Câu Lạc Bộ Dân Chủ
 

Lời chào đón Miễn cưỡng của Việt Nam tại Quê nhà

Martha Ann Oveland

Những sinh viên du học trở về nhận thấy các trường đại học chống lại ư tưởng của họ hoặc trả khoản tiền lương ít ỏi

Khi Vũ Hữu Hiếu xách túi và hướng ra nước ngoài để kiếm một mảnh bằng thạc sĩ hóa học, anh đă theo bước của hàng ngh́n người Việt Nam t́m tới chốn học hành tử tế vốn không thể có được trên đất nước của ḿnh. Với những kế hoạch sẽ trở về đi dạy hoặc nghiên cứu, anh Hiếu nghĩ rằng - ở một đất nước đang hết sức cần hiện đại hóa các trường đại học và trang bị lại cho nền công nghiệp của ḿnh – tương lai của anh đă được xác định rơ.

Sau khi trở về nước vào năm 2005 và mất một năm làm giảng viên đại học và nhà khoa học của nhà nước trong tâm trạng bực dọc, anh Hiếu lại một lần nữa xách túi ra đi. Tuy nhiên lần này, mọi thứ không c̣n thuộc về anh. Chán ngấy với cuộc sống xa rời thực tế, anh Hiếu bỏ việc, vay mượn tiền bạc từ bạn bè, và mở một khách sạn nhỏ ở trung tâm Khu phố Cổ Hà Nội. Những ngày này anh làm công việc ghi chép danh sách khách, phân phát ch́a khoá pḥng, tổ chức các chuyến thăm viếng trong thành phố cho du khách, và nếu cần th́ xách cả hành lư cho họ nữa.

Với nền kinh tế đang bùng nổ của Việt Nam, công việc kinh doanh khách sạn rất thuận lợi. Trong lúc một cuộc diễu hành không dứt của các du khách ngoại quốc dạo ngang qua hành lang, anh Hiếu cho biết giờ đây anh kiếm “gấp 20 lần” so với khoản lương 70 đô la hồi c̣n đi dạy. Nhưng đây là công việc khó nhọc so với những ǵ mà anh đă được học hỏi trong rất nhiều năm trước.

“Tôi đă ao ước trở thành một giáo sư,” anh Hiếu tâm sự, anh từng học ở Viện Công nghệ Á châu tại Thái Lan và sau đó dạy bán thời gian tại trường Đại học Công nghệ Hà Nội. “Tôi đă muốn trở về làm việc và tạo nên được một vài đổi thay.”

Ít nhất trong việc điều hành Rising Dragon, những nỗi lực của anh Hiếu cũng có ư nghĩa và thời gian công sức của anh đă được tưởng thưởng.

Công việc hàng ngày của anh như là một nhà nghiên cứu khoa học ở Viện Nghiên cứu Nguyên liệu và Công nghiệp Giấy Việt Nam gồm phần lớn tám tiếng dùng cho việc uống trà và chơi bóng bàn, nghỉ ăn trưa.

“Một số cơ quan có trang bị pḥng thí nghiệm hiện đại, song cách tư duy của họ lại cũ kỹ,” anh Hiếu nhận xét. Những nhà khoa học lớp trước, được đào tạo ở Liên Xô cũ và yên tâm với công việc nhà nước, họ không hứng thú với những thành quả nghiên cứu của tập thể hay áp dụng những kết quả đó vào thực tế kinh doanh. Anh cho rằng đó là do bắt buộc phải thực hiện những mạo hiểm không cần thiết.

“Họ không từ chối,” anh Hiếu nói về những người thủ trưởng của ḿnh. “Họ chỉ nhét [công tŕnh nghiên cứu] vào trong ngăn kéo.”

Hai mươi năm trước, chính sách đóng cửa của Việt Nam đồng nghĩa với việc các sinh viên nước này bị giới hạn trong các nước thuộc khối Liên Xô cũ. Ngày nay họ học ở tất cả các nước trên thế giới – riêng tại Hoa Kỳ là khoảng 6.000 người. Trong nhiều trường hợp, tiền học và phí sinh hoạt được chính phủ các nước và các tổ chức từ thiện tư nhân chi trả. Fulbright, Quỹ Ford, và những mô h́nh khác đang cố gắng nâng mức học bổng cho Việt Nam.

Tuy nhiên cùng với sự trở về của ḿnh, nhiều giảng viên đang đặt câu hỏi rằng họ đang trở về để làm ǵ.

