Văn Học  & Nghệ Thuật
 

Tuyển Tập Biên Khảo Văn Học

  Hồ Trường An

Náo Nức Hội Trăng Rằm

Chương Một

Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội

với tùy bút ''Dưới Mái Trăng Non''

NÁO NỨC HỘI TRĂNG RẰM

Nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội là đứa con út trong gia đ́nh sáu anh em nên trong thơ văn bà thường nói tới nhân vật Nàng Út thay v́ xưng tôi ở ngôi thứ nhất trong danh xưng. Trước năm 1945, bà cộng tác với các báo ngoài Hà Nội như Tiểu Thuyết Thứ Năm, Trung Bắc Chủ Nhật, Hà Nội Báo, Tri Tân, Con Ong...và các báo Sống, Gió Mùa, Ánh Sáng trong Nam (Sài G̣n).

Vốn là học sinh ưu tú của Trí Đức Học Xá do nhà thơ Đông Hồ chủ trương, bà viết những bài văn nho nhỏ, góp lại thành quyển hợp tuyển văn chương ''Bông Hoa Đua Nở'' kư bút hiệu là Thái Nữ Mộng Tuyết để đăng ở Nam Phong tạp chí (1930). Sau khi bà Linh Phượng qua đời, ông Đông Hồ trước đó đă tái hôn lần thứ nhất với người chị ruột của bà Mộng Tuyết là bà Thái Nhàn Liên (tên thật là Thái thị Thân). Sau khi sanh cô con gái tên Lâm Yiễm Yiễm (đọc là cô Diễm Diễm), bà  Nhàn Liên qua đời. Ông Đông Hồ tái hôn lần thứ hai với nữ sĩ Mộng Tuyết, cô học tṛ và cũng là cô em vợ của ḿnh. Bà Mộng Tuyết c̣n làm môi giới để cho người cháu kêu ḿnh bằng cô (về sau trở thành giám đốc nhà in Mặc Lâm) kết hôn với cô trưởng nữ  Lâm Mỹ Tuyên của ông Đông Hồ. Bà Tuyên vốn là con bà Linh Phượng.

Bà Mộng Tuyết vào thời tiền chiến đă đoạt giải văn chương do nhóm Tự Lực Văn Đoàn tổ chức vào năm 1937. Quyển này không bao giờ được xuất bản. Ngoài ra, bà cùng ba nữ sĩ gốc Bắc là Hằng Phương, Vân Đài và Anh Thơ cùng đóng góp tập thơ ''Hương Xuân''. Bà cũng được Hoài Thanh và Hoài Chân đưa vào quyển phê b́nh ''Thi Nhân Việt Nam''. Ngoài ra, bà c̣n viết cho báo Nhân Loại trong thời chiến tranh Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh do Đông Hồ chủ trương.

Cũng trong thời chiến tranh Đông Dương, bà Mộng Tuyết  cộng tác cho báo Ánh Sáng và tham  gia vào tuyển tập thi ca ''Thơ Mùa Giải Phóng''gồm nhiều tác giả nổi tiếng ở miền Nam vào thời Nam Bộ Kháng Chiến như Chim Xanh, Trúc Khanh, Phạm Từ Quyên, Từ Trẩm Lệ... Sau Hiệp định Genève, bà cộng tác với một vài tạp san nổi tiếng ở miền Nam như Nhân Loại (do nhóm Ngọc Linh chủ trương), Tiểu Thuyết Thứ Bảy (ở Sài g̣n vào năm 1961),Văn Đàn, Văn, Bách Khoa... Năm 1960, bà cho xuất bản quyển tiểu thuyết dă sử ''Nàng Ái Cơ Trong Chậu Úp'' thi vị hóa cuộc diễm t́nh lệ sử giữa Tông Đức Hầu Mạc Thiên Tích và nàng ái cơ Nguyễn Phù Cừ của ngài tại doanh trấn đất Phương Thành (Hà Tiên). Năm 1969, bà cho xuất bản quyển tùy bút ''Dưới Mái Trăng Non''. Năm 1973, bà cho in tập thơ ''Gầy Hoa Cúc''... Đó là những quyển sách xương sống của bà.

Ở quyển bút khảo này, bút giả chỉ nói tới quyển  ''Dưới Mái Trăng Non'', do Văn Nghệ (Sài G̣n) tái bản vào năm 1996.

Vào năm 1969, Lê Tất Điều  cũng đă giới thiệu và nhận xét qua loa quyển tùy bút này trên nhật báo Tiền Tuyến. Quyển này ở lượt xuất bản lần đầu tiên chỉ đăng những bài văn xuôi. Thơ có chăng chỉ được lồng vào những bài văn xuôi coi như minh họa những điều mà tác giả muốn tŕnh bày với độc giả. Hoặc đó là những câu thơ, những bài thơ coi như những viên kim cương hoặc những phiến  bảo ngọc nạm trên những món bội hoàn chạm trổ tinh xảo, có tính cách trang trí cho đẹp bài viết. Nhưng khi do Văn Nghệ (Sài G̣n) tái bản vào năm 1996 th́ tác giả thêm thơ và thêm nhiều bài tùy bút khác. Có thể là thơ trích trong thi tập ''Phấn Hương Rừng'' hoặc trong thi tập ''Hương Xuân'' hay thi tập ''Thơ Mùa Giải Phóng''. Cũng có thể là thơ lẫn văn xuôi trích từ các tạp chí văn chương vào thời tiền chiến hoặc dưới hai chính thể Đệ nhất Cộng Ḥa và Đệ nhị Cộng Ḥa ở Miền Nam Việt Nam.

Trên hành tŕnh thực hiện ''Dưới Mái Trăng Non'', bà Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội phải trải qua trên 3/4 thế kỷ. Vận sự này khiến chúng ta liên tưởng đến quyển nhật kư ''Mes Cahiers Bleus'' của nàng đại danh kỹ Liane de Pougy  vào Thời Đại Mỹ Lệ (La Belle Époque) từ khi nàng đặt bút hoa lên trang thứ nhất màu lam ngọc của quyển nhật kư cho tới trang chót mà quyển sách hăy c̣n dở dang. Quyển  nhật kư ấy cũng phải trải qua hơn nửa thế kỷ. ''Mes Cahiers Bleus'' giống như ''Dưới Mái Trăng Non'' ở chỗ viết về các văn nhân thi sĩ đương thời với tác giả. Nhưng Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội chơi trội hơn Liane de Pougy ở chỗ biết làm thơ, ở chỗ miêu tả những thắng cảnh với những nét tạo h́nh kiều diễm  có thể khắc sâu vào ấn tượng và niềm hoài cảm của độc giả.

Tên thật của bà Mộng Tuyết bị hai ông Hoài Chân và Hoài Thanh ghi sai trong quyển  ''Thi Nhân Việt Nam''. Tên bà không phải là Lâm Thái Úc mà  là Thái thị Sửu. Dù lai người Trung Hoa ba bốn đời, nhưng song thân bà vẫn nhiễm thói ăn nết ở của dân quê Nam Kỳ nên không đời nào đặt  cho con gái họ một cái tên có ư nghĩa thâm thúy và kêu vang lảnh lót khi đọc lên được. Thuở xưa, dân Nam Kỳ không bao giờ đặt tên đẹp cho con gái ḿnh, cốt tránh điều xuôi xẻo có thể xảy ra khi các cô ngọc nữ kia hăy c̣n thơ ấu. 

Hồi tiền chiến, tác giả lấy bút hiệu là Mộng Tuyết. Kèm theo đó, bà c̣n lấy thêm bốn bút hiệu Nàng Út, Hà Tiên Cô, Bách Thảo Sương và Bân Bân Nữ Sĩ. Dưới chính thể Cộng Ḥa Miền NamViệt Nam, bà thêm 3 chữ Thất Tiểu Muội vào bút hiệu Mộng Tuyết thường dùng của ḿnh. Nhưng dưới chế độ Cộng Sản, bà  bị rúng ép phải trở về bút hiệu Mộng Tuyết suông trơn thuở trước.

Thơ văn bà Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội điệu đà, thêu hoa dệt gấm rất diêm dúa và sặc sỡ. Bà lại lấy cảm hứng ở văn chương Trung Hoa, dùng bối cảnh cổ kính của nước Tàu thời Trung Cổ, thời Cận Đại được vẽ trên tranh lụa, trên nền men ngọc của các món cổ ngoạn. Chúng ta không nên trách bà ngoại lai ở nếp sống và ở văn chương. Bà sinh trưởng tại thị trấn Hà Tiên có hồ thơ núi mộng, có những ṭa kiến trúc theo kiểu lâu các đ́nh viện của Tàu. Người xây dựng thị trấn này là Cửu Lộc Hầu Mạc Cửu vốn người Minh Hương bỏ chế độ quân chủ Măn Thanh để qua Việt Nam lập nghiệp. Từ một góc nhỏ hoang dă và man rợ  đầy sơn lam chướng khí của miền Cực Nam đất nước, Cửu Lộc Hầu đă biến thành thị trấn Phương Thành (về sau mới đổi tên là Hà Tiên) với cách kiến trúc rất Tàu. Nhưng gia đ́nh của bà cũng theo cách sống của thôn dân Việt Nam nơi Xóm Rẫy (vùng ngoại ô của Hà Tiên) nên văn chương bà có thể phản ảnh được rất nhiều nếp sống và phong thái của người Việt Nam.

Ông Đông Hồ cũng lai Tàu bốn năm đời ǵ đó. Ông yêu tiếng Việt, dân Việt. Nhưng trong tâm hồn ông vẫn bảng lảng chút khói hương thời Đường Tống của đất nước Trung Hoa. Cho nên ông tránh sao khỏi cái tính lập dị cá biệt. Tiệm sách của ông được đặt tên là Yiễm Yiễm Thư Trang, tiệm may của ông tên là Yiễm Yiễm Thương Điếm, nhà hóng mát của ông có treo vài gị phong lan được đặt tên là Vương Giả Hương Đ́nh. Khu vườn của bên nhạc gia ông được đặt tên là Bách Phương Viên, rồi Úc Viên, mái hiên trên gác xép của bà Mộng Tuyết được gọi là Tân Nguyệt Hiên (Mái Trăng Non). Sau này, khi thiên cư lên Sài G̣n, ông mang theo những cái tên Úc Viên, Mái Trăng Non, Vương Giả Hương Đ́nh tọa lạc đường Nguyễn Thái Học. Nhà ông có cái tên Đại Ẩn Am. Sau đó ít lâu, Yiễm Yiễm Thư Trang từ đường Nguyễn Thái Học dời qua Tân Định, gần rạp hát Moderne. C̣n Đại Ẩn Am, Vương Giả Hương Đ́nh, Úc Viên, Mái Trăng Non được dời qua Phú Nhuận, gần Hồ Tắm Chi Lăng; chính tại đây Đại Ẩn Am  biến thành Qúnh Lâm Thư Thất. Khi ông qua đời được ít lâu, bà Mộng Tuyết thiên cư về Tân Sơn Ḥa, đường Nguyễn Minh Chiếu  mang theo Qúnh Lâm Thư Thất và Úc Viên đặt trên dẻo đất có cây cao bóng mát.

Các bạn dù có trách  lối sống kiểu cách đôi uyên ương nghệ sĩ kia đi nữa, nhưng các bạn phải công nhận họ có nếp sống đẹp. Nhà họ không có bàn ghế bằng danh mộc, không có hoành phi, liễn son, liễn mun, không có các món ngoạn hảo quư giá. Nhưng nó có những tủ kính vĩ đại đựng sách như một cái thư viện. Lại c̣n có những liễn bằng giấy bồi ghi những bài thơ của ông Đông Hồ qua nét thủ bút sắc như lá lan của chính ông.

*   *   *

Trong bài Bạt  ''Vườn Dưa của Nàng Út'' của quyển ''Dưới Mái Trăng Non'', bà Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội đă vạch rơ đường lối văn chuơng theo phái Duy Mỹ của ḿnh như sau:

Vườn hoa nàng Út ngày nay không biết có tốt tươi xinh đẹp như vườn dưa nàng Út ngày xưa hay không và có rủ rê quyến luyến khách qua đường hay không, cái đó th́ không làm sao biết  được. Duy, có một điều biết đuợc là nàng Út bây giờ hẳn không khờ dại mà để cho ông Hoàng nào trẩy hết cả vườn hoa quư của nàng.

''Dễ thường ḿnh ích kỷ và hà tiện quá hay sao?''. Nàng tự hỏi ḿnh như thế, trong lúc tay đang cầm chùm hoa ''Thất tỉ muội'' mới ngắt ở Bách Phương Viên, rứt từng cánh nhỏ thổi tung đi.

Gió quyện hơi thơm, nước trôi cánh đẹp, bay tới đâu, xuôi tới đâu và dừng lại nơi đâu, nàng cũng không làm sao biết được.Nàng chỉ biết xin ai đừng đ̣i, ở bông hoa đó, những màu sắc diễm nùng với những làn hương nồng ngát say sưa.

Đó chỉ là những đạm đạm thanh thanh, những ư trinh d́u dịu, những ánh chiều mong manh và những tơ trăng mờ ảo, là những mở chầm chậm e dè của cành hổ ngươi. Hăy gượng nhẹ và dịu dàng, xin đừng mạnh tay mà cành hổ ngươi khép lại. (các trang 478, 479)

Trong bài ''Đáp Lời Phỏng Vấn Văn Nghệ của Báo Bách Khoa'', thêm một lần nữa bà xác định khuynh hướng văn chương của ḿnh và vị trí của người đọc:

Ḿnh chỉ viết cho ḿnh, v́ ḿnh không phải nhà văn chuyên nghiệp cho nên đă để trôi qua biết bao nhiêu t́nh ư mà v́ không cố công đuổi bắt nó, một khi nó lảng vảng đến ḿnh.

Chỉ ghi lại những ǵ chín muồi như trái cây nhân sâm chín rụng, không biết dùng móc bạc mà hái nó, rồi cũng không biết dùng chậu vàng mà hứng nó th́ e nó chui tuột hết xuống đất. Cảm hứng cũng mong manh, nhát tiếng động và ưa lẩn trốn như trái nhân sâm. (trang 472)

  ...thơ nào cũng không nói được hết lời. Bèn nghĩ lối viết tùy bút. Và, thay v́ làm thơ th́ làm văn, với đúng nghĩa ''làm văn'', với quan niệm ''làm văn'' cũng phải khó khăn, cũng phải rèn luyện, cũng phải công phu như ''làm thơ''. Bài văn là bài thơ tự do không xuống ḍng.

Và bài văn đó nhất định phải đẹp, phải đẹp như một bài  thơ. Bài văn đó cũng phải điêu luyện, cũng phải trau chuốt, cũng phải là lời vàng tiếng ngọc để mà  diễn tả ư ngọc t́nh châu.

Và c̣n đọc văn nữa. Đọc một bài văn lại cũng phải công phu như đọc một bài thơ.

Người viết đă dọn ḿnh mà viết, người đọc sao lại không dọn ḿnh mà đọc, dẫu rằng người đọc không cùng một quan điểm với người viết nữa.

Chiếc ṿng ngọc thạch, hoặc rộng hoặc hẹp, không vừa với cổ tay ḿnh, nhưng mà nó vừa vặn với cổ tay người khác, th́ ḿnh dẫu không đeo nó, cũng phải biết thưởng thức đúng với cái đẹp của nó ở cổ tay của giai nhân không phải là ḿnh. (trang 473)   

Tôi được đọc cuốn ''Đời Viết Văn Của Tôi'' của Học Giả Nguyễn Hiến Lê, tôi đă tiếp xúc với Tiến Sĩ Thái Văn Kiểm, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh. Họ đều khen ngợi văn phong và cách diễn tả của bà Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội. Óc quan sát của bà thật tinh nhuệ, thật bén nhạy và thật mănh liệt. Những sự vật tầm thường dưới ng̣i bút của bà trở nên linh động dị thường. Xin cùng đọc đoạn bà viết sách quốc cấm duới thời Pháp thuộc bị đốt cháy:

Ánh lửa bập bùng trong ḷ cuộn khói. Ngổn ngang đống giấy, trang chữ in, đang bị ngọn lửa xanh, cháy xém. Lửa liếm tới đâu, tờ giấy như thun ḿnh lại, uốn éo. Phồng lên, co dúm, quằn quại như có tri giác, né tránh sức bạo tàn thiêu đốt.Nhưng mà ngọn lửa bạo tàn có ngừng lại cho đâu. Một cái cử động nhỏ của que cời, đă giúp cho sức hung hăng, vừa khói vừa lửa, kiêu hănh vươn cao gần tới nóc nhà bếp.

Út không dám có một lời nào, một cử chỉ nào: cô đứng im như tượng đá mà nh́n trân trân đống lửa.

Út thấy ḷng bồi hồi đau xót. Ruột gan như cũng uốn ḿnh chống trả lại với một quặn thắt vô h́nh, thần kinh như cũng co giăn theo mỗi chuyển ḿnh của mỗi tờ giấy.

Trang giấy trắng tinh nổi rơ hàng chữ mực in, lần lần ngă sang màu vàng, dưới lưỡi lửa xanh lè ám khói, rồi mới cháy bùng lên.

Lửa ngọn hạ thấp dần, khói đen nhạt dần, những tờ giấy trở thành than đen nhánh. Kiếp giấy, than ôi đă mỏng, mỏng như phận mỏng cánh chuồn, nhưng mà tờ than của kiếp sách nó c̣n mỏng manh hơn mấy kiếp cánh chuồn chuồn.

Cô Út muốn đưa tay gom lại những tờ than giấy c̣n lờ mờ nổi những chữ mực in kia. Nhưng mà trong ḷng khối than giấy, lửa hăy c̣n âm ỉ. Lửa chưa hóa được những tờ kia thành tro bụi, lửa đâu chịu tàn cho.

 Lửa hăy c̣n đốt phá ngấm ngầm cái mỏng manh hết sức mỏng manh của tờ than giấy.

(''Đốt Sách'', các trang 213, 214)

Qua đoạn trích dẫn trên đây chúng ta đă thấy cái tâm hồn nghệ sĩ của tác giả sâu sắc, thắm đượm là dường nào. Một nhà văn tài nghệ tầm thường làm sao có thể nh́n thấy cái đẹp tiềm ẩn và thấm nhuần trong cái chết chóc tàn hủy, trong những sự vật chưa phải là vưu vật và cũng không phải là kỳ quan hay thắng cảnh. Vậy mà tác giả dùng cách diễn tả rất thơ, tưới tẩm ngôn từ diễn tả bằng những rung cảm kỳ diệu để biến chúng thành chất liệu quư báu cho văn chương. Cho nên cảnh đốt sách quốc cấm dưới thời Pháp thuộc ấy một khi đi vào văn chương của bà nữ sĩ đất Hà Tiên đó cũng trở thành ra một bài bi ca (poème saturnien) diễm lệ.

Văn phong như thế này  dù có ưỡn ẹo thật đấy, nhưng chẳng những nó không dơ dáng dại h́nh mà c̣n có nét đẹp riêng, song song với cái đẹp cổ kính của lụa vẽ nhung thêu xen lẫn cái đẹp của trời nước, của trăng sao, của hoa đồng cỏ nội trong các bài tùy bút khác. Nguyễn Tuân trong ''Vang Bóng Một Thời'' tuy điệu đà mà vẫn giữ khí phách ngang tàng của tay giang hồ mă thượng. Xuân Diệu tuy có ưỡn ẹo trong thiên tùy bút ''Phấn Thông Vàng'' nhưng biểu dương những niềm rung cảm bén nhạy đối với cuộc sống hẩm hiu, đối với những con người bất hạnh, đối với cảnh vật thê lương. Cho nên không ai lấy làm lạ rằng hai ông Nguyễn Tuân và Xuân Diệu trở thành tri âm tri kỷ của bà từ thuở nước nhà chưa ngún ng̣i lửa chiến tranh (bắt đầu từ Đệ nhị Thế Chiến). Nhưng nói chung, cái điệu đà trong văn chương của Nguyễn Tuân chỉ là màu đạm hồng phơn phớt, c̣n cái điệu đà trong văn xuôi của Xuân Diệu là màu hồng đào tươi sáng, c̣n cách diễn tả uốn lượn uyển chuyển trong các bài tùy bút của bà Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội là màu hồng ngọc thắm thiết và sáng long lanh.  Tự bấy lâu nay, có vài  ''phê b́nh gia''  chê văn phong điệu đà của bà Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội một cách phiến diện bất công. Họ không sao giấu được chân tướng của loại người có tâm hồn hạn hán và có tâm địa hạn hẹp không thể mở rộng để đón nhận những sắc thái đặc biệt của văn chương nghệ thuật. Họ ưa dùng đao tao búa lớn để chém ngă những công tŕnh tinh tế  của một nhà văn v́ quá mê say cái Đẹp nên không tự chủ lúc cầm bút, nên tạo ra cách diễn tả hoa gấm kiêu sa cho văn phong của ḿnh. Chém ngă như thế, các tay phê b́nh bạo dâm kia chứng tỏ ta đây trượng phu, ta đây uy mănh và hào hùng, ta đây khinh thường loại văn chương nghệ thuật chỉ dành riêng cho phụ nữ thích làm dáng, thích nũng nịu với cuộc đời. Nhưng họ bị cái ép-phê ngược: họ càng để lộ cái căn tính hẹp ḥi cùng khiếu thưởng ngoại chai sượng và khô cứng, không thể thẩm thấu chất mật ngọt và hưong thơm cùng những phong vị tuyệt vời khác trong cuộc sống.

Viết tùy bút, nhà văn có thể dùng mọi thứ ngôn ngữ. Mai Thảo dùng ngôn ngữ trừu tượng và huyền bí pha lẫn những ngôn từ triết học, ngôn ngữ dành riêng cho thơ. Nguyễn Tuân và Xuân Diệu dùng ngôn ngữ dành cho cách viết truyện ngắn nhưng cả hai vẫn dùng vài ngữ pháp kiều diễm, vài ngôn từ thơ mộng để trang sức cho bài viết thêm sinh sắc. Có buồn cười chăng là ông Thi Vũ Vơ văn Ái viết đoản văn, tùy bút,  b́nh luận thời cuộc bằng ngôn từ do chính đuơng sự biến chế  ra hoặc những ngôn từ có trong tự diển chấp vá với chữ mà đuơng sự moi móc ở đầu Tề đít Lỗ nào đó. Bài viết v́ thế tuy có khua động rổn rảng nhưng v́ ư tứ nghèo nàn kém cỏi nên trở thành kệch cỡm. Những ngôn từ như thế chỉ là những lớp son phấn ḷe loẹt không sao che giấu gương mặt rổ chằng chịt. Trong khi đó, ba Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội dùng ngôn từ thi ca để viết tùy bút. Cho nên mỗi bài tùy bút của bà là một bài thơ bằng văn xuôi đúng hơn.

*   *   *

Ở các bài tùy bút, bà Mộng Tuyết vận dụng óc quan sát tối đa. Cộng thêm tính mẫn cảm, bà vạch nên những nét tạo h́nh sắc sảo trên vận sự được miêu tả.  Trước hết xin đọc những nét mô tả khái quát như những nét phác thảo, nhưng vẫn là  những nét sắc sảo cứa mạnh vào ấn tượng người đọc. Đây là thú đăi khách uống trà:

Chén trà đă quyện hương rồi. Đó là những cánh trà đen, to và thô, pha từ nước thứ hai có mùi hoa mộc, từ nước thứ ba  có mùi hoa thúy lan. Đó là loại trà Thiết Quan Âm, Thiết La Hán của Phúc Kiến mà tác giả ''Những Cái Ấm Đất'' công khó  từ Hà Nội gửi vào.

Các thứ trà đó, uống nó, người ta phải có những chén tống, chén quân, những cái ấm chuyên, ấm đồng; nhưng nay v́ đông người quá, người ta phải làm lối ngưu ẩm, pha cả b́nh.

Biết vậy, cô chủ nhân cái Yiễm Yiễm Trà Thất đă cẩn thận chọn bỏ ra, từ chiều những cánh trà già màu hơi vàng và đă tự tay nấu nước cho vừa độ, và tự tay pha lấy giữ cho hương trà không hao kém đi.

(''Khói Trà Hương Đượm Chén Trùng Phùng'', trang 194)

Trong ''Hồng Lâu Mộng'' của Tào Tuyết Cần, đạo cô Diệu Ngọc pha trà bằng tuyết đọng trên cánh hoa mai trong vườn chùa Huyễn Mộ Phiền Hương.

Trong ''Những Cái Ấm Đất'' của quyển tùy bút ''Vang Bóng Một Thời'', Nguyễn Tuân nói về cách pha trà bằng nước giếng chùa Đồi Mai và bằng sương  đêm đọng trong ḷng sâu của lá sen (trong bài ''Chén Trà Trong Sương Sớm'').

Bà Mộng Tuyết th́ không pha trà cầu kỳ như thế. Nhưng bà đă t́m được hương vị trà pha ở nước thứ nh́ và ở nước thứ ba. Khưu giác bà phải tinh nhuệ lắm.

Và để tiếp theo, xin đọc một đoạn về việc se đôi bạch lạp trong bài ''Đêm Bất Dạ'' như sau:

Sáp lấy ở Ngan ong, làng Dương Ḥa, là tốt có tiếng. Ngan ở đây là một cánh rừng to, mọc toàn cây dá và cây vông, đặc biệt là tư niên, có ong đến đó làm tổ khắp giải rừng.

Sở phong ngạn là triều đ́nh chúa Nguyễn cấp làm đất hương hỏa đời đời cho ḍng họ Mạc đă có công khai trấn đất Hà Tiên.

Năm năm có người thầu, đóng hoa lợi cho làng để cung việc tế tự.

Sáp lấy ở rừng này quư là v́ ong chỉ ăn thuần một giống hoa, không ăn tạp giống hoa khác, cho nên chất sáp có một màu trong và một vị thơm đặc biệt.

Hai bát sáp úp vào nan, no tṛn, trong ngon mắt như cặp bánh dầy trắng mịn. (trang 133)

Sau hôm mồng bảy, hạ cây nêu trước nhà rồi, là cụ Hương lo việc đan tim (tức là bấc đèn) và phơi sáp. Trước nhất là thái sáp thành lát mỏng, chắp lại thành từng cái dĩa bàn, đem phơi giữa lúc nắng to. Rồi cả nhà, anh Ba, anh Tư cùng góp tay vào việc cho lửa nhồi sáp, nắn cho sáp được nhuyễn mềm.

Việc quan trọng là đặt tim vào ḷng sáp. Cả khối sáp mềm vừa lăn đè lên trên tấm ván, đặc biệt để dùng xe đèn, vừa nắn cho nhanh và đều tay khối sáp dôi ra bao bọc đều vừa hết sợi tim đèn. Nắn sửa lại cho tṛn thành cây đèn ngay thẳng, xong th́ lớp vỏ sáp cũng từ từ se nguội. Tưới một ít nước lă vào, lăn thêm ít ngoai, là sáp cứng lạnh. (trang 134)

Chúng ta đă bắt gặp những ǵ trên 2 đoạn trích dẫn này? Một chút khói sương và một chút óc quan sát trong tùy bút ''Vang Bóng Một Thời'' của Nguyễn Tuân có phải?  Một niềm tha thiết bền sắt tươi son với vang bóng thời xa xưa trong văn chương của Vũ Bằng ở quyển  ''Mê Chữ'' có phải?

Bước qua lănh vực ấn loát, sách ốc, tức là qua lănh vực kỹ nghệ khô khan, tác giả vẫn t́m được khía cạnh thơ mộng, một bản sắc kỳ đặc để mô tả. Chẳng hạn về giấy in, bà vạch những nét tạo h́nh tuyệt vời như sau:

Ôi thú vị thay!Người trần biết kư thác tâm t́nh tư tưởng họ trên những trang giấy thơm đẹp.

Mềm mại trắng tinh của tờ ngọc khấu, tờ cống xuyên nước Tàu thuần phác; xốp nhẹ dễ yêu của tờ Bouffant, óng mỡ dịu mắt của tờ Velin, nhẵn láng mát tay của tờ couché phương Tây máy móc. Thanh nhă thay chất nhung tơ của phẩm giấy Phù Tang và cao quư thay Dó lụa Việt Nam !... (''Con Gái Út Nhà Trời Thác Sinh Làm Nàng Mọt Sách'', trang 181)

Cũng viết về giấy, Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội không quên nhắc tới Nguyễn Tuân, nhà văn viết tùy bút vĩ đại nhất thuở tiền chiến đối với tâm tưởng của bà:

  ... Bao nhiêu thư từ sách vở anh gửi cho từ năm 1939 đó, tuy không c̣n giữ đủ được, nhưng nội dung và kỷ niệm không thể phai mờ.

Lúc anh cho in quyển ''Vang Bóng Một Thời'' lần thứ nhất, anh gởi vào cho hai bản đặc biệt. Một bản lụa Dó dầy đựng trong hộp bằng đủi tơ vàng óng. Anh đề: ''Gởi Tuyết muội muội'' và bản kia cũng loại đặc biệt bằng giấy Bouffant impérial à la cuvée (có đóng triện son ''Gió đă lên'' với cánh buồm no gió và mảnh trăng liềm), anh đề tặng:

''Kính gởi Đông Hồ Lâm nhân huynh

''Hồ Tây, quí xuân Canh Th́n (1940)''.

Trong quyển giấy đó, anh kèm theo lời là phải rọc cách nào cho có ''nhung tơ óng mỡ''. Thế là tôi phải thỉnh giáo lại. Anh dạy lấy khăn ướt lau cho ẩm ba bờ sách rồi mới dùng dao cùn mà rọc.

 (''Mưa Dầm Tháng Bảy'', trang 415)

Những sự vật mà tác giả đă được mắt thấy tai nghe dĩ nhiên được óc quan sát của bà soi rọi, được óc thẩm mỹ và óc tế nhị của bà nếu không tô hồng chuốc lục khi gặp cảnh sắc xứng ư th́ cũng làm cho chúng linh động hẳn lên, biến thành chi tiết hay toàn cảnh của một bức tranh sống.

Th́ đây! Chúng ta cùng ngắm cảnh Đông Hồ dưới ánh trăng đêm rằm Nguyên Tiêu trong ''Đêm Bất Dạ'':

Rằm tháng giêng... Tết đă qua mười lăm ngày rồi. Phong vị Tết đă nhạt dần từ hôm mồng ba mồng bốn...Chiều hôm nay, ḷng bỗng nôn nao. Dư vị của ba ngày xuân c̣n lắng đọng, tự nhiên như phơi phới dâng lên.

Trẻ con lại được giở ra quần áo mới. Người giai nhân dự bị, từ sáng sớm, để hưởng một đêm Tết Có Trăng.

Mặt trời khuất sau tấm màn gió biếc của rặng B́nh San th́ bên kia Đông Hồ, vành trăng cũng từ từ nhô lên khỏi nước. Một cái ấn vàng đóng tṛn trên mặt gương ngọc.(các trang 131, 132)

Toàn cảnh bao la được thu nhỏ vào một khu vườn của tác giả ở Xóm Rẫy cũng vào một đêm trăng tṛn, nhưng không phải vào những kỳ rằm; nơi ấy có một bông hoa quỳnh hé nở:

Một đêm kia, h́nh như không phải là đêm rằm mà sao bóng trăng tṛn trĩnh quá! Nửa mái nhà và một góc vườn ngập ánh trăng.Đâu đây, thoang thoảng mùi thơm. Một mùi thơm là lạ, vương vướng có hơi bạch đàn hương, thanh hải hương và một chút ngọc quế hương.

Trăng diễm ảo, mùi thơm càng diễm ảo hơn. Trăng đă cao và sáng hơn. Mùi thơm theo độ trăng càng náo nức hơn.

Nàng Út say sưa gần như cuồng loạn. Nàng chạy khắp vườn.

Hương vương trong lá, hương rớt trên đường, hương tràn ngoài ngơ, hương vương trong tơ trăng. Ôi! Hương! Hương! Hương tràn ngập!

Gió thổi vờn làn tóc, Nàng Út nghĩ thầm: ''Hay là gió quyện hơi thơm từ một lăng uyển nào về?''. Mùi thơm huyền diệu quá. Hoa hoa, lá lá, cả vườn thao thức say hương.

Chớp mắt một cái, Nàng Út thấy ḿnh đứng trước chậu hoa Quỳnh. Theo thói quen, nàng ngồi lại bên hoa, vuốt ve mấy cái lá xanh già.Nàng ngạc nhiên nh́n chồi hoa đă cao lớn lên lúc nào. Và bài thơ chữ thảo li ti bên bức tranh lờ mờ khắc trên men ngọc chậu sứ, nàng cũng nhận rơ ràng. Nàng đọc mấy chữ thơ mà mọi khi phải soi kiếng cũng không t́m đủ nét.

''Nhứt chi nùng diễm lộ ngưng hương''

Cái dáng dấp Dương Quí Phi tựa nghiêng bên gác trầm hương dường như phấp phới.

Nhưng mùi hương sực nức đă gọi Nàng Út ngẩng lên, không cần phải ngửi một hơi dài, nàng cũng cảm thấy mùi hương ngạt ngào, ngập tràn trong buồng phổi. Nàng đưa tay vạch một kẽ lá và kêu lên:

— Ô! Một bông hoa Quỳnh hé cánh.

 Cuống hoa xanh màu hoa lư từ trong nách một kẽ lá trổ ra. Những cánh đài hoa c̣n vương vướng có gân xanh đă nở bung dần. Ở trong c̣n bao lớp tuyết nhung ngậm kín.

Sung sướng và say mê, Nàng Út yên lặng ngồi ŕnh. Nàng không dám thở mạnh, sợ làm tan một cái ǵ mỏng manh, mỏng manh lắm. Ôi, c̣n ǵ mong manh hơn sự mở cánh của quần phương!

Trăng cao cao dần, hoa hé hé dần. Ai đă đem tơ trăng huyền ảo mà buộc vào những cánh thần hoa? Những cánh trắng hơn tuyết, nơn hơn nhung, trong hơn vân ngọc, mịn hơn vân ngà. Làn u hương kỳ diệu đồng thời toát theo từng cánh mở của bông hoa.

(''Úc Viên Kư'', các trang 279, 280, 281)

Có thể có vài bạn độc giả thắc mắc: trăng sáng tới mức độ nào mà tác giả thấy nét chữ thảo trên nền men ngọc của chậu hoa, thấy màu sắc của cuống hoa, đài hoa và cánh hoa? Nhưng mà ai ai cũng phải tin rằng dù dưới ánh trăng chưa tới kỳ rằm, cái phàm nhăn của tác giả tuy không thấy rơ ràng và tách bạch nét chữ của bài thơ trên nền men của chậu hoa cùng h́nh ảnh và màu sắc của bông hoa đang nở, nhưng con mắt của tâm hồn bà cộng với ấn tượng của bà do một cảm giác mănh liệt và đột xuất  khơi dậy, khiến bà thấy  những đối tượng ngoạn mục và thơ mộng kia. Do đó, trong văn chương, chúng ta có thể ư thức thêm một điều then chốt: nh́n cảnh đẹp đâu phải chỉ nh́n bằng mắt mà c̣n phải nh́n bằng tâm hồn.

Càng thu nhỏ hơn nữa, đó là những vật tầm thường như cái bánh qui bằng bột nhuộm đỏ dành để đăi Nguyễn Bính được bà ghi giống như ''chiếc ấn son''. Những chiếc đèn lồng bằng dưa hấu (qua đăng) cũng đươc bà mô tả vừa kỳ đặc vừa sống động:    

Trước nhất, cụ Hương bảo cắt mặt dưa, dù đỏ hay không đỏ cũng cứ để nguyên quả dưa mà móc bỏ hết sạch ruột đi. Quả dưa đă biến thành một cái đáy bụng của chiếc hồ lô. Rồi cụ dùng mũi dao sắc nhọn tỉa gọt, chạm sâu vào những nét lan, nét trúc, cánh bướm, bài thơ, trên mặt vỏ dưa. Bỏ vào bồn nước, ngâm giữ cho vỏ dưa đừng héo.

 Trăng giải khắp. Trong vườn Muôn Hương, dưới cành, trong lá loáng thoáng những quả lồng đèn dưa, nổi bật trên nền vỏ xanh, lọc ánh sáng thành một màu xanh ngọc bích.

Chiếc đèn to, trổ theo kiểu nhất thi nhất họa của cụ Hương, treo giữa hiên. Những chiếc khác của các anh cũng chạm khắc theo lối đó, những ai không kẻ được đủ cả một bài thơ, bằng lối hành khải thư, như chiếc đèn chánh. Chỉ tỉa một đôi câu:

''Nguyên tiêu thiên bất dạ

''Đối cảnh phú Tràng An''.

Hoặc chỉ có ba chữ ''bất dạ thiên'' hay bốn chữ ''nhất khắc thiên kim'' theo lối lệ triện.

Riêng có chiếc đèn của Nàng Út th́ cụ Hương cũng vạch phá cho mấy nét hai chữ ''Úc Viên'', rồi để cho Út tự gọt lấy. Ngoài nét chữ ra, Út c̣n móc thêm những điểm sao rơi và những liềm trăng non. Chiếc Úc Viên Đăng được treo trên cành mai gie trước cổng, có dán đôi câu đối viết trên giấy hồng đơn.

''Thế thượng mai hoa vô song phẩm

''Nguyệt trung đan quế đệ nhứt chi''.

*   *   *

Rất nhiều lần, bà Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội dựng những cảnh rất sống động, rất linh hoạt trong giấc mộng, trong câu truyện kể, trong truyện truyền kỳ. Nhưng mà, những khải tượng (les visions) trong chiêm bao hay trong ảo ảnh, trong tuởng tượng có cái nào mà không bắt nguồn tự sự thật?

Bởi sinh trưởng ở Hà Tiên, tác giả đă từng thấy đồng cỏ, rừng núi, ao suối, khe ng̣i nên trong thiên tùy bút ''Mộng Xanh'', bà dựng một phong cảnh trong giấc chiêm bao như sau:

Hà mơ thấy ḿnh, như ban ngày, cùng con cháu bé đang thơ thẩn bên bờ Đông Hồ. Là bờ Đông Hồ, nhưng sao lại thấy một cây cầu bắc qua một cái suối con, nước chảy róc rách. Bước lên cầu. Cầu nhúng nhính. Qua bên kia suối, th́ là một cảnh là lạ. Ngoảnh lại, nh́n chung quanh th́ chỉ đứng đó một ḿnh. Không nhận ra lúc ấy là ban chiều hay đêm trăng. Hà chỉ thấy bóng sáng mát giọi đều trên mặt đất, trồng toàn một thứ cỏ xanh mát như nhung. Những con đường mờ mờ trắng chạy viền đều trên mặt cỏ.

Hà chạy tung tăng khắp các con đường. Đường không có sỏi đá, êm chân như trải bằng thứ cát lạ ở cơi tiên.

Đi măi đến bên một cái đồi con. Những con nai, con hươu trên đầu mang cả một nhánh cây khô, ung dung ăn cỏ bên sườn đồi. Đồi cũng toàn một màu xanh rờn rờn, lưa thưa có bóng rợp của tàn cây mát rượi.

Cô đứng lại, lắng tai nghe như có tiếng gió và tiếng chim.

 Bên kia đồi, vài con thỏ vui đùa chạy giỡn, trông như những khối bông trắng tinh lăn trên thảm biếc.

Trèo lên ngọn đồi, ngó chung quanh, thấy toàn một màu xanh ngăn ngắt bạt ngàn. Vô số những cây liễu, cây dâu, những cây cỏ không hoa mà cũng không tên.

Hà đến bên cái biển cạn xây bằng cẩm thạch. Đá xanh, nước lại xanh hơn, làm xanh lây đến những con cá bơi lội trong hồ.

Màu xanh mát trong của nước như quyến rũ. Tự nhiên, Hà đưa tay cởi bỏ dần khuy áo... Giựt ḿnh, ngừng tay, khép áo lại, ngơ ngác nh́n quanh... (các trang 101, 102, 103)

Tác giả chỉ nghe người trưởng thượng kể lại vận sự ông nội của ḿnh dong thương thuyền đi biển gặp con quái ngư khổng lồ cỡ chiếc tàu cũng đủ để bà dựng nên một hoạt cảnh sống động. Vận sự th́ có thật. Nhưng hoạt cảnh vẫn là sản phẩm óc tưởng tượng phong phú của kẻ làm văn chương.

... Mũi tàu c̣n cách con cá không đầy trăm thước, đang lừ lừ tiến đến, chợt nghe ầm ầm quẫy mạnh đàng đuôi, cánh vi trên lưng cá như hướng nhích qua một bên. Đứng trên tàu, nh́n thấy chiều cạnh của cánh vi khổng lồ đó.

Ông nội tôi có tia hy vọng. Ông truyền cho bác tài công vững tay lái, cho tàu hướng trịch mũi về bên kia để tránh đà tiến của con cá.

