh sang Đại Việt xin tị nạn và tan biến luôn trong xă hội
người Kinh.
Triều vương thứ chín (1074-1139) : tranh chấp với Đại Việt
Tại Panduranga, một hoàng thân xuất thân từ Panduranga tên Thăn (c̣n
gọi là Yan Visnumurti, Madhavamurti hay Devatamurti, tiếng Việt là
Thân), cùng em là hoàng tử Păn (tên Việt là Phan), đă lần lượt chinh
phục các tiểu vương sứ quân, thống nhất lại đất nước. Năm 1074, Thăn
được quần thần tôn lên làm vua, hiệu Harivarman IV, mở đầu triều
vương thứ chín.
Thăn là tên một hoàng tộc thuộc bộ tộc Cau mà dân chúng Panduranga
cho là ḍng vương tôn chân truyền của vương quốc Champa. Chính v́
thế Harivarman IV rất tự hào về nguồn gốc xuất thân của ḿnh, v́
luôn tự nhận là sự kết hợp của hai bộ tộc lớn nhất của Chiêm Thành:
cha là Pralaysvara Dharmaraja, ḍng Narikelavansa thuộc đẳng cấp
Ksatriya, bộ tộc Dừa ở Amaravati ; mẹ thuộc ḍng Kramukavansa, đẳng
cấp Brahman, bộ tộc Cau ở Panduranga. Sở dĩ có sự giải thích dài
ḍng về nguồn gốc xuất thân này - nhất là nguồn gốc xuất thân của mẹ,
ḍng Brahman chính thống - v́ Harivarman IV biết chắc rằng trong các
sứ quân không ai hội đủ điều kiện về nguồn gốc xuất thân để có thể
được tôn lên làm vua trên toàn cơi Chiêm Thành.
Việc làm đầu tiên của Harivarman IV là phục hồi lại các đền đài đă
bị tàn phá bởi quân Đại Việt và cuộc nội chiến. Không đầy một năm
sau, Chiêm Thành trở nên hùng mạnh trở lại. Harivarman IV mang quân
sang đánh Đại Việt, giành lại phần lănh thổ mà Rudravarman III đă
nhượng trước đó.
Năm 1075, viện cớ phục hồi ngôi vua cho con cháu Rudravarman III (Chế
Củ), nhà Lư sai Lư Thường Kiệt mang quân chiếm lại ba châu vừa bị
mất. Trước sự chống trả mănh liệt của quân Chiêm, Lư Thường Kiệt
phải lui binh nhưng cho người vẽ lại địa thế rồi đưa một số nông dân
gan dạ (thật ra là những binh lính trá h́nh) vào định cư. Hay tin
quân Lư bị Chiêm Thành đánh bại, vua Tống sai Vương An Thạch mang
10.000 quân tiến qua biên giới tấn công Đại Việt. Lư Thường Kiệt lui
về bảo vệ lănh thổ phía bắc. Ba châu vừa chiếm lại lọt vào tay Chiêm
Thành.
Năm 1076, vua Tống sai Quách Qú kết hợp với Chiêm Thành và Angkor,
mang 7.000 quân tiến công Đại Việt nhưng bị Lư Thường Kiệt và Tôn
Đản đánh bại. Thừa thắng, Lư Thường Kiệt tiến xuống chiếm đóng đế đô
Phật Thành, Harivarman IV phải cùng con cái và một số thân tín chạy
lên núi trốn ; tại đây phái đoàn được các sắc dân Thượng che chỡ.
Quân Lư chỉ chịu rút khỏi Phật Thành khi Harivarman IV tuyên bố chấp
nhận triều cống nhà Lư trở lại. Hay tin này, hoàng thân Sri
Nandanavarmadeva (người Khmer) - mang quân vào miên Nam Chiêm Thành
theo lời mời của Quách Qú để chống lại nhà Lư - chiếm luôn
Panduranga. Vua Harivarman IV phải yêu cầu nhà Lư giúp đỡ. Lúc này
mặc dù đă tuổi già sức yếu, Lư Thường Kiệt vẫn phải thân chinh đi
đánh dẹp. Quân Khmer thua to bỏ chạy về nước, Harivarman IV truy
đuổi và tiêu diệt hết tại Somesvara (Biên Ḥa ngày nay). Nhà vua sai
em là hoàng tử Păên (tiếng Việt là Phan) chiếm thành Sambhupura (Sambor)
trên sông Mékong, bắt được nhiều tù binh cùng vàng bạc và của cải
mang về nước.
Dẹp xong loạn phương Nam, Harivarman IV tập trung phục hồi đất nước.
Mặc dù vẫn duy tŕ triều đ́nh tại Vijaya, nhà vua sửa sang lại các
nơi thờ phượng khác trên toàn quốc và cho xây dựng lại các thánh địa
tôn giáo tại Indrapura (Đồng Dương) và Sinhapura (Mỹ Sơn). Hoàng tử
Păn đích thân đôn đốc việc trùng tu các đền thờ tại Sinhapura (Mỹ
Sơn). Dưới triều vua Harivarman IV, Chiêm Thành trù phú trở lại, đền
đài cung điện t́m lại những nét huy ḥang tráng lệ ngày xưa.
Năm 1080, Harivarman IV nhường ngôi cho con là thái tử Văk Pulyan
Rajadvara, 9 tuổi. Tân vương lên ngôi năm 1081, hiệu Jaya
Indravarman II (Chế Ma Na). Chú là hoàng tử Păn thế quyền giám quốc.
Nhưng không biết v́ nguyên do nào mà cả triều thần và thái tử Văk
đồng tôn Păn lên làm vua, hiệu Sri Paramabodhisatva (Si-bà Ra-ma Bồ-đề
Sát-bà). Paramabodhisatva giao hảo tốt với Đại Việt, mục đích chính
của nhà vua là duy tŕ sự thống nhất của Chiêm Thành, v́ lúc đó một
tiểu vương Panduranga tên Rudravarman ly khai, không công nhận
vương quyền phương Bắc. Thật ra sự ly khai này đă xảy ra từ 16 năm
trước, nhưng triều đ́nh Vijaya v́ bận lo giải quyết những vấn đề
khác cấp bách hơn nên chưa ra tay. Tiểu vương Rudravarman bị đánh
bại, Panduranga bị dưới quyền cai trị trực tiếp của Phật Thành (Vijaya).
Năm 1086, nội bộ Chiêm Thành xảy ra nội chiến. Thái tử Văk (Jaya
Indravarman II) được triều đ́nh thúc đẩy muốn cầm quyền trở lại. Ước
muốn này gặp sự phản đối của vua Paramabodhisatva (hoàng tử Păn) -
người muốn đưa trưởng nam của ḿnh là hoàng tử Pulyan Sri Yavaraja
lên ngôi - đă t́m mọi cách loại trừ thế lực của thái tử Văk nhưng
không được. Cuối cùng Paramabodhisatva mất tích, phe của ông bị phe
của thái tử Văk giết hết. Jaya Indravarman II lên ngôi và tiếp tục
triều cống Đại Việt. Năm 1092, Jaya Indravarman II nhờ nhà Tống giúp
đ̣i lại vùng đất đă mất nhưng không kết quả.
Năm 1103, một người Việt ở phủ Diên Châu (Nghệ An) tên Lư Giác nổi
lên làm phản. Lư Thường Kiệt vào đánh, Lư Giác thua chạy sang Phật
Thành (Vijaya) thuyết phục vua Jaya Indravarman II hưng binh chiếm
lại vùng đất đă mất. Lư Thường Kiệt một lần nữa phải thân chinh đi
dẹp lọan, Jaya Indravarman II bị thua phải trả lại ba châu đă chiếm
và chịu triều cống trở lại năm 1104.
Nhà Lư liền phân chia lại các châu vừa lấy lại như sau : châu Bố
Chánh gồm huyện Nam Bố Chánh (Bố Trạch ngày nay) và huyện Bắc Bố
Chánh (Quảng Trạch và Tuyên Hóa ngày nay), châu Lâm B́nh (Địa Lư cũ)
gồm huyện Phong Lộc (Quảng Ninh ngày nay) và huyện Phong Đăng (sau
gọi là Phong Phú, tức huyện Lệ Thủy ngày nay). Hai huyện Phong Lộc
và Phong Phú là vựa lúa lớn nhất của đất Indrapura. Châu Minh Linh
(Ma Linh cũ) được chia thành hai huyện Vĩnh Linh và Gio Linh.
Năm 1113, cháu Jaya Indravarman II là Harivarman V lên ngôi, tân
vương giữ nguyên chính sách cai trị của chú, quan hệ giữa Chiêm
Thành và Đại Việt rất là thân thiết. Harivarman V trị v́ đến năm
1129 th́ mất không người kế vị, Chiêm Thành lâm cảnh loạn lạc. Vương
triều Panduranga không chịu sự cai trị của Vijaya, liên kết với Chân
Lạp đánh lại. Hai miền Nam Bắc đánh phá lẫn nhau trong suốt 10 năm
(1129-1139).
Triều vương thứ mười (1139-1145) : dưới sự khống chế của người Khmer
Năm 1129 Harivarman V mất, hoàng triều Champa tôn người con nuôi của
nhà vua tên Po Sulika lên thay, hiệu Jaya Indravarman III. V́ không
có quan hệ gia tộc trực tiếp với ḍng vua cũ, Jaya Indravarman III
phải tự nhận có quan hệ xa xôi với các triều vua trước để được dân
chúng phục tùng. Theo các bia kư đọc được tại Đồng Dương và Po Nagar,
Jaya Indravarman III sinh năm 1106, được nhận vào hoàng tộc năm 1129
tước Devaraja, được phong vương (Yuvaraja) năm 1133. Jaya
Indravarman III xây thêm nhiều tượng thần Siva, Visnu và Linga trong
những năm 1139, 1142 và 1143 tại Indrapura và Kauthara để xác nhận
ông là truyền nhân của đẳng cấp Brahman.
Cùng thời gian này, năm 1112, tại Chân Lạp vua Suryavarman II lên
ngôi. Năm sau tân vương xua quân đánh chiếm Chiêm Thành. Tham vọng
của nhà vua được thời cuộc hỗ trợ v́ bên Trung Hoa nhà Tống đang bận
chống quân Kim (Măn Châu) ; vua Lư Thần Tông chết sớm, Lư Anh Tôn
c̣n quá nhỏ, các tướng lănh tranh quyền, Đại Việt bị suy kém. Năm
1128, được Nam Chiêm Thành hỗ trợ, Suryavarman II dẫn 20.000 quân,
đi trên 700 chiến thuyền, đổ bộ vào Thanh Hóa đánh phá và cũng là
một cách răn đe Đại Việt không nên hỗ trợ Bắc Chiêm Thành, bị Angkor
liên tục đánh phá từ 1030. Không chịu đựng nổi sự hà hiếp của người
Khmer, đời sống dân chúng Chăm rất là khổ sở. Dưới sự cai trị hà
khắc của người Khmer, một số vương tôn Chăm chạy vào Đại Việt xin tị
nạn (Cụ Ông và 30 gia nhân, Kim Đ́nh A Phú và 4 gia nhân, Tư Bồ Đà
La cùng 30 gia nhân, Êng Ma và Êng Câu…). Trong những năm 1131 và
1136, quân Nam Chiêm Thành và Chân Lạp hợp nhau đánh phá Nghệ An và
bờ biển Thanh Hóa.
Năm 1132, viện cớ Jaya Indravarman III không chịu hợp tác tấn công
Đại Việt, Suryavarman II tiến quân lần nữa sang đất Chiêm Thành: đế
đô Vijaya bị chiếm năm 1145. Jaya Indravarman III mất tích trên
chiến trường (được dân chúng thờ dưới tên Rudraloka), những người
chống lại quân Khmer đều bị xử trảm. Suryavarman II tự xưng là hoàng
đế của cả Chân Lạp lẫn Chiêm Thành. Kể từ 1145 đến 1149, lănh thổ đế
quốc Khmer được nới rộng lên phía Bắc, từ Champassak (Nam Lào) đến
đèo Hải Vân (Bắc Chiêm Thành), người Khmer trực tiếp điều khiển binh
lực Chiêm Thành.
Triều vương thứ mười một (1145-1318) : xung đột với Angkor
Năm 1145 hoàng thân Parabrahman được triều thần đưa lên kế vị Jaya
Indravarman III, hiệu Rudravarman IV. Vừa lên ngôi, Rudravarman IV
cùng con trai là Ratnabhumivijaya (hoàng tử Sivanandana) bị quân
Khmer truy lùng ráo riết phải bỏ Vijaya chạy vào Đại Việt lánh nạn.
Thời gian sau, Rudravarman IV băng rừng về lại Panduranga lập chiến
khu trên cao nguyên, nhiều bộ lạc Thượng gia nhập quân kháng chiến
rất đông. Trên đường chạy loạn, Rudravarman IV lâm bệnh mất năm 1147
(dân chúng thờ dưới tên Brahmaloka hay Parabrahmaloka), con là thái
tử Ratnabhumivijaya lên thay, hiệu Jaya Harivarman I (Chế B́ Ri Bút).
Trên cao nguyên, Jaya Harivarman I được đông đảo người Thượng và
người Khmer (có thể là người Thượng thuộc hệ ngôn ngữ Môn Khmer) ủng
hộ. Nhà vua tổ chức kháng chiến chiếm lại Panduranga, nhưng lănh thổ
Bắc Chiêm Thành (Vijaya) vẫn c̣n nằm trong tay người Khmer, do em rể
vua Jaya Indravarman III là hoàng tử Hariveda (đẳng cấp Ksatriya)
cai trị. Vương quốc Chiêm Thành bị chia đôi.
Năm 1148, vua Khmer (Jaya Indravarman III) cử tể tướng Sankara cùng
tướng Sipakhya tấn công Panduranga, nhưng bị quân Chăm đánh bại tại
đồng bằng Kayev, tỉnh Virapura (tiếng Khmer là Rajapura, tiếng Việt
là Phan Rang). Thừa thắng xông lên, năm 1149, Jaya Harivarman I dẫn
đầu đoàn quân Chăm, Thượng chiếm thành Vijaya, giết Hariveda trên
sông Yami (sông Hà Giao, B́nh Định), thống nhất lại đất nước. Kinh
đô đặt tại Vijaya.
Do phân chia quyền lợi không đồng đều, người Rhadé, Bahnar và nhiều
bộ lạc Thượng khác tôn Vansaraja (Ưng Minh Diệp), anh rể Jaya
Harivarman I, lănh đạo phong trào kháng chiến chống lại Jaya
Harivarman I. Năm 1150, sau khi xưng vương tại Madhyamagrama (ngày
nay là An Khê, cạnh núi Yang Mung), Vansaraja dẫn đại quân xuống
đồng bằng tấn công người Chăm, nhưng bị đánh bại tại làng Slay. Jaya
Harivarman I tiến lên cao nguyên càn quét quân nổi loạn, Vansaraja
phải chạy vào Đại Việt xin nhà Lư giúp đỡ đưa về làm vua. Lư Anh Tôn
sai thương chế Nguyễn Mông mang 5.000 binh sĩ từ Thanh Hóa và Nghệ
An vào đánh Chiêm Thành. Chiến trận đă diễn ra rất là khốc liệt tại
Dalva (Đông Hà) và Lavan (La Vang), cả Nguyễn Mông lẫn Vansaraja đều
bị tử trận. Trong những năm sau (1151-1155), quân Chiêm Thành thường
xuyên vào lănh thổ Đại Việt (Nghệ An) cướp phá, vua Lư Anh Tôn định
cất quân đi chinh phạt nhưng Jaya Harivarman I chịu dâng nhiều phẩm
vật quí giá nên thôi, thực sự nhà Lư cũng e ngại sức mạnh quân sự
của Chiêm Thành.
V́ dồn hết mọi năng lực vào chiến tranh đánh dẹp nội loạn và ngoại
xâm, đời sống dân chúng Chiêm Thành trở nên cơ cực, nhiều lănh chúa
địa phương nổi lên chống lại triều đ́nh trung ương. Năm 1151, Jaya
Harivarman I phải hao tổn nhiều công sức lắm mới khuất phục được
những cuộc nổi loạn tại Amavarati. Vừa dẹp loạn phương Bắc, Jaya
Harivarman I lại phải đương đầu với những cuộc nổi loạn tại
Panduranga, do người Khmer đỡ đầu. Phải mất năm năm (1151-1155), nhà
vua mới dẹp xong được loạn và sau 1160 Chiêm Thành t́m được lại sự
hùng mạnh của quá khứ và giao hảo tốt với các lân bang.
Năm 1162, Jaya Harivarman I băng hà truyền ngôi cho con là
hoàng tử Sakan Vijaya, hiệu Jaya Harivarman II. Năm 1167 Sakan
Vijaya bị hoàng thân Vatuv Gramapuravijaya soán ngôi, hiệu Jaya
Indravarman IV.
Trong những năm 1164-1166, quân Chiêm Thành thường xuyên tổ chức
đánh cướp các tàu buôn Ả Rập qua lại trên Biển Đông và tiến lên đánh
phá các làng xă của Đại Việt tại châu Lâm B́nh và Minh Linh. Năm
1167, Lư Anh Tôn sai Tô Hiến Thành mang quân đánh Chiêm Thành. Jaya
Indravarman IV vội cử người sang cống nạp, Tô Hiến Thành lui quân về
nước. Quà cáp thường là chiến lợi phẩm cướp từ các tàu buôn Ả Rập.