Những con người đó trở về nhà sau quá tŕnh học hành – và gần như là tất cả những ǵ đă làm – liền nản chí trước những ǵ họ nhận thấy, đó là hoặc một chút vui thú với cơ quan của ḿnh, hoặc có thể bị trường đại học của ḿnh soi mói như là phần tử nguy hiểm.

Những nhà quản lư với thái độ mập mờ thường sử dụng hệ thống truyền h́nh nội bộ để kiểm soát các bài giảng của những giảng viên mới trở về.

Các giảng viên cũng cho biết họ hoàn toàn không thể sống bằng khoản tiền trung b́nh mà một giảng viên kiếm được – vào khoảng 100 đô la một tháng – và họ phải làm thêm nghề thứ hai, thứ ba.

Có nhiều người than phiền rằng những kỹ năng của họ đă bị bỏ phí. Một người có học vị tiến sĩ đă được trường đại học của bà giao cho nhiệm vụ vận hành máy photocopy và pha trà. Thế nhưng trong tất cả các giảng viên trở về được phỏng vấn để viết bài báo này đều nói rằng sau khi về họ đă quay trở lại giảng dạy, một công việc được kính trọng đáng kể trong xă hội Việt Nam, rồi tất cả họ đều đă rời trường đại học hoặc cho biết sẽ bỏ đi một khi có thể.

Vũ Thanh Tứ chỉ c̣n có vài tháng cho khóa học sau chuyến trở về Hà Nội của anh năm 2005. Vũ trải qua hai năm tại trường đại học Syracuse University theo một học bổng của Fulbright để lấy bằng tiến sĩ về quan hệ quốc tế. Anh cũng tham gia một khoá thực tập tại Capitol Hill, cho anh thêm hiểu biết sâu sắc khi trở về Viện Quan hệ Quốc tế tại Hà Nội.

“Họ đưa tôi trở lại khoa Tiếng Anh,” anh Vũ kể với vẻ khinh miệt được cố che đậy chút ít. Anh tham gia từ những buổi tranh luận hấp dẫn về chính sách công với các thành viên trong khoa của trường Maxwell Scholl cho tới việc phân tích những động từ - như từ “vỡ mộng” [letdown] mà Vũ miêu tả nó na ná như là “bị đập nát như một con ruồi.” Rốt cuộc anh bỏ việc và giờ đây là trưởng đại diện cho Hội đồng Thương mại Mỹ-Á tại Hà Nội.

Trở về Việt Nam năm ngoái với bằng tốt nghiệp ngành ngôn ngữ học ứng dụng của trường Georgia State University, Đặng Giang H. thực sự muốn giảng dạy tiếng Anh. Tuy nhiên ngôi trường nhỏ tỉnh lẻ nơi anh làm việc gây nên một sức ép nặng nền đối với kiến thức của anh. “Chương tŕnh dạy được đặt ra cho 15 năm,” anh Đặng cho hay, một giảng viên trường Cao đẳng Sư phạm Lạng Sơn ở phía bắc Việt Nam. “Và phương pháp giảng dạy của chúng tôi chẳng ăn nhập vào cái ǵ cả. Tôi đă nhiều lần trao đổi với trưởng khoa nhưng cho tới giờ vẫn không có sự thay đổi nào. Tôi cảm giác như những ư kiến của ḿnh không có chút ảnh hưởng nào. Đúng như người ta hay nói, một bàn tay không thể che nổi mặt trời.” 

                                                               *

                                                            *    *

Anh Đặng đă từng hy vọng chuyển đến một trường đại học ở Hà Nội th́ những kỹ năng của anh sẽ được tận dụng nhiều hơn. Nhưng ủy ban nhân dân tỉnh – những người phê chuẩn quyết định này, chứ không phải là trường đại học – đă từ chối lời thỉnh cầu của anh. “Ông biết không, chúng tôi đang ở trong một cái hệ thống cũ kỹ,” anh nói. “Chúng tôi không thể đi đâu tùy thích được.”

Với trách nhiệm lo toan cho cha mẹ, vợ và hai đứa con, anh Đặng nói là lúc này ḿnh không thể có dũng khí từ bỏ sự bảo đảm trong công việc của nhà nước được. Và anh cũng không thể sống với đồng lương 120 đô la được. Cho nên cũng như hầu hết các giảng viên, anh đi dạy kèm ngoài giờ lên lớp.

“Có một ông già thuộc thế hệ Sô Viết bảo là ‘họ giả vờ trả lương cho ta, và ta giả vờ làm việc,” anh kể.