Sóng nổi ồ ồ, cuồn cuộn, lớp lớp trùng trùng chuyển tới, tràn ngập cả sàn tàu.Bây giờ mũi tàu đă tránh lệch khỏi được đường tiến con cá. Mũi tàu và lưng cá sắp sửa vượt trái nhau theo chiều dọc. Cánh vi cá và cánh buồm chiếc tàu đă song song cao ngang nhau, cách không khoảng mười thước. Lưng cá cọ sát vào sườn tàu. Ḿnh tàu nghiêng hẳn về một bên. Nước tràn ào ào. Người trên tàu chạy đổ xô về bên phía trên, bên mạn thuyền cá vượt qua.Ôi chao ! Những mảng vẩy bông tṛn tṛn, xậm xậm nổi rơ trên lưng cá bằng từng chiếc nia to.

Ông nội tội đă nhận ra đó là một con cá có vẩy to lớn vô cùng. Chiều cái vi trên lưng nó đă ngang với buồm tàu, th́ cố nhiên, ḿnh con cá cũng dài không kém chiếc tàu đâu.

Con cá vuợt qua khỏi, th́nh ĺnh, đuôi nó quẫy mạnh một cái rồi nó đi thẳng, làm chiếc tàu quay tṛn mấy ṿng như vỏ quả trứng thả vào chậu nước đương xoáy.

Tuy vậy tàu cũng từ từ yên lại. Mọi vật trong tàu đă xáo trộn ngă đổ cả. Nh́n sau mui lái, th́ bác tài công, v́ cố kềm gh́ giữ tay lái cho vững, khi cá quẫy, bị cần lái đập vào người, ngă ra bất tỉnh.  (''Ông Đạo Lập Quá Hải'',  các trang 356, 357, 358)

Về con quái ngư khổng lồ, bà chỉ tả đôi ḍng nhưng cũng đủ gợi những nét tạo h́nh thật sắc sảo khắc sâu vào ấn tượng độc giả như cổ nhân khắc chữ lên bản in  hay khắc dấu triện son trên gỗ, trên đá, trên đồng:

Nó không phải là cá xà cá mập, loài cá không vẩy, ḿnh trơn, vi thấp. Đàng này, vi cá  cao ngất như buồm cánh dơi, ḿnh có vẩy đốm hoa to bằng chiếc nia.

Th́ rơ ràng là loại cá mú khổng lồ. Cá mú mà ta thường thấy, ḿnh nó tṛn, lốm đốm hoa vàng, hoa nâu. Kỳ to, vi lớn, đuôi dẹp x̣e ra như cánh quạt, miệng to, hàm rộng, mang phồng. Những con nho nhỏ mà ta trông thấy đă khỏe đẹp lắm. Nó cũng thuộc vào loại ḱnh nghê mà sách Trang Tử đă nói đến đến trong thiên ''Đại Tiêu Dao''.

(''Ông Đạo Lập Quá Hải'', trang 358)

Ở truyện ''Con Gái Út Nhà Trời Thác Sinh Làm Nàng Mọt Sách'', khúc đầu, bà Mộng Tuyết chỉ cần quan sát con mọt sách để mô tả h́nh dáng của nó. Khi nó biến thành giai nhân th́ bà chỉ cần dùng óc tuởng tượng phong phú của ḿnh để nối bút cho đến đoạn cuối truyện. Ít có ai quan sát một con côn trùng bé tí ti và tầm thường như loại con sâu cái kiến kia để tả cho thật đặc sắc và  thật đẹp như bà.

Lật b́a bọc da hăy c̣n nguyên vẹn, thấy hiện trên tờ sách những vết li ti. Vết nhấm tṛn tṛn như h́nh mặt trăng, cong cong h́nh bán nguyệt, góc cạnh h́nh ngôi sao, đủ cả. Sinh soi lên đèn, từng tờ lỗ chỗ, thấy như da trời đêm tối lốm đốm sao thưa. Tay lật nhanh lên để xem các dấu thủng đă suốt sách chưa.

Đến gần tờ cuối, một con hai đuôi thon thon h́nh thoi, độ hai phân dài, ḿnh vương vướng phấn nhung tơ, sau cùng có hai sợi lông đuôi vót dịu. Con vật lui chui t́m chỗ trốn, lủi mau vào kẹt giấy chưa kịp ẩn vào đâu. Bực tức, Sinh định gấp sách lại thật nhanh cho nó chết bẹp, nhưng chàng chỉ lấy ngón tay chận lại. Ngón tay dí trên ḿnh con vật, chàng định ấn mạnh xuống, rồi lại sợ bẩn trang sách quư. Hơi ấm nóng trơn trơn, nhung nhúc tự dưng làm chàng giở tay lên; con vật chậm răi ḅ chui vào lưng sách, vẽ một vết mờ ng̣ng ngoèo theo dấu ḅ đi, và để vướng lại trên ngón tay chàng một tí phấn óng mỡ.

Sinh rút khăn định lau vết phấn trên ngón tay, th́ lạ thay, vết lông tuyết nhung đă lan khắp ḷng bàn tay mà mảnh khăn chàng cầm là một mảnh lụa phớt xanh ướp phấn. Như người bàng hoàng chưa tỉnh, Sinh nhắm mắt định thần...

Khi mở mắt ra th́, đối diện với chàng là một giai nhân tuyệt sắc, là một tiên nữ yêu kiều lững thững xiêm y phớt xanh ḿnh phấn, y như mảnh lụa chàng vừa nắm trong tay, lướt thướt sau lưng, vạt áo chia đôi óng nuột. (Các trang 183, 184)

Ở đoạn văn này, cũng như nhà văn nữ Nguyễn thị Hoàng, bà Mộng Tuyết tả con vật và tả người sắc sảo mà không chói mắt, lộng lẫy mà không ruờm rà. Đó là trường hợp một thợ thêu khéo, chỉ dùng kim tuyến và ngân tuyến thêu trên nền nhung mịn màng, chứ không thêu  trên nền  gấm v́ vóc gấm chẳng những bóng lộn mà c̣n dệt hoa bằng hai thứ chỉ lóng lánh ấy sẵn rồi. Đây là cuộc pha trộn màu sắc có ḥa điệu.

*   *   *

Thú vị nhất là những bài được bà Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội viết về những văn gia thi sĩ mà bà đă từng quen biết. Đó là những bài  dành riêng cho quyển tùy bút ''Dưới Mái Trăng Non''. Đó là nhà chí sĩ Sở Cuồng Lê Dư, nhà văn Nguyễn Trọng Thuật (bút hiệu Đồ Nam Tử, tác giả quyển sách lừng danh ''Quả Dưa Đỏ''), cùng nhà thơ Lưu Trọng Lư, nhà văn Nguyễn Tuân, Lê Thanh v.v.. trong bài du kư ''Hà Nội Tây Thi''. Đó là  cụ Đồ Nam Tử thêm một lần nữa xuất hiện trong bài ''Gặp Tác Giả ''Quả Dưa Đỏ'', Cụ Đồ Nam Nguyễn Trọng Thuật'' . Đó là nhà văn Lê Thanh đă từng cộng tác với báo Tri Tân lần thứ hai hiển linh trong bài văn tế khoác áo tùy bút ''Tơ Duyên Dương Liễu''. Đó là  nhà thơ Nguyễn Bính trong bài ''Để Nhớ Nguyễn Bính Những Ngày Ghé Bến Hà Tiên''. Đó là Nguyễn Tuân tái xuất hiện trong bài ''Mưa Dầm Tháng Bảy''. Đó là Xuân Diệu cùng Huy Cận,  kẻ chết người sống cùng họp mặt trong bài tưởng niệm bằng thơ ''Để Nhớ Anh Xuân Diệu''...

Cộng tác với tạp chí Nam Phong do cụ Thượng Chi Phạm Quỳnh chủ trương, ông Đông Hồ và bà Mộng Tuyết bắt đầu quen hầu hết với các tao nhân mặc khách, các danh sĩ đương thời hai miền Trung Bắc. Lại nữa, giải thưởng Văn Chương do nhóm Tự Lực Văn Đoàn chủ trương đă đẩy tên tuổi bà xuyên suốt đất nước Việt Nam. Dù thuở đó có con thiết lộ Xuyên Việt, nhưng trước khi viếng Hà Nội, hai danh sĩ đất hồ thơ núi mộng của miền Tây Nam nước Việt ấy chỉ biết các bạn văn của ḿnh qua cuộc trao đổi  thư đi tin lại. Chính chuyến thăm thành quách Thăng Long vào năm 1939 đă giúp cả hai gặp gỡ các người cầm bút ngoài đất Bắc. Đôi bên  không c̣n ''văn kỳ thanh, bất kiến kỳ h́nh'' nữa. Đôi bên được tiếp xúc lẫn nhau, đă có kỷ niệm đẹp cho nhau. Đó cũng là thời kỳ Nhật dội bom xuống Đông Dương và lăm le nuốt chững Đông Dương.

Độc giả chúng ta ở hải ngoại đa số là hậu bối của các văn gia thi sĩ thời tiền chiến. Ai cũng khao khát muốn t́m hiểu đời sống cá nhân và phong thái từng tác giả một. Dĩ nhiên, các bài vở trong quyển tùy bút '' Dưới Mái Trong Non'' không đủ đáp ứng hoài vọng nồng nàn của chúng ta đâu. Nữ sĩ chỉ vẽ lờ mờ đôi nét phác thảo về chân dung và cuộc đời của các người cầm bút lừng danh ấy, cùng những kỷ niệm vặt vănh giữa họ và bà. Có thể chúng ta cho rằng bà thiếu sót trong công việc viết về họ. Nhưng ngẫm cho cùng, bà có muốn lôi đời tư của họ để tŕnh bày cho chúng ta thỏa măn tính hiếu kỳ đâu? Bà cũng có muốn khoác áo phê b́nh một cách trịnh trọng về thi văn của họ đâu? Bà chỉ muốn dắt  chúng ta song hành cùng bà vào vùng trời kỷ niệm trong văn giới thế thôi. Chúng ta chỉ nhặt nhạnh dăm ba mảnh vụn sáng lấp lánh trong cách sống của họ, ngay cả của bà. Vậy mà bài viết vẫn đượm nhuần thi vị, vẫn sáng lên vóc dáng văn chương nghệ thuật, vẫn khơi dậy khói hương của một thời đại văn chương huy hoàng đă xảy ra trên quê hương tổ quốc chúng ta. 

Các bạn muốn biết chân dung các văn gia thi sĩ thời tiền chiến đă từng quen biết với bà Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội ư? ''Dưới Mái Trăng Non'' sẽ tặng các bạn một vài nhu cầu t́m hiểu của các bạn. Trước hết, xin đọc bức phác thảo chân dung cụ Đồ Nam Nguyễn Trọng Thuật:    

Cụ Đồ Nam người cao cao và chắc chắn. Da mặt ngăm ngăm, tóc râu nhiều và to sợi. Miệng rộng và luôn luôn cười.

Câu chuyện của ông già đó cũng ngay thẳng và chất phác như dáng điệu của ông, như bộ quốc phục, cái áo the thâm, cái quần vải trắng không ủi của ông. Lời nói của ông không trang sức, không cầu kỳ, không văn hoa như phần nhiều các ông Nho học mà bọn trẻ khi tiếp chuyện phải lo sợ.

(''Gặp Tác Giả ''Quả Dưa Đỏ'' Cụ Đồ Nam Nguyễn Trọng Thuật'', các trang 440, 441)

Chân dung Lưu Trọng Lưu và Nguyễn Tuân cũng tại ga Hàng Cỏ trong buổi đưa tiễn du khách về Nam cũng chỉ được bà Mộng Tuyết nói qua loa cách phục sức và cái phong thái của họ hơn là đường nét tạo h́nh:

Trên sân ga Hàng Cỏ đông nghẹt. Người ra đi đă đông, mà người đưa tiễn người đi càng đông hơn. Có hai mẫu người đứng gần nhau mà rất tương phản nhau. Một người dễ dăi giản dị đến chểnh mảng. Một người th́ sạch sẽ diêm dúa đến nghiêm chỉnh.

Người trên là một thi sĩ thính tai nghe  được những thanh âm khi chưa thành tiếng động, nghe những ''tiếng thu'' âm thầm ''dưới trăng mờ thổn thức'', nghe được cả ''h́nh ảnh kẻ chinh phu trong ḷng người cô phụ''. Thi sĩ Lưu Trọng Lư hôm nay cũng lễ mễ ra ga đưa vợ về Thanh tránh loạn như mọi người thiên hạ. Không biết thi sĩ có nghe tiếng ǵ đặc biệt hơn không?Người dưới là một văn sĩ khát cổ thèm đi. Nhà văn này đă từng vẽ lại những ''vang bóng một thời'', đă cho tôi ''sống'' lại đời sống êm đềm của ngh́n xưa thăm thẳm. Cũng nhà văn này đă gọi dậy ḷng say mê phong vị sông hồ của tôi sẵn từ thuở bé.

Nguyễn Tuân trịnh trọng đến bắt tay anh Đông Hồ. Đứng trước nhà văn sĩ có một vẻ điềm đạm, ôn ḥa khệ nệ, đến cầu kỳ, khác người ấy, tôi cần phải nói một cái ǵ, nhưng chung quanh đă ồn cả lên rồi.  (''Hà Nội Tây Thi'', trang 323)

Cuộc gặp gỡ giữa nhà thơ Nguyễn Bính cùng Đông Hồ và Mộng Tuyết vào xế chiều mùa hạ năm 1944 tại Hà Tiên , giữa lúc bà Mộng Tuyết ngồi may tại Yiễm Yiễm Thương Điếm. Nguyễn Bính được bà vễ chân dung như sau:

Một người khách lạ bước vào, với chiếc va-li nhẹ xách tay. Người khách thâm thấp. Phong trần hiện trên mớ tóc đen rậm, rối bồng, dài tới mang tai. Bộ Âu phục cũ nhầu nát làm tăng thêm phần tiều tụy. (''Để Nhớ Nguyễn Bính Những Ngày Ghé Bến Hà Tiên'', trang 402)

Riêng chân dung của Xuân Diệu và cuộc gặp gỡ giữa đôi bên lại được tả bằng 2 đoạn thơ, mỗi đoạn gồm 4 câu  thất ngôn trong bài thơ tưởng niệm ''Để Nhớ Anh Xuân Diệu'' (trang 432):

Mùa thu tháng tám năm băm chín (1939)

Một nhóm anh em từ phương Nam

Ra thăm Hà Nội trong chớp nhoáng

Quán cơm Hàng Da nơi hội đàm.

  *

Một gă thư sinh mái tóc bồng

Mắt sáng, miệng cuời tươi nở bông

Ghé lại cùng ngồi góp thêm chuyện

Kư tặng bạn xa quyển ''Phấn Thông..''.

C̣n ǵ cảm động hơn, khi ra Hà Nội, đôi uyên ương thi ca Đông Hồ & Mộng Tuyết đến viếng cụ Đồ Nam Tử. Cụ t́nh nguyện hướng dẫn họ đi thăm thú đó đây cùng viếng các nhà văn nhà thơ đất Thăng Long.

Cụ đ̣i thân đưa bạn Hà Tiên đi thăm các nơi danh thắng đất Thăng Long. Anh Đông Hồ có lẽ v́ sợ cụ Đồ Nam nhọc mệt, vội vàng từ tạ bằng một câu sáo, hết sức sáo:

— Xin cám ơn ngài. Nếu ngài có bận có mệt th́ xin để chúng tôi đi với các anh em trẻ tuổi cũng được. Ngài cứ nghỉ nhà, chúng tôi đi đến đây thăm ngài và nếu có cần ǵ sẽ chạy đến xin nghe là được. Ngài khỏi bận đến, và chúng tôi ra đây cũng có nhiều nơi quen biết, không đến nỗi lạ lùng ǵ.

Cụ Đồ Nam đưa tay lên lắc và nói một cách mạnh bạo:

—  nói mà hay, thiên tải nhất th́ kia mà, hữu bằng viễn phương lai, th́ dẫu có mệt th́ cũng không được mệt và dẫu có bận công việc bao nhiêu nữa cũng phải vứt bỏ cả, chứ sao nói đến nhọc và bận?

 (''Gặp Tác Giả ''Quả Dưa Đỏ'' Cụ Đồ Nam Nguyễn Trọng Thuật'', các trang 440, 441)

Khi tiễn khách Hà Tiên trở về Nam, tại ga Hàng Cỏ, cụ Đồ Nam đă tặng một bài thơ dài, nhưng ở đây bút giả HTA xin trích mấy câu chót:

Gặp nhau đă thỏa ước ao,

Gần nhau ta tính thế nào cho hay.

Lầu văn chung sức dựng xây,

Ḷng thành sẵn đá, sẵn cây, sẵn nền.

Mấy lời gắn bó bao quên,

Bạn về, ta đứng ngóng trên non Nùng.

Cách viết của bà bớt uốn éo, bớt bay bướm để mạch cảm xúc len lỏi vào từng chữ viết, từng ḍng văn. Giao t́nh đôi bên  từ phía bên khách khi vào quyển tùy bút lúc nào cũng đẹp, cũng đáng để bên chủ, luôn cả bên độc giả trân quư và cất giữ trong kho tàng kỷ niệm của ḿnh. Nhà văn Lê Thanh, một kẻ ít nổi danh nhất, nhưng vẫn được tác giả quư mến lúc đưong sự sinh tiền, vẫn được bà khóc lóc, hoài niệm lúc nghe tin ông tạ thế ngoài đất Bắc. Và chàng Lê Thanh yểu mệnh kia dưới ng̣i bút bà là ''một văn nhân tầm thước, nhă nhặn, diêm dúa và đứng đắn. Đôi kính trắng học giả nổi trên khuôn mặt đẹp và hiền của một thư sinh thời cổ'' (trang 392) đă cho bà những kỷ niệm như sau:

Huống chi ngoài duyên văn tự, hăy c̣n những dấu vết nhạn hồng, những bức thư trắng tinh sạch sẽ thường viết bằng nuớc son tươi với nét nhỏ, mau, mà rơi như tơ rối đó hăy c̣n mới như những cánh hoa đào rơi trên mặt suối.

Mỗi khi viết đến chữ Mộng Tuyết và tên người nhận lănh trên phong b́, anh cố bắt chước theo chữ kư của Mộng Tuyết vẽ cảnh trăng non trên chữ Tuyết và dưới chữ Mộng vẽ một ngôi sao.

Anh đă báo tin cho Mộng Tuyết:

''Tôi đă đưa đi khắc cái chữ Mộng Tuyết có mặt ông trăng và một ngôi sao kỳ dị ấy, số tiền thuê là năm xu rưỡi, chị làm thế nào hoàn lại cho?''.

Và anh đ̣i nợ Mộng Tuyết:

''Có một diệu kế nhất là một ngày nào đó, đáng lẽ chị không định viết thư nhưng cũng đem viết, thế là trả xong món nợ đó''. (Thư ngày 3-9-1941). (''Tơ Duyên Dương Liễu'', trang399)

Vào thời buổi này, đọc những sách viết danh nhân trong các lănh vực chính trị, văn hóa, nghệ thuật, ai cũng t́m những đoạn gay cấn, éo le, khúc mắc... Đó cũng là những đoạn được tô điểm bằng thù nghịch, đ̣n phép, lọc lừa, súng đạn, ác mộng, tinh khí, để hâm sôi máu găng- tơ chảy trong huyết quản, để khích dục khiêu dâm, để đánh thức con ác quỷ lặn sâu cuối đáy thẳm của nội giới con người. Nhưng đọc những cuộc giao du trong văn giới dưới ng̣i bút của bà Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội, chúng ta chỉ thấy cuộc sống của họ như mặt hồ im sóng trải gương, chỉ thấy tâm tư họ nở hoa nhân ái, chỉ thấy giao t́nh giữa họ với nhau đẹp bảy sắc cầu vồng. Chúng ta có cảm tưởng mọi vận sự  dẫu nhám nhúa và gai góc đến đâu  trước khi được đưa vào văn chương, cũng được bà gọt cho trơn láng và đánh quang dầu cho bóng loáng như nền men và như mặt gương. Những bài viết như thế thiếu kích thích, nhưng bù lại chúng làm cho mỹ cảm người đọc thấm nhuần thêm cái chất tinh hoa thuần khiết của văn chương cổ điển.

Việc tặng quà cho nhau trở nên thi vị tuyệt vời. Đâu cần các món trang sức hay các món ngoạn hảo làm bằng  kim ngân châu báu đắc tiền, mà chỉ là những món vừa với túi tiền của các hạng trung lưu . Những món đó, qua góc cạnh nh́n ngắm đặc thù cùng tâm t́nh tha thiết của bà Mộng Tuyết cũng trở nên những món hiếm quư, không phải ở trong cuộc sống thường nhật của chúng ta mà ở trong cái thế giới văn chương gấm vóc của bà.

Đây là món quà tặng của Nguyễn Tuân vào thời tiền chiến:       

Tết Trung Thu năm ấy, tôi nhận được một gói quà vuông vức bọc giấy dày cẩn thận. Mở ra th́ là cái hộp gỗ đặt đóng riêng, trong có một hộp giấy đựng bốn cái bánh trung thu của hiệu cao lâu Đông Hưng Viên, có tiếng nhất Hà Nội lúc đó. Hộp bánh gởi bưu điện bằng xe lửa tốc hành vào Sài G̣n, rồi theo đường bộ về Hà Tiên mất mấy ngày đường nữa.

 Tuy vậy bánh vẫn thơm ngon, kèm theo hộp bánh một số báo Trung thu của Hà Nội Tân Văn có bài của anh. Cái hộp gỗ đẹp như hộp may của các cô nữ sinh. Bánh thập cẩm lâu ngày, tôi đem nướng lại. Cái lối bánh ''biscuit'' này làm bánh tăng thêm hương vị.

Bánh ngon là một chuyện mà nhớ đến công phu người gởi. Cái bàn tay chuyên để đóng triện son, để mở khóa va-li giang hồ ấy, lại làm được cái việc phong gói tẩn mẩn kia thực cũng lạ lùng. Tôi tự nghĩ hoài không hiểu tại sao mà ngày đó chúng tôi được anh ''cưng'' đến thế ?

(''Mưa DầmTháng Bảy'', các trang415, 416)

Hồi tiền chiến, quà tặng đôi bên qua lại như con thoi dệt lụa. Sau này, khi miền Nam Việt Nam lọt vào tay Miền Bắc th́ cuộc tặng quà lại nối tiếp. Hăy cùng đọc:

... Có người vào anh gởi tấm thiếp ''Xin gởi cho Bưởi Ổi''. Nhưng loại bưởi này th́ phải rằm tháng chạp trở lên mới có. Người ta phải để cho vừa đỏ chín  mới hái th́ nó mới có đủ mùi thơm. Múi từng tép trong mọng, vỏ bưởi vàng tươi và có mùi thơm ngọt của rượu Cointreaux. Mới nhận được bưởi lần đầu anh thích cái dáng xinh xắn và để vài trái là nghe ngát hương khắp pḥng. Thấy anh thích, năm nào tôi cũng mua sẵn để làm quà Tết. Có một năm Hoài Vũ bảo tôi mua, nếu có ai ra Hà Nội mà gởi được sẽ đem về gởi hộ. Năm đó không gởi cho ai được mà tôi lấy làm mừng, v́ đă mua lầm thứ bưởi lai không thuần giống.

Một bận anh Huy Cận ghé vào dịp Tết, mừng quá, tôi xin gởi. Anh Cận nghe gởi buởi th́ bảo một trái mà thôi, mà có thể tôi sẽ lột vỏ mà chỉ đem ruột về thôi. Tôi gởi anh Tuân một và anh Xuân Diệu một, và xin đừng bỏ vỏ v́ vỏ là phần chánh. Khi ăn bưởi rồi, treo vỏ ở đâu đó, nó c̣n phảng phất mùi hương. Anh Huy Cận lại bảo: ''Nếu thế th́ tôi bỏ lại ruột mà chỉ mang vỏ ra cũng được chứ!''.

(''Mưa Dầm Tháng Bảy'',  các trang 423, 424)     

Qua các món quà xoàng xĩnh này, chúng ta c̣n biết thêm thú thanh thưởng tao nhă của các nghệ sĩ  tiền phong lăo thành qua những cái tầm thường, vặt vănh, tủn mủn. Nhưng mà nhờ cặp mắt nghệ sĩ, nhờ niềm cảm nhận uu việt, họ đă t́m gặp chất thơ chất mộng của món quà, ngoài t́nh bằng hữu thắm đượm thiết tha.

Đối với Nguyễn Bính, tác giả đem tấm ḷng âu yếm, thương yêu và đùm bọc cho ông Nguyễn, như người chị hiền đối với chú em nhỏ. Khi ông Nguyễn vào Hà Tiên ở chơi nhà ông Đông Hồ th́ nhà thơ đất Hà Tiên kia bảo bà Mộng Tuyết may bộ áo bằng lụa Hà Đông cho ông Nguyễn mặc, nhường căn gác xép (Nam Phong Tiểu Các) cho ông Nguyễn cư ngụ dài hạn. Xin cùng đọc hai đoạn văn trong bài ''Để Nhớ Nguyễn Bính Những Ngày Ghé Bến Hà Tiên'':

Bính thường quấn quít bên tôi như một chú em ngoan ngoăn. Quăng này, tôi c̣n đang tang cha, luôn luôn mặc chiếc áo dài ai trắng, thứ vải thô xấu, may dối dối theo tang phục. Bính thường ngắm tôi và nói: ''Người con gái Việt Nam, mặc áo tang sô gai có một vẻ đẹp năo nùng, khả ái như một bài thơ buồn''. Có những lúc tôi bận suy nghĩ một điều ǵ, Bính nói chuyện, tôi lơ đảng, không trả lời, th́  Bính gắt gỏng: ''Trông chị nghiêm như một bà Hoàng, ghét quá!''.

Cứ buổi sáng ăn xong ở nhà riêng của  anh Đông Hồ ở cạnh Hồ Đông, th́ Bính ra tiệm với tôi. Tôi ra chợ trước tiệm, mua thêm bánh ngọt cho Bính uống trà. Bính thích hơn hết là thứ bánh qui. Bính nói: ''Bánh chi mà đẹp như chiếc ấn son''.

Bính ra cửa hàng. Để trông cửa hàng cho chị. Để xem chị may áo. Để đi gửi thư cho chị.

Mỗi khi tôi viết thư xong, thế nào Bính cũng dành đi bỏ thùng cho đươc. Bính học thuộc các địa chỉ trên phong b́. Có bận nh́n địa chỉ một người, Bính làm vẻ hờn dỗi: ''Sao mà chị viết nhiều cho người này lắm thế, làm cho Bính phát ghen''.

Bính thường hay kể chuyện giang hồ, kể chuyện gia đ́nh. Kể chuyện ''Chị Trúc'', người chị tinh thần đă an ủi Bính trong những khi Bính chán nản. Bính hứa xem tôi như một người chị tinh thần thứ hai của Bính. (trang 405)

Mỗi đêm, dưới ánh hồng lạp, Bính viết bốn năm trang thơ lục bát. Thời kỳ bấy giờ không dầu lửa. Ở tỉnh nhỏ, ai cũng đốt bằng dầu dừa, dầu cá. Duy với Bính th́ anh Đông Hồ phải dành trên Nam Phong Tiểu Các cho Bính những ngọn hồng lạp để đêm hôm Bính làm thơ. Mỗi sáng ra, Bính đem đọc cho chúng tôi nghe, bàn lại, cùng thưởng thức.

Giữa lúc đó, vào tiết Đoan Ngọ, theo tục lệ ở Hà Tiên, tôi nấu nước lá thạch xương bồ để tắm gội. Bính thích ba chữ ''thạch xương bồ'', và lấy ba chữ đó đặt tên cho tác phẩm đang khởi thảo của ḿnh.

Trong lúc sáng tác, Bính thường bảo viết truyện thơ, tả cảnh tả t́nh không khó. Tự sự mới thiệt khó khăn. Bính nói: ''Ḿnh có làm rồi mới biết văn tự bằng lục bát của Nguyễn Du quả là tài t́nh. Người sau đố mà theo cho kịp''.

Bính sáng tác truyện ''Thạch Xương Bồ'' được gần hai ba trăm trang. Tới lúc rời đi, th́ chuyện mới chỉ xong được một phần. Nếu Bính c̣n nằm ở Hà Tiên ít lâu nữa th́ chắc chắn đă hoàn tất được một quyển truyện diễn ca khá độc đáo. Bởi chúng tôi thấy khi đó Nguyễn Bính viết rất hào hứng, rất dồi dào. Bính viết lục bát nhanh như văn xuôi.

Anh Đông Hồ và tôi tiếc v́ tác phẩm chưa hoàn thành mà Bính bỏ đi, bỏ dở dang thi uổng. Chúng tôi cố lưu Bính ở lại thêm một thời gian nữa mà Bính nhất quyết ra đi. Bịnh giang hồ đă nổi dậy lên trong ḷng người nghệ sĩ. (các trang 407, 408)

Văn chương bà Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội uyển chuyển, bay bướm, tuy hơi lập dị đôi chút , nhưng thuần túy hiền lành, chứ không giả vờ ngoan ngùy, chứ không giả bộ đôn hậu. T́nh bằng hữu của bà đối với các văn nhân thi sĩ đương thời cùng bà sao mà ngọt ngào, âu yếm và sâu sắc. Bà viết văn bằng một tấm ḷng trước nhất, sau đó mới trang điểm thêm hoa ḥe hoa sói. Do đó mà nhiều độc giả cho rằng đó là những màu mè che đậy cái dối trá, cái hư ngụy. Thật sự, ở ngoài cuộc đời bà hiền lành hay hỗn dữ ra sao, chân thật hay dối láo cách nào, chúng ta vẫn phải tin rằng ở một nhà nghệ sĩ nói chung, ở một nhà văn nói riêng, luôn có hai con người đối nghịch: một con người trí trá giả dối và một con người chân thật thành khẩn. Tùy theo hoàn cảnh, tùy theo môi trường sinh hoạt mà một trong hai loại người đó hiển lộ. Nhưng trong văn chương, nhà nghệ sĩ vào thời đại xa xưa có thể không cho con người xấu của ḿnh xuất hiện, dù trong căn tính của họ, cái xấu đó bành trướng và lấn át con người tốt của họ đi. Họ hèn nhát che đậy cái nhược điểm của ḿnh, có phải thế không? Không đâu. Khi trang trải con nguời tốt của ḿnh lên văn chương, nhà nghệ sĩ trong giây phút sáng tác, sống hoàn toàn bằng con người đó. Họ thành tâm muốn phơi bày cho người đọc cái hoài băo, cái ngưỡng vọng của ḿnh đối với cái Thiện để cho Chân Thiện Mỹ cùng soi gương gặp bóng lẫn nhau, nâng cao giá trị của văn chương nghệ thuật thêm lên. Họ muốn hướng thiện, cái Thiện mà họ ít khi có dịp để họ đem ra xử dụng với thế nhân trong cuộc sống thường nhật, nhưng không bao giờ họ hoàn toàn quên nó.

Về thơ, ngay từ thời tiền chiến, bà Mộng Tuyết đă biết xử dụng ngôn ngữ dù đơn giản nhưng rất thơ, rất đượm đà tính chất sáng tạo. Tuy nhiên, bà dùng một vài h́nh ảnh, một vài điển tích và cái khí hậu thơ Đường Tống trong văn chương Trung Hoa. Cho nên đôi khi nó đứng ngỡ ngàng bên lề cảm nhận của độc giả và xa cách niềm xúc động của họ một khoảng khá xa. Chẳng hạn bài ''Đợi Gió'' bà dùng để trang tặng nữ sĩ Anh Thơ:

Gởi Anh Thơ

Mấy vần thơ đợi gió,

Ḷng xuân thắm đỏ,

Ḷng thuyền nho nhỏ,

Đợi nước triều lên...

Triều đă lên rồi trăng cũng lên;

Trăng lên rồi đó. Gió chưa lên.

 

Mặt nước hồ nằm say giấc mơ,

Ḷng gương không vướng gợn mây mờ,

Khói chiều đứng thẳng trên quan tái,

Hương tỏa hồn hoa ướp cỏ bờ.

         

Cánh gấm buồm ai buông trắng tinh,

Phơi nền trinh bạch giữa trời xanh,

Cắm sào bến cũ buồn lơ lửng,

Chở mộng muôn phương, mộng viễn tŕnh.

 

Trời Bắc bên kia đương ngóng trông,

Sông Thương, sông Nhuệ mở đôi ḷng.          

Xuôi chèo Nhâm Tuất theo trăng lạnh,

Mở yến Đào Viên chuốc chén nồng.

         

Gió gác Đằng Vương chẳng thổi đưa,

Cho thuyền đợi gió đến bao giờ,

Cho buồm Vương Bột trong giây phút,

Ngh́n dậm bay sang bến đợi chờ.

         

Khi xuân thắm đượm khắp nơi nơi,

Vạn vật đem xuân trả lại đời,

Mà chẳng trả cho thuyền tí gió,

Để thuyền thương nhớ những phương trời.

Đây là loại thơ tân cổ điển (néo-classique) mà đồng thời  hoặc sau bà Mộng Tuyết vài năm, có các nhà thơ như Đông Hồ, Jean Leiba và Ngân Giang hà hơi tiếp sức để khơi lên một cơn gió giao mùa xôn xao làm cho khu vuờn thi ca nước nhà nở những bông hoa đài các trong hoa phổ nước nhà. Sau khi đất nước bị phân đôi bởi con sông Bến Hải, ở Miền Nam Việt Nam có Hư Chu, Bùi Khánh Đản cùng các nữ sĩ của Thi Đoàn Quỳnh Dao nối hơi chạy tiếp sức với vợ chồng bà để trận gió kia đưa lại những  h́nh xa bóng lạ từ trong tranh, trong những quyển cảo thơm của thi ca nước Tàu. Xin đọc bài ''Nguyên Tiêu Tương Tư''. Bài này không có mặt trong quyển tùy bút ''Dưới Mái Trăng Non''.    

Gương ngọc thiên kim giá đổi vừa,

Khuôn duyên tṛn một quả đèn dưa

Ngồi đây mà nhớ trang phương đó,

Đọc trắng đêm rằm chuyện Ái Cơ.

Nhưng ngẫm lại, khung cảnh và khí hậu trong truyện dài bằng thơ  ''Đoạn Trường Tân Thanh'' của Nguyễn Du hay  truờng ca ''Chinh Phụ Ngâm'' của Đặng Trần Côn qua nghệ thuật phiên dịch của Đoàn thị Điểm, trường ca''Cung Oán Ngâm Khúc'' của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, trường ca''Ai Tự Văn'' của Ngọc Hân Công Chúa, tất cả có tính chất Việt Nam chút nào đâu? Đọc những áng thi ca kia, chúng ta như lạc vào khung cảnh xa xưa của thời quân chủ nước Tàu.

 C̣n thơ của nhóm thân hữu vợ chồng ông Đông Hồ như Bùi Khánh Đản, Hư Chu, Cao Tiêu, Đan Quế, Thanh Vân, Phương Hồ và các nữ sĩ trong Thi Đoàn Quỳnh Dao th́ sao?  Có điều rơ rệt nhất là quư bà Quỳ Hương, Uyển Hương, Thu Nga, Vân Nương, Như Hiên, Đinh Việt Liên, Phượng Tần... đôi khi có thêm Mộng Tuyết và Tuệ Nga trong thi đoàn này  khi làm thơ thất ngôn bát cú th́ như chỉ có một người làm ra: ngôn từ, ngữ pháp, khí hậu, ư tưởng trong thơ của họ y chang như nhau. Thơ của các bà lẫn thơ các ông này là loại thơ được chăm sóc từng câu, lau chùi và giồi mài từng chữ, thêu thùa những bông hoa ngữ pháp diêm dúa để trở thành toàn bích về h́nh thức. Nhưng có nhiều trường hợp, họ gặp hiệu quả trái ngược: cái ǵ khéo qua chẳng những không có cái duyên đậm đà mà lại c̣n thiếu truyền cảm, thiếu tâm huyết và linh hồn. Hàm răng giả đều đặn và bóng lộn hơn hàm răng thật, nhưng khi gắn vào miệng thiếu răng của một trung niên mỹ phụ nào đó, nó  làm cho nụ cười của đương sự nhăn nhở và không được thuận nhăn. Thơ tân cổ điển của những nhà thơ mà tôi vừa kể chẳng những lạc loài giữa  thi ca lăng mạn, thơ hiện thực, thơ trừu tượng, thơ siêu thực bên kia chân trời Âu Châu tuần tự nhập cảng qua Việt Nam mà c̣n bị thơ thấm nhuần tinh túy Việt Nam lấn át nữa.

Trước khi làm thơ tân cổ điển trên đất nước tự do của Miền Nam Việt Nam sau Hiệp Định Genève, bà Mộng Tuyết làm thơ lăng mạn v́ vào thập niên 30 của thế kỷ 20, đó là cao trào loại thơ này:

Một nàng tiên nữ đẹp như em,

Là một bài thơ, một quả tim,

Là áng hồng non, làn gió lướt,

Là hoa xuân thắm, bóng trăng đêm.

         

Thi sĩ, em ơi, đó lại là

Người đi theo dơi bóng tiên nga,

Ước mơ, yêu thích và ca ngợi,

Những cái mà em đă có thừa.

 (''Em Trả Thù'', trang 179)

Trước khi cuộc chiến tranh Đông Dương bùng nổ, cảm thấy giữa cơn biến chuyển của lịch sử mà ḿnh không đáp lời sông núi th́... chậm tiến quá. Cho nên bà Mộng Tuyết làm thơ hiện thực qua ''Muời Khúc Đoạn Trường'' dễ làm rung động cho những ai có ḷng xót xa với trận đói ngoài Bắc Việt vào năm Ất Dậu (1945). Xin đọc hai đoạn đầu của bài thứ 6 ''Hấp Hối Đợi Chờ''.

Tai mới nghe kia ḷng thổn thức,

Xác người xe nhặt buổi ban mai,      

C̣n bao nhiêu nữa đang quằn quại,

Hấp hối chờ cơm hơi mỏn hơi?

Gốc rạ, cọng rơm vơ mót sạch,

Giây khoai, củ chuối: món caolương,

Vỏ cây, giây lá không c̣n nữa,

Đất trụi, đồng trơ nuốt thảm thương.

(trang 340)

Thơ hiện thực ở trên đây thấm nhuần chất sống thực. Cái màu mè riêu cua vắng bóng. Tuy nhiên cái sống thực ở đây không có chất sáng tạo nên nó thổi bay tan tác chất thơ trong ngôn ngữ dành riêng cho thi ca. Tuy nhiên bài thơ có dáng dấp mới hơn thơ tân cổ điển, nhưng đứng bên thơ tân cổ điển, nó chỉ là cô thôn nữ quần bô áo vải đứng bên cô đào hát ăn mặc cổ trang để đóng tuồng Tàu. Cho nên bà xoay qua thơ chiến đấu. Đó là một loại thơ hiện thực có nhiều ngữ pháp và ngôn từ bừng bừng tráng khí làm hơi thơ lẫn vóc dáng thơ mới mẻ hơn:

Kết chặt hàng đi dưới bóng cờ,

Trời Nam giành lại nước non xưa,

Tưng bừng vận mới hồn trai trẻ,

Một khối ngh́n thu vững cơi bờ.

                 

Lửa đỏ ấm vui ḷng cố quốc,

Nắng vàng hanh rạng cảnh biên thùy,

Gió lộng xôn xao lá quốc kỳ.

(''Dưới Cờ'', trang 304)

Loại thơ này trong thời kỳ Nam Bộ Kháng Chiến có Vũ Anh Khanh, Thẩm Thệ Hà, TrúcKhanh, Ái Lan... tiếp hơi. Sau đó, vào hai chính thể Cộng Ḥa ở miền Nam Việt Nam, có Hoàng Phong Linh hoặc Phạm Lê Phan ( qua thi tập ''Chiến Ca'') nối gót. Ra hải ngoại đă có Bắc Phong, Vũ Kiện, Lê Khắc Anh Hào và nữ sĩ Ngô Minh Hằng cố ǵn giữ tàn hơi loại thơ này,  không để cho vang bóng bạc nhược của nó tắt lịm.

Truớc năm1975, Uyên Thao đă gạt phắt Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội ra khỏi ''Những Nhà Văn Nữ Việt Nam''; có lẽ v́ ông Thao không chịu được cái cổ kính, cái trang đài trong các bài tùy bút của bà. Ra hải ngoại, nhà văn Vơ Phiến bỏ rơi bà khi hoàn thành bộ ''Văn Học Miền Nam''. Có lẽ, ông Vơ không thích cái vẻ mệnh phụ  kiểu cách trong văn chương của bà chăng? Cách đăi lọc của hai ông danh sĩ này kỹ quá nên đẩy văn chương bà lùi sâu vào bóng tối đặc sệt dưới đáy vực thời gian mà quên cái công tŕnh trước tác rất tận tụy của bà gần ba phần tư thế kỷ.