Chính v́ những hành vi cướp bóc tàu thuyền này mà nhà Tống từ chối
không phong vương cho Jaya Indravarman IV, mặc dầu đă cử nhiều phái
đoàn sang Trung Hoa triều cống.
Jaya Indravarman IV (1151-1205), c̣n gọi là Po Klong Girai, Po Klong
Garai hay Po Klău Girai, là người có công xây đập Chaklin (Nha
Trinh) và hai mương dẫn nước (mương Cái và mương Đực) tại Phan Rang
để canh tác nông nghiệp. Theo truyền thuyết, Po Klong Garai - c̣n
gọi là Vua Lác, con của nữ thần Po Sah Ino - lúc mới sinh ra đă mắc
bệnh cùi, may nhờ có rắn naga liếm nên lành bệnh. Tuy mang bệnh cùi
từ lúc c̣n trẻ nhưng nhà vua đă tỏ ra đắc lực trong việc chiến chinh.
Khi băng hà, nhà vua dân được chúng thờ trong tháp Po Klong Garai (tháp
Chàm Phan Rang, phường Lưu Vinh, thị xă Tháp Chàm).
Jaya Indravarman IV quyết chí phục thù đế quốc Angkor về việc xâm
chiếm và đô hộ Chiêm Thành. Quân lực Chiêm Thành dưới thời Jaya
Indravarman IV rất giỏi về tượng binh và thủy chiến. Năm 1170, sau
khi điều đ́nh với Đại Việt giữ thế trung lập (bằng phẩm vật triều
cống), Jaya Indravarman IV mang đoàn tượng binh tấn công Chân Lạp,
lúc đó do vua Dharanindravarman II cai trị. Cuộc chiến kéo dài một
năm, bất phân thắng bại (quân Khmer cũng dùng tượng binh đối chọi),
sau cùng quân Chiêm phải rút về nước v́ hết lương thực.
Năm 1171, một quan nhân gốc Hoa (không rơ tên) - quê ở Ki Yang Kiun,
Quí Châu đảo Hải Nàm, bị ch́m tàu trôi giạt vào bờ biển Chiêm Thành
- được dân chúng dẫn đến tŕnh diện Jaya Indravarman IV. Người này
chỉ cho vua Chiêm cách cưỡi ngựa xung trận thay v́ dùng voi như
trước, điều này làm nhà vua rất thích thú v́ hiệu quả thần tốc và
gọn nhẹ của nó. Sau khi nắm vững được thuật cỡi ngựa, Jaya
Indravarman IV cử một đoàn người sang Cửu Châu, đảo Hải Nàm, mua hết
ngựa chiến nhưng bị vua Tống không cho bán (v́ những hành vi hải tặc
trước đó). Đoàn thương buôn Chăm nổi giận bắt người, đốt những trại
nuôi ngựa không chịu bán. Dân Hải Nàm quá lo sợ phải bán cho họ một
số ngựa mới được yên, nhưng không đủ để thành lập một đội kỵ binh.
Năm 1172, Jaya Indravarman IV cử một đoàn người khác sang Trung Hoa
triều cống, trả về những thường dân bị bắt và yêu cầu xin được mua
ngựa, vua Tống vẫn từ chối.
Không mua được ngựa, Jaya Indravarman IV tấn công Chân Lạp bằng
đường thủy (năm 1176). Nhà vua cho đóng thêm nhiều tàu chiến, tập
dượt thủy binh. Năm 1177, Jaya Indravarman IV đi thuyền từ cửa sông
Cửu Long vào chiếm Vrah Nagar (Prah Nokor, ngày nay là Sài G̣n).
Quân Chiêm tịch thu nhiều chiến lợi phẩm và bắt theo nhiều tù binh
Khmer về nước. Những tù binh này lúc đầu có bị bạc đăi, nhưng về sau
được đối xử tử tế để trở thành dân Chăm và hội nhập hoàn toàn vào xă
hội dân Chiêm Thành.
Trong số tù binh này có một vương tôn Khmer, sau này là Jayavarman
VII. Lúc c̣n ở Chiêm Thành, Jayavarman VII học được cách tổ chức xă
hội, cách huấn luyện binh sĩ thủy bộ và c̣n kết thân được với nhiều
hoàng thân của xứ này. Ông được thả về nước năm 1186 để kế nghiệp
anh là vua Yasovarman II, bị soán ngôi.
Về lại Chân Lạp, Jayavarman VII kết nghĩa với một vương tôn Chăm tên
Sri Vidyanandana, quê ở Tumpraukvijaya (một làng ở B́nh Định), đến
Chân Lạp lập nghiệp từ 1182. Sau khi dẹp được loạn ở Malyan (hay Mou
Leang, một làng ở vùng phía Đông Chân Lạp), hoàng thân Sri
Vidyanandana được Jayavarman VII phong một tước hoàng tộc Khmer là
Yuvaraja. Năm 1190, Jayavarman VII sai Vidyananada đi đánh Chiêm
Thành, ông chiếm được Vijaya, bắt sống Jaya Indravarman IV mang về
Chân Lạp. Hoàng tử In (anh em cột chèo với Jayavarman VII) được
phong làm tiểu vương xứ Nagara Vijaya (Bắc Chiêm Thành), hiệu Surya
Jayavarman (hay Surya Jayavarmadeva), hoàng thân Vidyanandana được
phong làm tiểu vương xứ Rajapura (Nam Chiêm Thành), hiệu Suryavarman
(Suryavarmadeva hay Bố Tŕ), cả hai đều đạt dưới sự lănh đạo của
Jayavarman VII. Vương quốc Chiêm Thành trở thành một thuộc địa của
Chân Lạp. Panduranga và Vijaya là hai tỉnh của đế quốc Angkor. Người
Thượng trên Tây Nguyên không công nhận vương quyền mới này đă cùng
một số vương tôn Chăm khác tổ chức đánh phá Amavarati, Vijaya và
Panduranga.
Năm 1191 tại Vijaya, Suryajayavarman (hoàng tử In) bị Rasupati, một
hoàng thân Champa, đánh bại phải chạy về lại Chân Lạp. Rasupati tự
xưng là vua xứ Vijaya, hiệu Jaya Indravarman V. Không nh́n nhận
vương quyền mới này, Jayavarman VII cho Jaya Indravarman IV (cựu
vương Chiêm Thành và cũng là thân phụ của hoàng tử In) về Bắc Chiêm
Thành chiếm lại ngôi báu. Jaya Indravarman IV được Suryavarman (hoàng
thân Sri Vidyananda) tiếp sức mới chiếm được Vijaya, Rasupati (Jaya
Indravarman V) bị xử trảm. Thay v́ giao thành lại cho vua Chăm cũ,
Suryavarman chiếm luôn Vijaya ; Jaya Indravarman IV liền kêu gọi dân
chúng tại Amavarati và các làng Ulik, Vyar, Jriy, Traik chống lại.
Năm 1192, Jaya Indravarman IV bị tử trận tại Traik. Suryavarman
thống nhất lại đất nước, lên ngôi vua và t́m cách tách khỏi ảnh
hưởng của đế quốc Angkor.
Hay tin hoàng thân Suryavarman làm phản, Jayavarman VII cử đại quân,
trong số này có cả người Thượng (do tướng Jai Ramya cầm đầu), sang
đánh Chiêm Thành. Cuộc chiến kéo dài từ 1193 đến 1194, đại quân
Khmer bị đánh bại. Thay v́ theo quân Khmer về nước, một người Djarai
tên Sri Agara chiếm một vùng đất lớn từ Amavarati đến Pidhyan (Phú
Giang, bắc Phú Yên) rồi tự xưng vương năm 1193, hiệu Patau Ajna Po
Ku.
Tuy đẩy lui được quân Khmer, Suryavarman vẫn lo sợ. Năm 1194, ông
dời cư lên Amaravati (Quảng Nam) tránh nạn và giao hảo tốt với Đại
Việt năm 1198, bằng cách triều cống hằng năm, và được vua Lư Cao
Tông (Long Cán) phong vương năm 1199. Đất nước được thái b́nh trong
vài năm th́ Suryavarman bị chú là Yuvaraja on Dhanapati Grama (Bố
Do) soán ngôi năm 1203. Dhanapati Grama đưa quân Khmer vào chiếm
Amaravati, Suryavarman dẫn một hải đội hơn 200 chiến thuyền chạy vào
cửa Cửu La (Nghệ An) xin tị nạn. Tại đây, vị hoàng thân Chăm (người
Việt gọi là Bố Tŕ) bị Dĩ Mông và Phạm Giêng, hai quan trấn thủ Nghệ
An, nghi ngờ. Suryavarman rất buồn ḷng, dùng mưu đốt thuyền của
Phạm Giêng và giăng buồm ra khơi mất tích.
Dhanapati được lệnh vua Khmer đánh dẹp các cuộc nổi loạn tại Chiêm
Thành, đặc biệt là trên cao nguyên. Patau Ajna Po Ku bị bắt sống đem
về Chân Lạp trị tội. Dhanapati được phong toàn quyền cai trị xứ
Chiêm Thành. Chiêm Thành trở thành một tỉnh của đế quốc Angkor lần
thứ hai. Dhanapati được con trưởng của Jaya Harivarman II
(1162-1167), sinh sống tại Chân Lạp, tên Ansaraja Turaivijaya phụ
lực cai trị Chiêm Thành. Turaivijaya cai quản đất Amavarati, tổ chức
nhiều cuộc tấn công vào lănh thổ Đại Việt (Nghệ An) trong những năm
1207, 1216 và 1218 ; tất cả đều bị quan trấn thủ Nghệ An Lư Bất
Nhiêm đẩy lui. Chiêm Thành bị đế quốc Angkor tái đô hộ trong suốt 17
năm (1203-1220). Năm 1220 bị quân Xiêm La làm áp lực tại chính quốc,
quân Khmer rút khỏi Chiêm Thành. Trong gần 100 năm chống chọi và bị
Angkor đô hộ, Chiêm Thành bị kiệt quệ.
Quân Chân Lạp vừa rút khỏi Chiêm Thành, hoàng tử Ansaraja
Turaivijaya (tên Khmer là Sri Ajirang) được hoàng tộc Chăm tôn lên
làm vua, hiệu Jaya Paramesvaravarman II, đóng đô tại Viyaja. Vừa lên
ngôi, tân vương cho xây lại những tượng đài bị đập phá tại tháp Sri
Sanabhadresvara (Mỹ Sơn) và Po Nagar (Nha Trang), xây thêm các đập
nước, mở rộng diện tích dinh điền, đất nước phồn thịnh trở lại ;
nhiều bộ lạc Thượng trên Tây Nguyên về thần phục. Năm 1230, hoàng tử
Abhimanyuvarman, một vương tôn tỉnh Pankaja người Cathei, được Jaya
Paramesvaravarman II cử làm thống lănh đất Panduranga. Những tiểu
vương kế nghiệp ông được biết đến sau này tại Panduranga là Po
Unvavah, Po Binasur, Po Putrik v.v... (Tên những vương tôn Chăm tại
miền Nam Chiêm Thành, hay tại Panduranga sau này, đều kèm theo chữ
Po (Pô, Pu, Pou hay Poh), có nghĩa là Ông, Ngài hay Vua). Năm 1244,
vua Chiêm tổ chức nhiều đợt tấn công vào duyên hải Nghệ An và Thanh
Hóa, chiếm đóng Bố Chính, Địa Lư và Ma Linh.
Tại Đại Việt, sau khi ổn định triều chính, năm 1252 Trần Thái Tôn
dẫn đại quân đi đánh Chiêm Thành. Cuộc tiến công kéo dài gần một năm,
thành Vijaya thắt thủ, vương phi Bố Gia La cùng nhiều cung phi, tù
binh và quan chức triều đ́nh Chăm bĩ bắt mang về Đại Việt. Jaya
Paramesvaravarman II bị tử trận năm 1254, em là hoàng tử Sakan
Vijaya lên thay, hiệu Jaya Indravarman VI. Jaya Indravarman VI duy
tŕ giao hảo với Đại Việt, triều cống đều đặn. Năm 1257, nhà Trần
rút quân về nước, lúc đó đang bị quân Nguyên (Mông Cổ) đe dọa.
Năm 1257, Jaya Indravarman VI bị ám sát, hoàng tử Pulyan Sri
Yuvaraja, con người chị (công chúa Suryadevi) lên thay, hiệu Jaya
Sinhavarman VI. Năm 1266, hoàng tử Chay Nuk, con Jaya
Paramesvaravarman II, lên kế vị, hiệu Indravarman V. Indravarman V
tiếp tục giao hảo tốt với Đại Việt. Năm 1278, Indravarman V sai hai
sứ giả (Bồ Tinh và Bồ Đột) sang Đại Việt xin bảo hộ và thành lập một
liên minh chống lại quân Mông Cổ.
Hay tin này, năm 1281, vua Nguyên (Hốt Tất Liệt) cử hữu
thống chế Toa Đô (Sogatu) và tả thống chế Lưu Thâm cùng tham chính A
Lư và Ô Mă Nhi mang 10 vạn thủy binh từ Quảng Châu sang Chiêm Thành
buộc Indravarman V phải đích thân về Trung Nguyên triều cống. Không
chống nổi quân Mông Cổ, Indravarman V chịu đặt Chiêm Thành dưới sự
bảo hộ của nhà Nguyên năm 1282. Toa Đô được nhà Nguyên phong làm
thống đốc toàn quyền cai trị xứ Chiêm Thành, tiểu vương Chăm nào
chịu theo quân Nguyên đều được phong làm phó vương.
Hoàng tử Harijit Po Devada Svor (hay Po Depitathor), con Indravarman
V, cùng mẹ là hoàng hậu Gaurendraksmi, không chấp nhận sự đô hộ của
Mông Cổ rút vào rừng, tổ chức kháng chiến. Harijit mộ được khoảng
20.000 người, gồm đủ mọi các sắc tộc Thượng sinh sống trên cao
nguyên Ya Heou, phía tây bắc Chiêm Thành, tấn công quân Nguyên trên
khắp lănh thổ Bắc Chiêm Thành. Năm 1283, Toa Đô dẫn đầu một đoàn
quân gồm 5.000 người, 100 tàu và 250 thuyền đi dọc theo bờ biển và
các con sông lớn đổ bộ lên Tây Nguyên nhưng bị đánh bại. Quân Mông
Cổ - một phần bị bệnh tật, không chịu đựng nổi khí hậu nóng nực của
miền nhiệt đới, một phần v́ đói kém, thiếu tiếp liệu từ lục địa -
phải rút về trấn giữ đồng bằng.
Tháng 4-1285, Toa Đô cùng Ô Mă Nhi mang hải đội từ Chiêm Thành,
trong đó có đội thủy binh người Chăm, tiến lên ra Bắc hợp với Thoát
Hoan vây thành Thăng Long, kinh đô của Đại Việt. Quân của Thoát Hoan
bị quân Trần đánh bại phải rút về nội địa, quân của Toa Đô bị đánh
tan tại Nghệ An. Toa Đô bị chết tại trận, quân Trần bắt được rất
nhiều tù binh Mông Cổ và Chăm, trong đó có hai tướng Chăm tên Lậu
Khê và Na Liên, bị trả về cho vua Chiêm Thành xử tội. Những binh
lính Chăm khác theo Mông Cổ, không dám về lại quê cũ, theo quân
Nguyên về Hoa lục và được cho định cư trên đảo Hải Nàm, bờ biển nam
Quảng Châu, nơi đă có nhiều người Chăm khác đến lập nghiệp từ năm
992 dưới thời Lưu Kỳ Tông. Những binh lính Chăm này, đa số theo đạo
Hồi, đă lập gia đ́nh với người địa phương và ở lại lập nghiệp. Đây
là đợt di dân thứ hai của người Champa ra hải ngoại.
Năm 1288 Indravarman V mất, hoàng tử Harijit lên ngôi, hiệu Jaya
Sinhavarman III (Chế Mân), đặt kinh đô tại Vijaya. Mặc dù không
triều cống nhà Trần, bang giao giữa Đại Việt và Chiêm Thành rất là
thắm thiết. Chỉ một thời gian ngắn sau Chiêm Thành hùng mạnh trở lại,
các vương quốc lân bang, trong có Đại Việt cử người sang thông hiếu
đều đặn. Nhiều đền đài được xây cất cả tại đồng bằng lẫn trên cao
nguyên. Chế Mân cho xây một tháp trên đồi Chok Hala, gọi là đồi Trầu,
để dân chúng đến tế lễ, sau này là tháp Po Klong Garai (Tháp Chàm
Phan Rang).
Năm 1292 và 1293, trên đường tiến đánh Java (Indonesia) và
Madjapahit (Mă Lai) quân Mông Cổ xin vào bờ mua tiếp liệu nhưng bị
Chế Mân từ chối, phải giương buồm đi tiếp. Cũng nên biết Chế Mân có
rất nhiều quan hệ t́nh cảm với các tiểu vương Nam Đảo. Vợ cả của Chế
Mân là vương phi Bhaskaradevi, con một đại vương Java ; thứ phi là
hoàng hậu Tapasi, con gái một tiểu vương Yavadvipa (Mă Lai). Lănh
thổ Chiêm Thành trong thời kỳ này được nới rộng lên cao nguyên
Darlac và Langbian, Chế Mân cho xây một đền thờ tại Yang Prong (An
Khê) để đón nhận phẩm vật triều cống của những bộ lạc Thượng trên
Tây Nguyên.