 

Tự nuôi ḿnh

James H. Cobbe, một nhà nghiên cứu của Fulbright giảng dạy tại Đại học Đà Nẵng đă t́m hiểu về những trường hợp của các giảng viên du học mới trở về đang dần dần bị thui chột bởi hệ thống trong nước. Những người này khi nghiên cứu đều phải bỏ tiền túi của riêng ḿnh. Khi đi dạy, họ không chỉ què quặt đi về mọi mặt v́ chương tŕnh bị chính phủ áp đặt, mà c̣n bởi sự ban ơn của những người lănh đạo khoa pḥng của nhà trường là kẻ không phải lúc nào cũng muốn thấy sự thành công của người kế vị ḿnh. **

“Ấn tượng của tôi là ở cái MOET đó,” tên mà mọi người gọi Bộ Giáo dục và Đào tạo, “tôi quan tâm tới việc cải cách hệ thống đại học,” theo lời ông Cobbe, một giáo sư kinh tế của trường đại học Florida State University. “Họ đúng là chẳng biết ǵ về chi tiết công việc.”

Không có thông tin nào về t́nh trạng này đến với Phạm Sỹ Tiến, một cựu công chức cao cấp của bộ giáp dục, người phối trí cho Chương tŕnh Học bổng Nước ngoài của chính phủ. Ông lắc đầu rồi thừa nhận về những lời than phiền về t́nh trạng đơn từ kêu ca được đẩy lên về hệ thống giáo dục đạo học.

“Chất lượng của nền giáo dục đại học đang ở mức thấp, và một trong những lư do đó là chất lượng của đội ngũ giảng dạy tại các khoa pḥng nhà trường.” Ông Tiến thừa nhận.

Những cải cách đă được đưa ra nhưng hầu hết bị quên lăng rồi dần dần lụi tàn, bị chôn vùi giữa những công việc giấy tờ quan liêu và các cuộc đấu đá chính trị nội bộ. Ông Tiến cho rằng một trong những phương cách tốt nhất là nâng những tiêu chuẩn về giảng dạy lên, khích lệ những ư kiến mới, và tăng tốc cải cách bằng việc đưa người sang các nước học hỏi.

Bộ giáo dục mới đây đă đặt ra chỉ tiêu gửi 10.000 giảng viên ra nước ngoài học để tới năm 2020 lấy bằng tiến sĩ, với tiền ngân sách do chính phủ cấp. Các suất học bổng là đặc biệt quan trọng đối với các giảng viên trẻ và được giành để nâng cao kiến thức và năng lực giảng dạy tại các trường đại học của Việt Nam.

“Đào tạo các giảng viên đại học giờ đây là quyền ưu tiên tầm cỡ quốc gia,” ông Tiến đánh giá.

Tất nhiên, với một mức chi phí mạnh mẽ tới 100.000 đô la cho mỗi học vị tiến sĩ, các suất học bổng có được cùng với một mớ những gắn kết rối rắm. Các giảng viên phải quay lại trường đại học của họ và phục vụ ở đó một thời gian dài gấp ba lần thời gian học ở nước ngoài. Trong khi ông tiến thừa nhận rằng họ sẽ phải đối mặt với nhiều rào cản, phải trả những khoản phạt tính theo phần trăm khi mà có nhiều lời chỉ trích về những giảng viên trở về nước sau khi được đào tạo công phu.

‘Đừng mong chờ một thay đổi căn bản’

Vũ Tú Anh, một người đang làm việc tại Hoa Kỳ với mục đích lấy bằng tiến sĩ nhân loại học theo một học bổng của chính phủ, cô nằm trong số những nhân tài của đất nước chuẩn bị trở về Việt Nam. Cô có thể phải vất vả để chờ đợi điều đó.

Vũ hiện là chủ tịch của Hội sinh viên Việt Nam ở Hawaii, cô đang loá mắt với những ǵ cô diễn tả là những tiềm năng vô tận của đất nước ḿnh.

Do lĩnh vực nhân loại học là thứ mới mẻ đối với các trường đại học ở Việt Nam, cô Vũ tin tưởng là ḿnh sẽ có điều kiện tác động tới cách dạy và học của môn này. Cô đă dịch một cuốn sách giáo khoa môn nhân loại học của Mỹ sang tiếng Việt và có kế hoạch tự ḿnh viết những cuốn khác.