Chúng ta cũng đừng quên bà MộngTuyết Thất Tiểu Muội là  phụ nữ  đầu tiên viết văn xuôi có nghệ thuật đă  xuất hiện trên văn đàn nữ giới  rất quạnh quẽ đ́u hiu vào thập niên 30 của thế kỷ 20 vừa qua. Song song bà, có hai bà Tú Hoa và Đoàn Tâm Đan, nhưng bà Đoàn Tâm Đan không đủ tài năng và nghị lực để xuất hiện lâu trên văn đàn, c̣n bà Tú Hoa dù có quyển tiểu thuyết ''Bóng Mơ''  đoạt giải Tự Lực Văn Đoàn đi nữa, nhưng về sau lại  bà  Tú Hoa xoay qua viết tiểu thuyết diễm t́nh, mở đường cho hai bà Lan Phương và Tùng Long làm mưa làm gió trong giới độc giả b́nh dân ở Miền Nam Việt Nam . Sau bà Mộng Tuyết ít lâu, có Thụy An và Mộng Sơn, rồi kế đó là Nguyễn thị Vinh và Linh Bảo. Công khai phá của bà đâu phải nhỏ!

Bài giới thiệu này không nhằm mục đích đ̣i các nhà biên khảo và các nhà phê b́nh trả lại công b́nh cho bà nữ sĩ của đất Hà Tiên với hồ thơ núi mộng kia. Nhưng bút giả hy vọng nó sẽ rọi sáng đâu đó cái tài viết dă sử tiểu thuyết của bà (qua quyển ''Nàng Ái Cơ Trong Chậu Úp'') không thua tài sáng tác Nguyễn Triệu Luật (qua quyển ''Bà Chúa Chè''). C̣n về nghệ thuật viết tùy bút, bà đứng bên cạnh Nguyễn Tuân và Xuân Diệu tuy có thua kém vài phân, nhưng như trường hợp hoa mai đứng trên tuyết, trên băng. Sắc hoa  không thể đọ sắc trắng trong của băng, của tuyết , nhưng  hoa vẫn c̣n một chút hương đượm phảng phất mơ hồ.

Văn chương trải qua nhiều trào lưu, nhiều trường phái. Bà Mộng Tuyết xuất thân từ ḷ Nam Phong Tạp Chí nên bút pháp bà vẫn vướng vít vài nét cổ kính, câu văn bà đôi lúc không tránh khỏi thói biền ngẫu réo rắt nhàm tai. Cho nên văn thơ của bà có thể đă không c̣n ai hưởng ứng, chiêm ngưỡng nữa. Không một nhà văn nữ nào chịu nối gót theo bà. Nhưng đọc văn chương của bà, chúng ta hăy tự đặt ḿnh vào thuở tiền chiến, vào thời kỳ mà Hoàng Ngọc Phách viết cuốn ''Tố Tâm', vào thời kỳ Nhất Linh viết quyển''Nho Phong'', và vào thời kỳ mà độc giả mê say hai quyển''Tuyết Hồng Lệ Sử'' và ''Ngọc Lê Hồn'' của Từ Trẩm Á (Trung Hoa) được dịch ra Việt ngữ. Đó là thời kỳ văn chương nước nhà chưa có văn phạm (grammaire) dựa trên văn phạm Tây phương để chỉnh đốn câu văn sao cho trong trẻo, sáng sủa, đơn giản, đôn hậu. Cho nên bút pháp của văn nghệ sĩ tiền phong trong đó có bà Mộng Tuyết không đạt đuợc gọn gàng truyền cảm nên không đi sâu vào khiếu thưởng ngoạn và tâm hồn người đọc. Bù lại, văn chương của bà phong phú h́nh ảnh và nườm nượp cái thú tiêu khiển phong lưu tao nhă của cổ nhân.

Và hăy dùng niềm cảm thông chia sẻ để mở những cánh cửa đă từng đóng chặt tâm hồn và thú thưởng ngoạn của chúng ta. Có được như thế, phong vị dịu dàng của văn chương bà Mộng Tuyết tràn vào nội giới chúng ta như ánh nắng tươi non hoặc ánh trăng sáng mát tràn vào căn buồng u tối.          

Náo Nức Hội Trăng Rằm

Chương Hai

B́nh Nguyên Lộc

Tổng Quan Văn Chương  Vùng Đất Đồng Nai

Đất đai man rợ, rừng rú  hoang vu càng làm cho những cây bút  văn chương thẽm khởi hứng. Và từ đó, những tác phẩm viết về quê hương đất nước của họ bỗng sáng lên cảm hứng kỳ diệu bất ngờ, khả năng sáng tác của họ thêm sắc thái lộng lẫy tinh khôi. Vào thời Phục Hưng, dưới triều đại Đệ Nhị Đế Quốc của Hoàng đế Nă-phá-luân Đệ Tam, nữ sĩ George Sand là ngôi tinh đẩu rực rỡ trong văn giới qua các cuốn tiểu thuyết đồng quê như  ''La Petite Fadette'', ''La Mare Au Diable'', ''François Le Champi''... Tuy nhiên quê hương Nohant thuộc vùng Perry của nữ sĩ chỉ là một vùng  quê đầy huyền thoại thần bí và truyền kỳ  ẩn mật mà không phải là vùng đất mới khai phá trước khi bà mở mắt chào đời. Nhưng vùng Cà Mau mà Sơn Nam đă có một thời gian cư ngụ, vùng Tân Uyên Đất Bái là nơi sinh quán của B́nh Nguyên Lộc trái lại có nhiều hoang địa, chưa có gót chân dân khai phá đặt đến. Những nơi đó dĩ nhiên có nhiều cái huyền bí thật quyến rũ, nhiều nếp sống lọt xa tầm ánh sáng văn minh. Chúng đem lại biết bao vận sự kỳ thú cho hai nhà danh sĩ đất nước Nam Kỳ kia, để gây cho họ sự nghiệp văn chương đồ sộ nguy nga.

Văn chương của anh Sơn Nam lẫn của anh B́nh Nguyên Lộc hào hứng tuyệt vời, vạm vỡ sức sống của tiền nhân trong cuộc khai hoang lập ấp và bừng bừng khí phách và anh linh của dân tộc thời xa xưa. Hai anh đẩy lui nữ sĩ Georce Sand vào lănh vực nhỏ trong bóng trăng thơ mộng và ánh nắng trữ t́nh của tiểu thuyết tâm lư ái t́nh dùng đất quê làm bối cảnh. C̣n hai nhà văn đồng bào đồng chủng của chúng ta trái lại biến ng̣i bút ḿnh thành lưỡi đao thiêng hay thanh kiếm thần để vạch cho độc giả đô thị một chân trời tráng lệ bao la trải dài tới miền Cực Nam của đất nước.

Văn chương biểu dương bản sắc thuần túy của B́nh Nguyên Lộc là những truyện ngắn được đưa vào các tập truyện ''Nhốt Gió'', ''Kư Thác'', ''Mưa Thu Nhớ Tằm'', ''Cuống Rún Chưa Ĺa''... Đó là những tác phẩm chắt lọc cái tinh hoa quư giá của thần trí sáng tạo của anh. Văn chương trong đó  nồng nàn t́nh yêu quê cha đất mẹ. Đôi khi cái nồng nàn đó lên tới mức độ sôi nổi nên anh không làm chủ được ng̣i bút của ḿnh. Do đó văn chương ấy trở nên bộc tuệch, trống trải, cường điệu, bộc lộ cá tính Nam Kỳ. Cái bộc lộ ấy chưa chắc là cái khuyết điểm hay nhược điểm ǵ. Trái lại, nó làm cho sự diễn đạt t́nh ư của anh thêm minh bạch, thêm tươi rói và cực kỳ quyến rũ. Anh  để mặc cho tâm sự  ḿnh phơi bày hở hang, trần truồng, không ngụy trang, không úp mở. Độc giả đa số  không cần ở văn chương anh cái mánh khóe tiềm ẩn hay cái  phong niêm tinh xảo để làm cho sự diễn tả được hàm súc và ư nhị. Họ chỉ cần tấm ḷng tươi son bền sắt của anh đối với quê hương của anh. Có như thế, họ mới vùi dưới lớp tro tàn của thời gian cái t́nh cảm nồng cháy và đượm đà của họ như mẻ than ngún lửa hồng không bao giờ tắt đối với nơi chôn nhau cắt rún của họ. Tấm ḷng anh cũng có thể tượng trưng qua những loại cổ thụ chẳng hạn như cây đa, cây gỏ, cây bồ đề, cây thùy dương, cây hoàng lan cắm rể sâu xuống mảnh đất để giao tiếp với  lớp nước trong mát bất tuyệt để cành lá chúng măi măi tươi xanh dù gặp cơn nắng lũ đi nữa. Ơi là mảnh đất  đă từng chứng kiến cái thời kỳ chúng chỉ là mầm cây nhỏ chưa bén đất!

Truyện ngắn viết về t́nh yêu đất trong sự nghiệp  văn chương và trong cuộc bút tŕnh của B́nh Nguyên Lộc nổi bật lên, như trên nền trời hồng ánh b́nh minh in rơ nét rặng núi duyên dáng với sắc thúy màu lam êm dịu.

Đây là tâm sự người thiếu phụ lấy chồng Pháp về thăm quê hương vào dịp cận Tết trong truyện ngắn ''Chiêu Hồn Nước'' trong tập truyện ''Cuống Rún Chưa ĺa'' do Văn Nghệ

(California, Hoa Kỳ) tái bản. Về Sài G̣n sau bao năm ĺa quê theo chồng dị chủng, nàng chẳng c̣n người thân thuộc nào  nên nàng mướn một căn pḥng ở khách sạn để dọn bàn thờ và tranh ảnh đón xuân. Tuy nhiên, vào tối hăm chín tháng chạp, nàng gặp một nhà thơ để có dịp phơi bày nỗi niềm của ḿnh:

... Năm đó em học ban Trung học Pháp Việt ở Sài G̣n. nhơn kỳ nghỉ hè, em về quê, một làng hẻo lánh kia, rồi bị một nhóm quân nhân Pháp hiếp.

Sợ gia đ́nh em thưa kiện, chúng nó phao vu em rồi bắt em đi. Ra tỉnh bị giam một thời gian th́ em được thả, nhưng có c̣n ǵ nữa đâu mà quay về. Vừa lúc ấy th́ một sĩ quan Pháp phải ḷng em và bao em.

Em bằng ḷng theo nó, v́ cũng chẳng thiết làm lại cuộc đời, và một năm sau, đạo quân viễn chinh rt lui, em theo y về bên ấy, và được y cưới luôn, rồi em xin vào Pháp tịch.

Hai năm đầu, em vui với được vài cảnh lạ, nhưng khi hay tin cha mẹ em qua đời, em bỗng chạnh nhớ quê nhà.

Ban đầu chỉ là nỗi nhớ nhung nhè nhẹ thôi. Nhưng càng ngày ḷng sầu xứ càng sâu đậm, em không chịu nổi nữa nên vào cuối năm 1958 ấy, em có dư chút ít, xin thông hành  với tư cách du khách về đây, cũng là cuối tháng chạp như năm nay.

Không thể nào mà anh tưởng tượng nổi sự thèm khát quê hương của một kẻ vĩnh viễn không hy vọng trở về như em. Thèm như là thèm món cá nướng chấm mắm nẹm, thèm hương bưởi, thèm tiếng chuông chùa ngân nga vào buổi hoàng hôn, thèm cảnh cấy  mạ vào đầu mùa lúa. Thèm chết đi đuợc là vào lúc gần Tết, tức là khoảng đầu năm dương lịch. Nhớ Tết như nhớ nhà, nhớ nước, bởi v́ Tết là sum họp gia đ́nh.

(''Chiêu Hồn Nước'', trang 48)

T́nh yêu quê hương của B́nh Nguyên Lộc càng rơ rệt hơn, như vầng trăng rằm sáng nguy nga treo trên nền trời đêm màu thúy lam tối đậm. Xin đọc tâm sự một bà già nhà quê v́ ly loạn nên phải ra sinh sống ở tỉnh thành, phải xài bếp dầu để nấu nướng. Đây là đoạn trích trong cuộc mạn đàm giữa bà cùng con gái, chang rể và con bé cháu ngoại của bà :

...rồi má tôi chậm răi tuyên truyền cho tôi nghe:

— Nè, củi mỗi thứ mỗi khác đó nghe. Cùi bắp phơi khô để làm củi, th́ ngọn lửa xanh như lửa đèn cồn. Vỏ măng cụt phơi khô, chụm nó nổ lách tách y như than Cà mau. Củi nhánh sao chết rụng trên vệ đường, nó cháy rồi tỏa ra cái mùi thời tiết gió bấc về. C̣n mầy biết củi ǵ thơm ngát hay không? Đó là dăm tiện.     

— Dâm tiện là ǵ má? Chồng tôi hỏi.

— Muốn làm những vật dụng tṛn như kiểu chơn bàn, chơn ghế kia chẳng hạn, thợ tiện họ đưa cây vào máy tiện, cây nó mới tṛn trịa đều đặn được, chớ thợ mộc tài nào mà trau giồi cho nó tṛn. Các món tiện, luôn luôn là vật dụng quí mến nên được làm bằng thứ gỗ quí: trắc, cẩm lai, huỳnh đàn, cho nên dăm tiện nó thơm dữ lắm, thơm cái mùi hỗn hợp đủ loại gỗ mắc tiền. Loa củi đă thơm mà h́nh thù nó cũng hay lắm. Nó cháy lên, ḿnh thấy được, chớ vô h́nh như loa đèn dầu. Nh́n ngọn loa cũng ngộ, nh́n màu loa c̣n ngộ hơn...

(''Loa Tết'',  các trang 66, 67)

Về bút pháp, B́nh Nguyên Lộc dùng phấn nội đồng b́nh đạm để làm món trang sức. C̣n về ngôn ngữ, anh áp dụng ngôn ngữ  vùng  miền Nam Kỳ Lục Tỉnh tối đa. Thỉnh thoảng, anh đệm nhưng chữ uyên bác nhưng thông dụng vào ngôn ngữ mộc mạc căn bản dành cho khẩu khí và ngôn ngữ của thị dân, c̣n thứ ngôn ngữ thuần túy quê rít quê rang th́ dành cho thôn dân. Trong khi đó, Lê Xuyên gán vào miệng cho các nhân vật đủ mọi lứa tuổi (nam phụ lăo ấu), đủ mọi tánh nết (dữ, hiền, ôn nhu,  kiêu mạn, lẳng lơ...), hoặc đủ thành phần trong xă hội (hạng lương gia, hạng dân tứ xứ, hạng trưởng giả, hạng đàng điếm) cái ngôn ngữ tràn đ́a ngữ pháp, thổ âm, tiếng lóng đặc biệt Nam Kỳ. Cả hai trái hẳn cách sáng tạo ngôn ngữ của Nhất Hạnh: Đức Phật hay một vị Hiền Thánh Tăng nào hoặc một đạo sư nào, một bậc tể quan hay một kẻ lê dân  nào... một khi chui vào quyển ''Đường Xưa Mây Trắng'' của đương sự là họ trổi lời ỏn ẻn của nàng sủng phi dùng để nhơng nhẽo với đấng quân vương. Cái ông Thiền sư này không chịu nhập vào vai tṛ qua cách ăn nói. Đương sự không bao giờ thoát khỏi cái lưới làm dáng làm duyên trong khi viết đối thoại trong văn chương.    

Ở bài viết về nhà văn B́nh Nguyên Lộc cho quyển ''Náo Nức Hội Trăng Rằm'' này tôi xin trích bài ''Tổng Quan Về Sự Nghiệp Văn Chương Của B́nh Nguyên Lộc'' của tôi đă đăng trên nguyệt san Văn Học số 18 (tháng 7 năm 1987) và dùng cái tựa: ''B́nh Nguyên Lộc, Tổng Quan Văn Chương Vùng Đất Đồng Nai'' cho toàn bài. Tuy nhiên tôi nhuận sắc và gia giảm mắm muối vào một vài chỗ theo nhu cầu suy tư và cảm  nghĩ hiện thời của tôi.

*   *   *

Nhà văn B́nh Nguyên Lộc chết vào ngày 7-3-1987, măi một tuần sau Nguyễn Hữu Nghĩa ở Gia-nă-đại và chị Vi Khuê cùng anh Cho Bá Anh ở Hoa-thịnh-đốn mới cho tôi hay. Tôi thành thật tiếc thương anh cũng như tôi giận cho cái số phận đen đủi của ḿnh. Tôi muốn hỏi anh về tin tức của các nhà thơ gốc người Nam đă từng viết văn làm báo với anh, hiện c̣n kẹt a quê nhà như các anh Dương Tro La (nhà văn), Trương Đạm Thủy (nhà văn), Hà Liên Tử (nhà thơ), Anh Tuyến (nhà thơ), Anh Việt Thanh (nhà thơ). Những nhà văn, nhà thơ đó vào thập niên 50, tôi đă từng mến mộ, dù văn tài, thi tài của họ chưa đủ sức thoát ra khỏi sự thờ ơ của độc giả để đằng vân vào văn đàn, thi đàn. Trên Văn Học số 15 (tháng 4/1987); a truyện ngắn ''Chiêu Hồn Nước''), B́nh Nguyên Lộc có trích vài đoạn thơ của Hà Liên To, có lẽ thơ của Hà tiên sinh không hợp thời, không hợp sa thích với khách yêu thơ nữa, nhưng đó là tiếng vọng thời mới lớn của tôi, vào năm 1952, 1953 th́ phải.  Chưa kịp hỏi th́ anh Lộc đă từ trần!

Tôi đọc văn của B́nh Nguyên Lộc từ năm 1948, khi tôi vào  ngưỡng cửa trung học tỉnh Vĩnh Long (trường Collège de Vinh Long, dạy chương tŕnh Pháp). Rồi vào năm 1956, tôi đọc một vài truyện ngắn của anh trên tạp san Văn Hóa Ngày Nay do Nhất Linh chủ trương như ''Bàn Tay Sáu Ngón'', ''Hồn Ma Cũ''...

Giữa lúc tôi mê xem truyện của bà Tùng Long, bà Tú Hoa, Dương Hà, Ngọc Sơn, Thanh Thủy, Trọng Nguyên, Nguyễn Ngọc Mẫn th́ truyện ngắn của B́nh Nguyên Lộc cho tôi một vài ư niệm mới: thế nào là một tác phẩm nghệ thuật? Người Nam Kỳ thua đó viết được truyện dài, truyện ngắn, nhưng chưa hề biết viết văn, họ chỉ biêt kể chuyện.  Trừ B́nh Nguyên Lộc, chỉ có Phi Vân là có thể viết truyện ngắn có tính chất nghệ thuật mà thôi:  đó là tập truyện ''Đồng Quê''. Sau ''Đồng Quê'', Phi Vân viết thêm vài truyện dài như ''Cô Gái Quê'', ''T́nh Quê'' lại... hỏng. Đó chỉ là những cuốn tiểu thuyết dùng để giải trí mà thôi.

Cũng thế, B́nh Nguyên Lộc rất thành công về truyện ngắn hơn là truyện dài. Chính ở truyện ngắn, anh có thể biểu duơng văn tài của anh. Chỉ có truyện ngắn mới tạo cho anh một chỗ đứng vững chắc và sáng sủa trên văn đàn. Chính nhờ âm vang và ảnh hưang tốt đẹp của tập truyện ''Nhốt Gió'', ở vài truyện ngắn đăng trên Văn Hóa Ngày Nay, độc giả mới ưu ái anh, sẵn sàng đón tiếp nồng nhiệt quyển truyện dài ''Đ̣ Dọc'' ra đời vào năm 1959 và cuốn truyện dài ''Gieo Gió Gặt Băo'' ra đời vào năm 1960.

Tôi đă từng theo dơi hành tŕnh các tác giả gốc người miền Nam trước B́nh Nguyên Lộc sát nút. Họ kể truyện dài, truyện ngắn phom phom, trơn láng, duyên dáng tuyệt vời, quyến rũ rất nồng đượm. Kể truyện là thuật lại sự việc, chứ không dựng được một cảnh sống. Người kể truyện chỉ nói trực tiếp sự việc, thí dụ: Buổi sáng, cô Lan đi chợ. Người viết văn th́ không thể luời biếng như vậy. Ông ta dựng ngay cái khung cảnh buổi sáng từ nhà cô Lan đến chợ. Ông ta c̣n tả chân dung cô Lan, dáng điệu, co chỉ cô Lan và ông ta lại c̣n tả cảm nghĩ của cô Lan về buổi sáng, về khung cảnh chợ nữa. Nhà văn là kẻ đi chậm hơn người kể chuyện rất nhiều. Ông ta là kẻ rị mọ cũng như người thợ kim hoàn trong việc chạm trổ các món nữ trang. Ông ta dựng cảnh sống chưa đủ, c̣n phân tách tâm trạng nhân vật song song với công tŕnh phân tích sự việc. Chính ở ''Đ̣ Dọc'', độc giả miền Nam đă thấy B́nh Nguyên Lộc đă có viết văn. Anh viết lưu loát, ngon ơ cũng như  các bà Tú Hoa, Tùng Long, Lan Phương cùng các anh Việt Quang, Ngọc Sơn, Thanh Thủy, Trọng Nguyên, Dương Hà, Nguyễn Ngọc Mẫn, Ngọc Linh, Sĩ Trung, kể chuyện tuồn tuột, trơn như mỡ, láng như dầu.

Đă 27 năm qua, trong kư  ức tôi như in rơ nét cảnh anh chàng Long và cô Hồng trong ''Đ̣ Dọc'' hẹn ḥ nhau, ngắm sao băng trên nền trời đêm để cùng thề ước nhau. Và tác giả c̣n tả tỉ mỉ hơn lúc cô gái tên Quá cầm mấy viên thuốc ngủ để quyên sinh. Anh phân tích tâm trạng cô ta chi li sắc bén... Lúc đó, tôi c̣n là học sinh tỉnh lẻ. ''Đ̣ Dọc'' là cảnh sống cô đơn của bốn chị em Hương, Hồng, Hoa, Quá tại một vùng noa chợ noa quê nằm bên quốc lộ từ Sài G̣n xuôi về Biên Hoà. Vậy mà nhờ tai nạn xe cộ của một chàng tên Long, trừ cô Hương yên phận gái già ra, ba chị em kia bắt đầu yêu đương liều lĩnh, tuy sự liều lĩnh kia vẫn ngoan ngoăn nằm yên trong khuôn nếp lễ giáo... Cảnh ghen tương, ẩu đả, thất vọng xảy ra sau lưng ông cha bà mẹ cho tới khi cô Út tên Quá quyên sinh và được cứu sống. Sau hết, truyện kết thúc bằng ba cuộc hôn  nhân của ba cô  Hồng, Hoa, Quá với  3 cậu thanh niên thuộc giai cấp trung lưu trong đó có chàng Long. Chàng vốn là nạn nhân của tai nạn xe cộ, đă từng gây sóng gió trong ḷng ba cô em của cô Hương... Nhưng sau rốt, chàng kết hôn với cô Hồng, kẻ mà chàng yêu đương chân thành. Tác giả chỉ chừa cô chị lớn  cô Hương) để cô a lại nhà săn sóc cha mẹ.

Tiếp theo truyện ''Đ̣ Dọc'' là truyện ''Gieo Gió Gặt Băo'' cũng chỉ là cuốn tiểu thuyết tâm lư ái t́nh, cảnh chung sống của bộ ba, một ông hai bà... Cuốn đó không thể thắp sáng văn tài B́nh Nguyên Lộc được. Phải đợi tới tập truyện ''Kư Thác'' với hai truyện ''Rừng Mắm, ''Ba Con Cáo'' mới làm rúng động văn giới.  Truyện ngắn  ''Rừng Mắm''  rất sâu sắc trong công việc nêu cao t́nh đất, chẳng những ma cho đất nước một chiều dài thênh thang mà c̣n nuôi ngọn loa hy vọng về tương lai huy hoàng của những kẻ khai hoang khẩn đất. Truyện ''Ba Con Cáo'' thắp sáng thiên lương và t́nh người, gây niềm tin yêu cho độc giả về khía cạnh tích cực và tốt đẹp của con người dù xă hội và hoàn cảnh đẩy đưa nhân vật vào hành vi phản phúc, dối trá, lọc lừa.

''Bóng Ai Ngoài Song Cửa'' là cuốn tiểu thuyết phỏng theo ba va kịch ''Marius'', ''Fanny'' và ''César''  của Marcel Pagnol. ''Xô Ngă Bức Tường Rêu'' là cuốn đả phá giai cấp và đề cao t́nh yêu. ''Uống Lộn Thuốc Tiên'' là cuốn tiểu thuyết mô tả cuộc sống lứa đôi giữa người vợ trẻ măng và người chồng luống tuổi, qua bao chứng nghiệm đau thương cả hai yêu nhau chân thành. ''Hoa Hậu Bồ Đào'' mô tả cô gái đẹp lăn xả vào cuộc đời phồn tạp quá sớm.

Thành công về truyện ngắn (phương diện nghệ thuật), B́nh Nguyên Lộc lại cho tŕnh làng tập truyện ''Tâm Trạng Hồng''. Ở đây nồng độ nghệ thuật bị pha loăng v́ đây là chỉ là những chuyện hài hước qua những truyền thuyết của kẻ trà dư tou hậu hoặc của những bà ngồi lê đôi mách, xen vào đó là những vở  hài kịch ngắn, chứng tỏ khiếu trào lộng bén nhạy nhưng không thâm thúy của tác giả. Lại nữa, anh không gây một dư âm, một chút suy nghĩ nào cho độc giả sau khi họ xếp  quyển sách ấy lại.

Những truyện dài của B́nh Nguyên Lộc hết 99% đều đăng theo thể thức từng kỳ (feuilleton) trước khi đăng thành sách. Khi xuất hiện từng kỳ trên báo, tác giả không tránh khỏi theo thói viết đối thoại cù nhây cù nhằng, tức là anh kéo dài lời ông qua và lời bà lại một cách thừa thăi và vô bổ. Khi in thành sách, anh cắt xén bớt những câu đối thoại vô thưang vô phạt lẩn những câu nh́ nhằng. Nhưng quyển sách vẫn không sạch sẽ gọn gàng, vẫn như mảnh đất hăy c̣n những bụi hoang đầy cành lá rườm rà, những cỏ dại bụi gai, không để cho những hoa thơm ư  tuang không có thêm chỗ đất trống để trổ sắc tưng bừng hơn và tỏa hương ngào ngạt hơn. Những Ngọc Linh, Sĩ Trung, Dương Trử La đă theo bước chân anh th́ chẳng nói làm ǵ v́ họ là những cây bút đứng bên ngoài văn học sử. Nhưng Túy Hồng, Thụy Vũ, Văn Quang, Thanh Nam cũng làm những ǵ B́nh Nguyên Lộc đă làm th́ họ hy sinh quá nhiều nghệ thuật tính. Càng kéo dài đối thoại, họ càng pha lợt pha loăng cái phẩm chất của quyển sách. Nhưng Lê Xuyên th́ khác, càng kéo dài cuộc đối thoại, anh càng thắp sáng cái mănh lực mầu nhiệm ngôn ngữ đất Nam Kỳ Lục Tỉnh, càng khơi bừng bừng ngọn loa thiêng của những kẻ yêu ngôn ngữ trên đất nước quê hương được khai phá do cuộc Nam Tiến của dân tộc.

Viết fauilleton là phải nhắm vào tâm lư và thị hiếu của quần chúng. Giới b́nh dân Nam Kỳ vốn thích chuyện nhơn quả, chuyện oán trả ơn đền, chuyện ngồi lê đôi mách, chuyện hài hước theo kiểu hề giễu trên sân khấu  ca kịch cải lương, chuyện tôn vương ḥa hiệp của các nhân vật chánh diện sau bao phen hoạn nạn tai ương. V́ vậy, B́nh Nguyên Lộc có hai loại độc giả: nhóm thức giả  có kiến thức trên trung b́nh và nhóm độc giả thuộc giới b́nh dân dùng văn chương để giải trí. Cả hai loại độc giả đều ủng hộ truyện dài của anh hết ḿnh.

Tôi cần nhấn mạnh kẻo quí vị độc giả hiểu lầm. Không phải mỗi truyện dài của B́nh Nguyên Lộc hoàn toàn là  truyện giải trí, loại mua vui cũng được một vài trống canh đâu. Anh viết truyện dài với tất cả ư thức của một nhà văn chân chính song song với việc nuông chiều thị hiếu của quần chúng độc giả. Đó là điều khó khăn nhất cho người cầm bút. V́ sao? Thị hiếu quần chúng hầu như không đi đôi với nghệ thuật. Viết mà chú trọng nhiều về nhân sinh quan, về tâm lư nhân vật, luôn cả nếu tác giả tả cảnh, ta người, tả sự việc quá chi ly tỉ mẩn th́ đương sự sẽ làm cho độc giả không có sa tri phong phú về văn chương đâm ra mệt hốc hác khờ khạo. C̣n viết ướt át, lâm ly, phi thực tế để nâng niu giấc mơ lố bịch hoặc o bế hoài băo cà chớn của giới độc giả hoang tư?ng ? tầng lớp hạ lưu trong xă hội tức là tác giả  nếu không cuỡng dâm nghệ thuật th́  cũng xử lăng tŕ ng̣i bút của ḿnh không chút xót xa. Vậy mà B́nh Nguyên Lộc vẫn nắm vững lối viêt đầy nghệ thuật tính, vẫn chiều theo khiếu thư?ng ngoạn của độc giả để tên tuổi ḿnh vẫn vừa sáng vặng vặc trên văn đàn vừa đi sâu vào quăng đại quần chúng.Trong bán thập niên cuối của thập niên 50 và trong suốt thập niên 60. B́nh Nguyên Lộc là một nhà văn ''populaire'' (phổ thông) nhất. Đừng ai đỏng đảnh cho rằng những nhà văn ''populaire'' là nhà văn nếu không thuộc loại viết tiểu thuyết ba xu (như loai tiểu thuyết Harlequin) th́ cũng là thứ nhà văn xoàng xĩnh, tài năng chai cứng và sượng ngắt. Điều nầy  hoàn toàn không đúng với B́nh Nguyên Lộc, nhất là với nhà văn Georges Simenon của nền văn chương nước Pháp. Ông này đă cho xuất bản trên 400 tác phẩm, đa số là loại trinh thám (những cuộc điều tra án mạng của ông C̣ Maigret). Nhưng bên số lượng phồn thịnh của tiểu thuyết trinh thám thuộc loại siêu cấp đó, ông ta vẫn viết những tác phẩm văn chương, thí dụ như cuốn tiểu thuyết tâm lư ''Chỉ Là Những Cây Hạnh Đào'' (''Il n'y avait que les noisetiers''). Đă đành B́nh Nguyên Lộc viết truyện ngắn cho những người sành điệu văn chương, nhưng anh đâu phải viết truyện dài chỉ dành riêng biệt cho dành cho giới b́nh dân? Truyện dài của anh đă dựng được những cảnh sống (hoạt cảnh, phong cảnh, cảnh ngộ) lại c̣n vẽ được những nhân vật sống thực, và hơn nữa tác phẩm truyện dài của anh c̣n chứa đựng nhiều nhân sinh quan sắc sảo, rất cận nhân t́nh. Ng̣i bút anh v́ chiều  theo độc giả b́nh dân cho nên trong các truyện dài của anh hầu như không có bối cảnh đồng quê, không có những nhân vật thôn dân, mà lại có khung cảnh thị thành, khung cảnh noa chợ noa quê với các thị dân từ bực trung lưu tra lên. Giới độc giả b́nh dân lam lũ vốn nhàm chán cảnh nghèo hèn của họ. Đọc quyển sách có khung cảnh đồng quê, có khung cảnh xóm cḥi lá vách đất với những nhân vật cày sâu cuốc bẳm hay các nhân vật mua thúng bán bưng th́ họ đâm ra nản ḷng v́ họ phải nh́n sâu vào hoàn cảnh sẫm buồn của họ. C̣n khi đi xem hát bội hay hát Hồ Quảng, họ cốt ư muốn được xem tuồng tích có cảnh trí huy hoàng với lâu đài tráng lệ, cung điện nguy nga, có y quan lộng lẫy, có các nhân vật quư tộc như hoàng đế vương hầu, hoàng hậu quư phi, tể quan khanh tướng, công nương quận chúa... Họ đâu muốn cảnh đời hiện tại của họ hiện rơ trên trang sách phơi ma hay được dựng trên sàn gỗ sân khấu khi bức màn nhung chẻ đôi và vén ra. B́nh Nguyện Lộc khi viết truyện dài biết đưa họ lạc vào cảnh giàu sang của giới thượng lưu hay cảnh đầm ấm thoải mái của giới trung lưu được ánh sáng văn minh soi đến, nhưng đáng quư nhất là anh nếu không viết được truyện dài xuất sắc th́ cũng giữ cho cái phẩm chất của chúng vào bậc trung, chớ không để chúng rớt xuống loại tiểu thuyết ba xu hạ cấp.

Bên cạnh những truyện dài ''Ái Ân Thâu Ngắn Cho Dài Tiếc Thương'', '' Nhện Chờ Mối Ai'', “Trâm Nhớ Ngàn Thương”  (Trâm chớ không phải Trăm, ở đây cô Trâm và cậu Ngàn thương nhớ nhau), B́nh Nguyên Lộc viết một truyện dài thuộc về bịnh ly hồn chứng (l'amnésie) mô tả chuyện một người bị tai nạn xe hơi quên hẳn quá khứ trong đó có gia đ́nh ḿnh. Anh ta xây dựng một cuộc đời khác, có vợ con khác. Rồi một tai nạn khác xảy đến: anh ta bị một kẻ cướp đập vào đầu một cú đau điếng. Anh ta vụt nhớ lại quá khứ cũ, gia đ́nh cũ nên t́m về vợ con cũ. Họ đều tưang anh đă chết trong tai nạn xe hơi hồi trên 20 năm trước; người vợ trước đă đi lấy chồng khác, các con ḍng truớc đă trưang thành. Họ nh́n anh ta bỡ ngỡ xa lạ, không thể cùng anh ta ráp lại những mảnh tan vỡ cũ để tái lập một gia đ́nh đấm ấm và nguyên vẹn như xưa. Sau cùng, anh ta tra về gia đ́nh hiện tại, sống trong cảnh hạnh phúc hiện tại. Truyện dài nầy có   vẻ đặc sắc hơn mọi truyện dài khác.

B́nh Nguyên Lộc trong những năm 1965, 1966, 1967 cộng tác với những tạp san văn nghệ đứng đắn trong đó có tạp san Văn (do Nguyễn Đnh Vượng làm chủ nhiệm, do Trần Phong Giao rồi tới Mai Thảo làm chủ bút) bằng những truyện ngắn mà anh viết cho anh để hoài niệm quê hương, để sống trong t́nh yêu đất. Trên tạp san Hương Quê, truyện ngắn của anh đưa độc giả tra về từng vùng quê, từng cảnh ngộ dân quê một cách thích thú... Những truyện ngắn đó đuợc anh lần lượt đưa vào các tập truyện ''Mưa Thu Nhớ Tằm'', ''T́nh Đất'' và ''Cuống Rún Chưa Ĺa''.

Truyện dài của B́nh Nguyên Lộc gặt thêm một thành công khác. Vào năm 1972, điện ảnh gia Lê Dân chọn truyện ''Một Nàng Hai Chàng'' của anh để quay thành phim ''Hồng Yến'' với các tài to Kiều Chinh, Tâm Phan và Trần Quang. Nhưng điều đó chưa gây tiếng vang inh ỏi và sâu rộng trong văn giới bằng cuốn phóng sự của anh nhan đề ''Những Bước Lang Thang Trên Hè Phố Của Gă B́nh Nguyên Lộc''. Anh đă đổi thực đơn cho độc giả vào năm 1966, nhưng vẫn tiếp tục viết feuilleton. Măi đấn năm 1973, B́nh Nguyên Lộc bắt đầu tung ra hai cuốn biên khảo là ''Nguồn Gốc Mă Lai Của Dân Tộc Việt Nam'' ''Lột Trần Việt Ngữ''. Đó là kết quả công tŕnh do nhiều năm anh cặm cụi sưu tầm tài liệu và là kết quả công việc nghiên cứu một cách say mê.

*  *   *

Ai cũng vậy, hễ cầm bút viết về một nhà văn tiền bối nào, hoặc về một cây bút trưang thượng nào là đương sự thích tế sống hơn là tế chết người được viết. Thiệt t́nh, trong vài bài đăng a Văn, Làng Văn, tôi đă từng tế sống anh B́nh Nguyên Lộc. Tôi có dè đâu chưa đầy một năm, tôi lại phải viết một bài tuang niệm vong linh anh coi như một nén nhang đốt tiễn đưa anh về bên kia thế giới.

Dù tôi có thay đôi nhiều lượt, nhiều phen về quan niệm văn chương, nhưng sự nghiệp văn chương của anh và công tŕnh sưu khảo của anh đă đóng góp cho văn hóa dân tộc biết bao món trân bảo ngoạn mục. Và khi đọc truyện ''Kư Thác'' của anh, tôi như sống lai cái thời thanh xuân rực rỡ nhất của tôi, cái thua mà song song với niềm say mê quyển sách ấy, tôi theo dơi những truyện dài mà anh đă đăng trên các nhật báo để rồi thực hiện thành hai cuốn tiểu thuyết ''Đ̣ Dọc'' (mà anh đă đoạt Giải Thưang Văn Học Nghệ Thuật Toàn quốc vào năm 1960) và ''Gieo Gió Gặt Băo''... Đây là lần đầu tiên các độc giả miền Nam được đọc một tác phẩm văn chương đúng nghĩa dưới h́nh thức quyển tiểu thuyết của một tác giả gốc Nam Kỳ. Vậy tiểu thuyết là ǵ, nếu không là phản ảnh đời sống của một nhóm nhân vật có những sợi dây liên hệ t́nh cảm trói buộc với nhau? Đời sống đó được tác giả nh́n ngắm, tư duy và phơi bày cho độc giả thư?ng thức qua cái nhân sinh quan cá biệt của tác giả, qua cả niềm rung cảm của ông ta. Các tác giả như các bà Tú Hoa, Tùng Long,  Lan Phương, các anh Ngọc Sơn, Thanh Thủy, Nguyễn Ngọc Mẫn, Dương Hà, Trọng Nguyên, Dương Tro La, Ngọc Linh, Sĩ Trung... đa số đều viết truyện t́nh cảm gay cấn, éo le với những nhân vật được mô tả sơ sài về mặt tâm lư. Trừ bà Tú Hoa, bà Lan Phương, các anh Thanh Thủy, Dương Tro La, Ngọc Linh, Sĩ Trung chịu khó sáng tác, c̣n các tác giả kia thường phóng tác tiểu thuyết và phim ảnh ngoại quốc. Bà Tùng Long và anh Ngọc Sơn đa số phóng tác các loại truyện tiểu thuyết ba xu như Nous Deux, Harlequin. Anh Dương Hà phóng tác các danh phẩm của Emily Bronte, Margaret Mitchell, nhưng anh Dương lại giản lược những đọan tả cảnh, tả t́nh, tả nhân sinh quan. Anh Nguyễn Ngọc Mẫn phóng tác theo các cuốn phim Ư-đại-lợi thuộc loại thương măi nổi tiếng ăn khách trong hai thập niên 40, 50 với các tài to Âu Châu hạng B vang danh như Marta Toren, Gianna Maria Canale, Eleonora Drossi Drago, Yvonne Sanson, Nadia Gray... (nữ), Amedéo Nazzari, Ettore Manni, Jacques Sernas, Pierre Croissoy... (nam) . Anh Trọng Nguyên phóng tác các cuốn phim Tàu được hảng Việt Hoa Văn Hóa Hợp Tác Công Ty Điện ảnh lồng tiếng hoặc các cuốn Tàu phim do hảng Mỹ Vân và hảng Mỹ Phương chuyển âm. Đó là các cuốn phim gây tên tuổi chói rực của các tài to Vương Nguyên Long, Vương Hảo, Nghiêm Tuấn, Hoàng Hà, B́nh Phàm, Trương Anh, Trương Dương, Lôi Chấn, Triệu Lôi, Tăng Giang... (nam), Lư Lệ Hoa, Bạch Quang, Lư Mi, Trần Vân Thường, Hồng Tuyến Nữ, Tố Thu, Lưu Kỳ, Lưu Luyến, Âu Dương Sa Phi, Bạch Dương,  Hạ Mộng, Cát Lan, Trần Quyên, Trương Trọng Văn... (nữ). Độc giả không t́m được trong tác phẩm các nhà văn Trọng Nguyên, Nguyễn Ngọc Mẫn, Dương Hà, Ngọc Sơn và bà Tùng Long một cảnh sống linh động nào, một quan niệm sống nào mới mẻ, tươi rói. Do đó chúng tra thành những tác phẩm dành cho quần chúng giải trí để rồi  họ quên long trong các cuộc mưu sinh phồn tạp.     