Năm 1301, cựu hoàng Đại Việt là Trần Nhân Tôn, sau khi nhường ngôi
cho con là Trần Anh Tôn, đi thăm các nước láng giềng. Khi thăm Chiêm
Thành, Trần Nhân Tôn được Chế Mân tiếp đăi nồng hậu và đă ở lại đây
9 tháng. Để tạ ơn, khi ra về cựu vương hứa gả công chúa Huyền Trân (em
gái Trần Anh Tôn) cho Chế Mân. Cuối năm 1301, Chế Mân sai Chế Bồ Đày
mang lễ vật sang cưới Huyền Trân. Triều đ́nh nhà Trần có nhiều người
không thuận, cuộc thương thảo kéo dài từ 1302 đến 1305 ; sau cùng,
mùa hè năm 1306, Chế Mân thuận tặng cho nhà Trần hai châu Ô và châu
Rí (châu Lư), phía bắc đèo Hải Vân, để làm quà cưới, nhà Trần mới
chịu và sai Đoàn Nhữ Hài đưa Huyền Trân về Chiêm Thành. Tại đây,
Huyền Trân được Chế Mân đặt tên là hoàng hậu Paramesvari.
Châu Ô và châu Rí là đề tài tranh chấp giữa Đại Việt và Chiêm Thành
trong thời gian sau đó. Năm 1307, Trần Anh Tôn đặt tên lại hai châu
mới này thành Thuận châu (Quảng Trị) và Hóa châu (Thừa Thiên và một
phần Quảng Nam ngày nay), rồi giao cho Đoàn Nhữ Hài cai quản. Châu
Thuận gồm các huyện Đăng Xương (nay là Triệu Phong), Hải Lăng, Phong
Điền, Quảng Điền và Hương Trà. Châu Hóa gồm các huyện Phú Vang, Phú
Lộc, Diên Phước và Ḥa Vang. Người Chăm sống trong các làng La thỉ,
Tác Hồng và Đà Bồng nổi lên chống sự cai trị của người Việt. Để trấn
an dân Chăm, Đoàn Nhữ Hài chấp nhận để người Chăm chịu sự quản trị
trưc tiếp của các nhân sĩ Chăm địa phương và cho miễn thuế ba năm.
Về chủ quyền, nông dân Việt đă đến lập nghiệp và khai phá
hai châu này từ lâu, nhất là trong thời gian có chiến tranh với Mông
Cổ. Thật ra sự sát nhập này, trên b́nh diện nào đó, chỉ là sự hợp
thức hóa một sự kiện đă rồi, v́ quan hệ cộng sinh giữa hai chủng tộc
đă diễn ra từ lâu đời. Những cuộc hôn nhân dị chủng chắc chắn không
phải là những trường hợp ngoại lệ, với thời gian dân cư Việt có lẽ
đă đông hơn dân cư Chăm tại đây.
T́m
hiểu cộng đồng người Chăm tại Việt Nam
Bài 6 :
Bùng lên trước khi tàn lụi
Dấu ngoặc về công chúa Huyền Trân
Sau 5 năm thương lượng gay go giữa hai triều đ́nh về của hồi môn,
năm 1306 vua Trần Anh Tôn chấp thuận gả công chúa Huyền Trân cho Chế
Mân, bù lại lănh thổ bắc Chiêm Thành (Indrapura) : châu Ô và châu Lư
thuộc nhà Trần. Cuộc hôn nhân dị chủng này đă trở thành tranh chấp
giữa hai dân tộc và hai triều đ́nh suốt thời gian sau đó. Cho đến
nay chưa một tài liệu nào giải thích về trường hợp công chúa Huyền
Trân một cách rơ ràng và có tính thuyết phục. Người Chăm tố cáo nhà
Trần lợi dụng cuộc hôn nhân này để chiếm đoạt đất đai của họ. Thơ
văn Việt Nam bênh vực Huyền Trân như là nạn nhân của một vụ đổi chác
chính trị và đả kích Chế Mân (với những lời lẽ khiếm nhă) dám sánh
ngang hàng với người Việt…
Những lư luận vừa kể chứng tỏ sự thiếu hiểu biết về phong tục tập
quán của người Chăm. Khi cựu vương Trần Nhân Tôn hứa gả Huyền Trân
cho Chế Mân, ông muốn thành lập một liên minh quân sự chống lại quân
Mông Cổ khi bị tấn công. Nhưng chiến lược này đă không được quần
thần chấp nhận v́ không muốn một sự pha chủng nào trong quan hệ
hoàng gia.
Có lẽ bà hoàng hậu thứ ba này của Chế Mân đă rất được sủng ái nên sử
tích Chăm kể rằng Huyền Trân được nhà vua đưa đi thăm viếng những
danh lam thắng cảnh của Chiêm Thành. Các suối nước nóng dọc bờ biển
miền Trung được dành riêng cho bà tắm rửa, kể cả suối Vĩnh Hảo (huyện
Tuy Phong, Phan Thiết), để hạnh phúc của vua và hoàng hậu được bền
lâu. Nhưng hạnh phúc đă không dài lâu. Hơn một năm sau, tháng 5-1307
Chế Mân từ trần. Hung tin đến tai nhà Trần bốn tháng sau đó, tháng
9-1307. Lo sợ em gái ḿnh bị hỏa thiêu, Trần Nhân Tôn sai quan nhập
nội hành khiển thượng thư tả bộc sạ Trần Khắc Chung và quan an phủ
sứ Đặng Văn sang Chiêm Thành phúng điếu rồi t́m kế đưa Huyền Trân về.
Việc hỏa thiêu vợ khi vua băng hà là hoàn toàn bịa đặt. Nếu Huyền
Trân bị triều đ́nh Chiêm Thành bắt chết theo Chế Mân th́ bà đă bị
hỏa thiêu từ lâu rồi, v́ theo tục lệ của người theo đạo Hồi hay Bà
La Môn xác người chết chỉ giữ tối đa là 7 ngày sau đó phải đem hỏa
thiêu.
Thật ra trong vụ này triều đ́nh Chiêm Thành đă quyết định trả Huyền
Trân về lại cho nhà Trần để đ̣i lại hai châu Ô và Rí nên đă tiếp đón
phái đoàn Trần Khắc Chung một cách ân cần và cấp hơn 300 thủy binh
hộ tống. Sự từ khước kết nghĩa suôi gia này có một ư nghĩa đặc biệt,
nó thể hiện sự từ chối hợp tác giữa hai nền văn minh và văn hóa khác
nhau, một bên là văn minh văn hóa Khổng Mạnh và một bên là văn minh
văn hóa Ấn Độ. Cả hai vương triều gần như chấp nhận sự khác biệt đó
và không muốn có một sự ḥa hợp nào.
C̣n chuyện hỏa thiêu có lẽ đă do Trần Khắc Chung thêu dệt ra để được
Trần Anh Tôn cử sang Chiêm Thành đón Huyền Trân về nước. Sau khi gặp
lại người yêu, thay v́ căng buồm về Bắc ông dẫn Huyền Trân ra một
hoang đảo tư thông với nhau trong suốt một năm liền, đến mùa thu năm
1308 mới lên thuyền về lại Thăng Long. Đoàn thủy binh Chăm lúc đó
mới được giao trả cho Chiêm Thành dể báo cáo sự việc.
Cũng nên biết, nhà Trần áp dụng chế độ nội hôn để bảo vệ quyền lợi
hoàng tộc. Việc Trần Khắc Chung tư thông với Huyền Trân được coi là
b́nh thường. Nhưng triều đ́nh Chăm không chấp nhận và rất căm hận về
chuyện này, v́ Huyền Trân là hoàng hậu Champa bị một quan Việt thông
dâm xúc phạm đến danh dự hoàng triều và tín ngưỡng quốc gia. Có lẽ
cũng chính v́ thế mà Hưng Nhượng đại vương Trần Quốc Tảng (con Trần
Hưng Đạo) mắng "họ tên người này không tốt, có lẽ nhà Trần mất v́
người này chăng?", v́ Khắc là thắng, Chung là tàn (thắng xong th́
tàn lụi theo). Cuộc t́nh sử tay ba này ít được người đời nhắc tới mà
chỉ nói về cuộc hôn nhân dị chủng mà thôi.
Về phía Chiêm Thành, đền thờ Chế Mân được lập tại Tháp Po Klong
Garai (Tháp Chàm, Phan Rang) và tại Yan Prong (An Khê, Đắc Lắc) cạnh
núi Se San. Dân chúng thờ ông dưới tên Sri Jaya Sinhavarma
Lingesvara.
Hoàng tử Po Sah - 23 tuổi, con của chánh hậu Bhaskaradevi (người
Java), tước Pulyan Mahendravarman tiểu vương lănh địa từ sông Vok (sông
Bung) đến bắc B́nh Định (Bhumana) - lên thay năm 1307, hiệu Jaya
Sinhavarman IV (c̣n gọi là Chế Chí hay Chế Dà La). Việc đầu tiên của
tân vương là xúi giục dân Chăm tại Thuận châu và Hóa châu nổi loạn.
Năm 1311, Trần Anh Tôn tấn công Chiêm Thành, bắt Chế Chí về giam tại
cung Gia Lâm (và mất năm 1313), đưa em trai của Chế Chí là Chế Đà A
Bà Niêm lên thay, hiệu Chế Năng. Năm 1314 Chế Năng kéo quân ra Bắc
chiếm lại châu Ô và châu Rí và chỉ bị đẩy lui năm năm sau đó. Năm
1318, quân Trần tiến xuống Đồ Bàn, Chế Năng cùng hoàng gia chạy
sang Java lánh nạn, triều đ́nh Chiêm Thành bị bỏ trống.
Đây là đợt di dân thứ ba của người Chăm ra hải ngoại. Chế Năng là
con thứ hậu Tapasi, người Yavadvipa.
Triều vương thứ mười hai (1318-1390) : tột đỉnh
Năm 1318, nhà Trần phong một tướng Chăm tên Thủ (Patalthor) lên ngôi,
hiệu Chế A Năng (hay Thành A vương, tương đương với tước phó vương
của Đại Việt). V́ không thuộc ḍng dơi bộ tộc Cau và Dừa, Chế A Năng
liên tục bị triều thần chống đối từ 1323 đến 1326. Để có sự chính
thống, năm 1323 Chế A Năng cử em trai là Pao Yeou Patseutcho đi sứ
sang Trung Hoa xin nhà Nguyên công nhận. Hay tin này, năm 1326 nhà
Trần mang quân sang đánh nhưng bị đẩy lùi. Chiêm Thành sống trong
thái b́nh cho tới 1342.
Năm 1336 Chế A Năng từ trần, con ruột là Chế Mỗ và con rể là Trà Hoa
Bồ Đề tranh ngôi vua trong 6 năm, Chiêm Thành sống trong loạn lạc.
Năm 1342 Chế Mỗ bị đuổi sang Đại Việt, Trà Hoa Bồ Đề chính thức lên
ngôi. Năm 1353, Trần Dụ Tôn đưa Chế Mỗ về nước nhưng đến Cổ Lũy (Quảng
Ngăi) th́ bị quân Chiêm chận đánh, quân Trần rút về, Chế Mỗ buồn rầu
rồi qua đời. Từ sau ngày đó, quân Chiêm Thành liên tục tràn sang
đánh phá Hóa châu và Thuận châu.
Năm 1360, Trà Hoa Bồ Đề qua đời, em Chế A Năng là Po Binasor (Po
Bhinethuor) được triều thần tôn lên làm vua, hiệu Chế Bồng Nga (Che
Bonguar). Chế Bồng Nga là một vị tướng tài, chỉ huy nhiều trận đánh
vào lănh thổ Đại Việt. Vừa lên ngôi, ông liền tổ chức lại quân đội,
chuẩn bị chiến tranh với nhà Trần nhằm chiếm lại những phần lănh thổ
bị mất. Những tù trưởng và bộ lạc Thượng trên Tây Nguyên theo Chế
Bồng Nga rất đông.
Từ 1360 đến 1370, quân Chiêm Thành ra vào lănh thổ Đại Việt như chốn
không người. Dân cư Đại Việt lập nghiệp dọc các vùng bờ biển Bố
Chánh, Tân B́nh, Thuận Hóa (Nghệ An, Quảng B́nh, Quảng Trị, Thừa
Thiên) sinh sống rất khổ sở trước nạn binh đao. Từ 1371 đến 1383,
quân Chiêm đă ba lần chiếm đóng Thăng Long và năm 1390 lúc đang tiến
vào Thăng Long lần thứ tư th́ Chế Bồng Nga bị tử trận, chấm dứt một
trang anh hùng sử.
Nét đặc biệt của Chế Bồng Nga là mỗi lần đánh phá xong, ông cho rút
quân về bên kia đèo Hải Vân chứ không cho người ở lại quản trị trực
tiếp những vùng đất vừa bị chiếm như những vua trước, v́ người Chăm
tin rằng trấn đóng những vùng đất lạ sẽ mang tai họa và cũng không
muốn bị hao tổn lực lượng bởi những hành động kháng chiến. Tuy vậy
vẫn có thể nói trong ṿng 30 năm, Chế Bồng Nga đă khôi phục lại
những vùng đă mất từ hơn 300 năm trước đó (Bố Chánh, Địa Lư và Ma
Linh bị mất năm 1069, châu Ô, châu Rí năm 1306).
Chế Bồng Nga chết, quân Chiêm như rắn không đầu liền bị rối loạn,
quân Trần sát hại rất nhiều. Các vùng đất dưới ảnh hưởng Chiêm Thành
đều được thu hồi. Lê Quí Ly (tức Hồ Quí Ly sau này) kinh lư các vùng
đất Hóa châu và Thuận châu, tổ chức lại việc pḥng thủ và cho xây
dựng lại những nơi bị tàn phá. Phan Mănh được bổ nhiệm cai trị hai
xứ Tân B́nh (Quảng B́nh) và Thuận Hóa (Quảng Trị và Thừa Thiên). Nhà
Trần đưa dân chúng từ các vùng trung du, vùng đồng bằng sông Hồng và
sông Mă vào định cư tại Tân B́nh và Thuận Hóa.
Triều vương thứ mười ba (1390-1458) : suy yếu
Bị đánh bại năm 1390, tướng La Khải (Ko Cheng) chiếm được xác Chế
Bồng Nga mang đi hỏa táng, rồi thu quân về nước. Về Đồ Bàn, La Khải
liền xưng vương và chịu triều cống nhà Trần trở lại. Năm 1391, La
Khải xin nhà Minh thừa nhận nhưng đến năm 1413 con của ông là Ba
Đích Lại mới được nhà Minh tấn phong.
Chính sách cai trị khắt khe của La Khải gây bất măn trong nước. Vây
cánh của Chế Bồng Nga đều bị La Khải thay bằng những tướng sĩ thân
tín, con trai của Chế Bồng Nga tên Chế Ma Nô Dă Na cùng em là Chế
San Nô sợ bị ám hại đă chạy qua Đại Việt xin tị nạn. Cả hai được nhà
Trần phong tước Hiệu chính hầu. Năm 1397, một hoàng thân tên Chế Đà
Biệt, em là Mộ Hoa, con là Gia Diếp cùng toàn thể gia quyến sang Đại
Việt tị nạn. Chế Đà Biệt được Lê Quí Ly giao trọng trách bảo vệ biên
giới phía nam của Đại Việt đề pḥng những cuộc tấn công mới của quân
Chiêm Thành. Năm 1400, La Khải mất, con là Ba Đích Lại (Jaya
Sinhavarman V) lên ngôi.
Tại Đại Việt, năm 1400 Lê Quí Ly lên ngôi vua, đổi thành họ Hồ. Cũng
nên biết, lúc nhà Trần suy yếu vai tṛ của Lê Quí Ly trở nên nổi bật
và trực tiếp điều khiển triều đ́nh từ 1372. V́ thiếu sự chính thống,
Hồ Quí Ly thường ra oai bằng cách tấn công Chiêm Thành và các lănh
thổ Chiêm Động (nay là Thăng B́nh, Quảng Nam, hay bắc Amavarati), Cổ
Lũy (nay là Tư Nghĩa (Quảng Ngăi), Bạt Đạt Gia, Hắc Bạch (nam Quảng
Ngăi, bắc B́nh Định) và Sa Lư Nha (tức Sa Huỳnh) lần lượt bị sát
nhập từ 1400 đến 1403. Vựa lúa lớn nhất Bắc Chiêm Thành bị mất hẳn,
toàn bộ đất đai tại Indrapura và Amaravati (Quảng B́nh, Quảng Trị,
Thừa Thiên, Quảng Nam và Quảng Ngăi) cũng không c̣n.