Để phụ thêm vào khoản tiền lương giảng dạy ít ỏi, cô mường tượng là sẽ tổ chức một khóa dạy tiếng Việt cho sinh viên Mỹ trên mạng trực tuyến, cũng như xây dựng một khu giải trí theo chủ đề để giới thiệu văn hóa truyền thống. Cô Vũ cho biết là ḿnh cũng đă được cảnh báo về t́nh trạng đố kỵ nghề nghiệp và những vướng mắc cản trở thách thức những người giảng viên khi trở về nước. Cô sinh trưởng trong một gia đ́nh có nhiều giảng viên đại học, và họ đă từng thuyết phục cô chọn lối sống thực tế hơn.

“Cha tôi thường bảo tôi là ‘Đừng mong chờ một thay đổi căn bản,’” Vũ kể. “Nhưng chứng tôi có hiểu biết và nghị lực, và chúng tôi muốn tin tưởng vào bản thân ḿnh. Chúng tôi có thể tích cực chủ động hơn. Đừng mong có ai đó cầm tay ḿnh dắt đi.”

Ngăn chặn chảy máu chất xám

Trần Văn Hải là người hoài nghi hơn nhiều. Anh không muốn phải cân nhắc đặc biệt ǵ cả, song nếu trở về Việt Nam, anh cần có khả năng tự kiếm sống.

Hải rời Việt Nam tới Hoa Kỳ sau khi chiến tranh kết thúc không lâu. Anh nhận học vị tiến sĩ khoa học tự động hóa và thăng tiến tại Cơ quan Kiểm toán Chính phủ. Anh c̣n là trợ giáo tại trường đại học George Washington University. Cũng như nhiều người Việt Nam, anh mơ sẽ trở về nước làm việc.

Hẳn nhiên chính phủ Việt Nam vui ḷng khi anh muốn vậy và thường đưa ra những lời kêu gọi công khai tới những người có chuyên môn như anh Hải hồi hương về Việt Nam để tham gia giảng dạy. Nhưng với một cậu con trai đang học trung học và một khoản cầm cố ở ngân hàng để mua nhà, anh Hải không thể kiếm một công việc với đồng lương 100 đô la mỗi tháng được. Và nếu như người ta cần đến điều tồi tệ như vậy th́ hăy hỏi Hải rằng tại sao hầu hết người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn không có khả năng mua được nhà ? Tuy nhiên, mối lo lớn nhất của họ, là những kỹ năng của minh sẽ bị bỏ phí.

“Tới chừng nào mà những nhân tài bản xứ vẫn chưa được trọng dụng thích đáng, th́ khi đó chúng tôi chưa thể trở về,” anh Hải nói. “Ông có nghĩ là Việt Nam đă sẵn ḷng đối với chúng tôi chưa ? Tôi không nghĩ vậy. Không phải không có những chương tŕnh giảng dạy cụ thể, chính quy.”

Anh Vũ, một sinh viên trẻ trở về Việt Nam ngay sau khoá học, đă phải đề pḥng tới việc một ḿnh gánh bổn phận đổi thay của cả chính phủ. Những chính sách thực sự phải được thay đổi, anh nói, song anh cũng quy trách nhiệm trên những nan đề là do chính phủ đă đơn giản thái quá.

“Mọi mệnh lệnh được truyền xuống một cách lẻ tẻ. Và cho tới khi nào [người gác cổng già nua] vẫn c̣n đó, sẽ chẳng có ǵ thay đổi đâu. Cách làm việc từ năm 2005 cũng y như cách làm việc hiện nay,” anh nhận xét “Nếu ông nghĩ là mọi người sẽ trở về nước giảng dạy, th́ tôi xin được phản đối.”

Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2008

Ba Sàm chú thích:

* Trong trường hợp này có lẽ là “như muối bỏ bể” hay “giă tràng xe cát” th́ chính xác hơn.

** Đă có trường hợp, một giảng viên đại học, du học ở Úc về, con cố lănh đạo cao cấp-lăo thành cách mạng mà cũng bị chèn ép, đấu tranh không nổi, đến mức phải tuỵêt thực nhiều ngày tới mức suy kiệt, vào đúng dịp Đại hội đảng lần thứ 10. Cuối cùng đích thân ông hiệu trưởng trường Đại học Quốc gia, lúc đó đang là ứng viên vị trí ủy viên trung ương đảng, phải “ra tay” giải quyết (vụ việc đă được một số báo đăng tải).