Miền Nam vào thời chiến tranh Đông Dương có 3 nữ tiểu thuyết gia, nổi tiếng nhất là bà Tú Hoa, bà Tùng Long và bà Lan Phương. Bà Tú Hoa trước đó, vào thời tiền chiến đă đoạt giải Tự Lực Văn Đoàn qua cuốn tiểu thuyết ''Bóng Mơ''. Sau đó, bà viết them vài cuốn tiểu thuyết nữa cũng khá ăn khách, tuy nhiên không hiểu sao bắt đầu từ năm 1964, bà ngưng viết luôn. Rồi đó, vào thua cuộc chiến tranh Đông Dương bùng nổ, sự xuất hiện của bà Tùng Long (gốc người Quảng Nam, nhưng sinh sống lâu năm trong Nam) qua các quyển ''Lầu Tỉnh Mộng'', ''Nhị Lan'', ''Giang Sơn Nhà Chồng'' gây náo nhiệt trong quần chúng thuộc giai cấp trung lưu  Nam Kỳ hơn. Nhưng bà Tùng Long vốn ưa văn dĩ tái đạo hơi nhiều, làm cô giáo bất kỳ khi viết tác phẩm nào nên thét rồi độc giả hơi nhàm. Đúng lúc đó tên tuổi bà Lan Phương vụt sáng lên. Bà viết rất có ư thức, các nhân vật bà rất người, có tánh tốt trà trộn tánh xấu. Đặc biệt nhất bà viết về tánh ghen tương ganh ghét của đàn bà thiên h́nh vạn trạng nên văn chương bà rất hấp dẫn. C̣n cô Hoàng thị Như Mai qua quyển ''Hai Ḍng  Con'',  cô Thanh Tùng vốn là tác giả các quyển ''Sống Trên Nhung Lụa'' và ''Một Tâm Hồn Trong Sương Lạnh'', Tô Hằng Nữ Sĩ với quyển ''Ái T́nh và Sắc Đẹp'' đều không không phải là đào chính cống, mà là là thứ đào lộn hột, chu choa ơi, lộn tới hai hột, trời ạ. Cho nên trong một sớm một chiều họ chuồn êm ra khỏi làng văn trận bút. Cũng như các nhà văn Ngọc Sơn, Thanh Thủy, Dương Hà, Trọng Nguyên, hay nhóm nhà văn vào thua Nam Bộ Kháng Chiến, ba nữ sĩ Tú Hoa, Tùng Long, Lan Phương viết văn bằng giọng văn Bắc Nam pha trộn, nhưng rất mềm dịu du dương với ngôn ngữ dân đô thị lúc viết nhật kư hay lúc viết thư tâm sự hay thư t́nh. Thế có nghĩa dù viết văn không có chêm những tiếng nhỉ, nhé, ư, ạ, eo ơi, thảo nào, thế à... nhưng ngôn ngữ được xo dụng rất trung tính (neutre), không phảng phất sương khói ngôn ngữ Bắc Kỳ, không vết điêu khắc giọng văn Huế, không đậm đặc ngôn ngữ Nam Kỳ.

Tiểu thuyết của B́nh Nguyên Lộc không kén độc giả bao giờ. Văn phong anh dí dỏm, tương đối khá Nam Kỳ (thứ ngôn ngữ Nam Kỳ a đô thị). Ư t́nh anh trong sáng, ít có dấu vết  khách sáo qua nét thêu thùa chạm khắc; thế có nghĩa là ư t́nh trong các tác phẩm của anh xuề x̣a, bộc trực được diễn tả bằng thứ ngôn ngữ tượng thanh lẫn tượng h́nh. Cái cai ma khả ái đó, chúng ta có thể thấy trong truyện ngắn ''Ba Con Cáo'', ở cảnh nhà cửa lấn vào đất nghĩa trang.

Người sống c̣n biết đau ḷng khi phải dẫm lên những g̣ mả c̣n mới rành rành (nhiều mộ bia thánh giá đề năm chôn 1951) nhưng ác thay, họ cũng biết lạnh. Cho nên họ cất nhà trên những nấm đất ấy, nhưng người chết thứ lỗi, miễn là có chỗ núp mưa, thế thôi.

Không bao giờ kẻ sống và người chết lại sát cánh nhau đến thế. Ông đă chết rồi, ông choán đất làm chi cho nhiều, trong khi tôi không có một vuông đất nhỏ mà cắm cột gỗ, vậy ông thứ lỗi nhé. Rồi ngày sau tôi hoàn đất lại cho ông vậy mà; trần gian nầy chỉ là cơi tạm thôi, tranh nhau làm ǵ.

Ở truyện ngắn ''Rung Cây Dừa'', những h́nh ảnh đặc sắc được tác giả vẽ từng nét rơ vào ấn tượng độc giả:

Giữa những cù lao trong quần đảo Củ Tron là những vuông biển nhỏ im lặng như mặt hồ. Bơi xuồng trên bao nhiêu là hồ ấy, đi từ đảo nầy qua đảo kia là một thú vui vô song nhắc nha nguời xưa chu du năm hồ bốn biển, cảnh Từ Thức chèo thuyền chợt gặp Đào nguyên.     

Nhứt là những ḥn đảo nầy là những ḥn non bộ thiên nhiên mà trong đất liền, nghe nói, ai cũng thèm nhểu nước miếng.

Đảo đá vôi lồi lơm những gộp đá h́nh thù kỳ dị, những hang non hiểm hóc và những động là là mặt nước trông như coa động Đào; gộp đá vôi th́ mỗi gộp mỗi màu, trên ấy mọc lên những lùm cây mà h́nh dáng cằn cỗi như cổ thụ, và tất cả soi bóng in h́nh một cách trung thành, đầu lộn ngược, trên mặt biển đang nhạt màu trời và phẳng như gương.

Văn phong, bút pháp tượng thanh của B́nh Nguyên Lộc có thể được thể hiện ? trang đầu truyện ngắn ''Lầu 3 Pḥng 7'':

Uc...ục...ục... uột...

Quỳnh vội bịt lỗ tai lại. Chàng rất sợ tiếng nước a bồn roa mặt của pḥng bên cạnh. Nó kêu như ai ăn phải của khó tiêu, bị sôi ruột kêu ột ột. Đáng ghê nhứt là cái tiếng ''uột'' sau cùng, kéo dài bất tận.

Ở đây có những tiếng động khiếm nhă khác nữa. Đó là tiếng đế giày nện lên gạch, tiếng nước cầu xí, tiếng đờn vĩ cầm của ai mới học kéo ọ ẹ suớt ngày.

Trong sự nghiệp văn chương của B́nh Nguyên Lộc gồm các truyện ngắn lẫn truyện dài của anh, ngoài việc phân tích t́nh đời và tâm trạng các nhân vật th́ văn phong anh cũng chỉ tung hoành ngoạn mục a h́nh thức ngoài 3 đặc tánh ấy mà thôi.

*   *   *

Bối cảnh, khí hậu trong đa số tác phẩm của B́nh Nguyên Lộc, phần nhiều khác biệt với bối cảnh và khí hậu trong các tác phẩm của Sơn Nam. Trừ truyện ngắn ''Rừng Mắm'' và truyện ngắn  ''Rung Cây Dừa'' th́ hầu hếu hết truyện dài lẫn truyện ngắn khác của B́nh Nguyên Lộc đều lấy bối cảnh a Biên Ḥa, B́nh Dương, Lái Thiêu, Tân Uyên, Đất Bái, tức là miền Đông Bắc của thủ đô Sài G̣n. C̣n Sơn Nam th́ lấy bối cảnh miệt Cực Nam đất nước như Chắc Băng, Cà Mau, U Minh Thượng, U Minh Hạ (các cuốn ''Hương Rừng Cà Mau'', ''Hai Cơi U Minh'', ''Vọc Nước Giỡn Trăng''), hoặc lấy bối cảnh a chốn hải giác thiên nhai từ mũi Cà Mau trông ra biển như cuốn ''Vạch Một Chân Trời'', cuốn ''Bà Chúa Ḥn''.

Những truyện ngắn viết về quê hương đất nước trong quyển  ''Hương Rừng Cà Mau'' của Sơn Nam đều hay, quan niệm sống của tác giả được gán vào miệng của lớp người khai hoang khẩn đất đều cập nhân t́nh, vốn sống của tác giả rất phong phú. Nhưng truyện ngắn  ''Rừng Mắm'' của B́nh Nguyên Lộc dĩ nhiên dẫu thua các truyện ngắn ấy về tài liệu sống, thua những cái kỳ bí lạ lùng a trên vùng đất Hậu Giang. Nhưng  nó trội hơn  a chỗ gợi cho chúng ta niềm ngậm ngùi thương cảm về đức hy sinh cao cả của lớp người tiền phong t́m đất mới, a cái dũng mănh kiên cường của chí khí dân tộc, a niềm tin rực rỡ của lớp hậu sinh về đất nước mai sau nối thêm chiều dài trên biển Nam Hải. Nhân vật chánh là cậu trai mới lớn tên Cộc sống với ông nội và tía má cậu a rạch Ô Heo, một vùng cùng thôn tuyệt tái của đất Nam Kỳ. Trước khi vào truyện, họ đă đến đây khẩn đất. Cộc lớn lên, đang lúc thể chất phát triển v́ lao tác nên thèm ăn chè và thèm được bậu bạn với một cô gái trang lứa. Nhưng đất a đây chưa thể trồng mía được nên không  có ai làm ra đường. Lại không có gia đ́nh lân cận nào  nên không có một cô gái trang lứa với cậu nên cậu muốn bỏ đi t́m vùng thổ ngơi nào có chè lẫn có gái. Cậu thấy cây mắm  mọc lơ thơ ven biển cho rằng đó là thứ  cây vô tích sự, cho nên ông nội cậu giải bày như sau:       

—  Bờ biển nầy mỗi năm được phù sa bồi thêm cho rộng ra bằng mấy ngàn

thước. Phù sa là đất mềm lủng và không bao giờ thành đất thịt được để ta hưang, nếu không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một khi kia mắm sẽ ngă rạp. Giống tràm lại nối ngôi nó. Rồi sau mấy đời tràm, đất thuần, cây ăn trái mới mọc được.

Thấy thằng cháu nội ngơ ngác chưa hiểu, ông cụ vịn vai nó mà tiếp:     

— Ông với lại tía con là cây mắm, chơn giẫm trong bùn. Đời con là đời tràm,

chơn vẫn c̣n lấm bùn chút ít, nhưng đất đă gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau.

Đời mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như lính ngoài mặt trận vậy mà. Họ ngă gục cho kẻ khác là con cháu họ hưang.

Con, con sắp được hưang rồi, sao muốn bỏ mà đi. Vả lại con không thích hy sanh chút ít cho con cháu của con hưang hay sao? 

Trước năm 1975, đa số truyện dài của B́nh Nguyên Lộc đều lấy bối cảnh ở đô thị. C̣n Sơn Nam có cuốn ''H́nh Bóng Cũ'' chỉ lấy bối cảnh đô thị ở phần chót, c̣n hai phần đầu lấy bối cảnh ở miền quê đất nước Hậu Giang. Nhưng  riêng quyển ''Chim Quyên Xuống Đất'' th́ lấy hoàn toàn cảnh đô thị để dựng nên cái phông cho sự diễn biến câu chuyện. Rất tiếc, các phê b́nh gia, các học giả chỉ ca tụng quyển  ''Hương Rừng Cà Mau'' của anh mà bỏ rơi hai kiệt tác phẩm ấy. Chính ở hai quyển nầy, Sơn Nam mới bừng trổ cái tài hoa dựng truyện và thần trí sáng tạo của ḿnh a những chất liệu dựng truyện không đặc sắc. Ở đây, độc giả mới thương cảm lớp thanh niên bỏ học để tham gia vào lịch sử  trong cuộc chống Pháp. Rồi sau Hiệp Định Genève, họ sống bơ vơ lạc loài v́ lỡ vận ở Miền Nam Việt Nam bằng nghề cầm bút; cuộc mưu sinh không lóe lên một viễn ảnh tươi sáng, một tương lai đảm bảo nào. Họ ngơ ngác trước cuộc đời dâu bể, trước khúc quanh lịch so, trước thế sự thăng trầm. Hai cuốn này vẫn là hai cột trụ trong văn nghiệp của Sơn Nam, ăn đứt các truyện dài của B́nh Nguyên Lộc. V́ sao? Những tác phẩm truyện dài của B́nh Nguyên Lộc đa số là truyện tâm lư ái t́nh, không phản ảnh đến biến chuyển của thời cuộc, của thế hệ lớp người trưang thành trong cuộc chiến tranh Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh, không vẽ được các bức tranh xă hội trong các thập niên 50, 60 và 70. Ngoài ra, nhân vật chính trong hai quyển truyện dài của Sơn Nam bị guồng máy vận mệnh tổ quốc đẩy đưa vào cảnh ngộ thương tâm, lỡ khóc lỡ cười; trong khi đó những nhân vật của B́nh Nguyên Lộc có nếp sống vật chất đầy đủ hơn, nên tâm cảnh của họ không bị xáo trộn nhiều về các tấn thảm kịch trong cuộc sinh hoạt chung quanh họ. Điều dễ hiểu là Sơn Nam đă tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp, có lư tưang về quốc gia dân tộc. Dù anh lầm đường lạc lối theo bọn Việt Minh, dù lư tưang anh có đặt sai chỗ chăng nữa, nhưng cuộc đời lăn lóc của anh bao năm a  khu 9 (một mật khu vùng Hậu Giang của bọn Việt Minh) cũng tạo cho anh nhiều cơ hội sống chung với dân quê, sống trong vùng  tân bồi miền Cực Nam đất nước. Anh có thể suy nghĩ nhiều những điều mà những kẻ có cuộc sống an phận thủ thường a đô thị trong đó có B́nh nguyên Lộc không có điều kiện lẫn cơ hội nghĩ ra.

Chọn đô thị làm bối cảnh cho truyện ngắn, B́nh Nguyên Lộc thêm một lần nữa thành công về phuơng diện nghệ thuật ở  truyện ngắn ''Ba Con Cáo''. Đây là câu truyện xảy ra tại nghĩa trang hoang vu, có nhiều vài kẻ lác đác cất cḥi là để cư ngụ. Trong số đó có một người đàn ông trốn pháp luật, một ả gái điếm trốn lính kiểm tục. Đó là hai con cáo theo nghĩa bóng v́ họ khôn lanh quỷ quyệt, cái quỷ quyệt đó do xă hôi và hoàn cảnh phong trần dày dạn của họ tạo ra. Kẻ  thứ ba là con cáo thứ thật, chuyên bắt gà vịt trong xóm và đào hang ở gần chỗ của hắn ta trú ngụ. V́ ở chỗ tha ma mộ địa, hắn ta và y thị tỏ bày tâm sự với nhau. C̣n con cáo v́ được hắn ta đuổi chó săn để cứu sống nên nó tỏ ra thân thiện với họ. Nhưng họ không dám chui ra khỏi nghĩa trang để kiếm sống. Quá đói ḷng, hắn ta  giết con cáo thứ thiệt để cùng y thị đỡ dạ. Nhưng rồi v́ không đào ra được cái ăn, cho nên y thị đi tố cáo hắn để nhận tiền thư?ng. Tuy nhiên, khi y thị tra về trơ trọi một ḿnh tại nghĩa trang, nh́n chỗ cả hai nằm thức thâu đêm để tâm sự với nhau, y thị bỗng cảm thấy không khí sao mà quá quạnh quẽ thê lương. Cùng lúc đó, thiên lương trong sáng tra về với y thị:

Chị ôm mặt khóc ̣a, rồi lẩm bẩm van vái lầm thầm:

— Trời Phật ơi, Chúa ơi, tha tội cho tôi, ngày mai tôi ra khỏi chỗ này và ra khỏi vực đen của đời tôi nữa.

Gặp phút xuất thần B́nh Nguyên Lộc viết khá nhiều truyện ngắn tuy không bằng ''Rừng Mắm''  và ''Ba Con Cáo'', nhưng rất chứa chan t́nh người và thắp sáng thiên lương nhân loại và niềm tin yêu đối với cuộc đời. Như tôi đă nói, anh thành công về truyện ngắn hơn thành công ở truyện dài. Nhưng chính những truyện dài tâm lư ái t́nh của anh dù có giảm thiểu phẩm chất nghệ thuật ít nhiều, nhưng chúng lại hợp với cảm quan của giới độc giả thích dùng văn chương để giải trí; bai đó mà chúng đuợc họ ái mộ nồng nhiệt. Cho nên bất cứ quyển truyện dài nào của anh dù chưa được xuất bản mà chỉ được đăng từng ngày trên nhật báo cũng thu hút độc giả mănh liệt. Cho đến nỗi dân ở Lục Tỉnh mỗi ngày phải ra bến xe đ̣, đợi xe cha báo về, chộp lấy bào nào có đăng truyện theo thể thức feuilleton của B́nh guyên Lộc đọc trước cho sốt dẻo, trước khi đọc các tiết mục khác.

Như thế, Sơn Nam chỉ khua động trên văn đàn và thắp sáng niềm ái mộ của giới sành điệu trong khi đó B́nh Nguyên Lộc đuợc mọi giới nhiệt thành ủng hộ và chiêm ngưỡng.

*   *   *

Kể từ tháng 7 năm 1987 tôi viết bài ''Tổng Quan  Về Sự Nghiệp Văn Chương của B́nh Nguyên Lộc'' cho tới nay (vào cuối tháng 8 dương lịch năm 2007) th́ đă hơn hai mươi năm trôi qua. Nh́n trước ngoảnh sau, tôi nhận thấy một điều: về phương diện sáng tác, B́nh Nguyên Lộc được nhắc nh? nhiều qua truyện dài ''Đ̣ Dọc'' cùng hai truyện ngắn ''Rừng Mắm'' và ''Ba Con Cáo''. Nhưng ''Đ̣ Dọc'' thật sự chưa phải là cái tinh túy trong số lượng phồn thịnh của tác phẩm anh. Nó chỉ là một chai lọ thủy tinh được Giải Thưởng Văn Chương Nghệ Thuật Toàn Quốc như ánh mặt trời soi rọi đến nên mới chiếu sáng hơn các truyện dài khác được tượng trưng qua các món ngoạn hảo bằng pha lê quư giá hơn. Tập truyện ''Nhốt Gió'' của anh là con chim én báo tin xuân. C̣n tập truyện ''Kư Thác'' trong đó có hai truyện ngắn  ''Rừng Mắm'' và ''Ba Con Cáo'' mới là mùa xuân huy hoàng thật sự trong văn chương của anh. Hơn thế nữa, ''Rừng Mắm'' đă là một nén nhang tạ ơn công lao người dựng đất, làm cho lớp hậu sinh chúng ta cảm khái hơn.

B́nh Nguyên Lộc viết văn bằng cái trong sáng của thiên lương. Anh không làm dáng trong bút pháp và văn phong nhiều (trừ những cuộc đối thoại của những kẻ tân học). Anh không muốn bày tṛ rắc rối tối tăm trong cách cấu trúc tác phẩm và cách dàn xếp nội dung của nó. Cho nên anh không cho độc giả có thời giờ và cơ hội để suy nghiệm những ǵ anh viết. Anh cứ phóng bút tới tấp một cách thống khoái. Anh cứ giải thích tuồn tuột  và xôn xao những điều ẩn mật của tác phẩm ḿnh. Anh không cho độc giả t́m gặp cái ư t́nh thâm trầm cần phải có của một cây bút có ư thức về thẩm mỹ. Anh không tạo đuợc cái mênh mông thăm thẳm của câu truyện. Điều này, anh chứng tỏ cái tánh hồn nhiên khả ái của người Nam Kỳ nói chung, cái bộc trực của đa số cây bút gốc Nam Kỳ nói riêng.

Lại nữa trong ba tập truyện ''Mưa Thu Nhớ Tằm'', ''T́nh Đất'' và ''Cuống Rún Chưa Ĺa'', B́nh Nguyên Lộc cứ kêu gào nỗi nhớ quê, cứ ó ré t́nh quê cha đất tổ. Sự khơi dậy cảm xúc bị nhiều lượt lắm phen đem ra triễn lăm trưng bày một cách suồng să hớ hênh như thế đă lần hồi nếu không làm tắt nghẹn th́ cũng chận ngăn ít nhiều mạch cảm xúc của độc giả đi. Nếu anh bỏ bớt cái tánh chất nồng nàn đến chỗ sa đà thái quá của người Nam Kỳ đi th́ sự truyền cảm sâu đậm hơn, thấm đượm hơn.

*  *   *

Trong cuốn ''Văn học Miền Nam Tổng Quan'', Vơ Phiến có viết:

Cá tính văn học miền Nam là điều không thể phủ nhận, và nó rất hấp dẫn. Sự phát huy bản sắc miền Nam là một đóng góp thật quan trọng vào nền văn học Việt Nam. Đâu có phải chuyện ǵ xấu xa đâu mà vội khỏa lấp.

Về sắc thái đặc biệt, điều nhận thấy trước nhất là những từ ngữ địa phương, những cách nói riêng của địa phương. Từ ngữ riêng của miền Nam thật nhiều, càng ngày càng lộ ra nhiều. Trước 1954, dĩ nhiên nó vẫn phong phú, nhưng nó không hay xuất hiện trên sách báo, thậm chí trong tự điển là nơi lẽ ra phải tập trung đầy đủ tiếng nói dân tộc, cũng không có được bao nhiêu tiếng địa phương miền Nam. Lúc bấy giờ địa vị của tiếng nói miền Nam hăy c̣n khiêm tốn, ngay những học giả người miền Nam vẫn c̣n ngần ngại chưa muốn đưa những tiếng cà tàn, cà ràn, chiếc nóp, lục cụ v.v... vào sách. Sau nầy mỗi lúc các ông B́nh Nguyên Lộc, Lê Xuyên mới tŕnh ra, tuôn vô số, chừng ấy mới biết là chúng ta c̣n có cả một kho vô tận chữ nghĩa mấy trăm năm chưa xài đến! Chuyện đó th́ ''mắc mớ'' ǵ tới tui? Tui th́ ''kể số'' ǵ? Tui có ăn nhậu ǵ ''trỏng'' đâu nà? Ôi nghe lạ mà vui biết bao nhiêu!

Vào thời tiền chiến, trong các nhà văn nhà thơ gốc miền Nam đă chối bỏ ngôn ngữ miền Nam như Đông Hồ, Mộng Tuyết th́ đă có Nguyễn Chách Sắt, Lê Hoằng Mưu (bút hiệu Mộng Huê Lầu), Hồ Biểu Chánh. Lại thêm một vương tôn gốc Huế là Nguyễn Phúc B?u Đ́nh v́ sống trong Nam đă lâu và lấy vợ người tỉnh G̣ Công nên khi viết hai quyển ''Cậu Tám Lọ'' và ''Mảnh Trăng Thu'' bằng giọng Nam và ngôn ngữ miền Nam đặc sệt. Hồ Biểu Chánh là một tiếng nói lạc lơng, lẻ loi ở ngoài lề văn học sử, tác phẩm của ông chỉ được giới b́nh dân ở miền Nam đọc mà thôi. Nhưng nhà phê b́nh Vũ Ngọc Phan là người sáng suốt. Khi thực hiện bộ sách ''Nhà Văn Hiện Đại'' liền dành cho Hồ tiên sinh một chương khá tỉ mỉ với lời nhận xét ưu ái qua cuốn ''Cha Con Nghĩa Nặng''. Trong khi đó, ông Vũ gạt những bài du kư của Đông Hồ, những bài tùy bút của bà Mộng Tuyết và bà Mai Huỳnh Hoa (lấy bút hiệu Quỳnh Hoa) qua một bên. Có lẽ Vũ tiền bối bị dị ứng với lối ăn điệu đà thêu hoa dệt gấm của họ chăng? Bà Quỳnh Hoa là cháu kêu nhà chí sĩ Nguyễn Đ́nh Chiểu bằng ông cố, kêu nữ sĩ Sương Nguyệt Anh băng bà ngoại. Bà là vợ nhà cách mạng Đệ tứ Cộng Sản Phan văn Hùm và cũng là mẹ ruột của kịch tác gia Phan Tùng Mai.

Phải đợi đến sự xuất hiện của B́nh Nguyên Lộc trên văn đàn, th́ giọng văn miền Nam, ngôn ngữ miền Nam mới được chiếu cố khá nồng nhiệt. Nồng độ nhiệt thành càng tăng thêm qua các tác phẩm của Sơn Nam và của nhà văn nữ Vân Trang  tác giả tập truyện ''Một Lá Thư T́nh''). Bà Vân Trang vào năm 1957 tới  năm 1965 là một cộng tác viên cần mẫn trong ban biên tập của tạp san Bách Khoa, Mai. Đến khi có sự xuất hiện của Lê Xuyên trên các nhật báo, qua loạt tiểu thuyết đăng từng ngày   như ''Vợ Thầy Hương'', ''Chú Tư Cầu'', ''Rặng Trâm Bầu'', ''Kinh Cầu Muống'', ''Xinh'', ''Nguyệt Đồng Xoài'' v.v... th́ ngôn ngữ miền Nam được đương sự khai thác sung măn và lộng lẫy. Trong nhóm nhà văn trẻ a bán thập niên cuối của thập niên 60, chỉ có Nguyễn thị Thụy Vũ gốc miền Nam viết văn miền Nam khá tới. Trong khi đó, Triệu Triệu, Tiêu Kim Thủy, Hàn Song Thanh, Dương Tro La, Trương Đạm Thủy, Hoài Điệp To, Phương Triều th́ viết văn theo kiểu Bắc Nam  lẩn lộn, rau muống trộn  giá sống, mắm tôm pha mắm sặt.

Vậy th́ Hồ Biểu Chánh là kẻ  làm cho độc giả bắt đầu yêu thích lối viết văn miền Nam, nhưng phải đợi 20, 30 năm sau, chính  B́nh Nguyên Lộc không cần mang cờ quạt, biểu ngữ , nhưng vẫn làm cuộc hành tŕnh vào ngôn ngữ miền Nam, gây nhiều tiếng vang tốt đẹp và gieo niềm tin cho người cầm bút miền Nam để viết văn bằng ngôn ngữ, bằng giọng điệu miền Nam.

Vậy th́ hễ nói tới ngôn ngữ  và văn chương miền Nam  là phải nghĩ ngay tới B́nh Nguyên Lộc cũng như nói tới sóng th́ phải nghĩ ngay tới nước: B́nh Nguyên Lộc là sóng, cơi văn chương miền Nam là nước vậy.

B́nh Nguyên Lộc suốt 20 năm văn học miền Nam (1954 - 1975) đă lôi kéo (bằng ảnh hưởng của văn chương anh) một số người cầm bút miền Nam viết văn rặc giọng điệu và ngôn ngữ miền Nam như Sơn Nam, Lê Xuyên, Huyền Phong Tử (tác giả quyển tiều thuyết ''Ông Xă Ḥa''), hai bà Vân Trang và Nguyễn thị Thụy Vũ. Anh c̣n quyến rũ nhiều nhà văn gốc Bắc như Nguyễn Hoạt, Vũ Bằng, Thanh Tâm Tuyền, Nhật Tiến, Viên Linh, Nguyễn Thụy Long, những nhà văn gốc Trung như Vơ Phiến, Nguyễn văn Xuân, Phan Du viết văn  theo phong cách  văn miền Nam. Trong số này th́ có Vơ Phién, Thanh Tâm Tuyền, Viên Linh và Phạm Hồ viết rất vững vàng. C̣n những nguời khác th́ viết ba trật bốn vuột, nhưng cũng tếu đậm như các cây bút Nam Kỳ chính cống, cũng toát ra cái phong thái hào sảng, cái vẻ phơi phới thật quyến rũ. Thật t́nh, B́nh Nguyên Lộc không bao giờ cổ vơ, hô hào ngôn ngữ miền Nam ǵ ráo. Anh cũng chẳng xúi giục, dụ dỗ ai hết. Nhưng văn chương miền Nam dưới ng̣i bút anh và nhất là của Lê Xuyên rất tượng h́nh, tượng thanh, duyên dáng lạ kỳ, dễ thương độc đáo dễ lôi cuốn các cây bút miền Bắc có ḷng với ngôn ngữ miền Nam.

Trong cuốn ''Văn học Miền Nam tổng quan'', nhà văn Vơ Phiến có viết:

... Có thể nói tất cả sáng tác của B́nh Nguyên Lộc, Ngọc Linh, Sơn Nam, Vũ B́nh, Nguyễn thị Thụy Vũ đều chú trọng vào nếp sống, vào xă hội, phong tục miền Nam. Và đó là cả một lănh vực tân kỳ phong phú. Chúng ta đă có miền Nam từ ba trăm năm, nhưng người Việt miền Bắc miền Trung mấy ai biết về đời sống trong Nam trước ''Rừng Mắm'' của B́nh Nguyên Lộc, ''Hương Rừng Cà Mau'' của Sơn Nam. Những sáng tác như thế ma ra trước con mắt của đồng bào khắp nước một thế giới vừa thân yêu, vừa mới lạ biết chừng nào. (trang 32)

Viết về đất nước miền Nam, bằng ngôn ngữ văn chương miền Nam, B́nh Nguyên Lộc lẫn Sơn Nam viết bằng cả tâm tư. Động lực nào thúc đẩy họ? Hăy nghe Vơ Phiến cũng trong cuốn ''Văn Học Miền Nam Tổng Quan'' phân trần như sau:

... Nhất là những tác giả như B́nh Nguyên Lộc như Sơn Nam, vốn tha thiết với quê hương rất mực. Một vị ''chuyên trị''  miền Đông, một vị ''chuyên trị'' miền Tây, một vị chiếm lĩnh Tiền Giang, một vị Hậu Giang, họ đi sâu vào cuộc sống, vào lịch so địa phương, phát huy cái hay cái lạ làm cho miền Nam càng ngày càng bày ra những cái quyến rũ không ngờ. Những ''Đ̣ Dọc'', ''Rừng Mắm'', ''Ba Con Cáo'', ''Hương Rừng Cà Mau, ''Thổ Ngơi Đồng Nai'', ''T́m Hiểu Đất Hậu Giang'' v.v... của họ đă hay, sa dĩ càng hay là v́ sự thưang thức đầy cảm tính và khích lệ của đồng nghiệp Trung và Bắc... (trang 34)

Cuộc nội chiến Quốc Cộng đă giới hạn tầm mắt của thị dân, đă đưa một số trưang giả chốn hương thôn ra định cư a các thành phố, đă đóng khung cơi văn chương đa số người cầm bút. Những nhà văn trang lứa với bút giả như Trần Hoài Thư, Y Uyên, Nguyên Vũ chỉ viết thôn quê qua các bối cảnh tiền đồn, những vùng xôi đậu, những nơi có xảy ra các cuộc hành quân, các cuộc chạm súng. Cái thôn quên thuần túy bị ''chiến tranh hóa'', bị ''thời cuộc hóa'' nên mất mát nhiều bản sắc nguyên sơ. Chỉ có những người cùng lớp thế hệ với B́nh Nguyên Lộc, Sơn Nam, Lê Xuyên và có óc quan sát tinh nhuệ và có rung cảm sâu sắc như họ mới viết được cảnh hương thôn trên dải đất Nam Kỳ Lục Tỉnh vào thua cựu trào va nhất là vào thời tiền chiến mà thôi.

Những lớp nhà văn hậu sinh của B́nh Nguyên Lộc, Sơn Nam và Lê Xuyên tức là những nguời gốc miền Nam th́ chỉ có Xuân Vũ, Hồ Trường An là có thể lấy bối cảnh vào thời tiền chiến. Vào thời tiền chiến, Xuân Vũ đă là một cậu trai mới lớn, trí óc có thể thu nhận những ǵ mà mắt thắy tai nghe đang hoạt diễn trước mắt. Hồ Trường An phải cậy nhờ sách vở, những câu chuyện kể  của các bậc trưởng thượng v́ vào năm 1945 khi ng̣i loa chiến tranh vừa ngún cháy toàn cơi Đông Dương thi đương sự chỉ có 5 tuổi. Nhưng khi vừa vào trung học, đương sự ham học hỏi ở các nông dân lăo thành, a các khách thương hồ  lịch duyệt, nhất lại nhờ ông thân sinh Mặc Khải mà đương sự biết mọi cơ cấu hành chánh trong làng. Thua ấy trong mỗi làng có ban Hương Chức Hội Tề gồm 12 hai vị: Hương cả, hương chủ, hương sư, hương trưang, hương chánh, hương giáo, hương bộ, xă trưởng, huơng quản, hương thân, hương hào và chánh lục bộ. Các ông kỳ lăo từ hương cả cho tới hương chánh là đại biểu tiếng nói của dân chúng trong làng. Họ chủ tọa các buổi lễ cúng đ́nh, cùng lễ kỳ yên (tức là lễ cầu an). C̣n hương giáo th́ phân xử việc kiện cáo nho nhỏ xảy ra trong làng, trong xă, trong xóm. Hương quản coi việc an ninh. Chánh lục bộ coi sổ hộ tịch: làm khai sanh, làm giấy khai to v.v... cho dân làng, trước khi di chuyển công văn ra tổng, huyện, phủ, tỉnh. Lại có thêm thầy thôn chuyên lo việc công nho (tức là ngân khoản tài chánh trong ban Hương Chức Hội Tề). Ngoài ra, ban này cắt đặt thêm các ông hương nhứt, hương nh́, hương việc để lo sắp đặt trà rượu, tiệc tùng khi có quan trên tới viếng. Ông hương kiểm chuyên kiểm kê tài sản, ruộng vườn của làng, rồi giao tiền thu hoạch cho thầy thôn. Ông huơng cúng chuyên việc mua sắm thực phẩm để dọn tiệc cúng đ́nh, cúng lễ kỳ yên: mua vài con heo để quay và nấu cháo ḷng, mua nếp để dọn hàng chục mâm xôi. Ngoài ra ông ta c̣n lựa hàng chục ch́nh rượu và hàng chục thứ linh tinh khác cho chú hương bếp điều khiển các phụ nữ trong làng nấu nướng.

Làng thôn thời tiền chiến bước sang thời Đệ nhất Cộng Ḥa biến thành xă ấp. C̣n ban Hương Chức Hội Tề biến thành Hội Đồng Xă. Vào thời Đệ nhị Cọng Ḥa, trên các tuyến đường quốc lộ, hưong lộ, các cḥi canh thay thế đồn bót Nghĩa quân. Các quận có chi y tế, chi Thông Tin, chi bưu điện. Duy đ́nh làng vẫn c̣n đó. Nhà việc làng dành cho ban Hương Chức Hội Tề trước kia th́ giờ đấy tra thanh trụ sa Hội Đồng Xă. Mỗi năm vẫn có lễ cúng đ́nh, rước sắc thần   từ nhà việc làng qua đ́nh bằng kiệu bông có hương án long trọng.

Ở hải ngoại, các cây bút miền Nam viết truyện miền Nam như Nguyễn văn Sâm, Vơ Kỳ Điền, Nguyễn Tấn Hưng, Nguyễn Đức Lập, Phan thị Trọng Tuyến, chỉ viết về cảnh sống   tỉnh lỵ hoặc Thủ đô Sài G̣n. Nguyễn thị Ngọc Nhung có thể  lấn sâu ng̣i bút vào thời chiến tranh Đông Dương, chị viết về những cuộc xung đột giữa Hoà Hảo và Việt Minh dọc theo sông Hàm Luông. Kiệt Tấn  viết cuốn truyện dài ''Lớp Lớp Phù Sa'' a miệt Hậu Giang, chỉ kể chuyện sa đà mà không viết nổi khung cảnh cuộc đất thấm phèn chua cùng con cá lá rau a đó. Ngô Nguyên Dũng viết về cuộc chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh ở miền Tiền Giang đất nước Nam Kỳ mà không nói tới mặt trận Cao Hoà B́nh (Cao Đài, Ḥa Hảo, B́nh Xuyên). Bác sĩ Huỳnh Hữu Cữu viết về cảnh thôn quê khi c̣n thơ ấu, nhưng sự thu thập kiến thức về khung cảnh địa phuơng không được nhiều v́ thua ấy, anh c̣n bé quá, óc quan sát chưa nẩy na. Nguyễn văn Ba qua cuốn ''Làm Mai, Lănh Nợ, Gác Cu, Cầm Chầu'' và Phùng Nhân qua truyện dài ''Vàm Cả Cao'' chỉ viết miền quê Tiền Giang vào hai thời Cộng Ḥa. Trần Long Hồ với bộ trường giang ''Dung Thân'' nói về cuộc đổi đời ? miệt Hậu Giang sau cơn quốc nạn 30/4/1975. Sĩ Liêm với hai tập truyện ''T́nh Nghĩa Thầy Tṛ'', ''Những Mảnh Đời Chắp Vá'' th́ viết về nếp sinh hoạt ở Thủ đô Sài G̣n sau ngày Việt Cộng bạo chiếm miền Nam, đôi khi đương sự viết về miền quê ngoại của ḿnh nằm bên sông Vàm Cỏ Tây.

Những kẻ sinh ra vào 5 năm chót của thập niên 30 tra về sau thật sự đánh mất thôn quê nguyên sơ, thuần túy huống hồ là những nhà văn sinh vào thập niên 50. Dù không viết được một thôn quê tiền chiến, song ngôn ngữ miền Nam, văn chương theo giọng điệu miền Nam mà B́nh Nguyên Lộc khai công dựng lại trên cái nền tảng của Hồ Biểu Chánh đă hướng dẫn các cây bút gốc miền Nam a hải ngoại kết thành một lực lượng hùng hậu. Xin kể thêm các nữ sĩ gốc Nam Kỳ Lục Tỉnh như Song Thi với tạp bút ''Dỗ Giấc Đêm Dài'', Hoàng Dược Thảo với quyển  ''Tiểu Thư'',  Hồng Lan với tập truyện ''Như Khói Lam Buồn'', Dư thị Diễm Buồn với các quyển tiểu thuyết ''Chân Trời Hạnh Phúc'', ''Trong Lâu Đải Kỷ Niệm'', ''Xa Bến Thiên Đường'', ''Vén Màn Sương Mộng'', ''Ngoài Ngưỡng Của Chiêm Bao'', ''Một Góc Trời Thôn Dă''..,  Việt Dương Nhân  với hai tập truyện ''Gió Xoay Chiều''và ''Đàn Chim Việt'' v. v...

Đa số những kẻ viết về B́nh Nguyên Lộc chỉ nói tới sự nghiệp văn chương và sự nghiệp biên khảo của anh rất nhiều, nhưng họ  không nói tới  (hoặc nói rất ít ảnh hưng của anh trong công việc viết văn bằng giọng điệu ngôn ngữ miền Nam. Thật là một sự thiếu sót! Cái ảnh hưởng ấy vẫn c̣n theo chân một số người cầm bút  gốc miền Nam di tản ra bốn phương trời hải ngoại. Văn chương của họ thao thức măi trong cơi thưang ngoạn của độc giả kiều bào đă từng sống ở Miền Nam Việt Nam từ sông Bến Hải tra vào (gồm người Bắc di cư và người Nam bản xứ). Văn chương ấy  kéo dài măi trong niềm khao khát những kẻ yêu mến một miền đất nước tự do dân chủ  xa xưa, nơi ấy nồng ấm t́nh người,  phong phú con cá lá rau, tràn đ́a món ngọt ngọt  bùi bùi thấm đượm  quốc túy quốc hồn .Và có quá ngắm lắm hay không v́ nó chỉ kéo dài trên 20 năm mà thôi?

Chương Bốn

Nguyễn Thị Thụy Vũ Với Quyển

Truyện Dài ''Khung Rêu''

''Khung Rêu'' là một truyện dài trong 10 tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ, đă đoạt giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc vào năm 1971, đánh dấu thời huy hoàng của các cây bút nữ lưu như Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo, Thanh Phương, Minh Đức Hoài Trinh, Minh Quân, Túy Hồng, Nhă Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trùng Dương, Lệ Hằng, Trần Thị NGH (Trần thị Nguyệt Hồng), Nguyễn Thị Ngọc Minh, Ngô Thị Kim Cúc...