Những vùng đất mới được phân thành châu Thăng, châu Hoa, châu Tư và
châu Nghĩa ; bốn châu mới này họp lại thành lộ Thăng Hoa do một quan
an phủ sứ cai trị, chỗ giáp giới đặt thành trấn Tân Ninh. Chế Ma Nô
Dă Na (con Chế Bồng Nga), lúc đầu làm Thăng Hoa quận vương để chiêu
dụ dân chúng Chăm, sau được phong Cổ Lũy thượng hầu giữ hai châu Tư
và Nghĩa. Quí Ly đưa những nông dân cùng gia đ́nh không có đất cày
từ những châu khác ở phía bắc vào khai phá đất mới. Người Champa
không chấp nhận sống dưới sự cai trị của người Việt bỏ đi lên núi
hoặc về Vijaya (Đồ Bàn) lập nghiệp.
Năm 1403, Ba Đích Lại yêu cầu nhà Minh can thiệp để đ̣i lại
Indrapura và Amavarati, nhưng bị nhà Hồ từ chối. Chỉ khi nhà Hồ bị
dẹp và nước Đại Ngu bị nhà Minh đô hộ, từ 1407 đến 1427, Chiêm Thành
mới phục hồi lại sức mạnh quân sự và những vùng đất đă mất dưới tay
nhà Hồ đều lấy lại được.
Năm 1407, hoàng tử Ngauk Glaun Vijaya (con Ba Đích Lại) cất quân
đánh Đại Việt, giết quan trấn thủ lộ Thăng Hoa là Chế Ma Nô Dă Na
(con của Chế Bồng Nga). Ba Đích Lại được nhà Minh phong vương năm
1413. Mặc dù vậy, dân chúng Champa không muốn di dân lên những vùng
đất vừa chiếm lại lập nghiệp, chỉ một số người muốn trở về để giữ
ǵn hương hỏa mà thôi. Dẹp yên phía Bắc, Ba Đích Lại mang quân xuống
tấn công vương quốc Chân Lạp phía nam đang suy yếu, v́ bị Xiêm La
đánh phá liên tục. Quân Chăm chiếm được nhiều vùng đất lớn dọc sông
Đồng Nai và trên đồng bằng sông Cửu Long. Quân Khmer bị đuổi tới
thành phố Chantabun, gần biên giới Xiêm La, vua Chau Ponea Yat phải
cầu cứu nhà Minh và quân Minh đă hai lần tiến vào Chiêm Thành (1408
và 1414) làm áp lực Chiêm Thành mới chịu rút quân, Chân Lạp thoát
nạn đô hộ. Mặc dầu vậy, quân Chiêm Thành cũng chiếm được thị trấn
Nagara Brah Kanda (thị xă Biên Ḥa ngày nay).
Năm 1428, Lê Lợi đuổi được quân Minh ra khỏi lănh thổ và lên ngôi
vua, hiệu Thánh Tổ. Trước thế lực của nhà Lê, Ba Đích Lại trả những
vùng đất đă chiếm dưới thời nhà Minh, đổi thành lộ Thuận Hóa thuộc
đạo Hải Tây và đặt quan cai trị. Việc giao hảo giữa Chiêm Thành và
Đại Việt trở nên tốt đẹp.
Năm 1433 Lê Lợi mất, con là Nguyên Long, 11 tuổi, lên ngôi hiệu Thái
Tôn, Ba Đích Lại liền trở mặt. Năm 1434, ông cho quân sang đánh phá
các vùng đất (Hóa châu) vừa giao trả trước đó, vua Lê phải cử Lê
Khôi và Lê Chiếc ra dẹp, vua Chăm mới chịu triều cống trở lại.
Thật ra từ 1390 đến 1433 Chiêm Thành không có vua, đất nước lâm vào
cảnh nội loạn. Đối với người Chăm, La Khải và Ba Đích Lại chỉ là
những kẻ soán ngôi. Năm 1433, quần thần Chiêm đưa công chúa Po
Sahnar về miền Nam cai trị (Panduranga), đóng đô tại Phan Rí, không
tuân lệnh Vijaya. Hoàng tử Nauk Glaun Vijaya thân chinh đi đánh dẹp,
gây nhiều thù oán với các ḍng vương tôn Champa phía nam như bắt
công chúa Po Sahnar về giam tại Vijaya. Chính v́ thế năm 1441 khi Ba
Đích Lại qua đời, Nauk Glaun Vijaya không được triều thần cho nối
ngôi mà đưa người cháu của cố vương là Maha Kilai (Mă Kha Qui Lai)
lên thay. Chú của tân vương là Po Parichanh tự đứng ra nhiếp chính,
rồi tự xưng vương năm 1442, hiệu Bí Cai (Maha Vijaya) và được nhà
Minh công nhận.
Vừa lên ngôi, Bí Cai liền mang quân tấn công nhà Lê và bị đánh bại.
Vua Lê Nhân Tôn tiến chiếm Phật Thành (c̣n gọi là Đồ Bàn, Chà Bàn,
Vijaya) bắt được nhiều vương tôn Champa, trong đó có công chúa Po
Sahnar, rồi rút về. Ba Đích Lại cùng hoàng gia phải chạy lên núi
trốn trong những buôn làng của người Thượng như Trà Toàn (Po Ka Prah),
Trà Toại (Po Ka Prih). Kinh đô Phật Thành (Vijaya) bị nhà Lê đổi
thành Đồ Bàn.
Trong hai năm 1444 và 1445, Bí Cái nhiều lần dẫn quân tiến vào Hóa
châu nhưng đều bị đẩy lùi. Năm 1446, được Maha Quí Lai hướng dẫn,
quân Lê chiếm thành Đồ Bàn, bắt sống Bí Cai và tất cả phi tần đem về
Thăng Long. Maha Quí Lai được nhà Lê tôn lên làm vua Chiêm Thành và
chịu triều cống, quan hệ giữa hai nước tốt đẹp trở lại. Năm 1448, Lê
Nhân Tôn đánh dẹp các lực lượng Thượng do những hoàng tôn Chăm lănh
đạo, chiếm xứ Bồn Man (Djarai-Kontum) và đặt thành châu Quy Hợp rồi
giao cho một vương tôn Chăm thần phục nhà Lê cai quản.
Năm 1449 Maha Quí Lai bị người em tên Bí Do (Maha Kido) bắt giam rồi
xưng vương. Bí Do sai Giao Nể Mỗ và Bàng Thoan sang Đại Việt báo
tin, vua Lê không những không công nhận mà c̣n khiển trách nặng nề.
Sau biến cố này, Bí Do đuổi 70 gia đ́nh Việt định cư tại Chiêm Thành
về nước rồi ngưng luôn việc xin tấn phong. Năm 1452, Quí Lai mất, Bí
Do sai sứ sang Trung Hoa xin nhà Minh công nhận và được phong vương
năm 1457.
Triều vương thứ mười bốn (1458-1471) : tan ră
Năm 1458 thái tử Po Tam (Po Dam hay Po Kathit), con Bí Cai, giết Bí
Do rồi tự xưng vương, hiệu Bàn La Trà Nguyệt (Maha Banla Tranguyet).
Năm 1460, Trà Nguyệt nhường ngôi cho em là Po Kaprah, hiệu Bàn La
Trà Toàn (Maha Tratoan). Trà Toàn cử người sang Đại Việt xin tấn
phong nhưng bị nhà Lê buộc dâng phẩm vật triều cống nên Trà Toàn tức
giận. Trong hai năm 1468 và 1469, Trà Toàn vừa cho người sang cầu
viện nhà Minh vừa mang đại quân (100.000 người) sang chiếm Hóa châu
(1469-1471).
Tức giận trước sự khiêu khích này, vua Lê Thánh Tôn quyết định phạt
Chiêm một lần cho đích đáng. Trước khi ra quân, ngày 6-10-1471, nhà
vua đọc hịch B́nh Chiêm trước ba quân, lời lẽ rất đanh thép, rồi cho
sứ sang Trung Hoa báo cáo sự xâm phạm lănh thổ của Chiêm Thành. Lê
Thánh Tôn cất đại quân hơn 250.000 người sang đánh Chiêm Thành,
trong đó 100.000 đi bằng đường thủy, 150.000 đi bằng đường bộ. Đại
quân nhà Lê chiếm cửa Thị Nại rồi tiến về Đồ Bàn. Trà Toàn sai em là
Po Kaprih dẫn đội tượng binh gồm 5.000 người ra đối chọi nhưng bị
đánh bại, Trà Toàn rút vào cố thủ thành Đồ Bàn.
Sau cuộc tấn công, khoảng 60.000 binh lính và thường dân Chăm bị
loại khỏi ṿng chiến, hơn 30.000 người bị bắt làm tù binh, tất cả
đều bị đày lên Thanh Hóa. Một số tù binh Chăm gồm thợ khéo tay, nài
voi được đưa về Thăng Long xây dựng đền đài và huấn luyện voi trận
cho nhà Lê, chùa Bà Đá tại Hà Nội được xây dựng trong giai đoạn này.
Toàn bộ tài sản và báu vật tại Đồ Bàn đều bị tịch thu, trong đó có
ấn kiếm hoàng gia (một hộp bằng bạc h́nh chiếc gươm), biểu tượng của
vương quyền Chiêm Thành. Trà Toàn và cả hoàng gia gồm 50 vương tôn
(Po Sahama, Po Ngasa, Bà Thái, Đa Thủy...) đều bị bắt.
Trong cuộc tiếp kiến, Trà Toàn xin vua Lê chỉ làm tội một ḿnh ông
và tha cho con cái gồm 10 người. Trên đường về tới Nghệ An, Trà Toàn
tự tử chết. Lê Thánh Tôn sai cắt đầu Trà Toàn treo ở đầu thuyền và
cho khắc chữ "Cổ Chiêm Thành ngươn ác Trà Toàn chi thủ".
Lê Thánh Tôn giải tán vương quốc Chiêm Thành. Thủ đô chính trị, hành
chánh và tín ngưỡng của vương quốc Bắc Chiêm Thành Vijaya bị đổi
thành Đồ Bàn và cấm người Chăm đến cư ngụ.
Em Trà Toàn là Po Kaprih dẫn theo một số tàn quân trốn lên xứ Bồn
Man (cao nguyên Kontum-Darlac), được dân chúng tôn lên làm vua. Po
Kaprih xưng hiệu Trà Toại và cho người sang Trung Hoa cầu cứu nhà
Minh, báo cáo t́nh h́nh của Chiêm Thành. Lê Thánh Tôn sai Lê Niệm
mang 30.000 quân lên Tây Nguyên lùng bắt Trà Toại đem về trị tội.
Nhà Minh không tán thành việc Đại Việt chiếm đóng Chiêm Thành nhưng
không dám can thiệp trực tiếp, kể cả việc xin phóng thích Trà Toàn
và hoàng gia Chiêm Thành. Năm 1472 nhân vua Lê Thánh Tôn sai sứ sang
Trung Hoa báo cáo sự t́nh, Minh Hiển Tông trách cứ việc chiếm đế đô
Đồ Bàn. Sau đó nhà Minh sai sứ sang phong vương cho Trà Toại nhưng
khi đến cửa Tân Châu (Quảng Nam) quân Lê không cho cập bờ. Lê Thánh
Tôn phản đối việc phong vương này và tuyên bố Chiêm Thành đă trở
thành một châu của Đại Việt : châu Giao Nam. Nhà Lê phong cháu của
Trà Toàn tên Bố Tŕ Tri (Thái Da) làm vương đất Giao Nam (c̣n gọi là
Phan Long).
Chiêm Thành bị phân hóa
Năm 1472, Bố Tŕ Tri, cháu của Trà Toàn, chạy về Panduranga (Giao
Nam) xưng vương, hiệu Thái Da (Jayavarman Mafoungnan). Tân vương sai
sứ sang Đại Việt xin thừa nhận và xin tiếp tục triều cống. Ranh giới
phân chia hai nước được xác nhận tại đèo Cù Mông, cạnh chân núi
Thạch Bi.
Vua Lê Thánh Tôn áp dụng chính sách bảo hộ, chia Chiêm Thành ra làm
ba tiểu quốc, phong ba tiểu vương cai trị.
1. Bồ Tŕ Tri cai quản đất Giao Nam, tức Nam Chiêm Thành gồm
Kauthara và Panduranga, bằng 1/5 lănh thổ cũ, từ mũi Kê Gà trở xuống
gồm 5 lănh địa : Aya Tră (Nha Trang), Panră (Phan Rang), Krău (Long
Hương), Phan Rí (Parik) và Pajai (Phố Hài, gần Phan Thiết). Giao Nam
(tức Panduranga) được độc lập về chính trị, kinh tế và tín ngưỡng
nhưng phải triều cống nhà Lê. Kinh đô trong giai đoạn đầu đặt tại
Virapura, tức Phan Rang.
2. Trà Toại cai trị đất Nam Phan : xứ Bồn Man, tức châu Quy Hợp (Tây
Nguyên ngày nay và một phần cao nguyên Attopeu Nam Lào).
3. Một vương tôn Champa (người Thượng) khác cai quản đất Hóa Anh :
lănh thổ Aryaru cũ (Phú Yên).
Sau 1471, lănh thổ của vương quốc Chiêm Thành phía nam (Kauthara và
Panduranga) chỉ c̣n từ đèo Cù Mông đến mũi Kê Gà (cap Varella). Lănh
thổ Đại Việt mới kéo dài từ ải Nam Quan đến đèo Cù Mông. Phần đất
Chiêm Thành cũ, gọi là Nam Bàn (từ Quảng Nam đến Đồ Bàn) được chia
thành ba vùng gồm Đại Chiêm tức Chiêm Động (Quảng Nam), Cổ Lũy (Quảng
Ngăi) và Đồ Bàn (B́nh Định). Một tướng Chăm tên Bà Thái (Po Thai)
làm tri phủ đất Đại Chiêm. Những quan Đại Việt cai trị Đồ Bàn và Cổ
Lũy có quyền tiền trảm hậu tấu.
Hàng đoàn người Chăm, trong đó có nhiều gia đ́nh vương tôn không
chấp nhận sự cai trị của người Việt tại Cổ Lũy, chạy vào rừng sâu
trên lănh thổ xứ Láng Cháng (Luang Prabang, Bắc Lào) lánh nạn, một
số vượt Trường Sơn chạy sang Chân Lạp định cư. Đây là cuộc di dân
lần thứ tư sau các đợt di tản năm 986, 1285 và 1318. Lê Thánh Tôn
đổi tên đất Cổ Lũy thành đạo Quảng Nam gồm 3 phủ (Thăng Hoa, Tư
Nghĩa và Hoài Nhơn) và 9 huyện.
Trên cao nguyên một lănh tụ Chăm tên Công (c̣n gọi là Chăm Công)
được sự giúp đỡ của vương quốc Láng Cháng tổ chức đánh phá các làng
xă và đồn pḥng thủ của quân Việt. Năm 1479, Lê Thánh Tôn mang đại
binh gồm 180.000 người sang Láng Cháng dẹp loạn Chăm Công, truy đuổi
vua Láng Cháng sang lănh thổ Miến Điện. Vua Lê giao một vương tôn
Chăm thân Đại Việt cai trị xứ Quy Hợp gồm 7 huyện và cho thành lập
phủ Trấn Ninh giao cho một quan người Việt cai trị.
Tại Nam Bàn, Lê Thánh Tôn cho thành lập Thái bộc tư khanh, một bộ
phận hành chánh chuyên lo đặt lại cho đúng qui chế họ tên của người
Chăm theo đúng phiên âm Đại Việt. V́ người Chăm không có họ nên việc
xét tên đặt họ rất khó khăn, nếu tên có nhiều chữ th́ chỉ giữ lại ba
chữ cuối : thí dụ như Tô Môn Tô Sa Môn viết thành Tô Sa Môn, Sa Qua
Sa Oa Qua thành Sa Oa Qua...
Vua Lê c̣n ra lệnh cấm quan viên và dân chúng Việt chứa chấp người
Chăm. Nhà Lê đưa những tội phạm biệt xứ gốc Kinh vào các châu Thăng
Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn (thuộc đạo Quảng Nam) khai phá đất mới.
Những lưu dân này lúc ra đi, hoặc độc thân hoặc không được mang theo
gia đ́nh, một số đă lập gia đ́nh với các thiếu nữ Chăm và sinh con
đẻ cái. Con cái của những người này sau đó đă trở thành người Việt,
quên hẳn gốc Chăm của mẹ và đă trở thành những người miền Trung.
Người Chăm tại Phan Rang gọi những người Chăm mang hai gịng máu tại
Quảng Nam và B́nh Định là Chăm Hoi (người Việt gọi là Hời). Phụ nữ
Chăm Quảng Nam và B́nh Định lấy chồng Việt là chuyện thường, nhưng
rất hiếm trường hợp phụ nữ Chăm tại Ninh Thuận và B́nh Thuận lấy
chồng Việt, v́ khác biệt tôn giáo, đa số theo đạo Chăm Bani (Hồi
giáo cải cách).
Dân chúng Việt sống trên các lănh thổ Quảng B́nh, Quảng Trị và Thừa
Thiên, tức Indrapura cũ, thỉnh thoảng bị người Hroi, một bộ lạc gốc
Malayo Polynesien cư ngụ trên Tây Nguyên, tràn xuống đánh phá, từ đó
người miền Trung gọi chung tất cả những người có nước da đen đủi ở
trần là Hời. Về sau danh xưng này được đồng hóa với người Chăm trước
thế kỷ 15. Thật ra người Chăm lai Thượng hay Thượng gốc Chăm được
người Chăm Phan Rang gọi là Chăm Pal, không liên quan ǵ đến người
Chăm Hoi tại B́nh Định. Họ là những người thuộc các bộ lạc Rhadé,
Raglai, Churu v.v...