*** Cám ơn GS Trần Hữu Dũng đă phát hiện và đưa bản gốc tiếng Anh của bài nầy lên mạng (Viet-Studies)

 

 

THE CHRONICLE OF HIGHER EDUCATION

Vietnam's Half-Hearted Welcome Home

Scholars return to find universities resist their ideas or pay too little

By MARTHA ANN OVERLAND

From the issue dated April 25, 2008

Hanoi, Vietnam

When Vu Huu Hieu picked up his bags and headed abroad to earn a master's degree in chemistry, he joined the thousands of Vietnamese seeking advanced training unavailable in their own country. With plans to come home to teach and do research, Mr. Hieu thought that — in a country desperate to modernize its universities and retool its industries — his future was set.

After returning to Vietnam in 2005 and spending a frustrating year as a university professor and government scientist, Mr. Hieu is once again carrying bags. Yet this time, they are not his own. Fed up with academic life, Mr. Hieu left his job, borrowed money from friends, and opened a small hotel in the heart of Hanoi's Old Quarter. Today he registers guests, hands out room keys, organizes city tours, and, if needed, carries the luggage.

With Vietnam's economy booming, the hotel business is very good. As a constant parade of foreign tourists stroll through the lobby, Mr. Hieu says he now earns "20 times" the $70 a month he was paid as a researcher. But this is hardly the job for which he trained for so many years.

"I want ed to be a professor," says Mr. Hieu, who studied at the Asian Institute of Technology in Thailand and later taught part time at the Hanoi University of Technology. "I wanted to come back to work and make some changes."

At least in running the Rising Dragon, Mr. Hieu's efforts matter and his time is rewarded. His workday as a research scientist with the Vietnam Research Institute of Pulp and Paper Industry was largely eight hours of drinking tea and playing table tennis, interrupted by lunch.

"Some departments had modern lab equipment, but the way people think is old," says Mr. Hieu. Senior scientists, trained in the former Soviet Union and comfy in their state jobs, weren't interested in the results of the staff's research or applying those results to industry. He says that would have required unnecessary risk taking.

"They didn't say no," Mr. Hieu says of his bosses. "They just put [the research] inside the drawer."

Twenty years ago, Vietnam's closed-door policy meant its students were restricted to the former Sovietbloc countries. Today they study all over the world — about 6,000 are in the United States alone. In many cases, their tuition and living expenses are paid by foreign governments and private charitable organizations. Fulbright, the Ford Foundation, and others are all trying to raise the level of scholarship in Vietnam.

Yet upon their return, many academics are asking what they are coming back to.

Those who come home after their studies — and nearly all do — are frustrated that what they learned is either of little interest to their departments or considered possibly dangerous by their universities.

Suspicious administrators have even used closed-circuit television to monitor the lectures of newly returned professors.

Academics also say they simply can't live on what the average professor earns — about $100 per month — and have to take second and third jobs.

Many complain that their skills are being wasted. One master's degree holder was assigned by her university to operate the copy machine and make tea. Though all the returning academics interviewed for this article said they had come back to teach, which holds great honor in Vietnamese society, all had left the university or said they would leave if they could.

Thanh Tu Vu lasted only a few months in academe after his return to Hanoi in 2005. Mr. Vu spent two years at Syracuse University on a Fulbright scholarship, earning a master's degree in international relations and developing an appreciation for American barbecue. He also did an internship on Capitol Hill, giving him the kind of insight he believed would be valued when he returned to the Institute for International Relations in Hanoi.

"They put me back in the English department," says Mr. Vu with thinly veiled contempt. He went from engaging in public-policy debates with Maxwell School faculty members to conjugating verbs — a letdown Mr. Vu describes as akin to "being swatted like a fly." He eventually quit his job and is now chief representative for the US-Asean Businesss Council in Hanoi.

Returning to Vietnam last year with a graduate degree in applied linguistics from Georgia State University, Giang Dang H. actually wanted to teach English. Yet the small provincial college where he works has been hard pressed to use his expertise.

"The curriculum has been in place for 15 years," says Mr. Dang, a lecturer at Lang Son Teachers' Training College in northern Vietnam. "And the way we teach is not relevant at all. I have had some talks with the dean but so far nothing has changed. I feel like my ideas have no influence. As we say, one hand cannot cover the sun."

Mr. Dang had hoped to transfer to a university in Hanoi where his skills might be put to better use. But the provincial people's committee — they approve these decisions, not the university — rejected his request. "You know, we are in the old system," he says. "We cannot go freely."