Quyển sách do Kẻ Sĩ xuất bản vào năm 1969. Sau đó, dưới chế dộ Xă Hội Chủ Nghĩa, nó được tái bản cùng với quyển truyện dài ''Chiều Xuống Êm Đềm'';khi tung ra hải ngoại nó được bán đắt như tôm tươi. Vào năm 2000, nó lại được Văn Nghệ tái bản lần thứ hai, nhưng cách tŕnh bày cẩu thả, sơ sót nhiều lỗi chính tả và nhiều lỗi sơ xuất khác làm cho câu văn hoặc câu đối thoại có ngôn ngữ Bắc Nam ba rọi, đọc lên nghe lố bịch và buồn cười. Cho nên đọc giả sành điệu không c̣n cảm thấy thú vị nữa khi lao từ trang đàu tới trang cuối. Chúng ta không thể ngờ một nhà xuất bản nổi tiếng ở hải ngoại như nhà xuất bản Văn Nghệ, khi gặp hồi mạt vận, làm việc một cách cẩu thả, tắt trách như vậy.

Bài nhận định này  dù vậy vẫn căn cứ vào các ấn bản do Văn Nghệ tái bản.

Đây là câu chuyện tang thương trong một gia đ́nh địa chủ giàu sang tới hồi khánh kiệt, nhưng nó được lồng vào một thời đại nhiễu nhương, khi mà giai cấp địa chủ tới giai đoạn mạt điệp trong cuộc chiến tranh Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh. Tác giả lấy một bối cảnh nhỏ lồng vào một vấn đề lớn lao: cảnh ngộ biến suy dập vùi trên lớp sóng phế hưng, trên khúc quanh của thời cuộc, trong sự vận hành của lịch sử. Xin đọc những lời trần t́nh của tác giả ở mục ''Thay Lời Tựa'':

Từ hồi c̣n nhỏ tôi đă phải chịu đựng một ám ảnh thường xuyên: sự suy sụp bệ rạc của một gia đ́nh thịnh măn ở miền Nam. (Cái thịnh măn của hạng điền chủ ở miền Nam trước đây đă là tục ngữ...). Nguyên nhân chánh của sự suy sụp bệ rạc này th́ ai cũng biết: chiến tranh. Một cuộc chiến tranh dằng dai hai mươi lăm năm, khoảng thời gian gần bằng số tuổi của tôi.

Tôi sanh ra và lớn lên trong một ḍng dơi đă đến hồi ly tán. Cái họ của tôi gồm hai chữ có gạch nối có thể sẽ gợi lên những cảnh sống huy hoàng, vương giả của một thành phần xă hội trong trí nhớ ao tù của những ông già bà lăo, những cảnh sống mà tôi chỉ nghe kể lại như một chuyện hoang đường trong những lần giỗ chạp.

Bây giờ chỉ c̣n lại một ngôi nhà thừa tự, cột kèo chạm trổ tinh vi đă mục rệu, và chẳng bao giờ lành những vết thẹo của chiến tranh không tha,những điền sản c̣ bay thẳng cánh chỉ biết đến qua một đống bằng khoáng vô dụng mà giấy đă ố vàng và ḍn tan, một đám bà con xa gần chi chít, nhỏ nhen ích kỷ như ṣ hến và hoàn toàn vô tích sự.

Tâm lư của hạng ngươi này khá đặc biệt. Đó là những thằng chơng trôi giạt lềnh bềnh trên ḍng sông hung tợn, một hạng người khư khư ôm lấy cái quá văng vàng son (nát dậu cũng c̣n bờ tre), dở thầy dở thợ dở cu ly, bất lực trước sự biến đổi nhăn tiền của cảnh ngộ, bấu víu vào nhau mà sốngsót. Trong ngôi nhà thừa tự đó, mỗi người là một ḥn đảo của những thói hư tật xấu... Có phải con người một khi đă mất thăng bằng trong cuộc sống vật chất thường để lộ ra rơ rệt hơn bao giờ hết những xấu xa tàn tệ của ḿnh? Và một giai cấp cũng vậy.

Khi khởi công quyển truyện này, tôi đặt trước cho tôi một chủ định: ghi lại cái ám ảnh từ thời nhỏ dại đó của tôi, trong ước vọng, một lần nữa, giải tỏa nó cho xong.

Lẽ hiển nhiên, tôi không hề có ư định làm công việc của nhà xă hội học hay của nhà đạo đức học. Những công viêc này vượt quá sức của tôi. Vả lại, chúng cũng chẳng lợi lộc ǵ cho tôi.

Tôi cũng không có ư định phân tích các nguyên nhân, và nhất là phê phán một ai hay một điều ǵ. Cho riêng tôi, tôi chỉ muón dựng lại cái thế giới khốn đốn đă bao trùm tôi cho đến ngày nay. Tôi chỉ muốn mô tả một hiện tượng xă hội hoàn toàn thân thuộc mà thôi.

Tiểu thuyết là tuởng tượng, ai cũng biết vậy, nhưng có tưởng tượng nào không bắt nguồn từ một phần sự thật?

Sở dĩ tôi tŕnh bày như vậy, là để xin những người thân thích của tôi, nếu có dịp ́inh cờ nào đọc quyển truyện nay, hăy rộng ḷng tha thứ cho tôi.

Vậy th́ chúng ta nên xếp tác phẩm ''Khung Rêu'' của Nguyễn Thị Thuy Vũ vào loại nào. Hiện thực? Không thể được, v́ loại hiện thực chỉ là một sự ghi chép biến động trong gia đ́nh hoặc trong xă hội một cách khách quan, không thêm thắt một nhân sinh quan, một thái độ nào trước cảnh bể dâu hưng phế. Tân hiên thực chăng? Thật ra những nhân sinh quan mà tác giả đưa vào tác phẩm hơi ít, không đủ dung lượng nâng tác phẩm lên hàng tân hiện thực. Nó chỉ ở lưng chừng giữa hai lằn mức hiện thực và tân hiện thực mà thôi. Nhưng chúng ta nắm chắc một điều: tác giả viết về gia đ́nh ḿnh từ thế hệ ông bà đến thế hệ cha chú ḿnh, dĩ nhiên không có tác giả hiện diện trong tác phẩm. Cho nên chúng ta không thể gọi đây là quyển tiểu thuyết tự truyện (roman autobiographique) của tác giả được. Danh sĩ Tào Tuyết Cần khi viết bộ ''Hồng Lâu Mộng'' c̣n có thể he hé cho đọc giả biết nam nhân vật chính Giả Bảo Ngọc trong quyển tiểu thuyết tràng giang ấy là bức phóng ảnh của ḿnh. Nhưng Nguyễn Thị Thụy Vũ th́ không chịu xuất hiện trong tác phẩm nên không làm sống dậy thế hệ thứ ba ( tức là thế hệ lũ cháu nội của ông Phủ trong truyện), trong đó có tác giả.

*   *  *

''Hồng Lâu Mộng'' bắt đầu với cảnh hưng thịnh của họ Giả và đi lần vào cảnh gia biến lụn bại, nhưng kết cuộc c̣n vớt vác được chút ít yên vững của nghiệp nhà. Nhưng ''Khung Rêu'' bắt đầu vào cảnh lụn bại, nhưng bề ngoài gia chủ (tức bà Phủ, vợ kế của ông Phủ) cố t́nh che giấu  để vớt vát thể diện với xóm làng. Rồi v́ cha con ông Phủ hư hỏng nên cảnh tái hưng không hề được xảy ra.

Mở đầu câu truyện, tác giả lần lượt giới thiệu gia đ́nh ông Phủ (không được tác giả nêu tên) gồm có: Vợ chồng ông Phủ, ba người con trai riêng của ông Phủ gồm có Canh, Thụ và Tường. Chiêu là con của ông Phủ và bà Phủ kế vốn là kẻ bán nam bán nữ.  Ngoài ra c̣n có cô Tịnh là cháu gái kêu ông Phủ bằng cậu và cô Ngự vốn là cháu gái kêu bà Phủ kế bằng cô. Trong hàng tôi tớ gồm có lăoTự, thằng Mọt (vốn người Miên), cô Ngà và cô Lài. Lại c̣n thêm nguời nam sinh tên Hoàng ở trọ ăn cơm tháng.

Ông Phủ là một bậc đường quan và điền chủ giàu có. Nhưng khi vào truyện th́ ông đă hưu trí và đất đai của ông trong vùng Việt Minh chiếm đóng bị sung công. Bà Phủ trước khi kết hôn với ông đă có một đời chồng. Bà khôn ngoan, khéo léo, ăn ở với ba người con riêng của chồng rất tử tế, lại biết quán xuyến đảm đang trong ngoài để tạo cho chồng một cuộc sống êm ấm. Canh là tên trưởng nam ngỗ nghịch, chỉ muốn cha ḿnh sớm chia gia tài cho ḿnh để được ăn chơi phung phí. Thụ, người thứ nam có cá tánh khá rơ rệt, rất hưởng ứng theo cao trào vào chiến khu của Việt Minh để chống Pháp. Tường là kẻ hời hợt, nhẹ dạ, lười biếng. Tịnh là cô gái lăng mạn, tinh thần yếu đuối, yêu Hoàng tha thiết bằng một mối đam mê oan nghiệt. Ngự là cô gái ḷng dạ lỏng lẻo, tâm tính bốc đồng, chuộng vật chất xa hoa. Chiêu th́ thích làm con gái, thích sống theo cuộc đời phụ nữ, nhưng bị mẹ o ép phải làm thanh niên nam tử trong khi đó trái tim Chiêu rung động bởi h́nh ảnh thơ mộng của Hoàng. Lăo Tự là người lăo bộc trung thành, t́nh lư đồng cân rất được chủ thương mến. Ngà là cô tớ gái, xinh xắn, nhưng không có cá tính, bị định mệnh chèn ép nhưng không đủ can đảm ngoi lên. Lài và Mọt ưa cà khịa với nhau theo kiểu giỡn bóng đùa trăng nhưng không hề phải ḷng nhau. C̣n anh nam sinh tên Hoàng cũng chỉ được tác giả tô màu lạt lẽo, không có ǵ đặc sắc ngoài khuôn mặt hữu t́nh và tài chơi đàn. Đây là nhân vật phụ, nhưng vẫn là nhân vật then chốt quan trọng: chàng đă làm cho Tịnh say mê đến điên rồ, làm cho Chiêu biết ḿnh không có trái tim của đấng nam nhi mà lại có một tâm hồn phụ nữ nhạy cảm đối với nam giới. Đă vậy, ả Lài c̣n đổ đốn say mê thầm lặng Hoàng và khinh rẻ Mọt vốn là kẻ dị chủng (người Cao Miên). Lại có hai nhân vật ở ngoài gia đ́nh ông Phủ, cũng được tác giả nói khá kỹ. Đó là ông Tám, cha của Ngà và Đực, anh chàng nông phu đă từng say mê Ngà và cưỡng bức Ngà.

*   *  *

Thảm kịch bắt đấu lúc ông Phủ cuỡng hiếp Ngà và Ngà mang thai. Cả nhà ăn một cái Tết khá hạnh phúc, trừ ông Phủ và Ngà (v́ cả hai có tâm sự riêng). Sau Tết, câu chuyện mang thai của Ngà mới được tiết lộ. Để che miệng thế gian, bà Phủ định cho Mọt một ít ruộng đất để y ta cưới Ngà. Nhưng ông Phủ không chịu. Thế là bà Phù dọn ở riêng, dù trong khuôn viên của chồng ḿnh. Bà không thèm coi sóc việc tề gia nội trợ nữa. C̣n Canh dù có về nhà an ủi bà Phủ, rồi lại ra đi và không được tác giả nhắc tới nữa. C̣n Tường ve văn Ngự cho tới lúc Ngự mang thai. Rồi cả hai rủ nhau bỏ nhà đi trốn để hưởng hạnh phúc trong môt góc trời quê hẻo lánh. Nhưng cả hai không đào đâu ra tiền, cam sống cực khổ rồi trở về  ngôi nhà thừa tự. Tịnh và Hoàng yêu nhau đúng như niềm mong mỏi của Tịnh. Nhưng Hoàng phải ra đi, không hiểu có phải theo giấc mộng đi làm lịch sử mà chính v́ ông Phủ cấm chàng dan díu với Tịnh. C̣n Chiêu th́ dù có yêu Hoàng nhưng biết rằng với cái thân phận bán nam bán nữ, chàng không thể nào hưởng hạnh phúc lứa đôi được nên bỏ nhà ra đi. Cao trào kháng chiến dâng cao, Thụ và luôn cả Tường bỏ vào chiến khu. Từ khi Hoàng biệt vô am tín, Tịnh phát điên lên. C̣n ông Phủ bị vợ hất hủi, đâm ra khổ sở và chết v́ chứng xung động tim. Ngà sinh con mà không nuôi được nên có ư định trở về quê sống với cha mẹ và nối duyên với anh chàng nông phu tên Đực. Ngà đi học may rồi ngoại t́nh với một anh chàng lính kín (tức là viên mật thám ngành T́nh Báo của Pháp) rồi bỏ nhà ra đi với t́nh nhân và dấn thân vào cuộc phiêu lưu t́nh ái không có ngày mai.

Mười năm trôi qua. Chiến tranh kết liễu. Thụ, Tường trở vè thành thị tỉnh Vĩnh Long, chứ không đi tập kết ra Bắc. Bà Phủ và lăo Tự đă qua đời. Thụ sống nhờ mẫu vườn cây ăn trái, phần đất hương hỏa c̣n sót lại. Tường cưới cô thôn nữ xinh đẹp khác, sống bằng nghề chích dạo, chạy ăn muốn hụt hơi v́ gia đ́nh đông con. Hoàng cũng cưới vợ khác, sống sung túc nhờ tiệm bán phụ tùng xe gắn máy.  Chiêu biệt vô âm tín. Người ta đồn Chiêu bị Tây bắt bắn chết tại Rạch Nước Lạnh nên Thụ dành lấy ngày đi của Chiêu để làm giỗ mỗi năm cho Chiêu. Tác giả không đuợc chu đáo v́ không nhắc tới Canh, Ngà, Mọt và Lài. Riêng Tịnh th́ sau 5 năm ở Dưỡng Trí Viện Biên Ḥa đă tỉnh lại trước khi chết. Nàng hỏi thăm người này người nọ và chết một cách sung sướng. 

*   *   *

Như đă nói, ''Khung Rêu'' là chuyện biến cố trong gia đ́nh ông Phủ. Từ một đơn vị nhỏ trong xă hội miền Nam vào 5 năm cuối của thập niên 40 của thế kỷ 20 cho tới 4 năm đầu của thập niên 50 cũng của thế kỷ này. Nhưng đọc qua những biến cố trong tác phẩm  ''Khung Rêu'', chúng ta thấy ngay một xă hội toàn vẹn của đất nước Nam Kỳ trong thời chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh. Điều này, chúng ta cũng đă biết  trong bộ ''Khói Lửa Kinh Thành'' (''Kinh Hoa Yên Vân'') của Lâm Ngữ Đường do Vi Huyền Đắc dịch. Cứ nh́n vào gia đ́nh họ Tăng, họ Diêu, họ Ngưu th́ chúng ta chẳng những biết ngay cái xă hội ở Bắc Kinh, mà c̣n ở vùng Hoa Bắc (miền Bắc Nước Tàu) và ở khắp địa lục Trung Hoa trong thời Trung Hoa bị Nhật Bản xâm chiếm. Trong khi đó, bộ ''Hồng Lâu Mộng'' của Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc  không bao giờ hé cho độc giả biết cái xă hội của kinh đô Kim Lăng (Nam Kinh bây giờ) hay của miền Hoa Nam (miền Nam nước Tàu)  tức là những cái bên ngoài Ninh Quốc Phủ và Vinh Quốc Phủ của họ Giả. Cũng vậy,  bộ ''Jalna'' của nữ sĩ Mazo de La Roche không bao giờ hé cho độc giả biết cái xă hội ngoài trang trại tên Jalna của ḍng họ Whiteoak, từ thế hệ ông cố bà cố cho tới thế hệ cháu chắt. Cho nên cái thành công của Nguyễn Thị Thụy Vũ là đă biết dùng cái nhỏ bé làm điển h́nh cho cái lớn. Chỉ tiếc một điều là chị thiếu nhấn mạnh để làm nổi bật cái xă hội ngoài gia đ́nh ông Phủ bằng những chi tiết chọn lọc và tiêu biểu hơn để tô đậm bức tranh xă hội ấy bằng những nhát cọ sắc nét hơn, bén ngót hơn, có thể cứa mạnh vào ấn tượng của độc giả hơn.  

Câu chuyện với nhiều biến cố trong gia đ́nh ông ông Phủ chỉ là một tượng trưng cho sự dằn co giữa hai giai cấp: địa chủ và tá điền. Ông Phủ và bà Phủ điển h́nh cho giai cấp địa chủ. Ông Tám, Ngà và Đực điển h́nh cho giai cấp tá điền. Nhưng trong cuộc chiến Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh, chủ điền chẳng những mất hết đất đai mà c̣n mất hết quyền lực. Vậy mà ở một vài địa phương, nhất là ở chốn thị thành, bởi mang cái thành kiến thâm căn cố đế ăn trên ngồi tróc đối với đám dân nghèo (chẳng hạn như bọn tôi tớ dưới tay ḿnh hay những kẻ làm ruộng mướn cho ḿnh), giai cấp địa chủ vẫn hà hiếp những kẻ làm ruộng mướn cho ḿnh. Ông Phủ cưỡng bức Ngà làm cho Ngà phai mang thai. Vậy mà ông Tám, cha của Ngà không dám tỏ lời trách móc và không có một ư nghĩ đi thưa kiện.

Ông Tám vụt co ro như con cuốn chiếu trước cặp mắt sắc bén của ông Phủ mà ông có cảm tưởng lúc nào cũng chong thẳng về ông. Miệng ông lắp bắp:

— Dạ... bẩm quan lớn... lóng rày được mạnh giỏi?

Cái mặc cảm thua thiệt vẫn không rời khỏi tiềm thức ông Tám. Ông khúm núm chưa dám ngồi làm ông Phủ phải nhắc lại:

— Ngồi đi chú Tám. Tôi có câu chuyện muốn nói với chú đây.

Ông Tám như bị thôi miên bởi đôi mắt xếch ẩn dưới cặp chưn mày rậm của ông Phủ. Ông lấy chiéc khăn choàng tắm trải trên mặt ghế và áy náy ngồi lên trên.

Giọng ông Phủ lúc nào cũng oang oang, cái nh́n từ cặp mắt trũng sâu như mũi kiếm phóng về người đối diện làm ông Tám tuởng chừng tay ḿnh dài và dư  như tay con mực.

Ông Phủ mở đầu câu chuyện:

— Chú tính lên rước con Ngà về dưới phải khôn

Ông Tám đáp nhỏ như không dám xác nhận:

— Dạ.

Ông Phủ châu mày:

— Theo tôi, con Ngà đang lúc bụng mang dạ chửa chú nên để nó ở trên nầy. Tôi sẽ hết ḷng lo cho mẹ con nó được vuông tṛn.

Ông Phủ ngừng lại ḍ xét phản ứng trên mặt nguời đối diện rồi tiếp lời:

— Dầu ǵ đi nữa, nó cũng là vợ tôi. Đứa nhỏ trong bụng nó là do khí huyết

tôi tạo ra, lẽ nào tôi làm ngơ cho đành đoạn. Nếu chú bằng ḷng, tôi sẽ sai trẻ nó về rước chú lên ở với anh Tự cho vui. Hai anh em bạn già hủ hỉ với nhau cho có bạn. Ông Tám ngồi yên, miệng cơ hồ bị khóa lại. Ông c̣n chỉ biết gật đầu vâng dạ về mọi lời đề nghị của ông Phủ và như từ bao lâu rồi, ông thấy ḿnh hèn hạ, bạc nhược, nhỏ nhoi trước con người mà ông đă nung nấu thù hằn. Ông Tám ngồi thừ ra như một khúc củi.

Ông Phủ ngó vào nhà giữa:

— Ngà đâu? Ra đây biểu coi.

Ngà bước ra với chiếc áo bà ba vải phin trắng. Ả nh́n ông Tám, đôi mắt đẫm lệ. C̣n ông Tám thấy con ḿnh lệch bệch với cái bụng gần ngày ông cũng không cầm được nước mắt tủi cực. Ông đứng dậy, chắp tay lên ngực:

— Con xin kiếu quan lớn.  Xin phép quan lớn cho con nói chuyện riêng với

con Ngà một chút.Ông Phủ lại hỏi:

— Chú chịu lên ở chợ không?

— Dạ bẩm quan lớn để con suy nghĩ lại.

Ông Phủ cười có vẻ cởi mở:

— Nếu chú không thích ở đâyth́ tôi cho bứt chú phần lúa mỗi năm.

— Dạ cám ơn quan lớn.

Ông Phủ liếc qua Ngà rồi lại nói :

— Bề ǵ tôi với chú cũng là chỗ thân t́nh với nhau. Chú đừng ái ngại ǵ hết.         

Ông Phủ day qua lăo Tự :

— H́nh như trong nhà c̣n chai rượu đế. Anh nên bắt con vịt cà cuống thật mập nấu cháo cho chú Tám giải lao. Phen nầy hai ông bạn già nhậu say một bữa.

Ông Tám bước xuống thềm lủi vào bóng tối. Ngà đợi ông ở nhà ngang, tại căn buồng riêng bỏ hoang từ mấy tháng nay của ả. Ả khêu ngọn đèn trứng vịt, rồi ngồi bên chiếc giường đóng bụi lờ mờ, khóc tấm tức tấm tủi. Ông Tám dịu giọng:

— Con tính sao đây? Muốn về với tía hay không?

Ngà hỉ mũi, giọng vẫn c̣n ướt đẫm nước mắt:

—  Con c̣n mặt mũi nào về dưới xứ nữa? Sống chết, vui buồn ǵ cũng phải rán chôn chưn ở đây, con nỡ nào báo đời tía hoài.

Ngà ngập ngừng một lát, rồi nói:

— Quan Phủ cũng tử tế với con. Tía đừng lo. Có lẽ gần Tết, con sẽ về thăm tía.

Thật ra, từ lúc bà Phủ giận chồng cho tới nay, ả nào có được một phút an vui? đă leo lên lưng cọp th́ phải ở ĺ nơi đó, rán mà chịu đấm ăn xôi.

 Ngà hỏi:

— Tía tính ở lại hay về ?

 Ông Tám sầu thảm:

— Lát nữa, tía về. Nếu có hưỡn, con nhớ về thăm tía. Chắc từ đây tới chết, tía không c̣n ḷng dạ nào lên đây nữa. (các trang 252, 253, 254)

Bởi có những kẻ cường hào ác bá, những tay điền chủ địa chủ ác ôn kia mà bọn Cộng Sản hô hào đấu tranh giai cấp, không phải v́ muốn bảo vệ dân nghèo, cũng không phải cốt chống đối bất công trong xă hội mà cốt để dựng lên đảng cấp nguy hiểm và tàn độc hơn giai cấp gấp trăm ngh́n lần. Chúng lợi dụng những kẻ thất bại trong xă hội, những đám lê dân ngu dốt vùng lên chống trả giai cấp địa chủ, giai cấp tư sản, luôn cả giai cấp trí thức tức là những phần tử may mắn hơn bọn nghèo nàn dốt nát. Chúng ta hăy đọc đoạn ông Phủ đi góp lúa do tá điền làm mướn ruộng của ông làm ra:

Ghe đổ vào con kinh trồng dừa nước hai bên. Trời đă xế chiều. Phương Tây nhuộm màu hồng rực rỡ. Ông Phủ xếp quyển sách, kéo kính trắng xuống sống mũi, ngồi bật dậy:

— Ḿnh nên ghé thằng Đực, nhờ nó hướng dẫn đi đường bộ ắt mau hơn đi ghe nhiều

Mọt cho ghe lủi vào ụ lá và bước lên nhà núp dưới tàn cây vú sữa. Con mèo

mun mắt xanh biếc và trong veo nằm dă dượi ngoài sân, nghe tiếng chân Mọt, vụt đứng dậy, nh́n lơ đảng người khách lạ, rồi ơng ẹo vào trong.

Mọt hân hoan bước vào hàng ba, lên tiếng:

— Anh Đực đâu rồi?    

Đực cởi trần, ḿnh mẩy lực lưỡng và đen đúa, từ nhà bước ra. Gă kềm hăm được sự ngạc nhiên vừa chợt biểu hiện trên khuôn mặt khi đă nhận ra Mọt. Gă chau đôi mày xếch rậm như người lúc bực ḿnh lại bị quấy rầy. Gă hất hàm hỏi:

— Xuống hồi nào đó? Đi với ai đây?

Mọt mỉm cười cầu tài:

— Dớ! Khéo làm bộ hoài, tôi đi với quan lớn... ủa với ông thầy thuốc bắc chớ đi với ai? Không lẽ tôi đi một ḿnh th́ ai góp lúa đây?

— Thầy thuốc bắc nào?

Mọt sợ sệt nh́n quanh rồi nói nhỏ:

— Anh đừng có nói lớn. Thầy thuốc bắc tức là quan lớn đó đa anh. Quan lớn sợ mấy ông Việt Minh bắt nên mới biểu tôi kêu là... thầy thuốc bắc.

Mọt bước vào nhà. Căn chính giữa bị bồ lúa cao nghệu choáng cả lối đi. Đực hướng mắt về phía xẻo lá, cười lạt:

— Quan lớn của anh đi cũng chẳng ai thèm đong lúa, chớ nói ǵ anh hay thầy thuốc bắc.

Mọt trố mắt:

— Dớ! Anh nầy hỗn ghê! Sao dám ăn nói ngang ngược vậy?

Đực chắp tay sau mông:

— Xuống biểu quan lớn của anh rút lui lẹ đi. Nếu lạng quạng đ̣i góp lúa nữa th́ coi chừng bị bắt quản thúc bây giờ.

Mọt  chưa kịp nói th́ Đực gằn giọng:

— Anh có biết ruộng đất của quan lớn anh do mồ hôi nước mắt của anh em tá điền tụi tui đóng góp không?

 Mọt ngơ ngác nh́n Đực. Có phải đây là một nhân vật mới do thời cuộc tạo nên không? Đực mở hai con mắt gườm gườm nh́n người đối diện, giọng rít lên:

— Bọn chủ điền khốn nạn đă bao đời bóc lột anh em nông dân. Nhưng thời

thế đă đổi khác rồi. Ngày nay, nông dân đă giác ngộ quyền lợi, đứng lên tranh đấu, quyết không để bọn chủ điền đè đầu đè cổ nữa...

Đực nói thao thao, càng nói càng say. Những lời lẽ của Đực, đối với Mọt sao mà lạ tai. Mọt chỉ về phía ghe hầu:

— Đó! Anh giỏi xuống dưới mắng quan lớn đi. Tôi đâu có ăn nhậu ǵ với ruộng đất.

Đực hất hàm:

— Tôi đâu có sợ ai. Anh giỏi học lại quan lớn của anh đi. Ông Phủ đă leo lên bờ, chậm răi đi vào sân nhà Đực. Mọt và Đực bắt đầu đấu khẩu với nhau, mặt người nào, người nấy xanh dờn.

Ông Phủ cắt ngang câu chuyện:

— Ǵ đó Mọt?

Đực quay lạy hỏi xẳng xớn:

— Ông đi thâu lúa ruộng phải không?Ông Phủ quắc mắt nh́n Đực. Chỉ mới chưa đầy một năm mà hắn đă thay đổi quá nhiều. Trước kia, khi hầu chuyện với ông, hắn co ro như một con cuốn chiếu. Bây giờ hắn đang hất mặt, hách dịch nh́n ông thiếu điều muốn ăn tươi nuốt sống ông. Nhưng ông vẫn giữ thái độ khinh thường.

 Đực tiếp, giọng càng lúc càng cao lên:

— Ông hăy quày ghe về ngay, nếu không vị chút t́nh nghĩa cũ, tôi đă ám hại

ông rồi. Tất cả ruộng đất của bọn tay sai cho Tây đều được chia cho dân nghèo hết rồi. Ông đừng có mong c̣n một hột lúa cho chim ăn, một thẻo đất cho chó ỉa nữa.

Đực chỉ nói như vậy rồi bỏ qua hàng xóm. Một lát sau, ông Phủ chợt thấy một bọn tá điền của ḿnh tụ họp bên kia doi đất, nhốn nháo chỉ trỏ về phía ông. Trái với mọi năm, ông không c̣n được họ đón rước nồng nhiệt và thưa bẩm vâng dạ ngay khi ghe ông vừa cặp bến nhà Đực.

Ông Phủ thất thần hối Mọt:

— Về mau, Mọt! Bây giờ vô miệt trỏng mà góp được vàng, tao cũng không

đi. Chèo mau đi con, tụi nó hạ sát bọn chủ tớ ḿnh bây giờ đa. (các trang 274, 275,276, 277)    

*   *   *

Về vấn đề mô tả cảnh vật, nhân vật và tâm trạng nhân vật, Nguyễn Thị Thụy Vũ chỉ phác họa bằng những nét gảy gọn, không đi sâu vào chi tiết, không đào xới nhiều những vận sự rườm rà. Mỗi một khung cảnh có một lối dàn dựng riêng. Chẳng hạn như căn nhà thủy tạ của ông Phủ, tác giả không mô tả ngay chính nó mà tả những cái chung quanh nó hoặc bên ngoài nó:

Ngự ngồi hong tóc trên chiếc băng dài ngoài nhà thủy tạ. Mái tóc nàng dài quá nửa lưng c̣n ngan ngát mùi lá bồ kết. Nước sông đầy ăm ắp vỗ vào bờ đất từng đợt êm đềm. Ngự nh́n trời mênh mông. Giàn hoa lư kết từng chùm rũ xuống đầu nàng và tỏa mùi thơm nhẹ. Mảnh trăng ch́m dưới nước với màu thủy ngân bạc thếch bị gió xô giạt từng cơn. Con sông như một giải lụa nhấp nhô dài bất tận. Gió sửa soạn cuộc hành tŕnh bên bờ sông, ḷn qua kẽ tóc, vuốt lên má, xoa nhè nhẹ trên làn da nàng làm nàng nhẹ nhơm, phơi phới. Ngự có thói quen, khi chiều xuống, là ngồi nhà thủy tạ cho đến lúc đi ngủ. Nàng thích ngắm mấy chiếc ghe thương hồ và cảnh tượng sinh hoạt muộn màng trên sông. (trang11)

Ở đoạn trên đây, t́nh cảm người ngắm cảnh không lọt vào khung cảnh rơ rệt, tức là không có vấn đề đối cảnh sinh t́nh. Nhưng ở đoạn sau đây, chúng ta mới thấy t́nh lồng vào cảnh, cảnh khơi dậy t́nh. Tác giả tả cảnh một buổi trưa nắng chói chang và tiện dịp giới thiệu con người t́nh cảm phong phú của Tịnh:

Tinh là một cô gái đa cảm, nh́n đời bao dung, yêu cây cỏ thiên nhiên, mơ một thế giới khác lạ trong tương lai và muốn khám phá cảm giác của ḿnh khi tiếp nhận hơi thở, nụ hôn và ánh mắt người t́nh. Nàng c̣n yêu con sông sau nhà v́ có đôi lúc nó gợi cho nàng một cuộc đời bằng phẳng và thơ mộng. Buổi sáng nàng thường đứng dưới gốc cây khế nh́n những vệt sương mềm mại bốc trên mặt nước. Nàng c̣n yêu khu vườn bên nhà. Bóng cây râm mát có thể xoa dịu từng cơn nắng hè chói chang. Cây cối, chim chóc, trái ngọt trong vườn như có một ngôn ngữ bí mật riêng: Hăy yêu cuộc sống một cách cạn cợt hồn nhiên. Đó là tạo được niềm hạnh phúc trong sáng. 

Tịnh nhắm mắt lại để tưởng đến ánh mắt sắc ngọt của Hoàng. Tại sao chàng ăn Tết ở đây? Chàng nghĩ ǵ về cái Tết tha hương? Từ thuở nhỏ, Tịnh đă có một niềm trắc ẩn dồi dào. Gặp đám ma nào đó nàng khóc như chính ḿnh vừa mất mát một người thân.

Nàng cũng thường chăm tưới, săn sóc hoa kiểng. Khi gặp một con sâu. Tịnh không nỡ giết nó, chỉ lấy cái que gắp nó sang khóm cỏ dại. Nàng tưởng tượng nó sẽ lột cái vỏ xấu xí để thành con bướm rực rỡ. Bây giờ nghĩ tới nỗi cô đơn của chàng trai xa lạ, tự nhiên Tịnh cũng quyết t́m cách chia sẻ với chàng.

Tịnh đi về phía lẫm lúa. H́nh như nàng sung sướng một cách bồng bột. Nàng nh́n chiếc sân gạch tàu. Những cái sàn lót lá chuối khô bày đầy những trái chuối cau đă lột vỏ. Mật trong chuối, dưới sức nắng mặt trời đă đặc sánh lại. Chuối phơi như thế ngon hơn chuối sứ ép mỏng. Những con ong mật bay quanh quẩn bên sân. Tịnh chợt thấy nắng mỏng trong suốt tưng bừng mở cho nàng một thế giới xán lạn có những cây  cau tỏa hương và rủ bóng mát bên thềm.

(các trang 81, 82)

Nguyễn Thị Thụy Vũ là một nhà văn tả chân. Lối mô tả cùng nghệ thuật diễn tả t́nh ư các nhân vật dưới ng̣i bút của chị đượm đà một chút hương vị thăi thừa của văn phong bút pháp các nhà văn tiền chiến, nhất là các nhà văn trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Đó cũng là trường hợp của nữ sĩ Nguyễn Thị Vinh. Nhưng bà Vinh th́ dừng lại trong cái ṿng quỹ đạo văn chương của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, c̣n Nguyễn Thị Thụy Vũ lại muốn đi xa hơn: Đôi lúc chị muốn cứa mạnh vào ấn tượng người đọc những vết hằn sâu đậm hơn. Trừ Vũ Trọng Phụng ra, văn chương tiền chiến nói chung và văn chương nhóm Tự Lực Văn Đoàn nói riêng làm ǵ có những vụ cưỡng dâm. Nguyễn Thị Thụy Vũ trong ''Khung Rêu'' có cho ả Ngà bị  cưỡng dâm bởi hai người: Ông Phủ và tên Đực. Lại thêm một vụ thông dâm giữa Tường và Ngự trong chiếc ghe chui vào đám lau sậy. Nhưng dù viết chuyện cưỡng dâm hay vụ thông dâm, tác giả không cố t́nh khiêu dâm mà nhằm tạo cái đầu mối, cái then chốt của tấn thảm kịch mà tác nhân lẫn nạn nhân đều phải kê vai gánh vác cái hậu quả bi đát và cái hệ lụy oan trái sau này.

 Xin đọc cảnh ông Phủ cưỡng dâm Ngà nhân một hôm bà Phủ về miền đất đỏ để thăm người em trai:

... Như các buổi tối thường lệ, Ngà làm mùng mền cho ông Phủ. Ngọn đèn chong trong buồng gói vụt tắt v́ luồng gió từ ngọn cây hoàng lan trồng ngoài cửa sổ lùa thốc vào. Ông Phủ nằm dài trên chiếc giường đồng đọc sách. Ngà bước vào khép nép mời ông chổi dậy để ả giũ chiếu, quét giường căng nệm... Trong bóng tối đặc sệt, ông Phủ ngồi dậy quờ quạng đụng phải bàn tay mát lạnh của Ngà. Một cảm giác kỳ diệu len lỏi vào các tế bào của tuổi hoàng hôn. Ngà cũng hồi hộp không kém nên rút tay lại, nhưng bất thần tay của ông Phủ choàng qua hông ả. kêu lên nho nhỏ. Thân ḿnh béo tṛn và chiếc bụng phệ của ông lúc đó nóng như chiếc nệm cuốn tṛn đem phơi nắng.  đă nằm gọn trong ṿng tay của người đàn ông mà tự bấy lâu nay, ả kính nể, sợ sệt như một vị thần.

Từ trước khoảng cách biệt giữa ông Phủ và ả như được ngăn chận bởi một bức màn sắt kiên cố. Nét mặt lạnh lùng, lời nói thị oai của ông chủ như đẩy ả vào khuôn khổ, bổn phận phục dịch trong nhà. Ṿng tay rắn chắc của ông Phủ siết chặt lấy ả, hơi thở dồn dập như muốn làm vỡ tung lồng ngực của ông. Ả không thể kêu cứu ai được v́ chính ả cũng bị sự kích thích hung dữ, mới mẻ lung lạc. Lời kêu nếu có cũng chỉ dành cho kẻ đang gh́ chặt thân thể mang nhiều lửa cảm xúc của ả.

— Đừng ông!... con sợ lắm. Bà biết được chắc con chết. Bóng tối trong dần... Ông Phủ đắm đuối nói :

— Coi ḱa... Để quan... thương Ngà một chút.

Ông Phủ vừa nói dứt câu, Ngà đă bị quật xuống chiếc giừng ḷ so. Toàn thân tê dại, ả đẩy mặt chủ ra một cách yếu ớt, miễn cưỡng. Ả bất lực trong vùng cảm xúc sôi trào với cái thân thể rực lửa.lờ mờ ngắm chủ múa may quay cuồng như cái bông vụ...

Ngà nhếch mép cười. Lớp lớp tế bào đang làm cách mạng dưới làn da nhạy cảm của ả... Và ả đă phục tùng cái thân xác tội nghiệp của ḿnh. (các trang 51, 52)         

Đực là tên tá điền cũng làm ruộng mướn (người Bắc gọi là cấy rẽ) cho ông Phủ. Hắn được ông Tám, cha của Ngà tính chọn làm rể, nhưng Ngà từ khi ra ở đợ nơi chốn thị thành lại thấy hắn quá thô lỗ quê mùa nên dụ dự. Lại nữa, từ khi tằng tịu với ông Phủ, Ngà không muốn dây dưa với hắn v́ sợ ông Phủ ghen tương. Sau mùa gặt, Lực cùng ông Tám chở lúa lên nộp ông Phủ. Ghe hắn cắm sào dưới bến nước của ông. Cho nên vào lúc đêm khuya trời tối, Đực leo lên chỗ Ngự ngủ để cưỡng bức Ngự :

Đực lần ṃ lên nhà thủy tạ, rồi đi một mạch qua dăy nhà ngang. Căn pḥng Ngà c̣n thắp ngọn đèn ngủ leo lét. Chiếc giường kê sát vách, Ngà nằm ngủ say, hơi thở phập phồng bộ ngực dầy như hối thúc Đực. Cửa pḥng chỉ gài bằng một cây song ḥng. Đực cố gắng tḥ tay qua chấn song ḥng gài cửa mà không gây một tiếng động. Pḥng dành cho lăo Tự và Mọt liền bên cạnh. Tiếng ngáy ồ ạt của Mọt cất lên như tiếng xẻ gỗ bên nhà máy cưa. Đực yên tâm và bắt đầu thi hành ư định của ḿnh. Vụt có tiếng mớ ú ớ của lăo Tự làm hắn khựng lại. Hắn nh́n dáo dác như tên trộm. Bóng tối từ hàng cây dầy đặc, âm u phủ lên dăy nhà dành cho các người giúp việc. Côn trùng rỉ rả làm tăng thêm chiều sâu của đêm khuya. Gió ŕ rầm trong lá và làm ngọn đèn chong trong gian nhà của Ngà xao động.

Đực thổi một hơi dài. Chiếc đèn bóng trứng vịt tắt phụt. Bóng tối đặc sệt lan tràn mọi nơi. Chờ một lúc vẫn không nghe Ngà trở ḿnh, Đực yên tâm đẩy nhẹ cánh cửa vào trong. Trái tim hắn đập mạnh. Một cuộc cưỡng bức lén lút xảy ra lần thứ nhất trong đời Đực. Hắn rút chiếc khăn choàng sọc thường dùng quấn cổ, cầm nơi tay, rồi sấn tới mép giường. Hắn sẽ không dùng lời thủ thỉ bên tai Ngà, mà dùng sức mạnh chiếm đoạt ả cho bằng được. Đực lấy khăn chụp lên mặt Ngà và lấy ngón tay nhét khăn vô miệng ả.

Ngà dẫy dụa một cách bất lực dưới thân thể nặng ch́nh chịch đè lên ả. Ả bị bế xốc xuống đất v́ Đực sợ chiếc giường tre có thể gây ra tiếng động. Ngà bị khóa miệng, tay chân ả bị gài tréo như con gà bị bỏ vào soong. Ả bất lực khi bàn tay Đực đặt lên bụng ả.

Tấm thân hực lửa và nhớp nháp mồ hôi của gả thanh niên run rẩy trên thân thể ả như lên cơn sốt sữ dội. Nước mắt Ngà ứa ra, đầu ả lắc lư tránh né chiếc khăn muốn làm ả tắt thở.