Năm 1478, Bố Tŕ Tri mất,em à Koulai lên thay và bị ám sát tại Lăo
Qua (Lào) năm 1505, con là Chakou Poulo kế nghiệp. Chakou Poulo lo
mở mang xứ sở, giao hảo với Trung Hoa và được nhà Minh sắc phong năm
1515 và nh́n nhận vương quốc Nam Chiêm Thành cho tới năm 1543.
Thuyền buôn ngoại quốc (Trung Hoa, Mă Lai, Khmer, Bồ Đào Nha và Ḥa
Lan) vẫn lui tới các hải cảng Panduranga buôn bán tấp nập trong
những thế kỷ 16 và 17.
Đầu thế kỷ 16, người Chăm trong các vùng đất Thuận Hóa và Nam Bàn
thường hay nổi lên đánh giết những gia đ́nh người Việt đến định cư
lập nghiệp. Đất Nam Bàn trở nên khó cai trị, việc quản trị sau đó
phải giao cho những quan Việt. Được sự đồng ư của chúa Trịnh, vua Lê
sai Nguyễn Hoàng trấn thủ đất Thuận Hóa giữ yên bờ cơi phía Nam.
Nhiều gia đ́nh hoàng tộc Champa sinh sống trên vùng đất này chạy về
Panduranga tị nạn. Một số dân cư Chăm sinh sống dọc các bờ biển miền
Trung trở thành những nhóm hải tặc tổ chức cướp phá các đội thương
thuyền ngoại quốc, nhất là của người Bồ Đào Nha và Ḥa Lan, đi lại
trong vùng để sinh sống. Địa Bàn hoạt động của các đám hải tặc là
quanh các đảo Côn Lôn và Phú Quư.
Chiêm Thành trên danh nghĩa không c̣n được nhắc tới nữa,
nhưng trong thực tế vương quốc Chiêm Thành đối với người Chăm vẫn
tồn tại mặc dù đất đai bị thu hẹp. Sau này vào thời Nguyễn sơ, nhất
là dưới thời Nguyễn Hoàng, vương quốc Chiêm Thành được nh́n nhận trở
lại.
T́m
hiểu cộng đồng người Chăm tại Việt Nam
Cố gắng tồn
tại trong khó khăn
Đối với nhiều sử gia và học giả phương Tây, biến cố 1471 đánh dấu sự
giải thể vương quốc Chiêm Thành, không một biên khảo lịch sử hay
niên giám triều đ́nh Chiêm Thành nào được phổ biến từ sau ngày đó.
Trong thực tế, sinh hoạt triều chính của các ḍng vương tôn Chiêm
Thành vẫn tiếp tục, với một qui mô tuy nhỏ hẹp nhưng không kém phần
xúc tích. Tuy vậy t́m hiểu lịch sử người Chăm trong giai đoạn này
rất là khó khăn v́ thiếu chứng liệu, người viết đă dựa vào các nguồn
sử liệu Việt Nam, đối chiếu với nhiều nguồn sử liệu khác của nước
ngoài để phác họa lại giai đoạn thiếu sót này.
Nam Chiêm Thành trong thế kỷ 16
Sau 1471, nhóm hoàng tộc Chăm từ Nam Bàn (từ Quảng Nam đến Đồ Bàn)
chạy về Giao Nam (B́nh Thuận) lánh nạn và tranh chấp quyền bính với
các ḍng vương tôn địa phương tại Phan Rang (Virapura). Nhóm người
này tự nhận là truyền nhân đích tôn của vương triều cũ (vương triều
Vijaya) và kêu gọi dân chúng địa phương không thừa nhận ḍng họ Bố
Tŕ Tri (Jayavarman Mafoungnan) v́ chỉ là cấp thừa hành của các ḍng
tiên vương. Tuy âm thầm nhưng rất mănh liệt, các ḍng vương tôn Nam
Bắc Chiêm Thành kết thành từng phe nhóm tranh chấp lẫn nhau. Với
thời gian, ḍng dơi vương tôn Nam Bàn được dân chúng mến chuộng và
tôn lên làm vua cai trị lănh thổ Nam Chiêm Thành. Yếu tố bộ tộc
truyền thống Cau và Dừa phai dần trong kư ức tập thể dân gian và kể
từ thế kỷ 15 trở về sau huyền thoại này không c̣n được nhắc tới nữa.
Dân chúng Panduranga (Nam Chiêm Thành), quá mệt mỏi trước các cuộc
chiến tranh chống ngoại xâm và nội chiến, muốn quên đi quá khứ để
chỉ chăm lo cuộc sống hằng ngày.
Ḍng họ Bố Tŕ Tri không trị v́ lâu. Năm 1478 Bố Tŕ Tri mất, em là
Koulai lên thay nhưng năm 1505 bị ám sát tại Champassak (Nam Lào),
con là Chakou Poulo kế nghiệp và trị v́ đến 1530 th́ mất. Kể từ sau
ngày đó con cháu ḍng vương tôn Nam Bàn được hoàng triều và dân
chúng tôn lên làm vua. Con Trà Toại là hoàng thân Po Karutdrak được
tôn lên làm vua, kế nghiệp Chakou Poulo cai quản xứ Panduranga. Con
Karutdrak, thái tử Maresarak làm vua năm 1536. Po Kanarai lên ngôi
năm 1541, hiệu Chế Băi. Năm 1553 Chế Băi mất, Po Ất (Po At) lên thay.
Trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, người Chăm phía Bắc vẫn thỉnh
thoảng nổi lên quấy phá Thuận Hóa (châu Ô và châu Rí). Nhân cớ này,
Nguyễn Hoàng xin Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ Thuận Hóa năm 1558, rồi
bí mật xây dựng cho ḿnh và con cháu cơ nghiệp riêng. Mỗi lần các
chúa Nguyễn bị các chúa Trịnh làm áp lực, vương quốc Chiêm Thành
lănh nhận những hậu quả.
Năm 1560, Nguyễn Hoàng bị Trịnh Kiểm buộc phải nộp hàng năm 400 cân
bạc, 500 tấm lụa nếu muốn được yên. Không sao t́m đủ phẩm vật dâng
nộp, Nguyễn Hoàng cử người xuống Aryaru (Tuy Ḥa) thông báo cho vua
Po Ất cung cấp số lượng phẩm vật nói trên, nhưng bị từ chối. Liền
tức th́, Nguyễn Hoàng xua quân tiến chiếm Phan Rang, quân Chăm ră
hàng, hàng ngàn người chạy theo Po Ất lên Tây Nguyên lánh nạn. Sau
khi cướp phá các đền đài và tịch thu hết tài sản của hoàng gia Chiêm,
Nguyễn Hoàng rút quân về nước nhưng để lại số binh sĩ trấn giữ Tuy
Ḥa. Năm 1579, lợi dụng sự yếu kém của quân Chăm, một hoàng thân
Khmer trấn thủ lănh thổ đông-bắc Chân Lạp (Mondolkiri và Rattanakiri)
dẫn đại quân tiến vào Phan Rang giết Po Ất rồi tự xưng vương, hiệu
Po Klong Halau (Po Klău Haluv).
Nam Chiêm Thành trong thời Nguyễn sơ
Sau khi làm chủ toàn bộ lănh thổ Panduranga, Po Klong Halau
(1579-1603) mở rộng giao thương với phương Tây, nhà vua t́m mua súng
điểu thương và những khẩu đại pháo pḥng thủ bờ biển và kinh thành.
Không bao lâu sau, vương quốc Panduranga trở nên hùng mạnh, Po
Klong Halau tổ chức nhiều cuộc tấn công vào lănh thổ Đại Việt, chiếm
Thành Hồ (Tuy Ḥa) trên sông Đà Rằng năm 1579 và thách đố các thế
lực khác trong vùng, nhất là Chân Lạp.
Trước sự đánh phá của quân Chiêm phía nam và áp lực quân sự
của chúa Trịnh phía bắc, Nguyễn Hoàng không những bỏ qua việc mất
Thành Hồ mà c̣n đề nghị thành lập một liên minh quân sự với Chiêm
Thành. Po Klong Harau cũng muốn được yên với Đại Việt để chống trả
những cuộc tiến quân của Chân Lạp nên đă chấp thuận. Năm 1594, nhà
vua gởi quân sang tiếp cứu tiểu vương Johore, đất Madjapahit (bán
đảo nam Mă Lai, gần Singapore), chống lại sự tấn công của quân Bồ
Đào Nha.
Năm 1597, vua Khmer Chetta I (tiếng Chăm là Cau Bana Tan, hiệu
Paramaraja V) mang quân đánh Chiêm Thành viện cớ Po Klong Harau làm
phản không chịu sát nhập Panduranga vào lănh thổ Chân Lạp. Nhờ được
trang bị những loại vũ khí mới, quân Chăm đánh bại quân Khmer trong
những trận đầu và c̣n tiến sâu vào nội địa Chân Lạp. Về sau, được
người Chăm tị nạn tại Chân Lạp ủng hộ, quân Khmer phản công trở lại
và cuộc chiến trở nên ngang ngửa. Khi quân Chăm rút lui về nước,
quân Khmer do tướng Ukana Tejo và hai tướng gốc Chăm, Po Rat và
Laksmana chỉ huy, tiến vào Panduranga cướp các khẩu trọng pháo do
người Bồ Đào Nha cung cấp.
Liên minh giữa Đàng Trong và Panduranga cũng không bền lâu. Năm 1603
khi Po Klong Halau qua đời, con là Po Thikdhik lên thay, hiệu Po
Nit. Po Nit không những không chịu thông sứ với xứ Đàng Trong mà c̣n
xây kho lương, tuyển mộ binh sĩ đánh phá phủ Hoài Nhơn, đạo Quảng
Nam. Nguyễn Hoàng liền thành lập dinh Phú Yên và đưa một số di dân
gan dạ vào lập các "lân" (làng biên giới) để canh tác và ḍ xét t́nh
h́nh.
Năm 1611, sau khi củng cố xong thế lực ở phía bắc đèo Ngang, Nguyễn
Hoàng sai một người Chăm không rơ tên, gọi là Văn Phong (Văn Phong
là tên một chức chủ sự) dẫn quân qua đèo Cù Mông chiếm thành Phú Yên
(Aryaru), tổ chức dinh điền và đưa dân từ các tỉnh Quảng Nam đến
B́nh Định vào định cư, lập ra hai xă Đồng Xuân và Tuy Ḥa. Quân Chăm
tấn công liên tục hai xă mới này, nhưng không thành công. Po Nit mất
năm 1613, em là Po Chai Păran kế nghiệp. Po Chai Păran dời đô từ
Virapura (Phan Rang) về Bal Canar (thôn Tịnh Mỹ, Phan Rí) đề pḥng
chúa Nguyễn tấn công bất ngờ. Năm 1618 Po Chai Păran mất, con là Po
Ehklang lên ngôi.
Năm 1622 nội bộ triều chính Panduranga có loạn, một vương tôn đạo
Bani tên Po Klong Menai (Po Klău Manai) giết Po Ehklang rồi tự xưng
vương, hiệu Po Mahtaha. Dưới thời Po Klong Menai, xung đột với người
da trắng và tôn giáo trở nên trầm trọng. Trong những năm 1622-1630,
thuyền buôn của các thương nhân Ḥa Lan qua lại trên Biển Đông bị
quân "Mă Lai" (thực ra là người Chăm) cướp bóc và thương điếm của
người phương Tây tại Côn Sơn thường xuyên bị đập phá, những cơ sở
truyền đạo của các giáo sĩ phương Tây trên lănh thổ Panduranga đều
bị đốt. Những vị lănh đạo các tôn giáo Bà La Môn và Bani cũng nhân
cơ hội xúi giục giáo dân chống phá lẫn nhau trong những dịp lễ lạc.
Đất nước trở nên loạn lạc, dân chúng sống trong cảnh lầm than, tại
mỗi nơi các lănh chúa và tù trưởng địa phương tùy theo sức mạnh của
ḿnh tổ chức đánh phá các nơi khác để cướp bóc lương thực.
Trước cảnh loạn lạc này, năm 1627, một tù trưởng người Thượng gốc
Churu tên Thốt được dân chúng Chăm và người Thượng tôn lên làm lănh
tụ đứng ra dẹp loạn. Dẹp loạn xong, tù trưởng Thốt được dân chúng
tôn lên làm vua, hiệu Po Romé (Pô Rômê). Việc đầu tiên của tân vương
là buộc các lănh tụ tôn giáo Bà La Môn và Bani (các thầy Paseh và
thầy Char) phải sinh hoạt chung với nhau, phân chia những ngày lễ
lớn như các lễ nghi về nông nghiệp (lễ dựng cḥi, lễ mừng cây lúa,
lễ cúng chúa lửa, lễ cúng sân lúa, lễ cúng cơm mới...) cho hợp lư để
các thầy tế lễ và giáo dân đạo kia có thể tham dự. Po Romé
(1627-1651) là một vị vua sáng suốt, biết tổ chức, chăm lo đời sống
dân chúng, đất nước sống trong thái ḥa. Gần như tất cả các vương
quốc địa phương đều giao thương với Chiêm Thành : Xiêm La, Chân Lạp,
Ai Lao, Ấn Độ, Mă Lai và Đại Việt, kể cả với các quốc gia phương Tây.
Nhiều đập nước lớn dẫn thủy nhập điền (như đập Marên) được thành lập
tại những nơi khô cằn và triền núi để dân chúng canh tác. Nhà vua
chọn Krong Laa (làng Palai Bachong, xă Ḥa Trinh, thị xă Phan Rang,
trên quốc lộ 1, cách Sài G̣n 310 cây số) làm kinh đô, cạnh sông
Krong Binh (sông Viêu). Nơi này trước kia là kinh đô cũ (Virapura)
của vua Satyavarman, được trồng nhiều cây Kraik tượng trưng cho uy
quyền của vua.
Năm 1629, một chủ sự người Chăm, gọi là Văn Phong, nổi lên đánh phá
các làng di dân người Việt tại Phú Yên. Săi vương Nguyễn Phúc Nguyên
sai Nguyễn Phúc Vinh mang quân xuống đánh dẹp và thành lập Trấn Biên
Dinh, lấn sâu vào lănh thổ Chiêm Thành tới chân núi Thạch Bi (đèo Cả)
để bảo vệ di dân. Sau thất bại này, Po Romé làm ḥa và xin cưới con
gái thứ ba của Săi Vương là công chúa Ngọc Khoa (em của Ngọc Liên và
Ngọc Vạn, đă gả cho vua Chân Lạp Chetta II năm 1620, và là chị của
Ngọc Đỉnh), gọi là Po Bia Út, tước hiệu hoàng hậu Akaran.
Cũng nên biết Po Romé có rất nhiều vợ. Vợ thứ nhất tên Po Bia Suthi
(hay Po Bia Suchi), con vua Po Ehklang, không có con. Po Romé lên
cao nguyên Đắc Lắc cưới người vợ thứ hai, con một tù trưởng Rhadé,
tên Po Bia Thanh Chan (hay Po Bia Suncan) và sinh hạ được nhiều con.
Sau cùng nhà vua xin cưới công chúa Ngọc Khoa, vợ thứ ba và cũng là
vợ út của Po Romé (không tài liệu nào nhắc đến con cái của bà Ngọc
Khoa). Tuy là sui gia với chúa Nguyễn, quân Chăm vẫn thỉnh thoảng
tấn công quân Việt tại Phú Yên. Năm 1651, trong một trận giáp chiến
với quân Việt, Po Romé bị tử thương. Dân chúng Chăm rất thương tiếc
và xây cho ông một tháp lớn tại Phan Rí để thờ, gọi là tháp Po Romé
(thôn Hậu Sanh, xă Phước Hữu, huyện Ninh Phước).
Năm 1652, Po Nraup, người con cùng mẹ khác cha với Po Romé, lên ngôi,
hiệu Bà Thâm (c̣n gọi là Bà Tấm hay Bà B́). Bà Thâm là một người
Chăm lai Thượng (Chăm Pal), cha là người Chăm, mẹ là người Churu.
Vừa lên ngôi Bà Thâm dẫn quân tấn công Trấn Biên Dinh, chiếm lại
thành Phú Yên. Hiền vương Nguyễn Phúc Tần sai tướng Hùng Lộc (một
người gốc Chăm theo chúa Nguyễn) mang 3.000 binh sĩ vượt đèo Hổ
Dương (đèo Cả, núi Thạch Bi), đánh bọc hậu, chiếm Aya Tră (Nha Trang),
bắt được Bà Thâm. Để cầu ḥa, Bà Thâm dâng đất Kauthara và chấp nhận
lấy xă Kamran (Cam Ranh) làm ranh giới : phần đất phía nam sông Phan
Rang thuộc vua Chiêm Thành, phần đất phía bắc thuộc về chúa Nguyễn (lănh
thổ Kauthara) và đổi tên thành phủ Thái Ninh (gồm Thái Khang và Diên
Ninh), sau là phủ Diên Khánh (Khánh Ḥa). Tướng Hùng Lộc được phong
làm thái thú. Nhiều đoàn người Chăm, lo sợ bị trả thù, vượt cao
nguyên Đắc Lắc sang Xiêm La lánh nạn, đông nhất là tại Ayuthya.