With his parents, a wife, and two children to support, Mr. Dang says he doesn't yet have the courage to give up the security of a government job. Nor can he possibly live on his $120 monthly salary. So like most professors, he tutors outside class.

"There's an old Soviet saying," he says. "They pretend to pay us, and we pretend to work."

Eating Their Own

James H. Cobbe, a Fulbright scholar teaching at the University of Danang, has watched newly returned academics get slowly devoured by the system. Those who conduct research must use their own money. Those who teach are not only hamstrung by the government-prescribed curriculum, he says, but are also at the mercy of department heads who don't always want to see their subordinates succeed.

"My impression is that MOET," as everyone calls the Ministry of Education and Training, "is interested in university reform," says Mr. Cobbe, a professor of economics from Florida State University. "They just don't know the details."

None of this is news to Pham Sy Tien, a former senior education-ministry official, who administers the government's Overseas Scholarship Program. He shakes his head, acknowledging the litany of complaints lobbed at the university system.

"The quality of higher education is low," concedes Mr. Tien. "And one of the reasons is the quality of faculty members."

Reforms have been proposed but most die slow deaths, buried in paperwork and political infighting. Mr. Tien believes that one of the best ways to raise teaching standards, encourage new thinking, and speed reform is to send people overseas.

The ministry of education recently set a target of sending 10,000 academics abroad to get their doctorates by the year 2020, paid for by the government. The scholarships are specifically for junior faculty members and are designed to raise the level of scholarship and teaching within Vietnam's universities.

"Training faculty members is now a national priority," says Mr. Tien.

Of course, with a price tag of roughly $100,000 for each Ph.D., the scholarships come with strings attached. Academics must return to their universities and serve three times as long as than they studied abroad. While Mr. Tien acknowledges that they will face hurdles, the payoff will come when a critical mass of highly trained academics returns to Vietnam.

'Don't Expect Total Change'

Tu Anh Vu, who is in the United States working toward her Ph.D. in anthropology on a government scholarship, is part of a wave of indigenous talent preparing to return to Vietnam. She can hardly wait.

Ms. Vu, president of the University of Hawaii's Vietnamese Student Association, is dazzled by what she says are her country's limitless possibilities.

Because the field of anthropology is new to Vietnamese universities, Ms. Vu believes she'll be able to influence how it is studied and how it is taught. She is already translating an American anthropology textbook into Vietnamese and plans to write her own.

To supplement the low teaching salary, she envisions creating an online course in Vietnamese studies for American students, as well as building a theme park to showcase traditional cultures. Ms. Vu says she has been warned about professional jealousies and cumbersome restrictions that face returning academics. She comes from a family of professors, who have urged her to be more realistic.

"My father always tells me, 'Don't expect total change,'" says Ms. Vu. "But we have the knowledge and the power, and we need to sell ourselves. We can be more proactive. Don't expect someone to hand it to you."

Stopping the Bleeding

Tran Van Hai is far more skeptical. He doesn't want any special consideration, but if he comes back to Vietnam, he does need to be able to earn a living.

Mr. Hai left Vietnam for the United States not long after the end of the war. He earned a Ph.D. in computer science and has risen through the ranks at the Government Accountability Office. He is also an adjunct professor at George Washington University. Like many Vietnamese, he dreams of coming home.

The Vietnamese government would love him to do so and often makes public pleas to professionals like Mr. Hai to resettle in Vietnam and teach. But with a son in college and a mortgage, Mr. Hai can't take a job that pays $100 a month. And if they are wanted so badly, asks Mr. Hai, why is it that most overseas Vietnamese still cannot buy property?

Their greatest fear, however, is that their skills will be wasted.

"If indigenous talent isn't being used properly, then there is no reason for us to come back," Mr. Hai says. "Do you think Vietnam is ready for us? I don't think so. Not without concrete, substantive programs."

Mr. Vu, the young scholar who left academe shortly after returning to Vietnam, cautions against putting the onus of change solely on the government. Policies do have to change, he says, but to blame the problems on the government is too simplistic.

"It all comes down to individual decisions," says Mr. Vu. "And as long as [the old guard] are still there, nothing changes. It was that way in 2005 and it is that way now," he says "If you think people will come back to teach, I beg to differ."

To view this multimedia content, please enable Javascript.

Tags: 228:lờichàođónmiễncưỡng

Bài của Martha Ann Oveland

Số ra ngày 25-4-2008

Hà Nội, Việt Nam

 

Trang Nhà  :

 

Tiếp nhận thư tín :