Ngà lịm dần... nhưng vụt khối nặng trên thân Ngà khựng lai. Có tiếng thở mạnh của lăo Tự bên kia vách và tiếp theo là tràng ho húng hắng của lăo. Ngọn đèn bên kia đưọc khêu sáng hơn. Đực lấy tay bịt mặt Ngà. H́nh như lăo Tự trở dậy lục đục rót nước uống. Tiếng nuớc rót từ b́nh vào tô đá lỏn tỏn. Ngà ra sức cựa quậy để mong lăo Tự nghe tiếp cưu. Hai bàn tay chai dầy của Đực bịt kín mắt Ngà. Những ṿng tṛn xanh tím đỏ vàng xoay tít trong vũng tối hai con mắt ả. Tiếng gà bắt đầu eo óc trong xóm. Ngà ngột ngạt tưởng chừng trái tim ḿnh không c̣n hoạt động nữa. Mồ hôi rỉ rả từ chân tóc, chân lông ả, nhưng cớ sao ả cảm thấy lạnh buốt đến nổi gai ốc dưới tấm thân nóng bỏng của gă thanh niên. Vụt chiếc mền trên giường phủ lên ả, rồi cuốn ả lại và tiếp theo đó, tiếng chân chạy th́nh thịch ra cửa. Ánh đèn bên kia bỗng lu xuống. H́nh như lăo Tự đă vào giường dỗ giấc trở lại. (các trang 73, 74)

Tác giả cố t́nh muốn viết chuyện theo loại tiểu thuyết khiêu dâm (romans pornographiques) chăng? Tôi e không phải. Viết loại khiêu dâm, tác giả phả vẽ ra một nam nhân vật đẹp trai cường tráng, một nữ nhẩn vật kiều diễm sexy và mô tả  một cách hào hứng những cái  bộ phận  khích dục trên thân thể con người.  Và nhất là phải mô tả tỉ mỉ những động tác hành dâm. Có vậy, đương sự mới đánh thức con lợn ḷng đang say ngủ ở từng độc giả. Đằng nay, chị không mô tả nhân diện và vóc dáng của Đực và của Ngà. Lại nữa, ở đoạn trên, cái tấm thân ph́ nộn và cái bụng bự chang bang của ông Phủ nếu được đưa lên màn ảnh th́ chỉ tổ gây ác mộng cho khán giả. Đă vậy chị chỉ mô tả chi ly những động tác dành để chuẩn bị cuộc cưỡng bức chứ ít khi đi sâu vào các động tác cưỡng bức. Tuy nhiên nếu lăm le đưa ng̣i bút vào cuộc cưỡng bức th́ chị chỉ tả qua quít những động tác mà kẻ đứng ở vị trí xa xôi chỉ được trông thấy cảnh cưỡng dâm một cách tổng quát mà thôi. Như vậy, khi sáng tác quyển ''Khung Rêu'', Nguyễn Thị Thụy Vũ táo tợn th́ có, mà khiêu dâm th́ không bao giờ. Càng viết táo bạo, tác giả càng khai thác cái bản năng thú tính của con người, càng chất chồng hệ lụy vào tấm thảm kịch gồm các nhân vật then chốt trong truyện. Cho nên dù áp dụng văn phong trong văn chương tiền chiến, nhưng tác giả đưa đẩy hành tŕnh cây bút của ḿnh vào những cuộc phanh phui tàn nhẫn hơn.

*   *  *

Mỗi nhân vật có một cấu trúc riêng, tuy khái quát nhưng vẫn được tác giả chăm chút công phu. Ít khi tác giả tả chân dung và ngoại h́nh của các nhân vật, mà nếu có th́ chị cũng chỉ tả vài nét khái quát mà thôi. Nhưng cuộc sống nội tâm và cách sống ở ngoài đời của họ được chị chú trọng hơn.

Ông Phủ là nhân vật xương sống trong câu truyện. Chúng ta chỉ biết được cái thân thể mập tṛn và cái bụng phệ của ông mà thôi. Ông là kẻ nhu nhược đối với con cái. Ông hiếu sắc và có nhiều cuộc ngoại t́nh khi người nguyên phối  đầu tiên của ông hăy c̣n sinh tiền. Sau khi cưới vợ kế, ông lại say mê cô đào hát bội tên là Năm Thành. Cô Năm là nhân vật mờ (personnage obscur) chỉ xuất hiện vài gịng ở phần thuyết thoại (la narration) mà thôi. Khi độc giả bước vào chương 4 của quyển sách, chúng ta mới chứng kiến cảnh ông cưỡng bức Ngà để rồi biến cuộc gian dâm thành hoàn cảnh nạp sủng (cưới hầu thiếp) sau này. Vào thời phong kiến, luôn cả vào thời Pháp thuộc, các quan lại giàu sang thường có năm thê bảy thiếp. Trừ bà thứ thất được hợp thức hóa do người chính thất cưới hỏi cho chồng, c̣n những bà sau đếu là hầu thiếp cả. Đó là hạng nửa hầu gái nửa tiểu tinh, sống phục dịch cho chồng và vợ cả như đầy tớ, thỉnh thoảng được chồng ban ơn sủng trong viêc gối chăn. Trong trường hợp này, ông Phủ muốn biến Ngà từ cô tớ gái thành người hầu thiếp để được ả săn sóc ông và giúp ông giải quyết sự tấn công cuối cùng của nhục dục trên thể xác tàn tạ của ông. Ông bất lực với con cái. Ông đại diện một lớp người đă từng nắm quyền lực, nhưng rồi v́ tuổi già và băn chất thích cầu an nên mất quyền lực để trở nên bất lực trước mọi chặng của gia cảnh biến suy. Vốn là quan lại do chế độ thuộc địa của Pháp đào tạo nên ông không ưa bọn Việt Minh v́ ruộng đất ông bị họ sung công: bọn tá điền của ông bị họ sút siểm trở lại hổn xược ḱnh chống lại ông. Xin cùng đọc cuộc bày tỏ tâm sự của ông với lăo Tự:

Cơn giận được hâm lại, ông nói sôi nổi:

— Cái thằng Đực là phường khố rách áo ôm mà bây giờ nó cũng bày đặt lên

mặt lên mày hỗn láo. Rơ ràng là thứ chầu ŕa bọn cướp cạn. Đồ siêu mưu làm loạn cả đám. Ông nói trơn tru không ngập ngừng, vấp váp. Những ngày c̣n lênh đênh trong vùng kiểm soát của phe kháng chiến, ông cố dăn ḷng, khóa mồm, khóa miệng lại, nhưng bây giờ cơn bực tức phải được trào ra, kẻo ngực ông bể mất.

Ông Phủ gằn giọng:

— Rủi bọn đó thắng được chánh phủ Mẫu Quốc th́ ḿnh có nước trốn qua Cao Miên mà ở. Nói vậy chớ, tụi nó rán mà lo không có một thẻo đất chôn thây, chớ nói ǵ tới thắng trận ban sư? Tôi thích Tây cai trị, Tây mà đi rồi, ḿnh chết đói cả đám.

Lăo Tự cười khà khà, không có ư kiến. Thụ kín đáo lắc đầu. Ông Phủ hăng hái:

— Tôi nói thiệt đa. Nếu con cháu tôi chộn rộn bắt chước tụi học sinh bỏ học,

bỏ nhà đi theo bọn phản loạn đó, lập tức tôi đi báo cáo cho Tây biết liền và nếu cần, tôi đem đóng trăn tụi nó rồi đem nộp gấp. (trang 289)

Bà Phủ đại diện cho lớp người phụ nữ khôn ngoan, xuất thân từ  hoàn cảnh trung lưu cấp thấp (vợ góa của một thầy Su, thầy đă từng làm việc trong các đồn điền cao-su của người Pháp). Khi bước vào địa vị phu nhân một bậc quan lại, bà không bỡ ngỡ, không cảm thấy mặc cảm trước cái địa vị khó khăn khi phải điều khiển một cơ nghiệp đồ sộ và một lũ con chồng. Bà cư xử khéo léo với lũ con chồng và theo tác giả cho biết th́ bà thật bụng thương yêu họ, nên được họ thành thực kính mến. Rất đỗi Canh là cậu trưởng nam ngỗ nghịch của ông Phủ mà c̣n tin cậy bà và bênh vực bà thay. Tiếc một điều là bà không hoán cải được t́nh thế khi những nhát búa khốc liệt của ác nghiệp bổ tới tấp lên hạnh phúc của bà: sinh một đứa con bán nam bán nữ, chồng có cô hầu trẻ có địa vị thấp thỏi hơn bà, không thể hoá cải chồng v́ cả ba (vợ chồng bà và Ngà) ở vào thế kẹt khi Ngà mang thai. Bà không thể răn dạy cô cháu gái của ḿnh khi cô ta có đủ lông đủ cánh để làm cuộc phiêu lưu t́nh ái. Bà cũng không cản ngăn nổi con ruột của ḿnh bỏ nhà theo phe kháng chiến. Cái khéo léo, cái quyền biến của bà cùng cái thiện chí của bà trong công việc chống đỡ giang sơn nhà chồng hóa ra vô dụng. Tác giả không cho chúng ta biết bà đuợc bao nhiêu tuổi, nhưng  chúng ta có thể đoán bà vào khoảng trung niên, t́nh yêu đối với chồng bà hăy c̣n thắm thiết và thể chất của bà hăy c̣n đang độ nồng nàn. Trong gia đ́nh trưởng giả, trong gia đ́nh quan lại, một bà phu nhân một khi đă luống tuổi th́ không c̣n nghĩ tới t́nh yêu của chồng đối với ḿnh nữa. Họ chỉ nghĩ tới quyền lợi của ḿnh mà thôi. Họ bằng ḷng cho chồng nạp thiếp, để dễ bề biến các người thiếp thành con ở, con đ̣i không trả tiền công. Nhưng bà Phủ th́ không phải ghen v́  sợ mất quyền lợi v́ ông Phủ có định nâng Ngà lên hàng thứ thất đâu. Khi biết chồng phản bội ḿnh, bà trừng phạt bằng cách cất nhà sống riêng. Nhưng khi nhà chồng có tai biến (trường hợp Tịnh bị điên), bà ra tay giúp đỡ. Chồng chết, bà lo ma chay chu tất. Bà điềm đạm, quăng đại, yêu chồng, nhưng không hề tha thứ việc lầm lỡ nạp thiếp của chồng.

Canh, người con trưởng nam trong gia đ́nh, tuy xuất hiện trong tác phẩm rất ít, nhưng được tác giả tô đậm đà bằng những màu sắc nổi bật. Chàng ăn chơi phóng đảng, sống báo cô cha ḿnh nhưng vẫn hỗn hào căi vả cha ḿnh. Một thứ cây chùm gửi đầy gai độc. Tuy nhiên, Canh vẫn sáng suốt nhận biết bà kế mẫu ḿnh chống đỡ gia đ́nh bằng tất cả thiện chí, bằng tất cả tấm ḷng tươi son bền sắt.  Cho nên chàng vẫn kính mến và tin cậy bà. Đôi lúc, Canh cũng chán ngán cảnh trụy lạc của ḿnh và muốn t́m một lư tưởng để thoát khỏi hoàn cảnh truy hoan buồn nản của ḿnh. Sự hướng thiện th́ có, nhưng nghị lực th́ không. Cho nên chàng vẫn không sao vượt thoát nếp sống cũ.

Canh ngă người trên ghế nh́n lên nền trời vắng mây, xanh mênh mông. Mỗi mùa ruộng, chàng phải bỏ ra vài ngày vào công việc kiểm soát lúa thóc với lăo Tự. Chàng chỉ có mặt lấy lệ c̣n phần việc do lăo đỡ đầu cả. Nhưng chàng cảm thấy mất công vào những việc tầm thuờng, không đ̣i hỏi ǵ ở khối óc hay tốn nhiều mồ hôi. Canh vẫn nuôi mộng lớn và cho rằng chuyện lúa thóc không xứng đáng với khả năng chàng. Chàng lờ mờ nghĩ rằng thú ăn chơi của chàng vẫn là cái vốn sống thật phong phú, chớ đâu phải là chuyện sa đọa như mọi người đă hồ đồ lên án chàng.

Nhưng Canh cũng bắt đầu chán ngán hết mọi sự. Chàng tự an ủi ḿnh là đến độ nào đó, chàng sẽ nh́n lại những ngày bê tha cũ, để trù tính đến tương lai. Chàng có đọc vài ba cuốn tiểu thuyết xă hội. Chàng mê một xă hội công bằng và chàng là kẻ phất cờ cầm quạt để khêu lên một cuộc san bằng những cảnh bất công xảy ra nhan nhản trước mắt. Những chuyện chơi hoang chỉ là cái cớ để chàng học hỏi và định làm một cuộc cách mạng chống lại giai cấp đang nuôi dưỡng chàng. Đă biết bao lần, chàng đề cập đến một cuộc thay đổi thời thế khi lẩn quẩn trong tiệc rượu và bàn hút. Cuộc đời sắp tới, sắp tới nữa sẽ sẵn sàng giao phó vai tṛ lănh đạo cho chàng.

Song ngày tháng vẫn trôi qua. Chàng vẫn sống bám vào ông Phủ. Một người bạn đă đi theo kháng chiến viết thư về giục chàng nên đáp lời sông núi. Canh hồi âm một cách nồng nàn là chàng không bao giờ quên bổn phận làm trai, nhưng chàng phải lựa cơ hội tốt, chàng phải suy nghĩ chín chắn... Dĩ nhiên cơ hội đó không bao giờ có cả. (trang 62)

Trong lũ con riêng của ông Phủ th́ Tường là một h́nh vẽ được kết hợp bằng đường nét đơn sơ và được tô bằng màu sắc nhạt nhẽo. Chàng lười biếng, không có lư tưởng rơ rệt. Chàng say sưa với thứ t́nh- yêu-trợt-té-qua-t́nh-dục. Chàng không có lư tuởng, không theo cao trào nhập vào phe kháng chiến chống Pháp , lại lười học, dở chịu cực. Chàng xin đi học nghề sửa chữa máy vô tuyến điện; nhưng khi cuộc chiên tranh kết liễu, chàng phải sống băng nghề chích dạo. Thế có nghia là chàng bỏ cuộc trong vụ học nghề chuyên môn. Cho nên Thụ cho chàng là một thứ ''người không có tiểu sử'' (sic).

Trái lại, Thụ được tác giả săn sóc trong công việc cấu trúc hơn. Thụ hiền lành, thông cảm, dễ ḥa hợp với mọi người. Chàng hăng hái tham gia chuyện đi làm lịch sử. Nhưng khi chiến tranh kết liễu, đất nước bị chia hai, chàng ở lại miền Nam Việt Nam, cảm thấy cuộc theo phe kháng chiến chống Tây vô ích. Chắc chắn là chàng hiểu rơ bọn Việt Minh Cộng Sản muợn chiêu bài chống Tây để thi thố những thủ đoạn tàn ác ra sao rồi. Chàng trở về ngôi nhà cũ, chứng kiến sự hư hoại tiến hành một cách chậm chạp của nó, không có ǵ cứu văn nổi. Đó cũng như chàng chứng kiến cuộc sống dở dang của ḿnh, không c̣n một triển vọng tươi sáng nào, không một viễn ảnh rực rỡ nào ở chân trời tương lai.      

Hơn mười năm trôi qua. Một giai đoạn lịch sử đă chấm dứt. Thụ đă trở về ngôi nhà tổ phụ.

Ngôi nhà đó bây giờ xiêu vẹo, mái ngói quằn xuống bờ tường, hàng kèo cột bị mối mọt ăn rệu và loang lở những dấu vết chiến tranh.

Thụ dùng căn nhà sàn dưới bến nước của bà kế mẫu làm nơi tá túc. Mỗi ngày, Thụ lên ngôi nhà thừa tự quét dọn và nhang khói cho tổ tiên.

Chàng không dám ở trong ngôi nhà lớn v́ nó có thể sập xuống bất thần không  biết ngày nào, gị nào đây.

Buổi chiều rảnh rỗi, Thụ chấp tay sau mông đi loanh quanh ngôi nhà và dừng lại vài nơi, moi t́m những kỷ niệm đă mất.

Phần huơng hỏa của chàng chỉ c̣n bao gồm vỏn vẹn một mẫu đất trồng cây ăn trái. Nơi đó cũng là chỗ an nghỉ, tụ họp vinh viễn của ḍng họ chàng. Bên cạnh ngôi nhà mồ của ông Phủ mọc lên hai ngôi mộ của bà Phủ và của lăo Tự.

Một thân một bóng, thụ làm biếng chăm sóc bông kiểng. Tùng, thiên tuế, lựu vẫn c̣n tươi tốt vượt lên đám cỏ hoang và dây b́m b́m. Nhưng chắc chắn rồi đây những loài cây ấy sẽ rũ chết v́ đă quá già cỗi. Thụ sống co ro với cái mặc cảm thất bại của cuộc mưu đồ đại sự.

(trang 333)

Thụ không c̣n nh́n cuộc đời háo hức nữa. Tất cả đều vô ích. Con người bất quá cũng như con bọ chét sống trong bộ lông của một con vât khổng lồ. Không hiểu sao Thụ lại có cái so sánh kỳ cục đó. Chàng giúp đỡ Tường bằng cách nhận nuôi đùa cháu bất hạnh với đồng lương dạy học khiêm tốn của ḿnh. Lúc nhàn rỗi, hai bác cháu quấn lấy nhau, đùa giỡn, tưởng chừng cả hai đều là con nít cả. Nhưng có những đêm mưa, chàng bừng thức giấc v́ trận gió ào ào đổ tới. Chàng khêu ngọn đèn chong, hướng mắt theo đường song cửa nh́n lên ngôi nhà thừa tự, lo lắng. (trang 335)

Chiêu, người con út của ông Phủ là hiện thân của ác nghiệp ác báo của chính đương sự được tượng h́nh qua thể chất bán nam bán nữ. Chàng muốn phục sức theo phụ nữ, muốn làm phụ nữ nhưng bị mẹ rúng ép làm thanh niên. Chàng yêu Hoàng và ghen tương với Tịnh. Nhưng khi thông cảm nỗi bất hạnh của Tịnh rồi th́ chàng mới nhận thấy ḿnh không ghét Tịnh mà chỉ ghét Thượng Đế không ban cho chàng cái địa vị của Tịnh (được Hoàng yêu). Trước cảnh nhà ly tán, lại nh́n sâu vào thân phận bi đát của ḿnh, Chiêu bỏ nhà vào chiến khu của phe kháng chiến. Đa số độc giả chúng ta chắc không tin chàng v́ yêu nước nên tham gia lịch sử, mà đó là h́nh thức tự tử để giải thoát cái ác nghiệp từ tiền kiếp nào báo ứng hiện hành trong kiếp này của chàng.     

Tịnh là một cô thiếu nữ có tinh thần bạc nhược, hay đa cảm đa sầu. Ngược lại, t́nh yêu và nỗi đam mê của nàng rất mănh liệt. Khi yêu Hoàng, nàng quăng ḿnh trọn vẹn vào cơn lốc t́nh cảm của ḿnh, dâng hiến trọn vẹn tâm hồn và trái tim ḿnh cho người yêu, không do dự, không dè sẻn, không phân vân tính toán. Đây là mẫu người không tự chủ, sống thành khẩn với t́nh cảm của ḿnh, không ngụy trang cầu kỳ như các cô thiếu nữ khác. Về mặt tâm lư, cô không phải là mẫu nhân vật được kiến trúc tinh vi. Nhưng tác giả vẫn nâng niu cô, vẽ vời cho cô một nội tâm giông băo, tham gia vào cảnh chia ĺa trong thảm họa của một thế gia vọng tộc. Cô dự phần vào thảm họa ấy, chứ không phải là động cơ chính yếu thúc đẩy sự sụp đổ gia đ́nh ông Phủ. Song cô vẫn đóng góp tích cực và hữu hiệu vào cái không khí thê lương cho cốt truyện, tạo nên nỗi se sắt ngậm ngùi trong của cốt truyện.

Ngự cũng vẫn là một nhân vật tuy xuất hiện khá nhiều trong tác phẩm ''Khung Rêu'', nhưng về mặt tâm lư, cô không phải là một nhân vật khó kiếm trong kho tàng văn chương nước nhà. Đó là thứ phụ nữ xuất thân từ lớp lao động nghèo khổ, nhưng mơ vói lên cao để thoát khỏi cuộc sống hiện tại. Ngự tuy có tham vọng, nhưng nhẹ dạ, không mưu luợc, không tài cán, chỉ biết chinh phục cuộc đời bằng sự liều lĩnh của ḿnh. Cái khéo của tác giả là ở chỗ cho Ngự sinh trưởng ở trong ḷng thung lũng của quận lỵ Lộc Ninh, rất xa sông Bé. Có lẽ suốt cả đời, Ngự chưa hề thấy được con sông man rợ chảy qua vùng rừng rú hoang vu ấy. Cho nên khi về Vĩnh Long sống với ông bà Phủ, chiều chiều cô thích ra bến sông Long Hồ để ngắm các ghe thương hồ. Con sông dễ đưa đẩy khách văn cảnh nghĩ tới ḍng đời phiêu lăng. Các ghe thương hồ cũng gợi cho họ cuộc đời gạo chợ nước sông, rày đây mai đó. Khi mới vào tác phẩm, tác giả viết đoạn Ngự ưa ngắm sông vào lúc chiều hôm dường như báo cho độc giả biết trước trong tương lai gần hay trong tương lai xa, Ngự sẽ dấn thân vào các cuộc phiêu lưu t́nh ái một khi bỏ chồng con ra đi với tên lính kín.

*   *  *

Những nhân vật không có chút huyết thống nào với ông Phủ và bà Phủ là những người tôi tớ trong nhà và hai người tá điền là ông Tám và tên Đực. Trừ Ngà là nhân vật xương sống trong truyện, c̣n kỳ dư là nhũng vai phụ. Tuy vậy, những vai này cũng được tác giả cấu trúc một cách chăm chút công phu như nhân vật Ngà.

Ngà vốn là nạn nhân của ông Phủ. Sau khi bị chủ cưỡng dâm, biết rằng ḿnh đang gặp hoàn cảnh gạo đă thành cơm, ả bám víu một chút hy vọng nhỏ nhoi cuối cùng: được ông Phủ sủng ái v́ ả trẻ đẹp. Do sự chênh lệch tuổi tác giữa ông và ả, ả sẽ được ông nâng  lên địa vị cao hơn địa vị con đ̣i con tớ trong nhà; ả sẽ ăn sung mặt sướng hơn, sẽ bước lên địa vị dư dả sang trọng hơn. Nhưng chút tham vọng ấy phải tiêu tan: ông Phủ đang gặp cơn gia biến v́ quá lo nghĩ nên lơ là việc ái ân giao hợp với ả. Tác giả cũng không nói ông Phủ có tặng tư trang hào nhoáng, y phục choáng lộn để tô lục chuốc hồng cho Ngà. Chúng ta chỉ biết rằng sau khi đứa con hữu sinh vô dưỡng của ả chết đi , ả c̣n dư sữa nên ông bà Phủ bắt ả phải làm vú em cho đứa con của Ngự và Tường.

Lăo Tự là người lăo bộc thâm niên được chủ xem như một phần tử trong gia đ́nh. Lăo đem  hết tâm cơ cùng sự trung thành tận tụy phục vụ cho chủ, được chủ trao gửi tâm sự, được các con của chủ mến thương; họ gọi lăo bằng bác xưng cháu. Có chuyện ǵ nan giải, họ đều tỏ bày với lăo. Tuy nhiên, lăo phải sống chung trong dăy nhà ngang dành tôi tớ, phải ăn chung với họ. Khi chết, lăo được chôn trong cuộc đất hương hỏa của chủ và gần bên mộ chủ, hưởng một chút ân huệ thừa thăi cuối cùng. Đây là nhân vật hạ lưu trong địa vị người nghĩa bộc mà chúng ta thường gặp trong các truyện Tàu và  hơi khó kiếm ở trong cuộc sống thời cận đại.     

Lài là cô tớ gái không có cá tính đậm đà, ngoài việc ả yêu thầm nhớ trộm chàng nam sinh tên Hoàng không hiểu nghệ thuật chơi vĩ cầm của Hoàng hay ho ra sao. Hoàng có giai cấp vượt trội giai cấp của ả  lẫn của Mọt quá xa nên ả chê Mọt đen đúa, quê mùa. Ả vẫn biết t́nh yêu chân thành của Mọt, nhưng có lẽ v́ không dám vói cao để quyến rũ Hoàng nên ả hay t́m dịp ăn nóc xóc óc móc họng Mọt. Có lẽ đó là một thú giải trí của một kẻ thất t́nh.    

Mọt là người tớ trai gốc Cao Miên. Hắn  ngây ngô, hiền lành, dễ dăi. Cá tính hắn không rơ rệt. Cuộc sống và tâm t́nh của hắn được tác giả phác thảo bằng vài nét sơ sài. Hắn yêu Lài, nhưng thường nói xốc hông Lài làm cho Lài tuy thích mà vẫn khinh thường hắn. Tuy nhiên, mỗi khi hắn xuất hiện ở bất cứ đoạn nài trong tác phẩm ''Khung Rêu'', lời lẽ khờ khạo nhưng duyên dáng của hắn làm cho tác phẩm  mặn mà t́nh ư hơn.

Hoàng là bạn của Thụ, ở trọ nhà ông Phủ để ăn cơm tháng. Chàng khôi ngô, chơi vĩ cầm hay, ngoài ra chẳng có đặc điểm ǵ đáng kể. Nhưng có lẽ hoàn cảnh cô độc và dáng điệu thui thui của chàng gây một hấp lực mănh liệt, một từ trường rộng răi để lôi cuốn Tịnh, Chiêu và Lài. Tuy là nhân vật phụ, thụ động trong cách hành xử, nhưng chàng là một động cơ chính yếu thúc đẩy Chiêu phải bỏ nhà ra đi, đưa đẩy Tịnh vào nỗi đam mê oan nghiệt và sau hết là vào cơn điên dữ dội cho tới ngày Tịnh nhắm mắt ĺa đời.    

Ngoài mái nhà từ đường của ông Phủ c̣n có hai nhân vật tiêu biểu là ông Tám và tên Đực vốn là tá điền của ông. Ông Tám quen nhẫn nhục, dù có thù ghết ông Phủ phá hại cuộc đời con gái ḿnh, nhưng trước gương mặt oai quyền và trước cái bóng quyền lực tự bao đời của ông ta nên ông nhụt hết nhuệ khí, phải tỏ ra nhỏ nhoi khuất phục. Nhưng tên Đực th́ khác. Bọn Việt Minh đă gieo vào tim óc hắn mối hận thù địa chủ, họ kích thích bản năng nổi loạn của hắn  để biến hắn thành kẻ hống hách, ương ngạnh,  hỗn hào. Đây là một nhân vật mới do thời thế và lịch sử biến chuyển tạo nên.        

*   *   *

Theo thói thường, một khi chọn một đề tài xă hội, tác giả từ từ đóng kín một vận sự nào đó để mở một vận sự mới ở phần cuối. Ở chặng đi từ phần đầu đến phần cuối, tác giả tạo ra nhiều mâu thuẫn, nhiều nghịch lư đan kín nhau hoăc xen kẻ nhau để cho đọc giả ngây ngất say sưa theo dơi từng diễn biến của cốt truyện. Ở ''Khung Rêu', Nguyễn Thị Thụy Vũ đóng kín một thời đại thanh b́nh, một chế độ địa chủ phong kiến. Nhưng chị không hé mở hoặc soi sáng một thời đại nào mới, một chế độ nào mới. Tuy nhiên, về văn chương nữ giới, trừ cuộc sống t́nh cảm lăng mạn của Tịnh ra, chị đă đóng bít cái lối viết về ḿnh với những tâm tư riêng lẻ, với những cuộc t́nh ái lăng nhăng để phóng tầm mắt vào một xă hội biến suy, một giai đoạn lịch sử sang trang. Đây là một cây bút phụ nữ viêt văn với một ư thức sáng trưng: mở rộng một chân trời bao la cho văn chương phụ nữ, tránh cái riêng tư lẻ tẻ nhỏ nhoi để lao vào cái lớn lao nằm trong phạm vi thời đại, xă hội, lịch sử và đất nước.

Bằng một bút pháp b́nh dị và trong sáng, bằng sự diễn tả lạnh lùng và khách quan, Nguyễn Thị Thụy Vũ vẫn đưa chúng ta vào nỗi buồn sâu hun hút, kéo dài cơn bàng hoàng ngây ngất chúng ta từ lúc ông Phủ cưỡng hiếp Ngà cho tới trang cuối của phần kết cuộc. Tất cả mọi nhân vật bị cuốn hút vào cái oan nghiệt của nghiệp lực, chẳng ai quật khởi chống trả. Họ chỉ biết cúi đầu tuân phục thảm họa và tai ương. Họ chấp nhận miễn cưỡng một cuộc đời ảm đạm, thiệt tḥi, không cạy gở một khe hở để ánh sáng mặt trời len lỏi vào cái ngục thất do nghiệp lực xây bốn vách đá nghiêm khốc chung quanh họ.

Quê Nam Một Cơi

Chương Một

Hồ Biểu Chánh, ánh hoàng hôn cựu trào qua

truyện dài ''Tơ Hồng Vương Vấn''

Nhắc tới Hồ Biểu Chánh, chúng ta nghĩ tới một tiểu thuyết gia theo khuynh hướng ''văn dĩ tải đạo'', lấy việc răn đời làm gốc. Nhưng đây cũng là kẻ viết theo khuynh hướng tâm lư ái t́nh,  tuy nhiên đó là thứ tâm lư đóng khung trong lễ giáo, chết cứng và hóa thạch trong luân lư Khổng Mạnh, không thể vượt thoát ra một khung trời cao rộng gồm thiên h́nh vạn trạng nhân sinh quan phóng khoáng hơn và cởi mở hơn.

Hồ Biểu Chánh, bậc tiền bối của các cây bút Nam Kỳ chúng ta khởi nghiệp văn chuơng vào những năm cuối của thập niện 20 (của thế kỷ20). Đuờng lối viết lách của tiên sinh trước sao sau vậy, qua tới giữa thập niên 50 vẫn không thay đổi một mảy lông sợi tóc nào trong vấn đề nhân sinh quan,  lư tưởng, trong cuộc sống phồn tạp và tiến bộ về văn hóa, tư tưởng, trong đường lối giáo dục của mọi tầng lớp hậu sinh của cụ.

Chúng ta phải tự hỏi, sau bao nhiêu vận nước nổi trôi, trải qua bao nhiêu thời đại, bao nhiêu thế hệ, vậy mà văn chương của Hồ Biểu Chánh vẫn c̣n được nhiều lớp độc giả hậu sinh chiếu cố? Có phải chăng tài hoa của cụ vượt ḍng đào thải của thời gian? Có phải nó là tiếng đồng vọng lảnh lót và vang xa của cái thời đại mà cụ đă sống, đă cầm bút? Thật khó mà trả lời. Như chúng ta cũng thừa biết cái cấu trúc và cách dựng truyện của Hồ tiền bối cẩu thả, cách diễn tả của cụ thật bộc trực nếu không bảo là luông tuồng. Cụ ít khi viết văn, ít khi tả cảnh tả người chu đáo, thường là vài nét khái quát. Cũng như nhà văn Lê văn Trương, cụ hay thuyết lư, ưa tŕnh bày cái nhân sinh quan của ḿnh. Nhưng nhân sinh quan của cụ lâu lâu mới le lói một vài nét đặc thù của ḿnh. Tuy nhiên, khi đọc tiểu thuyết của cụ, cớ sao người thưởng ngoạn bị cụ thôi miên hồi nào không hay. Cái chân t́nh, cái nhiệt thành của t́nh ư cụ lẫn cái nồng nàn của của bút pháp cụ quyến rũ người đọc một cách dị kỳ; cái thô vụng của cụ trở thành đậm đà tuyệt vời, cái bộc trực, cái xí xọn trong những lời đối thoại của từng nhân vật trở nên duyên dáng mặn mà khó tả.

Cái ngôn ngữ dí dỏm, chót chét trong văn phong của Hồ Biểu Chánh thường làm cho chúng ta bật cười một cách thống khoái, dù cụ có cằn nhằn ch́ chiết nhân t́nh thế thái đi nữa. Chúng ta cảm nhận ngay sự thành khẩn của cụ. Chúng ta vụt cảm thấy tận đáy sâu của ngôn ngữ cụ, tận cái thiết tha của t́nh ư cụ có một hấp lực kỳ đặc, không dễ ǵ t́m gặp ở bút pháp kẻ khác:

Thợ trời thiệt là khéo léo, hóa sanh muôn loài, không bỏ sót loài nào, đă sanh con voi to, mà c̣n sanh con muỗi nhỏ, đă sanh con cọp để giết người, mà c̣n sanh ḅ heo để nuôi người. Mà thợ trời cũng thiệt trớ trêu, mỗi loài lại sanh nhiều thứ, h́nh dáng, màu sắc tánh chất đều không giống nhau, sanh rắn độc mà cũng sanh rắn hiền, sanh hoa thơm mà cũng sanh hoa thúi. Sanh loài người, Tạo hóa cho có mặt, có tay, có chưn, có gan, có ruột như nhau, mà cắc cớ sơn cho nhiều màu da, người th́ trắng, kẻ th́ vàng, người th́ đen, kẻ th́ đỏ. Mà dầu đồng một màu da với nhau đi nữa, tâm tánh cũng bất đồng, kẻ hiền người dữ, kẻ ngay người  gian, kẻ dại người khôn, kẻ sáng nguời tối. Có một điểm, loài người dù đen, đỏ, trắng, vàng, dầu dữ, hiền, khôn, dại, phần nhiều đều giống nhau. Ấy là thói say mê tiền bạc, say mê đến nỗi không kể tội lỗi, không biết thúi hôi, không sợ chê khen, không màng phải quấy, áp nhau bu lại mà giựt dành, nếu giựt cho được rồi chết cũng vui ḷng, mà nếu giựt không được lại phải chết cũng không sợ.

(Tơ Hồng Vương Vấn,  các trang 148, 149)  

Viết  theo văn dĩ tải đạo, bên Pháp đă có Delly, bên Anh đă có nữ sĩ Barbarra Cartland; họ ăn khách kinh khủng. Delly là bút hiệu của bà Jeanne Petitjean de La Rosière (sanh tại Avignon năm 1875, chết tại Versailles năm 1947) và ông Fréderic Petitjean de La Rosière (sanh tại Vannes năm 1875 chết tại Versailles năm 1949). Cả hai sáng tác lối 30 tác phẩm. C̣n Barbarra Cartland viết lối 400 quyển tiểu thuyết. Nhưng đọc tác phẩm của họ, độc giả chỉ t́m được dăm ba tiếng đồng hồ để giải trí, rồi quên luôn những thú vị của ḿnh đă trang trải trên những trang sách. Cặp Delly thường lấy tinh thần Bác Ái và Bao Dung của đạo Thiên Chúa làm nền tảng của câu chuyện, để đánh bóng thêm cho các nhân vật hiền lương mà Cộng Sản gọi là các nhân vật chánh diện thêm phần lộng lẫy. Nhưng đa số tác phẩm của Hồ Biểu Chánh th́ không như thế. Ngoài chuyện tôn vinh quan niệm tích ác phùng ác, tích thiện phùng thiện, chúng c̣n có nhiều điều ǵ khác làm độc giả sống lại một đoạn đời quá khứ của ḿnh hay giúp độc giả mường tượng cách sống của những lớp người thuộc những thế hệ trước thế hệ ḿnh.

*  *  *

''Tơ Hồng Vương Vấn'' là một cuốn tiểu thuyết thấm nhuần đạo Phật lấy chuyện luân hồi quả báo làm căn bản để triển khai cái sở trường văn dĩ tải đạo của Hồ Biểu Chánh. Vai chánh là cậu học sinh Phan Vĩnh Xuân sinh vào thời Nho mạt nơi chợ Giồng Ông Huê (G̣ Công). Cậu là họ tṛ của ông Giáo Huân, một thầy đồ Nho khả kính. Cậu được sư phụ ḿnh cho biết vận nước biến suy, dù phải chuyển qua Tây học để gọi là kiếm cơm nuôi mẹ, dù ǵ th́ dù cũng phải giữ tấm ḷng chính trực, liêm khiết. Nước mất nhà tan, ham chi hư danh quyền tước để hănh diện với thiên hạ. Bạn học của cậu là cô Lư Thị Tư, được thầy ban cho cái biệt danh Cúc Hương, vốn là gái chánh trực, lại thông minh, xinh đẹp. Vĩnh Xuân và Cúc Hương yêu nhau, lén lút tư ước với nhau. Cả hai hẹn ḥ gặp nhau ở nhà chị Hai Tỷ, một phụ nữ Việt kết hôn với tài phú Sấm, người Trung Hoa. Ngờ đâu cha mẹ Cúc Hương tham giàu ép buộc Cúc Hương lấy chàng công tử bột xuất thân gia đ́nh giàu có ở hương thôn. Cúc Hương quyết tâm  bỏ sinh mệnh để giữ tṛn đạo nghĩa. Truớc ngày vu quy, cô giao 50 đồng bạc cho Hai Tỷ, bảo rằng với số tiền này , cộng với tiền trợ cấp của chánh phủ, Vĩnh Xuân có thể ăn học trong ṿng 3 năm cho đến khi thành tài. Cô cũng gửi tấm lụa có viết chữ nho ''Xả Thân Nhi Thủ Nghĩa'' (bỏ thân để giữ tṛn đạo nghĩa) cho chàng để chàng nh́n bút tích mà nhớ tới cô. Cô cũng không quên gửi  một xấp lănh và một xấp xuyến cho bà Hương văn Thanh , mẹ của Vĩnh Xuân may quần áo, gọi là quà tặng của cô dâu ...hụt. Cô dặn Hai Tỷ phải khuyên Vĩnh Xuân chí thú ăn học, để  cô được toại nguyện. Rồi cô uống nha phiến pha trộn với dấm thanh để tự tử.

Vĩnh Xuân tuy đau khổ nhưng nhờ lời khuyên của ông Giáo Huân và Hai Tỷ nên theo lời dặn của Cúc Hương chí thú ăn học, đậu bằng Thành Chung, rồi thi vô ngành kư lục cũng đậu luôn. Chàng về nhà vào ngày 25 tháng chạp tức là ngày 23 tháng Janvier. Bữa sau chàng đi viếng mộ Cúc Hương th́ vào quá 12 giờ khuya, chàng nằm chiêm bao thấy Cúc Hương từ giă chàng đi đầu thai và cho chàng biết kiếp sau nàng sẽ  được tái ngộ cùng chàng, để kết hôn với chàng. 

Vĩnh Xuân được thuyên chuyển qua Mỹ Tho làm việc ở Ṭa Bố(tức là Ṭa Hành Chánh về sau). Chàng kết thân với ông Kinh Lịch Lương, đuợc ông dạy đàn, dạy làm thơ để rồi cả hai trở thành đôi bạn vong niên thân thiết. Chàng từng thố lộ với bà Kinh như sau:

— Thưa bà, v́ nghèo cực nên cực chẳng đă tôi phải theo tân học đặng làm việc lănh lương nuôi mẹ. Tôi muốn ngồi yên trong một góc bàn mà biên chép, chờ cuối tháng lănh lương ăn vậy. Tôi thưa thiệt với ông bà, tôi không ham danh lợi, ham lợi, nhứt là danh không chánh đáng và thứ lợi không hạp nữa. (trang 187)

Bà Kinh rất thuơng mến Vĩnh Xuân cố t́nh làm mai cho chàng cưới cô Cẩm Nhung, con gái út của Bà Chủ Thiệu ở Chợ Cũ (bên kia Cầu Quây). Vi sợ mẹ buồn nên chàng phải cưới Cẩm Nhung, một cô gái xuất thân từ gia đ́nh giàu có, lại có bóng sắc chói chang. Đây là một cuộc hôn nhân miễn cưỡng v́ chàng không sao quên được Cúc Hương. C̣n Cẩm Nhung không quen làm vợ và làm dâu trong một gia đnh thanh bạch mà cách ăn ở sinh sống thiếu tiện nghi, nên cô đâm ra thất vọng. Lại nữa,  gặp ông chồng thiếu nồng nàn, t́nh tứ nên cô thường về ở bên nhà mẹ, rồi sanh tâm ngoại t́nh, có thai với t́nh nhân. Vĩnh Xuân không muốn làm cho gia đ́nh bên vợ mang tiếng xấu v́ dầu sao Cẩm Nhung cũng đă sanh cho chàng một đứa con trai. Cho nên chàng khuyên Ba Khai, người anh trưỏng của vợ buộc Cẩm Nhung đút đơn vô ṭa án xin ly dị, như thế cái tội ngoại t́nh của nàng sẽ được giấu nhẹm. Bà Chủ Thiệu và Ba Khai cảm cái đức quân tử của chàng nên âm thầm giúp đỡ chàng, vẫn xem chàng như con rể trong gia đ́nh họ. Chàng vẫn gọi bà Chủ Thiệu bằng má trước sao sau vậy. Bà Chủ Thiệu và Ba Khai âm thầm giúp đỡ cách sống cho chàng được tiện nghi. Họ trừng phạt Cẩm Nhung, cấm không cho nàng ra khỏi nhà, cấm không cho nàng léo hánh lên nhà trên (tức là trung đường), cấm không cho nàng mặc quần hàng áo lụa, phải mặc vải bô thô xấu.