Lănh thổ Panduranga như vậy chỉ c̣n lại 4 địa phận : Panră (Phan
Rang), Krău (Long Hương), Parik (Phan Rí) và Pajai (Phố Hài). Kinh
đô dời về Bal Canar (thôn Tịnh Mỹ, Phan Rí). Vương quốc Nam Chiêm
Thành mất đi những hải cảng lớn, việc giao thương với các tàu buôn
phương Tây giảm dần và mất hẳn vào giữa thế kỷ 18, người Champa trở
thành một dân tộc lục địa, mất hẳn khả năng hàng hải và ngư nghiệp.
Năm 1653 Bà Thâm qua đời, hoàng thân Po Prik Tirai Pakhuoh được chúa
Nguyễn cho lên thay.
Po Prik Tirai là con trai vương phi người Rhadé (Po Bia Tanchan) của
Po Romé. Năm 1657, Po Ja Tanưh, rể vua Po Prik, được chúa Nguyễn
phong vương (đề đốc đại tướng). Năm 1659, Po Saut (Bà Tranh) lên
ngôi trị v́ đến năm 1692.
Cũng nên biết từ 1620, vua Chân Lạp là Chey Chetta II tặng Săi vương
Nguyễn Phúc Nguyên đất Đồng Nai làm quà cưới công chúa Ngọc Vạn,
nhưng v́ bận đối phó với chú Trịnh nên chúa Nguyễn chưa thể đưa
người vào khai phá ngoài những lưu dân phiêu lưu và tội phạm bị đày
xa xứ. Từ sau ngày đó, vương quốc Nam Chiêm Thành nằm trong thế gọng
ḱm giữa hai thế lực, xứ Đàng Trong và Chân Lạp. Quân Việt có băng
qua lănh thổ Panduranga năm 1630 giúp Chey Chetta II nhưng rút về
hết khi xong nhiệm vụ. Năm 1679 nhân có hai vị tướng nhà Minh xin tị
nạn, chúa Nguyễn cho vào khai phá đất Đồng Nai. Phong trào di dân
Việt từ Diên Khánh vào Đồng Nai trong giai đoạn này c̣n rất hạn chế
v́ không thể băng ngang lănh thổ Chiêm Thành bằng đường bộ trong khi
tàu thuyền th́ quá hiếm hoi và chỉ dành cho nhu cầu triều chính và
quân sự.
Năm 1691, Bà Tranh (Po Saut) xua quân đánh Diên Ninh với hy vọng
chiếm lại Kauthara, rồi không chịu triều cống nữa. Năm 1692, Minh
vương Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Kính chiếm Panduranga, giết Bà
Tranh và bắt theo một số cận thần gồm Kế Bà Tử (Po Saktiray Depatih),
Tả Trà Viên (Po Thutirai Depatih), vương phi Bà Ân cùng rất nhiều
binh sĩ đem về giam tại núi Ngọc Trản (Thừa Thiên). Hoàng thân Po
Chongchan (Po Choncăin) được đưa lên kế nghiệp và bị buộc phải triều
cống nhiều phẩm vật quí hiếm cùng vàng bạc cho chúa Nguyễn, lúc đó
ngân khố đang rất thiếu hụt. Không chịu nổi sự áp đặt này, năm 1692
Po Chongchan bỏ vương triều, dẫn theo khoảng 5.000 gia đ́nh tín đồ
đạo Bani chạy sang Chân Lạp tị nạn. Đây là đợt tị nạn thứ sáu (sau
năm 986, 1285, 1318, 1471 và 1652) của người Chăm ra hải ngoại và là
đợt tị nạn thứ hai sang Chân Lạp. Đoàn người di tản đă để lại nhiều
tài sản quí báu cho người Churu và người Kaho cất giữ trên cao
nguyên Đồng Nai thượng và Langbian. Tại Chân Lạp, nhóm người này họp
với nhóm "Mă Lai" (người Khmer gốc Chăm theo đạo Hồi) tạo thành nhóm
Chăm Java, theo đạo Hồi chính thống. Một số sau đó về định cư tại
Châu Đốc gọi là Chăm Islam (Chăm Islam khác với Chăm Bani, mặc dù
cùng là đạo Hồi). Từ 1692 đến 1695, người Chăm tại Panduranga không
có vua.
Quân Việt liền tiến chiếm Panduranga đang bị bỏ trống và đặt cho tên
mới là trấn Thuận Thành. Những lănh địa cũ của người Chăm cũng được
đổi tên và giao cho các tướng Việt nắm giữ : Nguyễn Trí Thắng cai
quản Phố Hài, Nguyễn Tấn Lễ địa phận Phan Rí, Chu Kiêm Thắng lănh
thổ Phan Rang.
Tháng 8-1693, trấn Thuận Thành đổi thành phủ B́nh Thuận (trấn là khu
quân sự chưa ổn định, phủ là khu vực hành chánh đă ổn định). Dân
chúng Chăm không chấp nhận sự cai trị trực tiếp của người Việt đă
nổi lên chống đối. Để trấn an, Minh vương Nguyễn Phúc Chu phong Kế
Bà Tử, em vua Po Saut, làm khám lư (tỉnh trưởng) phủ B́nh Thuận, ba
người con của Bà Ân làm đề đốc (quận trưởng) thay mặt Minh vương cai
trị và thâu thuế. Những tù binh Chăm bị giam tại Huế cũng được trả
về phủ B́nh Thuận ; tất cả buộc phải ăn mặc như người Việt : quan
th́ áo thụng, mũ cánh chuồn, đi hia ; binh lính th́ mặc áo cộc, đội
nón lá, không được vấn váy (sà rông), tóc bới ra sau. Người Chăm tại
phủ B́nh Thuận được hưởng qui chế giám hộ (tự trị về hành chánh,
kinh tế và tôn giáo) đă tỏ ra bớt chống đối nhưng sự căng thẳng vẫn
tồn tại.
Năm 1696, nhân có nạn đói, một người Hoa tên A Ban và một hoàng thân
Chăm tên Ốc Nha Thát xúi giục dân chúng nổi loạn nhưng liền bị dập
tắt. Sau biến cố này, qui chế bảo hộ bị hủy bỏ, phần đất đông người
Chăm cư ngụ nhất tại phủ B́nh Thuận đổi thành trấn Thuận Thành, Kế
Bà Tử được phong làm "phiên vương" (vua), một tước ngang với vua
Chăm cũ, và được giao lại ấn kiếm, yên mă. Kể từ cuối thế kỷ 17,
người Chăm tuy mất độc lập nhưng vẫn c̣n hưởng qui chế tự trị.
Trấn Thuận Thành thật ra chỉ c̣n là một vùng đất nhỏ tại Phan Rang
và Phan Rí, người Chăm gọi là Bal Prădară (Thuận Hải), gồm hai huyện
An Phước (phía nam Phan Rang) và Ḥa Đa (phía nam Phan Rí). Cung
đ́nh vua Chăm đặt tại Bal Canar (Tịnh Mỹ) về h́nh thức. Bên cạnh sự
quản trị đó, phong trào di dân lập ấp của người Việt vào trấn Thuận
Thành ngày càng gia tăng. Những làng Việt Nam, hơn 200 làng, tạo
thành những khoảng da beo trong lănh thổ Prădară. Những người Chăm
bất măn bỏ lên cao nguyên sống lẫn lộn với người Thượng (Churu, Kaho
và Djarai) tại Djiring (Lâm Đồng), một số khác chạy sang Chân Lạp
ḥa nhập với nhóm Chăm Java đă có từ trước. Sự thù ghét người Việt
tại Chân Lạp do những nhóm Chăm di cư gieo rắc bắt đầu manh nha
trong ḷng người Khmer.
Sự cộng cư giữa người Chăm và Việt rất là khó khăn, do bất đồng văn
hóa, tôn giáo, hành chánh và việc khai thác đất đai ngày càng gay
gắt. Năm 1712, một quan lại và khoảng 30 binh lính Kinh được tăng
cường để phụ giúp Kế Bà Tử về hành chánh. Sự hiện diện của những
Kinh binh này làm người Chăm bất măn v́ nhiều khu đất tốt lần lượt
lọt vào tay nhóm người này. Từ đó người Chăm sống co cụm lại trong
hai huyện An Phước và Ḥa Đa để duy tŕ bản thể và phong tục tập
quán riêng. Tại Phan Lư Chàm, người Kinh thành lập bốn thôn giữa các
làng Chăm : Xuân Quang (xóm Ổi), Xuân Hội (xóm Tầm), Tuân Giáo (xóm
Rau Cá) và Tuân Mục. Về sau những di dân này lập gia đ́nh với thiếu
nữ Chăm, gọi là người Kinh Cựu (Cựu ở đây là người Chăm). Một số tù
binh Việt Nam, bị bắt từ thế kỷ 18, chấp nhận ở lại Chiêm Thành lập
gia đ́nh với phụ nữ Chăm cũng được gọi là người Kinh Cựu (Chăm Yuôn,
tức người Chăm lai Việt).
Để duy tŕ tốt sự tuân phục của các ḍng vương tôn Chăm, các chúa
Nguyễn lần lượt phong vương con cháu Kế Bà Tử và Tả Trà Viên. Kế Bà
Tử trị v́ đến năm 1727. Năm 1728, Nguyễn Phúc Chu phong Po Jinah
Depatih, cháu Kế Bà Tử, làm vương trấn Thuận Thành. Năm 1731, Tả Trà
Viên, con Po Saut, lên thay. Năm 1732, Po Rattirai Depatih, cháu Kế
Bà Tử, làm vương trấn Thuận Thành. Con Rattirai, Po Tathun Demurai
kế nghiệp năm 1763. Po Tithuntirai Rakhuoh (Rakhvăh), con Tả Trà
Viên, được chúa Nguyễn tấn phong năm 1765, nhưng đến năm 1768 mới
chính thức chấp chánh.
Giữa hai gọng ḱm
Trong thời gian từ 1771 đến 1799, Đại Việt có nội chiến. Tây Sơn,
nhà Lê và chúa Nguyễn đánh phá lẫn nhau.Tây Sơn là một làng ở phía
tây B́nh Định, gần An Khê, nơi có nhiều người Chăm Hroi (Hời) và
người Thượng sinh sống. Phong trào Tây Sơn được rất đông người Chăm
Hoi theo, về sau có thêm nhiều bộ lạc người Thượng gia nhập. Năm
1773, phong trào Tây Sơn phát triển mạnh trên cao nguyên B́nh Định,
một số người Chăm sống dưới quyền của nữ chúa Thị Hỏa tham gia phong
trào. Tại Quảng Ngăi, một lănh tụ Chăm tên Lía (c̣n gọi là Doan)
theo Tây Sơn khởi nghĩa. Lực lượng thủy binh của Tây Sơn cũng có rất
nhiều người Chăm đồng bằng.
Từ 1776 đến 1798, người Chăm sống trong trấn Thuận Thành buộc phải
ngả theo một trong hai thế lực, hoặc Tây Sơn hoặc chúa Nguyễn. Quân
Tây Sơn chiếm giữ Thuận Thành năm 1776, chúa Nguyễn lấy lại năm
1779, Tây Sơn tái chiếm năm 1791, Nguyễn Ánh chiếm lại năm 1793.
Quân Tây Sơn trở lại Thuận Thành năm 1794, Nguyễn đẩy lùi năm 1798.
Sau những cuộc xung đột liên tục này, dân chúng không c̣n biết nghe
ai.
Từ 1781 đến 1783, trấn Thuận Thành tuy có vua (do Tây Sơn đưa lên)
nhưng không được chúa Nguyễn công nhận. Năm 1782, một vương tôn ḍng
Kế Bà Tử tên Po Tithuntirai Deparan (tên Việt là Tá) xin theo Nguyễn
Huệ. Năm 1783, Tá chiếm cao nguyên Đồng Nai thượng chống lại Nguyễn
Ánh. Cũng trong năm 1783, một lănh tụ Chăm Bà La Môn tên Po Tolripho
từ Ấn Độ về lập chiến khu chống lại người Việt nhưng bị Nguyễn Huệ
đánh bại. Po Tolripho phải chạy lên Cheo Reo (Phú Bổn) ẩn lánh trong
các buôn làng người Thượng.
Năm 1790 Nguyễn Ánh chiếm lại trấn Thuận Thành, cháu Kế Bà Tử là Môn
Lai Phu Tử được phong làm chưởng cơ cai quản trấn Thuận Thành, sau
đó bị băi chức v́ t́nh nghi theo Nguyễn Huệ. Po Ladhun Paghuh, hay
Thôn Ba Hú, được phong làm chưởng cơ (tiểu vương) Thuận Thành. Tước
Thuận Thành trấn phiên vương bị băi bỏ.
Để tưởng thưởng các trung thần, Nguyễn Ánh ban họ Nguyễn cho những
vương tôn Chăm trung thành. Môn Lai Phù Tử, cháu Kế Bà Tử, mang tên
Nguyễn Văn Chiêu ; Po Ladhun Paghuh thành Nguyễn Văn Hào ; Po
Sănuncăn là Nguyễn Văn Chấn... Năm 1793, Nguyễn Văn Hào (Po Ladhun
Paghuh) được phong làm chánh trấn Thuận Thành, Nguyễn Văn Chấn (Po
Sănuncăn) làm phó trấn.
Năm 1794, quân Tây Sơn tiến vào Thuận Thành, Nguyễn Văn Hào chạy vào
Gia Định. Năm 1796, Po Thong Khang, một thủ lĩnh người Chăm Hồi giáo
tại Dă Giang, pháp danh Tăng Ma, theo Tây Sơn bị đánh bại tại Phô
Châm. Tháng 10-1796, tù trưởng hai huyện Phô Châm và Đồng Phủ nổi
lên đánh phá quân chúa Nguyễn nhưng liền bị đánh dẹp. Năm 1798
Nguyễn Ánh làm chủ Thuận Thành và giao cho Nguyễn Văn Hào cai trị.
Năm 1799, Nguyễn Văn Hào mất, Nguyễn Ánh đưa Nguyễn Văn Chấn lên
thay.
Người Chăm trong thời nhà Nguyễn
Dưới thời Gia Long (1802-1820), qui chế tự trị của người Chăm được
duy tŕ trong chừng mực. Phong trào di dân và chính sách ban thưởng
ruộng đất cho các công thần tại trấn Thuận Thành đă đẩy những người
không chấp nhận sự cai trị của nhà Nguyễn vào chốn rừng sâu và đất
cao. Ḍng họ c̣n lại của vị vua cuối cùng là Po Chongchan không được
Gia Long nh́n nhận, tất cả bỏ sang Chân Lạp tị nạn. Những vùng đất
tốt quanh thành Đồ Bàn cũ trước kia, do người Chăm Hroi cư ngụ và bị
kết tội theo Nguyễn Huệ, đều bị tịch thu. Thành Đồ Bàn bị đổi tên
thành B́nh Định, tức đă dẹp yên được loạn Tây Sơn.
Về hành chánh, Gia Long sát nhập trấn Thuận Thành (trước kia trực
thuộc thuộc phủ B́nh Thuận) vào Gia Định thành và phong Nguyễn Văn
Chấn (Po Săununcăn) làm chính vương, dưới quyền quản trị trực tiếp
của tổng trấn Lê Văn Duyệt. Tước vương này tương đương với chức
chưởng cơ của triều đ́nh Huế và được người Chăm nh́n nhận như là vua
(patau). Năm 1807, Nguyễn Văn Vĩnh (Po Klănthu) lên thay và được
phong làm phó vương.
Lo sợ thế lực của Lê Văn Duyệt lấn át uy quyền của ḿnh tại miền
Nam, năm 1822 Minh Mạng đặt phủ B́nh Thuận trực thuộc Phú Xuân. Phó
vương Nguyễn Văn Vĩnh bị triệu về Huế giam lỏng v́ t́nh nghi theo Lê
Văn Duyệt. Phó tổng trấn Gia Định thành kiêm trấn thủ phủ B́nh Thuận,
Trương Văn Chánh, cũng bị triệu về kinh, một thân tín của Minh Mạng
là Mai Gia Lương được đưa vào thay.
Năm 1823, khi chính vương Nguyễn Văn Chấn lâm bệnh qua đời, Mai Gia
Lương đưa một người Chăm thân tín tên Bait Lan lên thay nhưng không
được người Chăm công nhận. Minh Mạng buộc phải đưa Nguyễn Văn Vĩnh
về làm vương để giữ yên nhân tâm và ban cho ấn đồng "Quản Lư Thuận
Thành Quan Pḥng". Với sự tín cẩn này, Nguyễn Văn Vĩnh áp dụng chính
sách cai trị khe khắt của Minh Mạng khiến dân chúng Chăm bất măn và
không nh́n nhận ông là truyền nhân đích tôn của ḍng Kế Bà Tử. Nhiều
nhân sĩ Chăm vào Gia Định cầu cứu Lê Văn Duyệt nhưng tả quân bất lực
v́ Minh Mạng đă tước hết quyền. Các nghi lễ của người Chăm bị cấm
cử hành ngoài trời và chốn đông người.
Năm 1829 Nguyễn Văn Vĩnh mất, không người kế vị. Lê Văn Duyệt đề
nghị Nguyễn Văn Nguyên (hoàng tử Po Dhar Kauk), con Nguyễn Văn Vĩnh,
lên làm phó vương Gia Định Thành kiêm trấn thủ trấn Thuận Thành,
hiệu Po Kabait Thvac, lên thay. Minh Mạng, ngược lại, chọn Nguyễn
Văn Thừa (Po Phauk Tha), con Nguyễn Văn Chấn, lên thay nhưng chỉ cho
giữ chức tuần phủ (kham ma).
Nhiều phong trào chống đối nhà Nguyễn đă xảy ra nhưng đều bị dep tan
trong biển máu như cuộc nổi dậy của Tà La Văn (Ja Lidon), một người
Thượng ở Cam Tăng, Phan Thiết, năm 1823 ; của Nvait Kabait, một
tướng người Thượng trên Đồng Nai thượng, năm 1826 ; của Katip Sumat,
một tu sĩ Hồi giáo toàn nguyên, kêu gọi thánh chiến chống các đạo
khác tại Ninh Thuận năm 1833 ; của Ja Thakva (Điền Sư), tại B́nh
Thuận năm 1834.
Minh Mạng buộc người Chăm phải lấy một trong sáu họ Việt do chính
nhà vua ban : Nguyễn, Dụng, Lâm, Diệp, Hắc, Tôn. Về sau có thêm các
họ : Thiên, Quảng, Bá, Đàng, Thiết, Thổ, Dương v.v... Người Bani có
các họ Inh Khrit, Inh Gra, Yang Inh, Than Bra, Băng Tay Bajang,
Popat v.v... Tên thánh của người Chăm theo đạo Hồi tại Châu Đốc phải
phiên âm ra tiếng Nôm thành một họ như Hosen thành Châu Sanh, Mahli
thành Mạch Ly v.v...
Trong hai năm 1854 và 1858, nhiều người Chăm Islam sống sót sau
những cuộc tàn sát của quân Khmer chạy qua Châu Đốc tị nạn, được
Trương Minh Giảng cho định cư cùng với những người Chăm có mặt từ
trước ở vùng biên giới dọc theo sông Hậu gần Châu Đốc (rạch B́nh Gỉ)
và Tây Ninh ; tất cả sinh sống bằng nghề trồng rau quả, lúa nước và
thương mại. Người Chăm miền Tây thành lập được 7 làng (Châu Giang,
Katambong, Phum Soài, Lama, Kakôi, Ka Côki và Sàbâu), dân số khoảng
5.000 người chia làm 9 đội đặt dưới sự cai quản của quan hiệp quản
người Kinh tại Châu Giang.
Từ 1954 đến nay
Dưới thời Pháp thuộc (1884-1954), người Chăm được xếp hạng ngang với
người Kinh nên không hưởng một qui chế đặc biệt nào. Họ được toàn
quyền sinh hoạt tôn giáo. Chỉ sau năm 1946, khi phong trào Việt Minh
xâm nhập vào các thôn làng Chăm, người Pháp mới chú tâm đào tạo
thanh niên và phát triển những vùng dân cư gốc Chăm. Hậu duệ cuối
cùng của Po Chongchan là một hoàng hậu, từ trần tại Huế năm 1927,
không người thừa kế, chấm dứt ḍng vương chính thức của Nam Chiêm
Thành.
Sau năm 1954, người Chăm chịu sự quản trị trực tiếp của chính phủ
Việt Nam Cộng Ḥa. Địa phận Thuận Thành xưa kia được chia thành hai
tỉnh Ninh Thuận (thủ phủ là Phan Rang) và B́nh Thuận (thủ phủ là
Phan Thiết). Riêng tỉnh B́nh Thuận, chính quyền Ngô Đ́nh Diệm thành
lập thêm quận Phan Lư Chàm, tách khỏi huyện Ḥa Đa. Hai quận An
Phước (Ninh Thuận) và Phan Lư Chàm (B́nh Thuận) do chính người Chăm
tự quản lư lấy v́ có số đông. Ông Thanh Giác làm quận trưởng quận
Phan Lư Chàm, sau là dân biểu quốc hội năm 1966 ; ông Quảng Đại Minh
làm quận trưởng quận An Phước. Về chính trị, hai nhân vật này đại
diện cho đẳng cấp lănh đạo người Chăm trong thời Đệ Nhất Cộng Ḥa,
tranh đấu ôn ḥa trong các định chế hợp pháp của chính quyền miền
Nam để quyền sinh tồn và phát triển của cộng đồng người Chăm được
tôn trọng.
Tại những nơi đông dân cư Chăm sinh sống, v́ lư do an ninh kể từ sau
1965 vai tṛ lănh đạo hành chánh địa phương do những sĩ quan quân
đội Việt Nam Cộng Ḥa đảm nhiệm. Những nhân vật quản trị cộng đồng
người Chăm là những sĩ quan quân đội gốc Kinh do vị tướng chỉ huy
trưởng Vùng II Chiến Thuật chỉ định, năm 1968 quyền này được giao
lại cho những sĩ quan gốc Chăm. Cho đến năm 1975, chính quyền Việt
Nam Cộng Ḥa đă đào tạo được nhiều sĩ quan cao cấp: 1 trung tá và 7
thiếu tá.
Trong nội bộ cộng đồng người Chăm, những sĩ quan và cán bộ hành
chánh gốc Chăm hợp tác chặt chẽ với các lănh tụ tôn giáo địa phương
để quản trị, đặc biệt là việc cắt đặt ngày giờ tế lễ giữa hai tôn
giáo Bà La Môn và Bani tại Ninh Thuận và B́nh Thuận. Những đ̣i hỏi
của người Chăm tại Việt Nam ít được chính quyền miền Nam nâng đỡ hay
chú ư tới v́ không bị coi là kém phát triển, chính v́ thế trong cuộc
nổi dậy của phong trào FULRO năm 1964 có nhiều lănh tụ Chăm tham dự.
Sau tháng 4-1975, không những cộng đồng người Chăm cũng không được
chính quyền cộng sản nâng đơ hơn mặc dù nhận được nhiều hứa hẹn
trong chiến tranh mà c̣n bị nghi ngờ theo tàn quân FULRO chống lại
nhà nước. Để loại trừ ảnh hưởng của các lănh tụ tôn giáo, tháng
12-1981, chính quyền cộng sản ban hành chỉ thị số 121/BBT cải tạo
phong tục, tập quán, mê tín, dị đoan của người Chăm (đả kích một số
nghi lễ gây lăng phí tiền bạc, của cải, thời gian, không vệ sinh và
duy tŕ các h́nh thức bóc lột bằng phẩm vật thông qua việc thực hiện
các lễ cúng). Chỉ thị này gây chấn động trong giới tu sĩ và giáo dân
Chăm, một phong trào chống đối rầm rộ nổi lên và chính quyền cộng
sản đă nhượng bộ : cuối năm 1982, người Chăm được phép sinh hoạt tín
ngưỡng theo tập tục riêng.
Hiện nay tất cả những lễ nghi lớn của người Chăm tại Thuận Hải đều
do bà Nguyễn Thị Thềm chủ lễ. Thật ra bà Thềm - hiện cư ngụ tại làng
Tịnh Mỹ (tên cũ là Bal Chanar), thị xă Phan Lư Chàm - chỉ là con
cháu của một vị tướng (không rơ tên và cũng không biết thời nào),
nhưng v́ c̣n lưu giữ kiếm và áo măo của tổ tiên nên được công nhận
là truyền nhân của ḍng quan lại (chứ không phải vua) cuối cùng của
trấn Thuận Thành. T́m người kế thừa vai tṛ của bà Thềm trong việc
tế lễ hiện nay đang được đặt ra v́ bà Thềm không có con, em trai của
bà là ông Dung Gạch không có vai tṛ trong chế độ mẫu hệ.
Về dân số, năm 1963 trên toàn quốc có 51.975 người Chăm, trong đó
33.600 cư trú tại Ninh Thuận và B́nh Thuận, 3.000 tại B́nh Định, 915
tại B́nh Tuy, 1.760 tại Tây Ninh và 12.700 tại Châu Đốc. Năm 1970
toàn miền Nam có khoảng 75.000 người Chăm, 2/3 sống tại Ninh Thuận
và B́nh Thuận. Năm 1989, dân số Chăm tăng lên 99.000 người, hiện nay
trên 110.000 người. Đa số sống bằng nghề nông và tiểu thủ công
nghiệp, chỉ một số rất ít cộng tác với chính quyền trong các lănh
vực hành chánh, an ninh và giáo dụïc. Những đại biểu quốc hội và
chức sắc "dân cử" địa phương không có uy tín trong cộng đồng.
Từ năm 1975 đến nay, có hơn 22.000 người Chăm tị nạn tại khắp nơi
trên thế giới, trong số này hơn 4/5 là người Chăm tại Kampuchia (khoảng
2.000 người đă di tản ngay khi Phom Penh thất thủ), và được phân
chia như sau : Pháp có hơn 1.000 người (hơn 30 người Chăm đi từ Việt
Nam), Đan Mạch : 250, Canada : 400, Úc : 400, Hoa Kỳ khoảng 2.000,
đông nhất là tại Malaysia : hơn 10.000. Những người Chăm di tản chỉ
sinh hoạt riêng với nhau, không giao thiệp với người Việt di tản.
Người Kampuchia gốc Chăm thường tỏ ra quá khích trong việc bài xích
Việt Nam và vẫn tiếp tục xúi giục thành lập vương quốc Champa.
T́m hiểu lịch sử Việt Nam
Cộng đồng người Chăm tại Kampuchia
Cộng đồng người Chăm tại Kampuchia hiện nay (230.000 người) đông gấp
hai lần cộng đồng người Chăm tại Việt Nam (115.000 người). Sự đông
đảo này không phải t́nh cờ. V́ ở sát cạnh nhau, Kampuchia là vùng
đất dung thân của những gia đ́nh người Chăm trốn chạy những cuộc nội
chiến và chiến tranh xảy ra tại Chiêm Thành cũ.
Nhóm Chăm Java
Cộng đồng người Chăm có mặt đông đảo trên lănh thổ Kampuchia từ sau
ngày thành Đồ Bàn (Vijaya) thất thủ năm 1471. Hàng trăm gia đ́nh
Chăm, sinh sống dọc vùng duyên hải B́nh Trị Thiên, chạy lên Tây
Nguyên lánh nạn, một số đă ở lại và sống lẫn với các sắc tộc Thượng
đă có từ trước, một số khác vượt thảo nguyên Kontum sang Chân Lạp
định cư và trở thành những dân cư Khmer gốc Chăm.
Đợt tị nạn đông nhất có ghi rơ số lượng xảy ra vào năm 1692, khi
quân của Minh vương Nguyễn Phúc Chu chiếm đóng Khánh Ḥa (Kauthara).
Sử liệu Khmer cho biết có khoảng 5.000 gia đ́nh người Chăm, do những
vương tôn dẫn đầu, đă băng rừng vượt núi đến Chân Lạp xin tị nạn.
Vua Khmer Jaya Chetta III chấp thuận bảo vệ và cho định cư tại Udong
(đế đô cũ). Những người này đều được đối xử tử tế. Với thời gian,
một số di chuyển đến những địa phương khác quanh đế đô khai phá đất
đai và trồng trọt.
Sau 1835, có thêm nhiều đợt di dân Chăm khác đến. Những người này
không chấp nhận chính sách cai trị hà khắc của vua Minh Mạng, nhất
là từ khi quyền tự trị tại trấn Thuận Thành (Panduranga) bị xóa bỏ.
Dân số Chăm định cư tại Chân Lạp ngày càng tăng lên, đa số được đưa
đến các tỉnh Pretviha (phía tây bắc) và các tỉnh Kongpong Cham,
Prayveng, Svayrieng, Kandang và Takeo (phía tây nam) định cư. Một số
khác t́nh nguyện sang Thái Lan định cư tại các tỉnh Ubon,
Ratchathani và Sisakhet.
Thật ra người Khmer và người Chăm không xa lạ ǵ nhau. Lúc tiểu
vương quốc Panduranga c̣n hùng mạnh, sự giao hảo giữa người Chăm và
người Khmer đă rất khắng khít, dân cư hai vương quốc này đă thiết
lập nhiều quan hệ suôi gia thân thiết. Nhiều vị vua tại Panduranga
có vợ là người Khmer. Nhiều vị vua Chân Lạp đă từng sinh trưởng tại
vương quốc Nam Chiêm Thành, như Jayavarman III, và cũng có nhiều vị
vương Chăm được hoàng triều Khmer nuôi nấng, như Suryavaravarman.
Người Khmer gọi chung cộng đồng di dân này là Chăm Java.
Tại sao Chăm Java ? Theo những sử liệu Khmer, người Java (Chà Và) đă
đến định cư tại Kampuchia từ thế kỷ 14. Thật ra Java là hai nhóm
người khác nhau : người Mă Lai và người Java. V́ không nắm vững địa
lư và phong tục tập quán của hai nhóm này, dân chúng Khmer gọi chung
là Java. Người Java từ các đảo Bornéo, Sumatra, Minang Kabau... đến
Chân Lạp từ đầu thế kỷ 16 ; người Mă Lai đến từ các lănh địa
Singapore, Trengganu, Thái Lan... để trốn tránh chiến tranh, đói kém
hay sự trù dập của các chính quyền địa phương. Đa số những người tị
nạn này là đàn ông, đi trên những thuyền nhỏ đổ bộ các vùng bờ biển
phía đông nam, rồi di chuyển dần vào sâu trong nội địa và định cư
tại các tỉnh Prayveng, Takeo, Kandang, Kampot, Kompong Chnang,
Kompong Spư. Thời gian sau đó, những nam nhân Java di cư này lập gia
đ́nh với những phụ nữ Khmer, gọi là Java Kur. (Kur theo tiếng Chăm
là Khmer). V́ theo đạo Hồi chính thống (sunnite), nhóm này sống tách
biệt với người Khmer chính gốc, đa số theo Phật giáo.
Nhưng từ khi tiếp xúc được với những nhóm Chăm di cư có mặt tại chỗ,
v́ cùng ngôn ngữ, phong tục và tôn giáo, cả hai nhóm dân gốc Nam Đảo
ly hương này kết hợp lại với nhau để thành nhóm Chăm Java.
Người Chăm và các vương triều Khmer
Sự xuất hiện của nhóm Chăm Java xảy ra đúng vào lúc hoàng triều Chân
Lạp có nhiều biến loạn.
Từ 1516 đến 1525, hai tiểu vương Paramaraja II (Cau Bana Cand hay
Ang Chan) và Sri Jettha (Stec Kan hay Nay Kan) tranh quyền lẫn nhau.
Được sự hỗ trợ của nhóm Chăm Java, Paramaraja II đuổi được Sri
Jettha sang Xiêm La. Từ sau ngày đó nhóm di dân hỗn hợp này đảm
nhiệm nhiều vai tṛ quan trọng trong nội chính Chân Lạp, nhiều người
được phong tới chức thượng thư (Samtec Cau Hva).
Năm 1594, quân Xiêm tiến chiếm đế đô Longvek, cướp đi nhiều tài sản
rồi rút về. Vua Paramaraja IV (Chetta I) cử hai lănh tụ Chăm Java,
Po Rat và Laksmana, sang Chiêm Thành cầu cứu. V́ đang bận chống lại
chúa Nguyễn tại Phú Yên, vua Po Klong Halau (gốc Khmer) đă không
tiếp đăi trọng hậu hai lănh tụ này. Cảm thấy bị nhục và lợi dụng lúc
đế đô Panran (Phan Rang) vắng chủ, cả hai tháo gỡ nhiều khẩu đại bác
(mua của người Bồ Đào Nha) và bắt theo một số phụ nữ Chăm mang về
Chân Lạp.
Trong thời gian đó, năm 1595, con của Sri Jettha tên Ram de Joen
Brai (Prah Rama) đă cùng một người Tây Ban Nha tên Blas Ruiz, một
người Bồ Đào Nha tên Diego Veloso và một người Ḥa Lan chiếm trốn
chạy qua Lào. Joen Brai xưng hiệu Ram I, dời đô về Srei Santhor. Vừa
từ Chiêm Thành trở về và hay tin đảo chánh, hai vị tướng Chăm Java
đành ủng hộ tân vương. Ram I liền ra lệnh cho Ukena Tejo, một tướng
Khmer, và hai vị tướng Chăm Java kia sang đánh Chiêm Thành nhưng bị
quân Đại Việt lúc đó đă làm chủ đất Phú Yên đánh bại. Trong lúc đó,
tại Chân Lạp, Ram I bị người Tây Ban Nha ám sát năm 1596. Hay tin
này, Ukena Tejo cùng Po Rat và Laksmana chiếm lại đế đô, sát hại rất
nhiều người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và tôn hoàng tử Cau Bana Nur con
của Ram I lên ngôi, hiệu Ram II. Nhưng bị hoàng tử Cau Bana Tan (Ponhea
Tan, con của Paramaraja IV) được người phương Tây và vương quốc Lào
ủng hộ, trở về Longvek chiếm lại ngôi báu năm 1597, xưng hiệu
Paramaraja V. Ba vị tướng xin thần phục và được giao bảo vệ đế đô.