Nhờ giỏi tiếng Pháp, tại Ṭa Bố chỉ một thời gian ngắn Vĩnh Xuân làm thông ngôn cho quan Phó Tham Biện người Pháp, rồi làm thông ngôn cho quan Chánh Tham Biện (về sau gọi là Tỉnh Trưởng) cũng người Pháp. Rồi chàng thi đậu trong cuộc thi tuyển tri huyện. Trong bữa tiệc ăn mừng Vĩnh Xuân thành công trên đường hoạn lộ do bà Chủ Thiệu khoản đăi, Vĩnh Xuân xin bà và Ba Khai rộng dung h́nh phạt cho Cẩm Nhung. Chàng nhận lỗi rằng chính cái cách cư xử dung túng nhưng thiếu nhiệt t́nh của ḿnh đối với vợ đă xô đẩy Cẩm Nhung vào con đường quấy.

Sau đó ít lâu, Vĩnh Xuân được vinh thăng tri phủ phải qua Cần Thơ nhận nhiệm sở mới. Mọi việc sắp đặt chỗ ở mới cho quan huyện Vĩnh Xuân do chính Ba Khai đảm nhiệm. Trước khi  qau Cần Thơ, bà Hương Văn Thanh và Vĩnh Tân (con của Vĩnh Xuân)có đến Chợ Cũ từ giă bà Chủ Thiệu. Tại đây, Cẩm Nhung ra mặt nh́n con của ḿnh. Thấy nàng dâu cũ của ḿnh hương phai phấn lợt v́ bao năm bị gia pháp trừng phạt lại thấy cô bi lụy thảm thiết, bà Hương Văn Thanh an ủi Cẩm Nhung hứa sẽ dạy dỗ Vĩnh Tân không quên công sinh thành của mẹ và hứa hễ có dịp là cho Vĩnh Tân về Chợ Cũ thăm mẹ và bên ngoại.

Năm đó quan Phủ Vĩnh Xuân lúc đó đă 40 tuổi, trong buổi nhàn du t́nh cờ ông gặp cô Hưởng, con gái ông Hương Nh́ Tồn từ  h́nh dung tiếng nói đến dáng đi cử chỉ đều giống hệt Cúc Hương. Ông ḍ la biết được cô  Hưởng sanh vào lối 3 giờ khuya, đúng là hai giờ sau lúc nửa  đêm Cúc Hương từ giă ông để đi đầu thai. Tin chắc cô Hưởng là hậu kiếp của Cúc Hương nên ông xin cưới cô. Và muốn cho chắc ăn điều nhận nhận xét của ḿnh, sau đám cưới chàng đưa vợ về quê hương của ḿnh để xem nàng có nhớ được ǵ không? Quả nhiên vừa tới Chợ Giồng th́ người vợ trẻ của quan Phủ Vĩnh Xuân nhớ hết những người thân trong quá khứ trong đó có vợ chồng ông Giáo Huân và chị Hai Tỷ.

Trong truyện dài ''Tơ Hồng Vương Vấn'', người xấu (mà bọn Cộng Sản gọi là nhân vật phản diện) chỉ có vợ chồng Hai Mỹ (song thân của Cúc Hương). Họ vô t́nh giết con gái ḿnh v́ họ chuộng thói tham phú phụ bần. C̣n ngoài ra người tốt th́ đông đảo hùng hậu. Ngoài mẹ con của bà Hương Văn Thanh, c̣n có Cúc Hương,  vợ chồng ông Kinh Lịch Lương, bà Chủ Thiệu, Ba Khai, bà Giáo Huân, chị Hai Tỷ  đều là những kẻ mến đức chuộng tài. Họ mở tấm ḷng hào hiệp đối đăi với Vĩnh Xuân. C̣n ông Giáo Huân th́ ra công rèn luyện đức dục cho Vĩnh Xuân, vun quén thiên lương và đức độ của chàng được măi măi sáng rực rỡ như gương. Cẩm Nhung cũng không phải là người xấu. Nếu cô sống vào thập niên 60 trở về sau th́ cô sẽ đuợc người đời không cho cô là tội nhân mà là một nạn nhân của nền luân lư cổ quá cay nghiệt khắc khe. Luân lư ấy d́m cô vào mặc cảm tội lỗi làm cô nghĩ rằng ḿnh có tội nặng, chứ thật ra  chẳng những tội cô quá nhẹ mà cô c̣n đáng cho chúng ta ai hoài thương xót. Rất may, dù bị ảnh hưởng luân lư của Nho Giáo,  nhưng Vĩnh Xuân cảm thông được nỗi éo le của vợ nên xin mẹ vợ và anh vợ nương tay trừng phạt cho vợ. 

Chuyện duyên nợ theo ṿng luân hồi quả báo không phải chỉ có Hồ Biểu Chánh tiên sinh là kẻ tiền phong xướng ra trong văn chương. Vào thuở tiền chiến, trong hai quyển ''Kho Vàng Sầm Sơn'' và ''Đồng Tiền Vạn Lịch'', nhà văn Tchya đă viết cuộc t́nh của Nguyễn Anh Tề, con trai của Nguyễn Hữu Chỉnh, và Quận Chúa Vơ An Trinh, con gái Vơ văn Nhậm vào thời Tây Sơn dựng nghiệp. Cả hai trắc trở việc hôn nhân nên cùng sống thác với t́nh, hẹn kiếp sau sẽ thực hành cuộc t́nh duyên dang dở. Câu chuyện đó được gói ghém trong quyển ''Kho Vàng Sầm Sơn''. Khi qua quyển ''Đồng Tiền Vạn Lich'' th́ Nguyễn Anh Tế thác sinh vao ḍng dơi Nguyễn Hữu Chỉnh trở thành Nguyễn Hữu Tề, c̣n Quận Chúa Vơ An Trinh đầu thai vào ḍng họ Vơ Văn Nhậm trở thành Vơ Ái Trinh. Sau bao phen xung đột để chiếm đồng tiền Vạn Lịch mà họ cho rằng đó là cái ch́a khóa mở kho vàng mà Nguyễn Anh Tề và Vơ An Trinh chôn giấu ở Sầm Sơn. Nhưng họ chỉ tổ hoài công thôi.  Họ không t́m được kho tàng mà t́m được dấu vết t́nh yêu giữa đôi bên với nhau từ thuở tiền kiếp.

Nữ sĩ ngươi Anh Elizabeth Goudge có viết trong quyển ''Tiếng Gọi Của Quá Khứ'' (''L'Appel du Passé'') cặp t́nh nhân dang dở thời tiền kiếp chết đi. Qua kiếp tái sinh chàng vẽ bức họa phong cảnh lâu đài mà cả hai đă từng sống. Nhờ vậy, hậu thân của nàng được phục hồi kư ức, nhớ lại cố nhân và cuộc sống xa xưa bên kia nẻo luân hồi để t́m đến chàng. Tin hay không tin thuyết luân hồi và thuyết thác sinh, nhưng nó cũng đă đóng góp cho văn nghiệp nữ sĩ Elizabeth Goudge một tác phẩm diễm lệ và cực kỳ thơ mộng. Nó đă giúp cho Tchya và Hồ Biểu Chánh thuyết phục một số độc giả suy nghĩ về cái thần bí của bánh xe luân hồi di chuyển không ngừng nghỉ trên vạn pháp và trên các hiện hữu.

*  *  *

Hồ Biểu Chánh viết tiểu thuyết theo lối thuyết thoại (la narration). Như đă nói, cụ kể chuyện tuồn tuột, ngon ơ, ít khi dùng óc quan sát để tả cảnh vật, tả ngoại h́nh các nhân vật.  Thường là những nét phác thảo sơ sài, khái quát.

Đây là cảnh đi đ̣ dọc từ chợ Mỹ Tho qua chợ Giồng Ông Huê (thuộc tỉnh G̣ Công):

Đ̣ lui. Hành khách chỉ có bốn người nên rộng răi ai cũng nằm được. Gặp nước xuôi lại có gió xuôi bởi vậy ra khỏi vàm rồi trạo phu trương buồm mà chạy, khỏi chèo. Mặt trời vừa trịch bóng, đ̣ đă tới Vàm Giồng, gặp nước lớn đi vô vàm, đi xuôi nữa. Chủ đ̣ đoán trước bữa nay về tới chợ Giồng sớm lắm, chừng nửa buổi chiều.

Vĩnh Xuân nghe nói vậy bèn ngồi dậy. Bây giờ đ̣ vô rạch Vàm Giồng, hai bên cây cối tập rạp, án gió không bọc buồm lên được. Trạo  phu hạ buồm rồi gay chèo mà chèo, nhờ nước xuôi nên ghe đi lẹ lắm. (trang 93)

Đây là cảnh quan phủ Vĩnh Xuân đi chơi chợ B́nh Thủy t́nh cờ gặp cô Hưởng (hậu thân của Cúc Hương) nên ông heo dơi cô thiếu nữ kia đến cầu Rạch Cam:

... Vĩnh Xuân vẫn theo coi nhà cô ở chỗ nào. Đi chừng một trăm thước th́ tới một thớt vườn không lớn nhưng sạch sẽ dựa lộ, có hàng rào bằng cây trà, trong sân có trồng hoa, rồi sau sân ấy có một nhà lá ba căn xông, vách ván, cửa ván, nền cao, hai bên nhà dừa với mận trồng sum suê, c̣n phía sau th́ cau chuối tịch mịch. (trang 406)

Những bối cảnh do tác giả dựng lên để lót nền cho cuộc t́nh sử giữa Vĩnh Xuân vá Cúc Hương cũng không được miêu tả chu đáo. Vẫn là nghệ thuật thuyết thoại theo lối văn chương trong các quyển địa dư, trong các quyển địa phương chí. Nhưng chính ở những ḍng kể chuyện ấy, độc giả cũng có thể mường tượng những nét tạo h́nh ẩn trong cuộc bút tŕnh của tác giả:

Rạch Vàm Giồng bên Cửa Tiểu, nhờ có kinh đào đi ngang qua chợ Giồng rồi thông với rạch G̣ Công bên sông Bạo Ngược là sông Vàm Cỏ, bởi vậy địa thế giúp cho chợ Giồng biến thành một thị trường lúa gạo trong hạt G̣ Công. Ở đây có nhiều người cất vựa trử lúa, trử gạo, từ ngoài đồng đem vô bán. Họ mua để bán lại cho những lúa gạo chở lên Chợ Lớn mà bán ngay cho mấy nhà máy hoặc cho mấy tàu khậu làm trung gian cho nhà máy.

Hồi đó, hễ đến mùa gặt lúa, th́ chợ Giồng phồn thạnh lắm. Dưới kinh, ghe mua lúa đậu chật. C̣n trên bờ, từ nửa buổi chiều cho tới canh một, ở ngoài đồng họ gánh gạo vô bán kể đến máy trăm người, mỗi xóm đi chung một tốp, lại có năm ba xe ḅ chở lúa đem vô nữa. Chợ lúa gạo nầy buổi chiều nhóm tại dốc cầu sắt. Đờn bà con gái dọn ngồi bên đường mà bán dầu lửa, nước mắm, hộp quẹt, trà tàu, cá khô, bánh trái, thúng rỗ, nón guốc, nia đệm, nghĩa là bán đủ thứ cần dùng ở chốn thôn quê. (trang 37)

Hồ Biểu Chánh ưa bàn luận nhân t́nh thế thái theo một b́nh diện phẳng, tức là dựa vào cái chung chung của cuộc sống rồi triển khai rộng ra, ít khi đào sâu vào những ǵ mà cụ tư duy.

Tự căn bản, ''Tơ Hồng Vương Ván'' chỉ là một pho diễm t́nh trà trộn bóng dáng tâm linh huyền hoặc. Cái giá trị văn chương của nó chẳng có bao nhiêu, nhưng bối cảnh lịch sử của nó làm chúng ta phải lưu ư. Đó là  giai đoạn giao thoa giữa nền Nho mạt và văn hóa Tây phương sau khi Pháp thuộc-địa-hóa đất Nam Kỳ và đặt nền Bảo Hộ lên Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

Hồ Biêu Chánh là con bậc thâm nho. Lúc nhỏ, cụ theo Nho học, nhưng sau đó cụ chuyển qua Tây học, rồi ra làm việc cho chánh phủ Thuộc địa. Do đó, cụ bị các bậc cựu nho eo sèo mai mỉa. Chính cụ cũng áy náy và ngờ ngợ hành xử và cuộc mưu sinh của ḿnh có điều ǵ không ổn. Chính ở quyển ''Tơ Hồng Vương Vấn'' cụ mới có thể giải bày tâm sự và những điều khoắc khoải của ḿnh:

Thế cuộc vần xoay, hết suy tới thạnh, nhơn quần tấn hóa, đổi cựu ra tân. Đó là định luật dĩ nhiên, dầu muốn dầu không ai ai cũng phải chịu, không làm sao sửa được.

Nhớ lại mà coi sau khi đánh phá đại đồn Chí Ḥa rồi, binh đội Pháp lần lần xâm chiếm tất cả sáu tỉnh của đất Gia Định. Từ hạng nông phu cho tới học thức thảy đều tức tửi mà quay đầu về Phú Xuân, th́ triều đ́nh dường như im ĺm bỏ xụi; c̣n chong mắt ngó vào đám anh hùng nghĩa sĩ th́ các cụ Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Thiên Hộ Dương, Thủ Khoa Huân lần lượt thất bại tiêu tan.

Đứng trước ngả ba đường như vậy đó, phải đi ngả nào? Nếu cương quyết giữ

nền nếp cũ th́ lấy chi mà nương náu, c̣n nếu đổi thái độ cho xuôi ḍng th́ lỗi với tổ tiên, mà thẹn cùng cây cỏ. Trong lúc dân trí phân vân như vậy, nhà cầm quyền Php khôn ngoan, nên chăm lo gây thiện cảm với nhân dân. Người ta biết thâu phục đất đai th́  dễ, nhứt là gặp xứ không có binh đội tổ chức hoàn bị; c̣n như thâu phục nhơn tâm là điều khó khăn, phải hay đổi văn hóa, phải un đúc tâm hồn, mấy viẹc đó phải dầy công phu, phải nhiều thế kỷ th́ mới làm nên được. (các trang 7, 8)

Xin nghe cuộc đối đáp giữa quan Phủ Vĩnh Xuân và thầy Cai Tổng,  tại một khách sạn tỉnh Cần Thơ:

—  ...Tôi nghe nói thuở xưa quan thanh liêm đi phó nhậm chỉ có một cây đờn cầm với một con hạc thế mà tới đâu cũng bố đức cho dân lạc nghiệp an cư. Đời nay không có hạc th́ quan lớn đi phó nhậm với một cây đờn, tôi tưởng cũng đủ rưới âm đức cho nhơn dân xứ Cần Thơ nhuần gội.

— Thầy Cai đem tôi mà sánh với quan đời xưa sao được. Nước đă mất chủ quyền, dân đă thành tôi mọi. Tôi làm quan, song cũng là tay sai của người ta, lịnh trên dạy phải làm sao tôi phải làm như vậy. Tôi cũng như anh đầu bếp nấu canh. Chủ nhà đưa mắm muối biểu nêm cho thiệt mặn. Tôi tráo trở làm cho lạt bớt đặng để ăn. Đó cũng đă đủ nát trí khôn rồi. Khỏi bị quấy rầy, bị quở phạt ấy là may, mong ǵ làm cho ngươi ăn khen canh ngon ngọt được. (trang 393)

Cúc Hương và Vĩnh Xuân tuy học theo đàng cựu dở dang nhưng cũng đă từng học  các quyển ''Minh Tâm Bửu Giám'', Ấu Học Tầm Nguyên'', ''Tứ Thơ Thể Chú'', ''Đại Học'',

''Trung Dung'', ''Luận Ngữ''... Vĩnh Xuân có thể giải nghĩa rành rọt sách Mạnh Tử cho Cúc Hương nghe. Nhưng v́ nhà nghèo, nếu đeo đuổi theo cái học của thời mạt điệp của ngành Nho học th́ làm sao chàng kiếm tiền nuôi mẹ khi mẹ già yếu? Chàng chuyển sang Tân học. Vào thuở đó tại tỉnh G̣ Công t́nh trạng Tân học ở bậc tiểu học như sau:

Trong khoảng đó, người ta nhận thấy tại Châu Thành G̣ Công nhà nước có một trường sơ đẳng học, gồm năm lớp có một quan Đốc học người Pháp với năm giáo viên người Việt. Từ lớp nhứt đến lớp tư th́ dạy Pháp văn nhiều hơn Việt văn, c̣n lớp năm là lớp chót th́ giao cho một thầy nho biết chữ Quốc ngữ dạy trẻ đồng ấu học vần xuôi, vần ngược, rồi tập đọc, tập viêt quốc văn.

Học tṛ cả thảy chừng một trăm rưỡi, lớp chót được lối năm mươi tṛ, c̣n mấy lớp trên chung vài ba chục, tới lớp nhứt chỉ c̣n mười đến mười lăm là nhiều. Lại học tṛ toàn là con trai, chớ không có con gái, cha mẹ ở tại chợ, hoặc trong mấy xóm làng xung quanh cách chợ lối vài ba ngàn thước.

Muốn lấy thêm học tṛ đông, lại cũng muốn Pháp ngữ được thông dụng trong mấy làng xa, Tham Biện mới mở tại bốn chợ trong bốn tổng, mỗi chợ một làng dạy Pháp văn gọi là ''Trường tổng'' gồm hai lớp: lớp nhỏ dạy cho biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ, rồi lên lớp lớn bắt đầu dạy Pháp văn. Trong lúc nói đây, trong hạt có bốn trường tổng đặt tại bốn chợ: Rạch Giá (Đồng Sơn), Giồng Ông Huê (Vĩnh Lợi), Cửa Khâu (Tăng Ḥa) và chợ Tổng Châu (Tân Niên Tây)...(các trang 10, 11)

*   *   *

Trong sự nghiệp văn chương nguy nga đồ sộ của Hồ Biểu Chánh, bút giả HTA chọn quyển ''Tơ Hồng Vương Vấn'' thay vi những quyển tiểu thuyết nổi tiếng lừng lẫy khác của cụ như ''Nặng Gánh Cang Thường'' (phóng tác theo vở bi kịch ''Le Cid'' của Corneille),  ''Ngọn Cỏ Gió Đùa'' (phóng tác theo quyển ''Le Misérables'' của Victor Hugo), (phóng tác theo quyển ''Chút Phận Linh Đinh'' của Hector Malot),''Cay Đắng Mùi Đời'' (phóng tác theo cuốn ''Sans Famille'' cũng của Hector Malot), ''Kẻ Thất Chí'' (phóng tác theo quyển (''Crime et Châtiment'' của Dostoievski)... Bút giả nhận thấy ''Tơ Hồng Vương Vấn'' ngoài chuyện gay cấn éo le đă từng thôi miên và mê hoặc độc giả mà c̣n phản ảnh được một giai đoạn lịch sử, một chuyển biến gần như lột xác về phương diện văn hóa.

Tác giả đă xắn ra một mẩu đời của ḿnh để đưa vào tác phẩm. Tác giả lại c̣n xắn tim óc của ḿnh để rải vào tác phẩm. Cái văn dĩ tải đạo của cụ có thể đă lỗi thời. Nhưng người thưởng thức có đầu óc sáng suốt, cótinh thần t́m hiểu chuyện quá văng theo kiểu ''ôn cố nhi tri tân'' sẽ chấp nhận mọi cách giải bày tâm sự, hoài bảo, khuynh hướng, lư tưởng của cụ. Ngoài ra song song với tấm ḷng thành khẩn của cụ, người ta c̣n bắt gặp cái tinh thần tồn cổ một cách khả ái của cụ, chứ họ không kinh hăi cái nệ cổ đi đến mức cuồng tính một cách ngoan cố của các bậc hủ nho khác.

Trong quyển ''Le Pavillon des Femmes'' (''Ngôi Nhà Lầu Phụ Nữ''), nữ sĩ Pearl S. Buck có bàn về quyển ''Kim B́nh Mai''. Đại ư rằng nếu ai thích t́m thú nhục cảm th́ ''Kim B́nh Mai'' là quyển dâm thư đúng nghĩa. Nhưng nếu ai muốn t́m xă hội tham nhũng thối nát dưới triều đại Nam Tống do Hoàng Đế Tống Cao Tôn trị v́ th́ quyển truờng giang tiểu thuyết này cũng sẽ đáp ứng nhu cầu t́m hiểu của đương sự. Như thế, tùy theo mục đích thưởng ngoạn của kẻ đọc sách.  Riêng về quyển ''Tơ Hồng Vương Vấn'' của Hồ Biểu Chánh, nếu ai muốn t́m thú giải trí theo thị hiếu b́nh dân th́ đây là quyển diễm t́nh hấp dẫn. C̣n nếu ai muốn biết xă hội Việt Nam vào buổi giao thời th́ đây là quyển sách bồi bổ kiến thức cho đương sự. Có điều đáng chú  ư là vào thời Pháp thuộc, Hồ tiền bối của chúng ta không dám bộc bạch tâm trạng kẻ sĩ của ḿnh qua nhân vật Vĩnh Xuân v́ cụ sợ chánh quyền Thực dân gây trở ngại  cho bước tiến thủ trên hoạn lộ của cụ. Phải đợi tới thuở b́nh minh của nền Đệ Nhất Cộng Ḥa, cụ mới dám bộc bạch mọi nỗi niềm u ẩn của ḿnh. 

Chương Ba

Phi Vân, nhà văn mở rộng dải Đất Tân Bồi

qua tập truyện phong tục ''Đồng Quê''

Độc giả khó tính thường cho rằng văn chương các nhà văn gốc Nam Kỳ như Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoằng Mưu (c̣n có bút hiệu Mộng Huê Lầu), Hồ Biểu Chánh, Bửu Đ́nh (1), Phi Bằng Cao Minh Chiếm, Nam Đ́nh, Phú Đức viết tiểu thuyết phi văn chương. Họ chỉ kể truyện chứ không dựng những khung cảnh sống thực trong tác phẩm của ḿnh, cho nên họ không thể là những nhà văn đúng nghĩa, đúng mức. Thế có nghĩa là họ là những người kể chuyện (les narrateurs) hay người biên chép (les chroniqueurs). Những cái tai hại đó Nguyễn Ngọc Ngạn, Vơ  Kỳ Điền đă từng vấp phải. Cả Kiệt Tấn trong truyện dài độc nhất ''Lớp Lớp Phù Sa''cũng chưa dựng được những khung cảnh nơi Cột Cờ Đỏ (Bạc Liêu), nơi mà đương sự mở mắt chào đời.

Vào năm 1943, Hội Khuyến Học Cần Thơ có trao giải thưởng cuộc thi văn chương cho cuốn ''Đồng Quê''của Phi Vân. Nhưng tác giả khiêm tốn cho rằng đây là những bài phóng sự và tiểu thuyết phóng sự của ḿnh góp chung thành một tập.

Dù thể loại của tác phẩm ra sao đi nữa, nhưng ''Đồng Quê'' vẫn là tác phẩm văn chương đúng nghĩa. Nó đă từng khai sáng cho văn chương đất nước Nam Kỳ, mở đầu cho những cây bút lừng danh sau này như B́nh Nguyên Lộc, Sơn Nam, Lê Xuyên,Vân Trang (2), Nguyễn thị Thụy Vũ... Đây là một tác phẩm phong tục có thể đương đầu với các tác phẩm phong tục của Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài, Trần Tiêu, Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư vào thời tiền chiến trên đất Bắc.

Phi Vân có dựng khung cảnh lẫn bối cảnh lịch sử cho tác phẩm ḿnh. Anh c̣n soi rọi tâm t́nh, cá tính các nhân vật bằng những nét khái quát. Nhưng những nét tạo h́nh của anh, những diễn tả nội giới các nhân vật của anh vẫn đập mạnh vào ấn tượng độc giả, mở con đường rộng để cho họ nh́n vào cái thế giới mường tượng  bao la của  họ.

Xin đọc một đám rước dâu bằng đ̣ máy trong truyện ngắn ''Trao Thân Con Khỉ Mốc'':

Tàu chạy hôm nay là hai hôm rồi: sông Ông Đốc, kinh xáng Bà Kẹo, Đầm Cùn, kinh xáng Thọ Mai, nhưng xóm Kiến-Vàng hăy c̣n xa lơ xa lắc.

Họ đàng trai đă mệt nhọc ngồi trong chiếc tàu chật hẹp. Người ta đă ăn ba lượt bánh ḿ với thịt quay mua ở Cà Mau. Chú rể ngày đầu c̣n khăn đóng áo dài, hôm sau đă cổi dẹp qua một bên, mặc chiếc áo thun giả ngồi ở truớc mũi tàu ngong ngóng, thỉnh  thoảng vươn vai hít không khí rồi cú- rủ nh́n lũ trẻ trong xóm chạy theo tàu trên bờ sông vỗ tay reo: ''Ê! Đám cưới!...

''Đi họ''c̣n có ba cô gái: áo tím, áo xanh, ''bọt -đê'' dài thườn thượt.   

Các cô tỉ-mỉ từng chút, luôn sẽ nhặt sống áo và lai quần hàng thẳng bóng để đôi giày cuờm khỏi vương mà làm lấm hư đi.

Hôm xuống tàu, ba cô chọn một chỗ sạch, ngồi nói chuyện với nhau khe khẽ, ai mời ǵ cũng từ chối, thỉnh thoảng đưa cái bóp đầm lên soi kiếng, sửa lại cái vành môi.

Nhưng hôm nay ông Chánh Khá đă vắt cái áo đen trên vai và gói cái khăn đóng lại; ông chủ hôn Cai Sót đă nằm ngáp trên chiếc sập con, th́ các cô đành chia nhau ăn mấy khúc bánh ḿ c̣n sót lại.

Son môi đă hoen ố, phấn trên má cũng phai đi từng khoảng. Chiếc khăn mù-soa đă được nằm trong túi, không c̣n đeo-đẳng với tay nữa. V́ hai bên bồ, rừng tràm và dừa nước, muỗi nó kêu vang như khát máu, đập bằng tay có hiệu nghiệm hơn, chớ cầm khăn mà chặm chặm th́ nó không thấm tháp vào đâu cả. (các trang 36, 37)

Cũng xin đọc luôn tâm trạng người tù trở về quê quán trong đoạn kết của phần tiểu thuyết. Đây là nhân vật tá điền xưng tôi can tôi giết cường hào ác bá.

Năm năm tù và mười năm biệt xứ không dài bao nhiêu, nhưng nó thay trọn cuộc đời tôi. Tôi muốn người ta cho tôi ngồi trong khám măi để mà quên đi, quên biệt, c̣n hơn cho tôi trở về với người đời.

Năm năm trong tù, tôi học rành chữ quốc ngữ và mon-men được chút đỉnh chữ Tây. Mười năm biệt xứ khiến tôi có dịp dày dặn với cuộc đời và nới rộng tầm con mắt.

Tù hạn trả xong, tôi lần về làng cũ. Cảnh vật không c̣n như xưa nữa. Ông và bà thầy pháp đă vào cảnh Tiên, Phật; thằng Út đi theo cải lương, con tám Én đă có chồng với một dọc con dài, chồng nó là thằng tư Bồ.

Tôi cất tạm một căn nhà trên ḥn Đá-bạc. Ở đó, ngày ngày nghe tiếng gió thét sống gầm mới an-ủi được ḷng tôi.   

Và chiều chiều, khi vừng thái-dương sắp ch́m vào nước biển, tôi leo lên một mỏm đá cao chót-vót đứng nh́n về phía đất liền.

Sau rặng cây xanh bên ấy, chạy dài đồng nầy sang đồng khác. Trong những đồng rộng mênh-mông, hiền-lành đó, ẩn-trú biết bao nhiêu là tá điền, chủ điền...

Mà thôi, dĩ-văng đă chết, c̣n nhắc lại làm ǵ nữa!...

Họ không phải là người gây nên tội ác, họ chỉ là nạn-nhân của một hoàn-cảnh xă-hội và của một thời-kỳ.  (các trang 233, 234)

Phi Vân có một bút pháp dí dỏm và lôi cuốn. Nó  đượm hơi hướm ngôn ngữ của các cô thiếu nữ ưa chót chét xí xọn rất duyên dáng, của các thím, các mợ đỏng đảnh dễ thương , của các bà già trầu tía lia tuy đắng ngoài mà lại ngọt trong, của các bợm nhậu khề khà bộc trực, của các ông già ống vố ó đâm nhưng cận nhân t́nh thế sự.

''Đồng Quê'' gồm có 2 phần: phần đầu là ''Phóng Sự Ngắn'', phần thứ hai là ''Tiểu Thuyết Phóng Sự''. Nhưng dù là lối diễn tả của Phi Vân tuy gảy gọn, tuy không chuốc lọc, nhưng rất gợi h́nh lẫn gợi t́nh. Đây là một tác phẩm văn chương được xếp loại vào truyện ngắn phong tục và tiểu thuyết phong tục.

Phần truyện ngắn phong tục gồm có những bức tranh đồng quê thuộc loại tả chân hoặc thuọc loại hoạt kê gồm những nét hí họa lẫn biếm họa.

 * Hai truyện ngắn ''Muốn Ăn Trứng Nhạn'' và ''Tiếng Ḥ Trong Đêm Vắng'': viết về bọn cướp trên sông rạch, nhắm vào những chuyến thủy tŕnh của lương dân. Truyện đầu xảy ra trong dịp đám cưới rước dâu bằng ghe thuyền. Truyện thứ nh́ trong dịp hai chiếc ghe ḥ đôi đáp trên sông, ghe cô gái là ghe bọn cướp, ghe chàng nam nhân là ghe thương hồ.

 * Hai truyện ngắn ''Đổng-Trác Biết Sập Giàn'' ''Chợ Hay Quê,'': viết về các gánh hát bội địa phương khi họ tŕnh diễn vở tuồng ''Phụng Nghi Đ́nh''. Truyện đầu v́ khán giả chen chúc trên sân khấu quá đông nên giàn phải sập. Nam nghệ sĩ đóng vai Đổng Trác phải ngưng diễn tuồng để hét la báo động. Ở truyện thứ hai, cô đào chánh đóng vai Điêu Thuyền bị mang thai nên có cô đào khác kém sắc hơn thay thế nên bị một khán giả thuộc loại hàm hồ kêu lên: ''Ê! Cái mặt Chung Vô Diệm''. Cô đào thay thế kia liền  tạm ngưng tŕnh diễn, trả đũa liền: ''Xin lỗi quư ông quư bà, khốn nạn cái anh nào nói tôi là Chung Vô Diệm!''.

 * Hai truyện ngắn ''Châu-Xương Cử Thanh-Long Đao!'' ''Ông Tướng ''Thầy Ba'': Ở truyện đầu tác giả phơi bày chuyện mê tín của dân quê. Có ông ở Rạch Cóc xưng là xác của ḿnh được hồn của Đức Quan Thánh Đế Quân (QuanCông) nhập vào để trị bịnh tà ma cho bá tánh. Mỗi khi trong nhà có kẻ ngă bịnh, gia chủ luôn nghĩ rằng bịnh nhân bị vong linh tà má quấy nhiễu nên rước y ta về nhà để đuổi tà ma ra khỏi thân xác người bịnh. Cứ mỗi lần rước y ta về nhà như thế, gia chủ phải nạp cho y ta một con heo quay nặng đúng một tạ. Tên Năm Quấy (bạn của tác giả) biết y ta mị dân dối thế để bóc lột dân quê nên thừa lúc y ta xưng là hồn Quan Công nhập xác để múa đao nên Năm ta cũng nhảy vào, xưng là hồn Châu Xương (tùy tướng của Quan Công) nhập xác ḿnh. Rồi Năm ta huơi đao múa loạn xạ nhưng đẹp mắt như Sơn Đông măi vơ, và th́ thầm với xác Quan Công đ̣i chia hai con heo và được ông xác kia phải nhượng bộ.

Ở truyện thứ hai, Năm Quấy được thể, nhảy ra làm thầy pháp trị bịnh con nít lẫn người lớn v́ theo y ta th́ các bịnh nhân bị ''con sát'' hoặc ''con trùng'' (thuộc loại tà thần ác quỷ) khuấy phá. Hắn bảo rằng nhờ có ''ông tướng thầy ba'' mà y có thể chữa cho các nạn nhân lành bệnh. Nhưng khi chữa trị cho một nữ bệnh nhân, Năm Quấy động ḷng dơi dạ chuột, trổ thói dê đực ôm siết cô ta, bị cô ta phang guốc lên đầu. Thế là Năm Quấy cùng tác giả  nhục nhă, phải bỏ làng Rạch Cóc để đến chỗ khác tha phương cầu thực.

* Truyện ngắn ''Trao Thân Con Khỉ Mốc'': đây là một vụ cưới gả khá phức tạp ; ông trưởng tộc đằng gái làm khó, bắt chẹt đàng trai trong giờ rước dâu đủ mọi điều. Cho nên ông Hương Ba (rể phụ) sau  phần lạy họ, bảo ông tộc trưởng tộc đằng trai xin kiếu từ ra về liền, không cần ở lại ăn tiệc. Cho nên khi cô dâu chú rể lễ lạy vừa xong, đằng trai quây quần hộ tống cô dâu xuống tàu thủy ra về . Ông tộc truởng đàng gái  tru tréo bảo phải đợi làm lễ trao thân gởi phận xong đă... Chàng rể phụ Hương Ba khi cùng đằng trai và cô dâu sau khi xuống tàu,  trả lời cộc lốc: ''Trao thân con khỉ mốc!''.

* Truyện ngắn ''Cành Tre Cũ Cặp Gị Xưa'': Trong đêm tối, nghe bên nhà ông điền chủ Bá có tiếng báo động: ''Ăn cướp! Ăn cướp!'', nhân vật xưng tôi núp sau bụi bông phướn, khi thấy bóng đen chạy đến anh ta bèn dùng cành tre quất mạnh vào gị đương sự. Nhưng đó không phải là kẻ gian phi mà là cô con gái anh Bá. Nhân vạt xưng tôi đành cơng cô ta về  nhà để cô ta dưỡng thương, chờ coi t́nh h́nh động tịnh trong xóm ra sao. Th́ ra ông Bá lợi dụng thằng Tư Rổ ở rể để bắt nó làm tôi tớ không công suốt một thời gian dài rồi đuổi nó đi, không chịu gả con cho nó.  Tức quá, nó xông vào nhà, hăm dọa giết ông rồi  bắt cô con gái ông theo nó. Nhưng khi cô gái vừa chạy ra khỏi nhà th́ bị nhân vạt xưng tôi dùng cành tre phang vào chân té quỵ. Nội vụ được giải ra thầy hương quản, rồi được giải lên quận để phân xử. Cô gái không hề hé răng khai rằng ḿnh bị nhân vật xưng tôi đánh nặng. Nhưng từ đó hễ gặp nhân nhân vật xưng tôi là cô gái cười chúm chím rất ngụ ư ngụ t́nh làm anh ta phải bỏ làng ra đi. Có lẽ anh ta sợ ḿnh sẽ gặp hoàn cảnh éo le của thằng Tư Rổ chăng?

 * Truyện ngắn ''Đạo'': Trong bữa tiệc rượu, ông Chủ vốn là nhà Nho lỡ vận cùng Phó Xă Việt bàn bạc và giải thích chữ ĐẠO. Họ có nhiều ư kiến lẫn kiến thức khác nhau Họ giai thích chữ ĐẠO bằng cách chiết tự, và moi móc những ư nghĩa ẩn mật thâm thúy trong chữ ấy. Các thính giả dần dà ngấm men say, nghe riết rồi lăn đùng ra ngủ mê mệt. Riêng ông Chủ cho nhập cảng rượu và mồi nhắm vào miệng không hiểu ít hay nhiều trong lúc giải hích chữ ĐẠO, nhưng vào lúc mọi người đang ngáy ồ ạt th́ ông cho mấy thứ vào mồm lúc nảy xuất cảng ra hết ngoài cửa khẩu. Chuyện có vẻ đơn giản, nhưng rất ngậm ngùi thời mạt điệp của giới đàng cựu nói chung, của Nho học nói riêng.

* Truyện ngắn ''Quỷ Vương'': Trong cách dựng truyện, vấn đề thời điểm vẫn là vấn đề then chốt. Ở đây, tác giả chỉ nói  tới ''điểm'' tức là làng Thới B́nh bên ḍng sông Trẹm, Nhưng về vấn đề ''thời'' th́ câu chuyện xảy ra trong khoảng thời gian mù mịt. Thường ông già bà cả Nam Kỳ hay bảo nhau lúc Việt Minh (cái tên đầu tiên của Cộng Sản ở Việt Nam) ra đời là thời Quỷ Vương lộng hành có nắng lửa mưa dầu. Đêm đêm, chúng gỏ cửa xét nhà rồi bắt người (hào phú, địa chủ) cho ṃ tôm (một h́nh thức thủ tiêu). Chuyện đó xảy ra trước khi Nhật rút lui khỏi Đông Dương và Việt Minh lên nắm chánh quyền. Đó cũng là lúc Việt Minh  tuyên truyền truyền dân chúng ở đô thị lẫn ở thôn quê nếp sống tự do dân chủ. Tuy nhiên, tác giả không nói rơ khoảng thời gian ấy.

Quỷ vương ghé lại chợ Thới-B́nh với gương mặt  đầy kiêu hănh.

Làng Thới-B́nh không c̣n vang lặng như xưa.

Người ta lấy làm lạ sao thằng Chột con ông Bính đổi tên là Hoàng Hoa, lần lần thằng Phinh cháu ông Phó Tám đổi tên là Tuấn Nghĩa, thằng Tích em Tuần Danh là Vân Mộng, cho đến con Đẹt con gái chú Phồi cũng xưng là Thúy Liễu và con Út con ông Phó Cao là Kiều Nga.

Chúng thường đi cặp từng năm lũ ba thả rểu quanh chợ bất cứ đêm ngày, và hễ gặp nhau là cúi đầu rất sâu, ch́a tay ra siết chặt:

— Vân-Mộng xin kính chào Kiều-Nga!

Hay:

— Thúy Liễu nầy đa tạ huynh ông Tuấn Nghĩa!

Rồi họ cùng nhau bàn-tán vang trời những tiếng Văn-minh, Hủ-lậu, Nữ-quyền, Giác ngộ v.v...  (các trang 86, 87)

Cái văn minh tân tiến của bon Quỷ Vương địa phương làm gai mắt phụ huynh của chúng. Nên thừa lúc bọn chúng tụ họp đàn đúm với nhau, họ xông vào  đánh tan chúng như phá nát cḥm ong lũ kiến. Từ đó làng Thới B́nh trở lại nếp sống hiền ḥa yên tĩnh.

*Truyện ngắn: ''Các Tṛ Ơi, Thầy Phen Nầy Thọ Tử'': Câu chuyện xảy ra thuộc ấp Kiến Vàng, làng Tân Hưng Đông. Nhân vật xưng tôi đến dạy học tại đây gặp lũ học tṛ tinh ma quỷ quái, thạo chuyện bắt chim và các loài ḅ sát (ếch, rùa, rắn, kỳ nhông, rắn mối). Chúng c̣n giỏi nghề bắt cá. Như thế, trên đất hoặc dưới nước, nơi nào cũng để cho chúng săn t́m món ăn phong phú ê hề. Sau bao phen bị chúng thử thách tài nghệ trên đất duới nước, đương sự khắc phục được chúng và chúng coi anh ta như Tổng tư lịnh. Nhưng trong dịp săn được con heo rừng có thai, tai họa lại đến. Thai heo được các cụ Nam Kỳ ta gọi là  heo hà nàm, được móc ra tiềm với thuốc Bắc cho nhân vât xưng tôi tẩm bổ. Nhưng khi ăn xong, anh ta ngă bịnh, tưởng toi mạng nên trối trăn với bọn đồ đệ của ḿnh. Tuy nhiên, khi bọn học tṛ rước lang y trị bịnh cho đương sự th́ mới hay heo hà nàm là món thuốc bổ, có tánh hàn. Đương sự ăn thứ đó không tiêu, lại uống rượu nhiều. Rượu và thai heo kỵ nhau nên đương sự mới thọ bịnh như thế.

* Truyện ngắn ''Sanh Nghề Tử Nghiệp'': ''Mét Văn Quang'' (Maitre Văn Quang) là thầy bói ở tận mũi đất Cực Nam của đất nước Nam Kỳ, dùng cái miệng lanh lợi, cái lưỡi uyển chuyển tráo trở, lấy việc đoán quá khư vị lai để gạt gẫm nguơi mê tín. Công việc làm ăn của đương sự đang xuôi mát mái, bỗng gặp tai nạn: đương sự đoán vận mệnh cho một tên điền chủ hung hăng, bảo rằng y ta lừa bạn giật tiền, trong ṿng 2 ngày sau sẽ bị nắm chóp. Tên điền chủ nổi giận đánh ''mét Văn Quang'' chí chết. Hai ngày sau, y ta chưa bị ai nắm chóp. Nhưng ''mét Văn Quang'' không đoán nổi vận số của ḿnh: Hai ngày đương sự trút linh hồn v́ trận đ̣n quá nặng tay, gây chấn thương trong lục phủ ngũ tạng.

Vào thời tiền chiến, các tay thầy bói nổi danh như Tư Nên, Fraçois Lư đều xưng ḿnh là ''professeur'' ( professor/ giáo sư) nên khách hàng gọi họ bằng ''thầy'' (maitre). Trong thời chiến tranh Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh có ''maitre'' Khánh Sơn từ ngoài Bắc và Sài G̣n mở pḥng bói toán nên dân Nam Kỳ Lục Tỉnh gọi đương sự bằng ''maitre Khánh Sơn''. Thật ra thiên hạ gọi các luật sư bằng ''maitre'', chớ nhưng kẻ không mê tín không bao giờ gọi mấy ông mấy bà lốc-cốc-tử bằng ''maitre'' một cách trọng vọng như thế.

*  *  *

Phần thứ hai là phần phóng sự tiểu thuyết (nói theo tác giả) có cái tựa là ''Dưới Đồng Sâu''. Thật ra đây là quyển tiểu thuyết đồng quê thuộc loại phong tục và tả chân xă hội. Nó gồm có những truyện ngắn dưới h́nh thức từng chương một như sau: ''Câu Cá'', ''Cá Mắc Câu'', ''Tôn Sư'', ''Đạo Phù Thần'', Ôm Ma Xơ Rốp...'', ''...Ma Ha Xơ Rốp'', ''Oan...!'',''... Nghiệt!'', ''Muộn Màng'', ''Tử Thù'', ''Hận Ngh́n Đời'', ''Đoạn Kết''.

Truyện rằng: Nhân vật Sáu Đờn Ḱm đến nhà ông Chủ Trần Háo Nghĩa xin mưón ruộng. Nhưng chàng ta bị tên điền chủ ác ôn này bóc lột thẳng tay Xin cùng đọc:

Tờ lănh làm ruộng giao

Nay tôi có lănh làm 50 công ruộng cho ông chủ Trần Háo Nghĩa tiền công tôi lấy trước phân nửa là 20$. C̣n 20$ chờ đă cấy xong, giao ruộng, tôi lănh tất.

— Bẩm Chủ, tôi xin mướn ruộng, chớ không lănh ruộng giao.

— Ậy, việc mướn chác th́ ḿnh biết với nhau, c̣n giấy-tờ phải làm như vậy cho đúng phép. Phỏng như làm tờ mướn rồi nửa chừng mầy trốn có phải ḷng-ḍng cho tao thêm không? Làm như vầy mầy lănh làm công, rồi có muốn trốn, ruộng của tao, bất quá tao gặt trừ. Tao ngừa như vậy, tá điền tao đứa nào có kêu-ca  ǵ đâu! Bây giựt của tao th́ có, chớ tao, ruộng đất minh-mông, chẳng đời nào tao giựt của bây!

— Bẩm Chủ, c̣n tiền lấy thêm: Hai chục đồng, tôi đâu có hỏi?

— Mầy quê lắm. Tiền đó lá tao buộc phải vay, tới mùa, tao đong lúa trừ. Tao tính mỗi giạ, năm cắc. Phải vay mới có mà ăn đặng chớ, không lẽ mầy cạp đất mà cày ruộng sao?

— Nhưng... giá lúa bây giờ đến hai đồng một giạ.

— Th́ hai đồng bây giờ. Đây ra giêng c̣n tới bốn năm tháng nữa, chừng đó giá lúa lên cao tao nhờ, sụt tao chịu. Tao dám ''cho'' như vậy mà mầy c̣n chê mắc chê rẻ... Thôi, không bằng ḷng, để ruộng đó lại cho tao! (các trang 147, 148)

Sáu Đờn Ḱm chịu làm ruộng giao cho ông Chủ Trần Háo Nghĩa. Dè đâu ông ta  thấy mẹ của chàng ta hăy c̣n bóng bẩy nên ve văn ráo riết. Một hôm, thừa lúc Sáu Đơn Ḱm vắng nhà, ông ta toan bề cưỡng bức mẹ của Sáu th́ th́nh ĺnh bà vợ ông ta nhảy vào đánh người đàn bà đáng thương kia một trận đ̣n chí mạng. Sáu Đờn Ḱm khi trở về th́ thấy mẹ ḿnh đang hấp hối. Chàng ta thề quyết báo thù.

Ở  đoạn kết, chúng ta được thấy Sáu Đờn Ḱm trở về cố hương sau 5 năm tù, 10 năm biệt xứ v́ can tội sát nhân. Giết ai? Giết ông Chủ Nghĩa hay giết vợ ông ta? Hay giết chết cả hai? Tác giả không nói rơ.

Trong phần tiểu thuyết, tác giả có lồng vào bốn mối tinh và bốn tâm sự. Cô Yến con ông thầy phù phép yêu Sáu Đờn Ḱm. Chàng ta cũng có chút vấn vưong với cô, nhưng cô ta lại yểu mệnh. Cô Tám Én yêu Sáu Đờn Ḱm; t́nh yêu đôi bên nẩy sinh sau hận thù và ngộ nhận.Thằng Tư Bồ yêu đơn phương cô Tám Én, nhưng khi Sáu Đờn Ḱm sa vào ṿng tù tội th́ cô ta trở thành vợ của nó. Ngoài ra thằng Út, em trai cô Yến cũng say mê Sáu Đờn Ḱm, vắng mặt chàng ta là nó nhớ thương khắc khoải. Bản chất mối t́nh của nó ra sao? Tác giả không phân tích rơ. Có thể là nó mê giọng hát ngọt, ngón đàn tươi của Sáu. Mà cũng có thể đây là thứ đồng tính luyến ái mù mờ mà nó không nhận định ra (l'homophilie latente).      

Chuyện t́nh yêu được coi như một bản nhạc đệm (musique de fond) cho một vở kịch hay một cuốn phim. Nhưng đây là một khúc giao hưởng thống thiết (symphonie pathétique).

Ngoài ra, c̣n có vụ bùa chú ngải nghệ. Ông Thầy, cha cô Yến nổi danh là thầy pháp cao tay ấn trong việc tróc quỷ trừ yêu  Nhưng ông không thể cứu sống con gái ông chết v́ bệnh mà ông đổ hô là cô Yến bị Quỷ Vương ám nhập để hành bịnh con ḿnh. Sáu Đờn Ḱm là học tṛ môn bùa chú của ông. C̣n Tư Bồ là học tṛ môn vơ thuật của ông Cho nên khi xáp trận  với Tư Bồ, lần nào Sáu Đờn Ḱm cũng đại bại, ḿnh mẩy mang đầy thương tích, thần chú không giúp ích cho chàng được chút nào cả. Trong bóng tối rừng tràm và vùng mới hai hoang, tác giả không giăng mắc không khí huyền bí, mà soi rọi ư thức vào những mê tín đáng thương của lớp người đang ở vào thời kỳ xa ánh sáng văn minh của thị thành.

*  *  *

Ở truyện ''Đồng Quê'', Phi Vân thực sự viết văn một cách nghiêm chỉnh, dù anh dùng một bút pháp dí dỏm, những ngôn từ đơn giản đến chỗ  thiếu chăm sóc, thiếu chọn lựa tỉ mẩn. Diễn biến mọi truyện không có chút sắp đặt mọt cách công phu nhưng giả tạo nào. Mọi việc tuần tự xảy ra một cach hồn nhiên. Điều này khác hẳn những cấu trúc tiểu thuyết của những cây bút tiền bối của anh như Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoằng Mưu, Phi Bằng Cao Minh Chiếm, Bửu Đ́nh, Hồ Biểu Chánh, Phú Đức, Nam Đ́nh...

Trong ''Đồng Quê'', truyện ngắn ''Quỷ Vương'' sẽ làm bọn Cộng Sản nhột nhat xốn xang v́ truyện ngắn này móc xỏ, nhạo báng sự ra đời của chủ nghĩa của chúng. Nhưng chúng cũng có thể lợi dụng truyện ngắn ''Cành Tre Cũ Cặp Gị Xưa'' và truyện vừa (tiểu thuyết phong tục) ''Dưới Đồng Sâu'' để làm lợi khí tuyên truyền của chúng. Rằng: lớp địa chủ là loại  giai cấp thống trị chuyên môn bóc lột giai cấp bị trị là thành phần tá điền đáng thương.

''Đồng Quê'' là cái  ch́a khóa mở đường cho các cây bút đi sau Phi Vân h́nh thành loại tiểu thuyết phong tục hay loại tiểu thuyết hiện thực rất văn chương đúng nghĩa sau này.

Chú Thích:

(1) Chánh quán và sinh quán ngoài Huế, nhưng trưởng thành ở Sài G̣n, cưới vợ

G̣ Công và bị nam-kỳ-hóa 100%. Ông chống Pháp bị đày ở Con Đảo rồi kết bè vượt biển qua Xiêm, nhưng mất tích luôn ngoài biển khơi. Ông sáng tác 2 truyện dài nỏi danh là ''Mảnh Trăng Thu'' và ''Cậu Tám Lọ''.

(2) Nhà văn nữ, gốc ngựi Rach Giá, đă từng cọng tác cho hai tạp chí Bách Khoa, Mai trong 2 thập niên 50, 60. Bà gom các truyện ngắn đă đăng báo của ḿnh in thành tác phẩm ''Một Lá Thư T́nh'' do Phù Sa Xuất bản.

Chương Năm

Sơn Nam, ng̣i bút thả trôi trên ḍng mực qua

quyển tạp bút ''Một Mảnh T́nh Riêng''

Độc giả chúng ta yêu thích Sơn Nam qua những quyển tập truyện phong tục như: ''Hương Rừng Cà Mau'', ''Hai Cơi U Minh'', ''Vọc Nước Giỡn Trăng''.... Nhưng anh c̣n viết những truyện dài có nghệ thuật cao hơn, cảm hoài thân thế cho những kẻ sinh bất phùng thời, làm cho người đọc không sao khỏi ngậm ngùi như ''Chim Quyên Xuống Đất'', ''H́nh Bóng Cũ''...

Sơn Nam là một nhà văn rất sâu sắc về nhân t́nh thế thái. Tư tưởng và ư t́nh trong văn chương của anh không cần dựa một hệ thống tư tưởng triết học nào, một sở tri về tâm linh của một tôn giáo nào. Anh đi đây đi đó nhiều, nhất là đi ngao du  khắp miền Hậu Giang, thu thập rất nhiều kinh nghiêm sống. Anh chiếm nghiệm những lời nói các bô lăo về cuộc khai hoang khẩn đất ở miền Cực Nam và Tây Nam đất nưóc qua các quyển ''T́m Hiểu Đất Hậu Giang'', ''Đồng Bằng Sông Cửu Long'', ''Văn Minh Miệt Vườn'', ''Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam''... Anh rút tỉa những nhận xét đầy kinh nghiệm sống của họ, đầy sự luyện đạt nghệ thuật sinh tồn và ư  chí khắc phục thiên nhiên của họ trong công việc mở rộng chiều dài của đất nước. Rồi đó anh đưa những  điều ghi nhận của  ḿnh gán vào miệng những cụ già của ống vố dễ thương hay trám vào mồm những nhân vật cà chớn. Nhưng những lời của kẻ thông minh tinh nhuệ hay những ư nghĩ của kẻ thật thà chất phác một khi được Sơn Nam đua vào tác phẩm của anh cũng giúp cho chúng ta suy nghĩ về công tŕnh của lớp tiền nhân trong cuộc Nam tiến để t́m đất mới. Cái thâm trầm sâu sắc của Sơn Nam trong nề nếp tư duy tương phản cái bộc trực thành khẩn của B́nh Lộc quá rơ rệt.

Sau những quyển sách mà bút giả HTA  đă kể trên, tài nghệ của Sơn Nam giảm thiểu rơ rệt. Các quyển ''Vạch Một Chân Trời'', ''Bà Chúa Ḥn'' là những quyển tiểu thuyết phiêu lưu, phóng tác theo kiểu mượn đầu cá vá đầu tôm các cuốn truyện hay các cuốn phim phiêu lưu ngoại quốc, phần kể truyện húng hiếp và lấn át phần viết văn.

*  *  *

''Một Mảnh T́nh Riêng'' do nhà xuất bản Văn Nghệ Thành Phố HCM (1993) tŕnh làng. Đây  là một cuốn tạp bút , không đề cập những vấn đề cùng chung một chủ đề hay cùng chung một hệ thống vận sự. Đây chỉ là quyển sổ tay văn nghệ được chi tiết hóa, ghi nhận những điều ǵ thoáng qua đầu óc tác giả, vần vũ khá lâu rồi sa mưa trong cơi cảm hứng của anh. Cho nên Sơn Nam phân trần:

Tập sách nầy, tôi tạm gọi là bút kư, nhớ chuyện xưa rồi viết theo sự nhận định theo t́nh cảm ngày nay. Hồi kư thường là loại sách dành cho người làm chính trị. Về phần tôi chưa bao giờ được ai giao phó cho kư tên, đóng dấu văn kiện nào cả (nếu được giao ắt làm không xong). Về văn chương, sự nghiệp văn là  ''sương khói mờ nhân ảnh''. Tôi cố gắng giữ cái gọi đại ngôn là ''dũng cảm nhỏ'', tức là cái liêm sĩ tối thiểu, qua nhiều hoàn cảnh éo le. Khổ nhất là văn chương phải in thành sách, in công khai cho người đương thời đọc. Làm văn chương mà măn đời không viết một chữ, để giữ tiết tháo đuợc chăng? Nên tin độc giả. (các trang 152, 153)

Lời trần t́nh (hay lời biện hộ đây?) chứng tỏ Sơn Nam viết cuốn sách này lâm vào thế kẹt. Muốn nó được Nhà Xuất Bản Thành Phố HCM chấp nhận xuất bản, anh phải vâng theo chỉ thị của Nguyễn Quốc Thủ (chịu trách nhiệm xuất bản) và Đinh Quang Nhă (chịu trách nhiệm bản thảo). Cho nên Sơn Nam dùng nhiều tiếng khó nghe, chẳng hạn ngày Sài G̣n bị bọn Cộng Sản cưỡng chiếm, anh dùng tiếng ''ngày  miền Nam được giải phóng''. Anh gọi phe Quốc gia là ''địch''. Và anh không quên chêm vào đoạn tố chính quyền Quốc Gia:

... Nhớ lại trước ngày Giải Phóng, vụ kư giả ăn mày, tôi bị bắt v́ t́nh nghi cán bộ nằm vùng, thật ra, về tổ chức, tôi chẳng bao giờ nằm vùng, chẳng qua tôi làm nghĩa vụ con dân. Địch tra tấn, nhắc lại làm ǵ. Tra tấn để cho ḿnh mất nhân phẩm, đă mất nhân phẩm rồi th́ phải khai (để bảo vệ cái ǵ đây?). Ấy thế mà phải kư tên thú tội vu vơ. Tôi nghĩ rằng giới chuyên điều tra thuở ấy không bao giờ tin lời khai của tội nhân nếu chưa tra tấn. Tra tấn, ắt khai thác được thêm điều bất ngờ. Bị tra tấn rồi ḿnh khai là chúng yên tâm... (trang 74)

Đây rơ ràng là sự nhượng bộ, sư hy sinh phế bỏ cái ''dũng cảm nhỏ'' của anh Sơn Nam. Anh phải ngắt véo phe Quốc Gia chút đỉnh để đuợc in sách. Cái liêm sĩ của anh bị trầy trụa hay bị sứt mẻ,  nhưng chưa mất sạch sành sanh. Công b́nh mà nói, chính quyền ở các nước tự do nào cũng có việc thận trọng khi lập ra pháp lư luật lệ. Song song đó vẫn đầy nhan nhản kẻ  hành pháp vi phạm luật lệ v́ sai lầm hoặc v́ hối mại quyền thế. Anh không chửi thẳng tay chính quyền cũ và ca tụng  chế độ mối một cách trơ trẻn và đê tiện, khác biệt với Xuân Diệu và Huy Cận đă từng nă  súng cối vào xă hội Miền Nam Việt Nam để đánh bóng chế độ Cộng Sản. Anh chỉ viết cảnh anh bị nhốt tù v́ tội xuống đường theo giới báo chí nổi loạn chống ông Hoàng Đức Nhă. Chúng ta cũng thừa biết ông Nhă đă từng hà hiếp báo giới làm cho các kư giả phải điêu đứng trong việc hành nghề mưu sinh, sắp chống gậy ăn mày.

Ở ''Một Mảnh T́nh Riêng'' tác giả phân trần và giải thích về công việc viết chuyện xưa của ḿnh. Quan niệm và nhận định của anh giúp anh trội hơn nhân sinh quan trong các tác phẩm của những cây bút gốc Nam Kỳ kỳ cựu:

Viết lại chuyện xưa, theo ngẫu hứng, như người say rượu đời, bổng dưng muốn đốt ngọn nến nhỏ để lục lạo trong hang tối của kư ức. Gặp nào mảnh giấy vụn, cây bút cũ, những tấm thiệp của bạn bè mời đám tiệc, quyển sách nào đó bị chuột, dán gậm nhấm vài trang. Đi tới đi lui, như bóng ma, vách hang ẩm ướt, thỉnh thoảng đạp nhằm cái búa, cây đinh chẳng biết đó là món ǵ v́ đă sứt găy nhưng không đành ném bỏ, nhưng để dành mà làm món đồ chơi cho trẻ con, vân vân và vân vân... Ngọn nến đă tắt, nhưng bóng ma của ta cứ lầm lũi bước tới, bỗng dưng sẩy chân, rơi vào hố thăm thẳm. Ta đi suốt cái hố sâu ấy, dè đâu lại trở lên mặt đất. Đôi mắt hoa lên, như kẻ mất hồn, ngỡ hồn ḿnh c̣n bị giam hăm trong hang. Hang động nầy cạn nhưng xoáy trôn ốc, đủ chiều, chợt bắt gặp quyển Agenda mà năm tháng đă mờ nhạt, trong ghi lung tung vài địa chỉ, số điện thoại ai đó. Gặp cái đồng hồ đă ngừng chạy, nhưng thử đặt sát vành tai, như đứa bé dạo chơi băi biển, bắt gặp cái vỏ ốc, đặt vào tai nghe tiếng nhạc, ngỡ là tiếng ru của biển cả. Đứa bé cười thỏa măn: ḿnh phát hiện một hiện tượng độc đáo mà những người lớn tuổi  đang đùa giỡn với sóng biển, đang bấm máy ảnh chưa bao giờ biết thưởng thức. Một kiểu tham quan chốn chốn âm phủ. Cái Thiên đàng mà ḿnh mơ ước có hay không có? Nó ở đâu? Làm sao tham quan?

Cái Thiên đàng ấy là hiện tại cuộc sống, và địa ngục cũng xen lẫn trong đó. Trong bài tán đức Phật có câu: ''Tọa bồ đề ṭa, đại phá ma quân'' Ngồi  bên gốc

bồ đề ngài đánh tan lũ ma quái, những dâm nữ lơa lồ múa ca uốn éo. Nghệ thuật, trong đó  có bộ môn văn thơ, kịch... là cách nói láo dựa vào chút ít thực tế, cho ra láo để rồi ta dựng nên một tác phẩm thật hơn sự thật, một thế giới riêng bay lơ lửng trong không gian với những h́nh ảnh khi mờ khi tỏ, tan ḥa vào trong tiềm thức của con ngựi là độc giả, khán giả. Kiểu đúc kết nầy có lẽ nhiều nhà lư luận đă nói hết rồi, nhưng tôi tâm đắc theo kiểu của tôi. Cuộc sống hằng ngay là một Thiên đường, nhưng là Thiên đuờng nát ra từng mảnh vụn, không trọn vẹn, may ra đến chết ta mới ráp lại được. (các trang 36, 37)

*  *  *

Gặp bất kỳ quyển sách nào của Sơn Nam, loại truyện dài, loại truyện ngắn hay loại biên khảo, chúng ta chỉ muốn t́m h́nh ảnh vùng Hậu Giang v́ có ai khai thác vùng đất ấy trong văn chương bằng anh? Quyển tạp bút ''Một Mảnh T́nh Riêng'' cũng có nhắc tới một vài địa danh ở đất Hậu Giang, nhưng tác giả áp dụng cách diễn tả bằng văn chương trong các quyển địa phương chí. Văn chương như thế không làm thỏa măn những độc giả chuộng cách hành văn miêu tả đầy nét tạo h́nh mà chỉ làm ph́ nhiêu mảnh đất kiến thức của độc giả mà thôi. Xin đọc một đoạn tác giả nói về quê quán của ḿnh. Đó là một xóm nhỏ ở rạch Tràm Chẹt:

Mẹ tôi đi làm dâu nơi xa nhà hàng năm mươi mấy cây số ngàn, đường giao thông hồi đầu thế kỷ khó khăn, vượt rừng, qua hai con sông đầy sóng gió. So với rừng U Minh là quê cha tôi, xứ của mẹ tôi tương đối văn minh hơn, nhờ ảnh hưởng của nước ngọt quanh năm từ sông Hậu đổ xuống. Gọi thứ nước ấy là ''nước bạc'', theo nghĩa trắng đục, không đỏ v́ phù sa sông Hậu đă lắng bớt dọc đường; nhờ nước ngọt mà trồng được cây cảnh, thí dụ như nguyệt quí, ngâu, vạn thọ. Dưới rạch thêm vài loại cá nước ngọt như cá tra, cá mè vinh mà phía nước mặn không có. Lâu năm lắm mẹ tôi mới về quê thăm xứ một lần, t́nh trạng nầy tôi thử hư cấu, qua truyện ngắn Gả Thiếp Về Rừng, ''Má ơi đừng gả con xa, chim kêu vượn hú biết nhà má đâu?''. Qua sông Cái Bé th́ dễ, nhưng gian nan nhứt là qua sông Cái Lớn, hai bên rừng rậm với cây bần cổ thụ. Tôi nhớ rơ: Khỉ và gà rừng ra đến tận mé sông, khỉ dạn dĩ đến mức ném trái bần xuống để xua đuổi ghe xuồng đậu bên bờ lúc ăn cơm. Lại đồn rằng thỉnh thoảng sóng thần hiện lên, nhận ch́m ghe lớn nhỏ. Sông Cái Bé và sông Cái Lớn chảy song song nhau, khi gần ra biển có con rạch nhỏ ăn thông qua lại gọi là Tắc Cậu, rạch Tắc này nổi danh với ngôi miếu thờ Cậu, tức là thờ con bà Chúa Xứ, ghe buôn khá giả khi ngang qua thường đốt pháo để xin phép, cầu xin Cậu ban ơn. Vượt qua sông Cái Lớn vẫn là nan giải, vàm sông khá rộng, gần đấy, mặt biển dâng cao, luôn đầy sóng gió. Qua được nửa sông, rủi gặp giông, chẳng tài nào trở vào bờ cho kịp. (trang 8)

Theo dơi cuộc bút tŕnh của Sơn Nam qua quyển tạp bút ''Một Mảnh T́nh Riêng'', đối với độc giả thích t́m thú giải trí trong các quyển tiểu thuyết diễm t́nh, trinh thám, kiếm hiệp... họ sẽ thấm mệt đến hụt hơi. Trong 150 trang sách với kiểu chữ vừa (corps 10), anh gói ghém biết bao là vận sự, biết bao là vấn đề, biết bao là nhân sinh quan. Anh bàn qua Phật giáo ở quyển ''Trường Bộ Kinh'', ở ''Diệu Pháp Liên Hoa Kinh'' (tức là ''Kinh Pháp Hoa''), rồi bàn đến cái nét tiêu cực của dân tộc Việt Nam qua mẩu chuyện bà Phiếu mẫu biếu cơm cho Hàn Tín khi ông ta chưa gặp thời thanh vân đắc lộ. Và từ đó, anh nhảy qua việc đi khẩn hoang, rồi chuyện anh hùng Nguyễn Trung Trực kháng Pháp, chuyện sáng tác văn chương, chuyện cụ Phan Bội Châu, chuyện bà vú Miên của anh, chuyện quê ngoại của anh, chuyện đứa bé ngồi bất động trong căn cḥi lá bên ḍng rạch Trâm Bầu, chuyện băo lụt năm Th́n... Tới đây, chúng ta nh́n kỹ lại số trang, mới hay chúng ta chưa đọc hết 10 trang sách.

Nẻo về của ư của tác giả có nhiều lối rẽ, có nhiều khúc quanh theo kiểu dây chuyền, hết chuyện cây cà bắt qua dây rau muống, hết đầu Ngô bước qua đuôi Sở. Cái nguồn cảm hứng của anh chuyền từ vấn đế này sang vấn đề khác như con vượn chuyền cành. Cái ư tưởng của anh phóng vùn vụt như con tuấn mă phi nưóc đại trên dăm ngàn thênh thang, băng qua miền thảo nguyên bao la.

Cách viết những mẫu chuyện vụn vặt theo kiểu địa phương chí  như chuyện chào đời và cáo chung của tạp san Nông Cổ Mín Đàm, chuyện Phan Xích Long dùng bùa phép khởi nghĩa chống Tây... đă từng đưọc Vương Hồng Sển nói tới trong quyển ''Sài G̣n Ngày Nay'' và do Hứa Hoành đưa vào bộ ''Nam Kỳ Lục Tỉnh'', cho nên đối với độc giả t́m hiểu chuyện xưa không c̣n là chuyện lạ  nữa.

Ở quyển ''Một Mảnh T́nh Riêng'', chúng ta bị Sơn Nam quyến rũ không ở cái nghệ thuật tái sinh nếp sống Hậu Giang từ thuở khai hoang dựng đất cho tới 5 năm đầu của thập niên 40. Chúng ta có cơ hội thích thú theo dơi những nhân sinh quan của anh một cách  thống khoái. Những nhân sinh quan ấy bắt nguồn từ những kinh nghiệm sống của anh. Và cũng có thể là những ư nghĩ vụn vặt mà anh đă gặt hái trên sách vở để rồi anh phân tích hoặc tổng hợp thành ư t́nh và quan niệm riêng của anh. Tuy nhiên những nếp suy nghĩ dù là của ai, nhưng một khi đuợc anh tổng hợp thành ư nghĩ và được anh đưa vào trang sách cũng phải dựa vào kinh nghiệm của anh, chúng phải được lột xác để gần gũi với cái Chân, cái hợp lư và cận nhân t́nh.

Về tập tục và tín ngưỡng, Sơn Nam viết:

Người nông dân Việt trong số có người từ khắp miền đến lập nghiệp, lần hồi trở thành dân Sài G̣n, trọng Trời đất quỉ thần. Thờ nhiều vị thần như chư vị ngũ hành, bà chúa Xứ, cá Ông. Điểm nầy khác hẳn với tín ngưỡng phương Tây. Tin nhiều vào quỉ thần đến mức mê tín vẫn là đồng nghĩa với ''không quá tin vào cái  ǵ cả''. Nhiều vị cai tổng, đốc phủ sứ hoặc Việt gian hạng nặng vẫn bám giữ thần thánh để t́m nơi nưong tựa. Từng làm nô bộc cho thực dân Tây Phương, hưởng bổng lộc nhưng khi về già họ lại tin vào đ́nh miếu, Lăng Ông Bà Chiểu, sát nách Sài G̣n phải chăng để cân bằng với nhà thờ Đức Bà ở đầu đường Catinat và những chùa Ông, chùa Bà ở Chợ Lớn? Nhiều người theo thực dân nhưng vẫn thích hát bội, hát cải lương, ăn cơm với đũa, với tô canh công cộng, không thích muỗng nỉa và cái lệ trải náp bàn ăn. Thích ăn bánh ḿ thịt vào buổi sáng (không tốn chén đũa, nước mắm), thích thụt bi-da như người Pháp v́ gọn gàng, hấp dẫn, nhưng chỉ đến mức ấy mà thôi. Ngày Tết đốt pháo, rước ông bà, chưng nhánh mai vàng, ăn bánh tét, bánh in. Ăn Tết cổ truyền, đi đ́nh chùa nhưng vui chơi, dịp lễ Noel, ăn sinh nhật cho con, bắt chước thổi tắt mấy ngọn nến. Để tang màu trắng, với nhà sư tụng kinh. Hiếu thảo với cha mẹ, giữ nghĩa với bạn bè... (các trang 103, 104)

Quan niệm về nghệ thuật của Sơn Nam vẫn là quan niệm vừa sâu sắc vừa dí dỏm như quan niệm của Vơ Phiến. Anh không phải là nhà văn tư tưởng. Nhưng văn chương anh rất cận nhân t́nh, gây lư thú bất ngờ cho người đọc qua những lồi khề khà của một bợm nhậu hào sảng trong lúc rượu vào lời ra. Nhưng coi chừng đó, những lời theo hơi men tuôn ra từ cửa miệng anh thựng làm chúng ta nghĩ ngợi:

Nàng Nghệ thuật luôn giữ nụ cười ỡm ờ, mơ hồ. Hỏi: Tôi xứng đáng là nghệ sĩ chưa? Nàng Nghệ thuật cười. Hỏi thêm: Tôi không xứng đáng là nghệ sĩ, phải vậy chăng? Vẫn nụ cười, nhưng lạnh lùng, đối với tất cả mọi người. Đă dấn thân rồi, người nghệ sĩ không thể rút lui. Có lẽ khi gần nhắm mắt mới thấy nàng nghệ thuật từ xa, đến với nụ cười khó hiểu. Xin hẹn kiếp sau.

V́ vậy từ ngàn đời trước đến ngàn đời sau, Nghệ thuật vẫn c̣n đó, đỉnh cao vẫn chưa ai đạt đến. Người leo núi kiểu nầy, theo con đường này, kẻ theo kiểu khác quanh co. Như những nhà khoa học, những bác sĩ nghiên cứu bịnh SIDA . ''Tôi muốn được chết một cách tuyệt vọng, trong cơn tuyệt vọng''. A Gide đă viết như thế.

Ư nghĩ tự sát đă đến với vài nhà văn. Gérard de Nerval đă cao hứng, thắt cổ ngoài đường cái. Nhưng khi chết v́ tự sát, có ǵ chắc được nàng Nghệ thuật đón rước, tặng bằng khen? Bởi vậy, nhiều người thích sống, ăn uống, rượu thịt bất chấp nhục vinh, dư luận để... tự tử chậm, kiểu tự tử nầy dường như dễ chịu hơn. Vừa hèn nhát, vừa can đảm. (trang 60)

C̣n về vấn đề tài năng văn chương mà người đời tâng bốc lên mức thiên tài th́ sao? Sơn Nam tŕnh bày cho chúng ta thấy góc độ cái nh́n của anh như sau:

Về đời tư người làm văn nghệ, thỉnh thoảng tôi nghe vài người b́nh phẩm: Chàng nầy bịp bợm, thiếu khiêm tốn, cô hay bà nọ thích lăng nhăng, thế kia Người làm văn nghệ ưa uống rượu, nhưng đâu phải chàng say nào cũng là nhà văn, nhà thơ giỏi. Một bạn trẻ bất hạnh, mắc bịnh phong (cùi, hủi) đă nói trong lúc vui miệng: ''Nếu làm thơ, ḿnh sẽ là nhà thơ quá dở, nhưng lấy làm hân hạnh là Hàn Mặc Tử cũng từng mang bịnh phong. Cũng là bằng cớ khiến cho thiên hạ thấy kẻ bịnh tật lắm khi có tài năng lớn!''. Cách đây vài mươi năm, chưa ai nói đến trăm năm, nước nào cũng có vài nghệ sĩ xuất sắc, bỗng dưng im hơi lặng tiếng. Vài nhà phê b́nh đă chứng minh chẳng qua nghệ sĩ ấy bi quan, bị hành hạ v́ bịnh ''hoa nguyệt''. Trước khi có phát sinh thuốc trụ sinh, bịnh nầy là nan y . Chẳng lẽ ta đặt giả thiết nếu không mang bịnh ngặt, chàng nọ sẽ là kẻ bất tài vô tướng. Trong giới văn nghệ, vài bạn đầy thiện tâm, thiện chí nhưng chọn lầm con đường: thay v́ làm giáo viên dạy Việt văn xuất sắc, anh ta lại sáng tác rồi trở thành nhà phê b́nh cay đắng, hằn học, với thái độ tự tôn. Rằng nếu ta chịu làm văn nghệ, ta sẽ giỏi hơn người đă bị ta phê b́nh. Trường hợp vài người đă lớn tuổi, có con, có cháu, làm ăn không khá, nhưng khoe khoang: Thằng Giáp nọ thằng Ất kia hồi ở Việt Nam làm ăn dở, c̣n thiếu nợ tôi, nếu tôi vượt biên, tôi sẽ làm giàu gấp mười nó. (các trang 115, 116)

*  *  *

Trong quyển '' Một Mảnh T́ng Riêng'' có hai vận sự đáng chú ư như chuyện gánh Kim Thoa vừa sau Hiệp Định Genève tŕnh diễn vở ''Lấp Sông Gianh'' bị một quân nhân tung lựu đạn trên sân khấu, chuyện nhà văn B́nh Nguyên Lộc sáng tác truyện ngắn ''Rừng Mắm''.

H́nh như vào năm 1955 th́ phải, nữ nghệ sĩ Kim Thoa một trong 4 cô đào chánh đại ban ca kịch cải lương Phụng Hảo (gồm Phùng Há, Thanh Tùng, Kim Thoa, Bích Thuận) sau khi gánh này giải thể, cô ta bèn dựng nên đoàn ca kịch Kim Thoa. Vở tuồng khai trương là ''Lấp Sông Gianh''. Nhưng vừa tŕnh diễn th́ trái lựu đạn tung lên sân khấu, giết chết nam nghệ sĩ Ba Cương và làm cho soạn giả kiêm kịch sĩ Duy Lân bị thương nặng phải cưa một gị. Kỳ tŕnh diễn khai trương áy, Sơn Nam theo thi sĩ kiêm soạn giả cải lương Kiên Giang Hà Huy Hà được mời vào xem. Theo anh tường thuật th́:

... Lấp Sông Gianh, tự cái nhan đề gợi ư thức xóa bỏ phân chia Bắc-Nam, người Việt cùng chung dân tộc. Trên sân khấu, từng đoàn người dùng thúng đựng đất đổ xuống con sông tượng trưng rồi một diễn viên nói to: ''Chúng ta là nạn nhân của một chế độ đau ḷng'' Tức th́ một tiếng nổ ầm, lóe sáng, đèn sân khấu vụt tắt. Có tiếng kêu rú. Tôi nắm tay anh Kiên Giang: '' Lạ quá, ḿnh chạy ra''. K.G nói tỉnh táo: ''Ảo thuật trên sân khấu''. Nhưng rồi mọi ngươi ùn ùn tuôn ra đường cái. Lựu đạn nổ! Ai là thủ phạm? Dễ hiểu quá. Hôm sau, phía ''Quốc Gia'' tung dư luận, đó là sự căm thù tự phát của một anh ''lính Quốc gia'', lén đem lựu đạn vào rạp. Sau đó, chẳng nghe truy tầm, công bố tên họ thủ phạm. (trang 26)            

Như chúng ta biết, B́nh Nguyên Lộc sinh trưởng ở Tân Uyên (Biên Ḥa). Cho nên văn chương của anh lấy những địa danh miền Đông Sài G̣n làm bối cảnh như: Biên Ḥa, Tân Uyên, Đất Bái, B́nh Dương, Lái Thiêu, Ḷ Chén Cḥm Sao ở xă Hưng Định (Lái Thiêu). Thế mà trong truyện ngắn ''Rừng Mắm'', anh lại lấy khung cảnh vùng duyên hải Cực Nam đất nước. Truyện nầy gây tiếng vang dữ dội, thắp sáng huy hoàng cho văn nghiệp của anh. Xin hăy nghe Sơn Nam kể lại hành tŕnh ng̣i bút của B́nh Nguyên Lộc từ thuở thai nghén và sinh đẻ ra truyện ngắn bất hủ này:

... Truớc kia trong tuần báo Nhân Loại, anh (tức là B́nh Nguyên Lộc) hỏi về khung cảnh vùng biển phía Tây, đặc biệt là mũi Cà Mau. Và thú nhận anh chỉ đi đến chợ Cần Thơ, bờ sông Hậu mà thôi. V́ yêu mến phía Rạch Giá, Cà Mau mà nhiều người cho rằng kém cỏi về văn hóa, anh nhờ tôi cung cấp vài tư liêu cần thiết về cây đước, cây măm. Tôi bảo rằng mắm là lính tiên phong giữ đất, cây đước xuất hiện sau lưng cây mắm. Và để gây không khí, tôi t́m đến anh bạn Trần Tán Thanh từ chiến khu về, từng là chủ ḷ than ở Cà Mau. Anh Thanh bèn t́m giấy bồi thứ cứng, loại cạt-tông cách nhiệt ; vài hôm sau anh trao cho tôi bức tranh đơn sơ: nước gần bờ đục ngầu, ngoài khơi th́ xanh, thấp thoáng bóng dáng Ḥn khoai, vẽ miễn phí. Đem ức tranh tới nhà anh B.N.L, tôi thấy ḿnh đă làm xong sứ mạng, giữa bạn bè văn nghệ, tạo cho nhau nguồn hứng là sự đóng góp quí giá nhất. Một tuần sau, anh viết xong chuyện Rừng Mắm, tôi nhớ lần đầu tiên ra mắt ở tạp chí Bách Khoa, anh ghi lời: ''Tặng họa sĩ Trần Tấn Thanh''. Như tiếng sét vang, truyện nầy tạo thanh thế cho anh, bạn bè nể mặt, măi đến nay, người thuộc lứa tuôi 60 cứ nhắc nhở... (trang 24)

*  *  *

Sơn Nam là một nhà văn có tài, một nhà văn lớn. Vào hai thời kỳ Đệ nhất và Đệ nhị Cộng Ḥa ở Miền Nam Việt Nam, anh mang tiếng là kẻ nằm vùng. Nhưng hoạt động của anh cho Cộng Sản không mấy quan trọng, hầu như không có. Vào cuộc đổi đời chắc anh cũng sáng mắt v́ dù được bọn Cộng Sản đăi ngộ, nhưng anh vẫn không được tự do cầm bút như thuở xưa. Vẫn phải sống theo chế độ, nhưng anh không hoàn toàn buông xuôi. Anh gắn gượng níu lại chút liêm sĩ cuối cùng để khỏi ca tụng xả láng chủ nghĩa mà anh đă từng lầm lạc theo đuổi từ đầu mùa khói lửa vào giữ thập nien 40.

Sơn Nam không có cái sĩ khí lẫm liệt như nhà văn Lao Xá trước bạo lực của cuộc Cách Mạng Văn Hóa do Giang Thành cầm đầu. Anh cũng không hèn nhát như Quách Mạt Nhược chạy theo bạo quyền, ca tụng mụ Giang Thanh và nhóm Vệ Binh Đỏ không hề biết tiết kiệm lời tâng bốc, để rồi khi Giang Thanh bị hạ bệ, Quách văn gia quay lại công kích kẻ mà ông đă từng suy tôn ca tụng.

Bút giả nghe nói gần đây nhà cầm quyền Cộng Sản cho phép dựng tượng Sơn Nam trong đô thành Sài G̣n, nhưng không rơ ở đâu. Ước mong sau này, nếu phe Quốc Gia chúng ta giành lại chủ quyền trên đất nước, tượng ấy sẽ không bị phá hủy. Sơn Nam là kẻ đáng thương hơn đáng ghét đáng khinh dù phẩm tiết anh vấy bùn lam nham đi nữa. Cái tài hoa cùng cái công tŕnh văn chương của anh làm sao chúng ta có thể phủ nhận ?

Các quyển biên khảo chế độ cũ đă từng dựng tượng cho Sơn Nam trong khu vườn văn chương của Miền Nam Việt Nam từ lâu rồi. Dù cái tượng bằng đá hoa cương hay bằng xi-măng cốt sắt của anh có bị phá hủy đi nữa th́ những trang sách viết về Sơn Nam cũng đủ làm thành những bức tượng nguy nga tráng lệ cho anh rồi.

Hồ Trường An

 

Trang Nhà  :

 

Tiếp nhận thư tín :