Laksmana c̣n được cử làm đô đốc Bộ Thủy Vận đặc trách về quan thuế
và giao dịch quốc tế. Nhưng chính sách bài phương Tây một cách trắng
trợn v́ lư do tôn giáo của ba vị tướng ngày càng bị nhiều quần thần
thân phương Tây chống đối. Ukena Tejo bị phe phản loạn xử tử, Po Rat
bị Diego Veloso đâm chết. C̣n lại một ḿnh, năm 1599, Laksmana
kêu gọi dân Khmer và Chăm Java nổi loạn, chiếm đế đô Srei Santhor,
giết tất cả người phương Tây rồi rút về Thbuang Khmum thành lập một
tiểu vương quốc riêng tên Ponhea Lu. Tại đây Laksmana bị một tân
vương khác tên Paramaraja VI (Cau Bana An hay Ponhea An) đánh bại,
phải chạy qua Chiêm Thành xin tị nạn nhưng bị vua Po Klong Halau bắt
giết v́ tội cướp người và vũ khí vài năm trước đó.
Tuy bị mất những địa vị cao trong triều đ́nh, người Chăm vẫn được
cậy nhờ mỗi khi vương quyền Khmer lâm nguy. Năm 1603, với sự trợ lực
của nhóm Chăm Java, hoàng tử Cau Bana Nom (Ponhea Nom) tranh chấp
với Paramaraja VII (Ponhea To hay Sri Suryobarm) nhưng không thành.
Năm 1621, Ponhea Nu lên ngôi, hiệu Jaya Chetta II, tuyển rất nhiều
người Chăm vào đoàn quân viễn chinh sang Attopeu (Lào) t́m vàng.
Năm 1630, Ang Non I lên ngôi, nhưng đến năm 1636 phải nhờ người Chăm
bảo vệ và chấp nhận cho người Chăm có một lănh thổ riêng tại Ponhea
Lu (Thbuang Khmum hay Kompong Cham), cạnh thủ đô Udong. Trong thời
gian này đạo Hồi phát triển mạnh tại Chân Lạp. Sự cuồng tín và ḷng
dũng cảm của những tín đồ Hồi giáo được nhiều vương tôn Khmer cậy
nhờ mỗi khi có biến.
Năm 1642, Cau Bana Cand (Ram Cul hay Nặc Ông Chân) nhờ nhóm Chăm
Java giúp lật đổ Ang Non I và lên ngôi, hiệu Ramadhipatih I (Nặc Ông
Chân) và phong một phụ nữ Chăm tên Nan Hah làm hoàng hậu, hiệu Anak
Mnan Kapah Pau. Nhà vua theo đạo Hồi (tên thánh là Ibrahim) và áp
dụng triệt để giáo lư Hồi giáo trong đời sống. Chính sách này đă làm
dân chúng Khmer bất b́nh, một phong trào bảo vệ Phật giáo chống lại
Hồi giáo nổi lên khắp nơi. Chống không lại, con cháu các vị vua
Khmer cũ chạy sang Đàng Trong cầu cứu.
Quan hệ giữa người Chăm tại Chân Lạp và các vua chúa nhà Nguyễn
Năm 1658 chúa Hiền xua 3.000 quân tiến chiếm Mỗi Xuy (Biên Ḥa), bắt
Ramadhipatih I về giam tại Quảng B́nh, đưa Batom Racha (Nặc Ông Nộn
hay Ang Sur) lên ngôi, hiệu Paramaraja VIII (1659-1674) và năm 1659
đuổi được nhóm Hồi giáo chạy sang Xiêm La, trong số này có rất nhiều
gia đ́nh vương tôn Khmer. Cộng đồng người Chăm Hồi giáo c̣n lại chạy
về Nokor Vat (tỉnh Svayrieng) cạnh biên giới tây-nam Việt Nam ẩn náu,
một số khác ở lại phục tùng vị vua mới và được cho giữ những chức vị
cao trong triều đ́nh. Hồi giáo mất dần ảnh hưởng trong đời sống
chính trị và xă hội tại Chân Lạp. Nhưng cũng kể từ đó cộng đồng
người Chăm Hồi giáo chống lại bất cứ triều đ́nh Khmer nào thân Việt
Nam hay thân Phật giáo.
Năm 1672, hoàng tử Sri Jaya Chetta (Ang Chey hay Nặc Ông Đài), cháu
Ramadhipatih I, giết cha vợ là vua Paramaraja VIII lên ngôi, hiệu
Padumaraja II, và nhờ Xiêm La chống lại quân Việt. Vị tân vương mời
hoàng hậu gốc Chăm, vợ của vua Ramadhipatih I, từ Battambang về
Udong làm thái hậu, nhưng bà này từ chối và trốn về Thbaung Khmum
nhờ đồng hương giành lại ngôi báu. Padumaraja II bị ám sát chết,
Udong bị chiếm đóng và hoàng hậu cũ lên ngôi nhưng chỉ tồn tại được
5 tháng. Các con của Ramadhipatih I đă vận động dân chúng Khmer lật
đổ bà hoàng thái hậu và giành lại quyền lănh đạo nhưng anh em lại
tranh cvhấp lẫn nhau. Thommo Racha (Nặc Ông Thu) nhờ Xiêm La và nhóm
Chăm Java giúp ; Ang Non (Nặc Ông Nộn) chạy sang Đàng Trong cầu cứu.
Năm 1674, chúa Nguyễn sai Nguyễn Dương Lâm và Nguyễn Đ́nh Phái đánh
chiếm thành Udong. Ramadhipatih I chạy trốn vào rừng và mất tích.
Con trưởng là Nặc Ông Thu đầu hàng nhưng được chúa Nguyễn phong Ông
Thu làm chánh vương cai trị Lục Chân Lạp, đóng đô tại Udong (Long Úc
hay Nam Vang), Nặc Ông Nộn được phong làm phó vương cai trị Thủy
Chân Lạp (miền Nam Việt Nam), đóng đô tại Prei Nokor (Sài G̣n).
Năm 1691, sau khi Nguyễn Hữu Kính đánh chiếm lănh thổ Panduranga,
giết Po Saut (Bà Tranh) v́ đă dám chống cự lại Minh vương Nguyễn
Phúc Chu, một lănh tụ Chăm tên Po Chonchanh, đạo Bà Ni (Hồi giáo cải
tiến), dẫn 5.000 người băng cao nguyên Di Linh sang Chân Lạp tị nạn,
tất cả được đưa đến Thbaung Khnum (Kompong Cham) lập nghiệp.
Trong hai thế kỷ 17 và 18, nội bộ triều đ́nh Khmer luôn có loạn lạc,
quân Xiêm La và quân Đàng Trong liên tục sang can thiệp để đưa một
vị vua thân ḿnh lên ngôi. Trong khí đó, tất cả các vị vương Khmer
đều nhờ các nhóm Chăm tại Thbuang Khmum và Chroy Chanvar giúp sức.
Năm 1782, nhân dịp triều đ́nh Khmer đang rối loạn, một người Chăm
tên Duôn Ser chiếm Udong và Chroy Chanvar rồi xưng vương. Nặc Tôn
chạy sang Hà Tiên tị nạn và nhờ Mạc Thiên Tứ xin chúa Nguyễn giúp,
quân Chăm bị đánh bại, Duôn Ser bị giết. Dưới thời Nặc Tôn, cộng
đồng người Chăm tại Chân Lạp bị sát hại tập thể, một số chạy qua
Xiêm La ẩn lánh, một số khác chạy vào xứ Đàng Trong xin tị nạn và
được định cư tại Moat Chruk (Châu Đốc).
Trong thời gian này binh lực nhà Nguyễn thường tiến qua Chân Lạp bảo
vệ các triều vương Khmer thân Việt, nhóm Chăm Java cũng nhờ đó được
người Khmer để yên. Thế lực của nhóm này lên cao khi năm 1795, một
lănh tụ Chăm, hoàng tử Thị Hảo (Chay Brey hay Po Ceng Sei Brei) và
binh lính từ Panduranga qua tị nạn.
Năm 1817, một hoàng thân Chăm (không rơ tên) được cử làm tổng trấn
tỉnh Kongpong Cham. Năm 1834, con vị tổng trấn này được Minh Mạng
phong tước tổng trấn thay mặt triều đ́nh Huế cai trị Kompong Cham,
nhưng chính sách bảo hộ này bị người Khmer thân Xiêm La chống đối.
Năm 1854 sau khi nhờ quân Xiêm La đuổi quân Việt ra khỏi lănh thổ,
vua Ang Duong (Harirak Rama hay Ang Tuon) áp dụng chính sách bài
Việt và cứng rắn với người Chăm : quyền tự trị tại Thbuang Khmum bị
bải bỏ, sự qua lại với Châu Đốc bị hạn chế. Nhiều chức sắc cao cấp
trong cộng đồng Chăm tại Thbuang Khmum nổi lên chống lại v́ không
muốn bị đồng hóa với người Khmer.
Năm 1858, một sứ giả của vua Ang Duong là Udkana Yodhasangram (Yuthea
Sangkream) được cử đến thương thuyết nhưng bị quân Chăm phản loạn
giết chết. Ang Duong mang 10.000 quân đến đánh, giết được nhiều thủ
lănh Chăm, giải tán Ponhea Lu và tuyên án khổ sai cho hơn 6.000
người khác. Gia đ́nh những người Chăm c̣n lại bị đày sang các tỉnh
Pursat, Lovek, Kompong Tralach, Kompong Luong và khu vực giữa Tonlé
Sap và Phnom Penh, đạo Hồi bị cấm truyền bá. Một thủ lănh Chăm Java
dẫn hàng ngàn người Chăm Java chạy sang Châu Đốc tị nạn và giúp nhà
Nguyễn tấn công các vị vua Khmer chống người Việt và người Chăm.
Năm 1861 triều đ́nh Khmer lại có loạn, Norodom (Narottam hay Nặc Ông
Lân), con vua Ang Duong, vừa lên ngôi th́ bị hai em là hoàng tử
Sisowath (Preah Kevea hay Ang Sor) và hoàng thân Sivattha (Sivotha)
tranh ngôi. Sivattha được người Chăm hậu thuẩn chiếm thành Udong,
Norodom chạy qua Bangkok, thủ đô Xiêm La lánh nạn. Tại đây, Norodom
kêu gọi người Chăm tại Châu Đốc qua giúp. Nhân dịp này, với sự có
mặt của quân Pháp tại Nam kỳ, cộng đồng người Chăm tại Châu Đốc yêu
cầu quân Pháp chiếm luôn Chân Lạp với hy vọng được tự do truyền bá
đạo Hồi. Năm 1862 Norodom được người Pháp và người Chăm đưa về nước
giành lại ngôi vua, nhưng Chân Lạp vẫn bị đặt dưới quyền bảo hộ của
Xiêm La.
Năm 1864, Pháp đuổi quyền Xiêm ra khỏi lănh thổ và đứng ra bảo hộ
Chân Lạp trực tiếp, đổi tên nước là Cambodge. Dân chúng Khmer, không
tán thành việc này, nổi lên chống lại triều đ́nh. Một nhân sĩ Khmer
tên Assoua, tự nhận là hoàng tử Ang Phim, cháu vua Ang Duong, kêu
gọi người Khmer chống Norodom. Trong cuộc tranh chấp này, cộng đồng
người Chăm bị chia rẽ. Người Chăm tại Kompong Cham theo Assoua ;
người Chăm tại Châu Đốc theo Pháp ủng hộ Norodom. Vùng biên giới
phía cực nam Việt Nam trở thành vùng tranh chấp giữa người Khmer,
người Việt và người Chăm. Người Chăm muốn thành lập một tiểu vương
quốc Hồi giáo tại Hà TiênÙ, chấp nhận triều cống Cao Miên và nhận
Pháp bảo hộ. Cambodge xác nhận Hà Tiên là lănh thổ của họ và người
Việt nói Hà Tiên là một thị xă của miền Nam từ lâu đời. Sau cùng
Pháp sát nhập Hà Tiên vào lănh thổ Nam kỳ.
Trong khi đó, tại Cambodge, triều thần muốn đưa hoàng tử Sisowath
lên thay. Bị cô lập, Norodom giao cho Samdech Chau Ponhea, một tướng
Chăm, bảo vệ ṿng đai thành Udong nhưng sau cùng phải giao cho
Brière de l’Isle, một sĩ quan Pháp, đảm nhiệm v́ trong phe phản loạn
cũng có người Chăm do đó rất khó phân biệt. Sau cùng Samdech Chau
Ponhea được giao bảo vệ hậu cung.
Năm 1865, một tu sĩ Phật giáo tên Pou Kombo (tự nhận là hoàng tử Ang
Phim, con vua Ang Chan, cháu vua Ang Duong) cùng với 2.000 người
Chăm tại Châu Đốc nổi lên chống lại Norodom, bao vây thành Udong.
Khoảng 1.000 người Chăm khác từ Châu Đốc theo quân Pháp sang bảo vệ
thành Udong. Pou Kombo chạy sang Châu Đốc và Tây Ninh tị nạn. Sau
khi chiêu mộ thêm binh sĩ Chăm và Khmer, ngày 17-12-1866, Pou Kombo
tiến vào Udong. Quân Khmer bỏ chạy, chỉ c̣n quân Chăm của Samdech
Chau Ponhea ở lại tử thủ. Nhưng qua ngày hôm sau, hơn 500 quân Chăm
của Pou Kombo bỏ theo Chau Ponhea v́ lư do tôn giáo (Pou Kombo là
một nhà sư Phật giáo).
Hoàng tử Sisowath (Preah Kevea), được cả người Khmer và người Chăm
tại Kompong Cham lẫn Châu Đốc ủng hộ, đứng ra lănh đạo cuộc phản
công chống Pou Kombo. Tháng 12-1867, quân phản loạn bị bao vây tại
Kompong Thom, Pou Kombo bị giết. Pháp rất hài ḷng về sự dũng cảm và
sự trung thành của quân Chăm Hồi giáo ở Châu Đốc, buộc Norodom phải
khen thưởng xứng đáng. Nhiều nhân vật Chăm giữ những chức vị quan
trọng trong triều đ́nh vua Norodom. Nhưng v́ sự cuồng nhiệt trong
lối sống đạo, người Chăm Hồi giáo không chiếm được nhiều thiện cảm
của dân chúng Khmer, đa số theo đạo Phật. Chỉ các vua chúa Khmer mới
tin tưởng nhóm người Chăm Hồi giáo v́ sự trung thành và sự can cường
của họ, một số quân nhân Chăm được tuyển mộ để bảo vệ hoàng gia và
ṿng đai củ thủ đô Nam Vang.
Norodom mất năm 1904, hoàng thân Sisowath lên thay, ṿng đai cận vệ
của nhà vua chỉ toàn người Chăm. Trong hai triều kế tiếp, Monivong
(1928-1940) và Sihanouk (từ 1940), người Chăm được giữ nhiều vai tṛ
quan trọng trong vương quyền. Năm 1970, ṿng đai pḥng thủ Phnom
Penh được giao cho tướng Les Kosem, một người gốc Chăm và là một sĩ
quan nhảy dù được huấn luyện từ Pháp.
Khi đă ổn định được thế đứng trong chính quyền Cambodge, Les Kosem
liền nghĩ tới việc phục hồi vương quốc Champa cũ. Sau 1954, những
người Chăm Java theo đạo Hồi là Khmer Islam và tỏ ra thù nghịch với
người Việt.
Trong những năm 1975-1979, những nhóm người Chăm sinh sống
trong những thành phố tại Kongpong Cham, Kongpong Chnang và nhiều
nơi khác bị đuổi về nông thôn, hơn phân nửa đă bị Khmer đỏ sát hại,
số c̣n lại chạy sang Châu Đốc và vùng biên giới Thái Lan lánh nạn.
Khi Khmer đỏ bị quân đội cộng sản Việt Nam đẩy lui ra khỏi lănh thổ
Kampuchia, người Khmer Islam tị nạn tại Châu Đốc trở về Kompong
Cham, Kompong Chnang và Phnom Penh sinh sống. Cộng đồng người Chăm
Hồi giáo sống dưới chế độ cộng sản thân Việt Nam của Heng Samrin và
Hun Sen được tự do giữ ǵn văn hóa và giữ đạo của họ. Hiện có hơn
260 giáo đường Hồi giáo tại Kampuchia và mỗi năm có trên 20 người
hành hường tại La Mecque. Cũng nên biết đương kim thủ tướng Hun Sen
xuất thân từ Kompong Cham, do đó rất được người Chăm ủng hộ. Chính
phủ của Norodom Ranariddh cũng thế.
Sự phồn thịnh và ổn định của Kampuchia trong những năm 1979-1980 một
phần là do sự đóng góp của nhóm Chăm Hồi giáo này, họ là đầu cầu vận
chuyển hàng hóa từ Việt Nam qua ngơ Châu Đốc và trên sông Hậu. Trong
các chức vụ cao trong chính quyền Khmer, của Hun Sen và Ranariddh,
đều có người Khmer Islam. |