Lănh thổ của dân tộc Việt thời kỳ này, trong sự cai quản của chính
quyền trung ương các triều đại Trung Hoa, tiến về phía nam đến vùng
Nghệ An, Hà Tĩnh hiện nay. Ranh giới lănh thổ về phía nam đôi khi
được nhắc trong sử liệu là một cột mốc bằng đồng dựng lên bởi Mă
Viện sau khi chinh phạt sự nổi dậy của Hai Bà Trưng, c̣n gọi là
cột đồng Mă Viện.
Thời nhà
Đinh - Lư - Trần - Hồ
Sau khi độc lập khỏi Trung Hoa, Đại Việt thường xuyên có các cuộc
giao tranh với Chiêm Thành ở phía nam. Phần thắng thường thuộc về
Đại Việt, vốn là nước lớn hơn.
Vào khoảng năm 1069, vua Lư Thánh Tông thân chinh Chiêm Thành, bắt
được vua Chiêm Thành bấy giờ là Chế Củ. Chế Củ buộc phải dâng đất
của ba châu Bố Chính, Đại Lư (không phải vương quốc Đại Lư) và Ma
Linh cầu ḥa. Lănh thổ Việt Nam thêm vùng đất này, nay thuộc Quảng
B́nh và Quảng Trị.
Năm 1306, thuộc vào một giai đoạn Chiêm Thành và Đại Việt có mối
giao hảo tốt đẹp, nhà Trần gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm
Thành bấy giờ là Chế Mân. Đổi lại Chế Mân dâng đất cho Đại Việt gồm
Châu Ô và Châu Rí. Các vùng đất này được Trần Anh Tông đổi tên là
Thuận Châu và Hóa Châu, nay thuộc vùng Thừa Thiên - Huế đến một phần
Quảng Nam (??).
Những năm đầu thời kỳ nhà Hồ, từ 1400 đến 1403, nhà Hồ liên tục đem
quân tấn công Chiêm Thành và đă mở mang được lănh thổ tới tỉnh Quảng
Ngăi ngày nay.
Thời nhà
Hậu Lê - Nguyễn
Trong thời kỳ đầu nhà Hậu Lê, Chiêm Thành thường xuyên cống nạp và
quy phục.
Đến năm 1470 Chiêm Thành lại sang cướp phá Hóa Châu, vua Lê Thánh
Tông thân chinh Chiêm Thành. Năm 1471, quân Đại Việt phá tan thành
Chà Bàn (thuộc B́nh Định ngày nay), bắt được chúa Chiêm Thành là Trà
Toàn. Đất đai Đại Việt được mở đến núi Thạch Bi, nay thuộc Phú Yên.
Lê Thánh Tông có khắc chữ vào vách đá trên đỉnh núi, ghi công mở đất
và phân định ranh giới. Chữ ấy nay vẫn c̣n, nhưng nét chữ lờ mờ sứt
mẻ, không thể trông rơ được.
Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, do áp lực từ các cuộc tấn công của
chúa Trịnh từ phương bắc, cácchúa Nguyễn đă bắt đầu một công cuộc mở
mang bờ cơi Việt Nam về phía nam chưa từng thấy trong lịch sử.
Năm 1611, Nguyễn Hoàng vào đánh nước Chiêm Thành lấy đất lập ra phủ
Phú Yên chia ra làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuyên Ḥa, nay thuộc
Phú Yên.
Năm 1653 vua nước Chiêm Thành là Bà Thấm sang quấy nhiễu ở đất Phú
Yên. Chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần sai quan cai cơ là Hùng Lộc sang
đánh. Bà Thấm phải dâng thư xin hàng. Chúa Nguyễn để từ sông Phan
Lang trở vào cho vua Chiêm, c̣n từ sông Phan Lang trở ra lấy làm phủ
Thái Ninh, sau đổi làm phủ Diên Khánh, nay thuộc Khánh Ḥa. Tại đây
đặt dinh Thái Khang để Hùng Lộc làm thái thú.
Trong thời kỳ này, dân Việt ở Đàng Trong, nhiều người bỏ dải đất
miền Trung khắc nghiệt, vào khai khẩn đất vùng đồng bằng sông Cửu
Long, làm ruộng ở Mô Xoài (Bà Rịa) và ở Đồng Nai vốn là đất của Chân
Lạp, nhưng không gặp phản kháng ǵ đặc biệt.
Từ
năm
1658,
vua nước Chân Lạp mất, nội bộ nước Chân Lạp luôn lục đục, và nhiều
lần phải cầu viện các chúa Nguyễn can thiệp quân sự. Đổi lại người
Việt được bảo hộ khi làm ăn ở Chân Lạp, Chân Lạp phải triều cống và
quan trọng hơn là về sau Chân Lạp nhường lại dần nhiều đất cho các
chúa Nguyễn.
Năm 1679 có quan nhà Minh gồm Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng
Tiến là Tổng binh Trấn thủ đất Long môn (Quảng Tây), Trần Thượng
Xuyên và phó tướng Trần An B́nh là tổng binh châu Cao, châu Lôi và
châu Liêm (Quảng Đông) không chịu làm tôi nhà Thanh, đem 3 000 quân
cùng 50 chiếc thuyền sang xin ở làm dân Việt Nam. Chúa Hiền nhân
muốn khai khẩn đất Chân Lạp, bèn cho vào ở đất Đông Phố (Gia Định).
Những người này chia nhau ở đất Lộc Đă (Đồng Nai), Mỹ Tho, ở Ban Lân
(Biên Ḥa), cày ruộng, làm nhà, lập ra phường phố, có người phương
tây, người Nhật Bản, người Chà Và đến buôn bán khá đông.
Năm 1693 vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh bỏ không tiến cống, chúa
Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai quan tổng binh là Nguyễn Hữu Kính đem
binh đi đánh bắt được Bà Tranh và bọn thần tử cùng thân thuộc về Phú
Xuân (Huế). Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm Thành làm Thuận Phủ, nay thuộc
B́nh Thuận. Đất này cho con cháu của Bà Tranh làm đề đốc trấn giữ,
bắt đổi y phục như người Việt Nam để phủ dụ dân Chiêm Thành. Qua năm
sau, đổi Thuận Phủ ra làm Thuận Thành Trấn, rồi đến năm 1697 lai đặt
phủ B́nh Thuận, lấy đất Phan Lư (Phan Tri), Phan Lang (Phan Rang)
làm huyện Yên Phúc và huyện Ḥa Đa. Nước Chiêm Thành từ đây đă bị
tiêu diệt.
Năm 1698 chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Kính làm kinh
lược đất Chân Lạp. Ông chia đất Đông Phố của những người Tàu ra làm
dinh, làm huyện, lấy Đồng Nai làm huyện Phúc Long và Sài G̣n làm
huyện Tân B́nh. Ông đặt Trấn Biên dinh (Biên Ḥa), đất Trấn Biên th́
lập làm xă Thanh Hà, và Phan Trấn dinh (Gia Định), đất Phan Trấn th́
lập làm xă Minh Hương, rồi sai quan vào cai trị. Chúa Nguyễn lại
chiêu mộ những kẻ lưu dân từ Quảng B́nh trở vào để lập ra thôn xă và
khai khẩn ruộng đất. Những người Việt và Tàu ở đây đều thuộc về sổ
bộ nước Việt của chúa Nguyễn.
Năm 1708 Mạc Cửu, một người gốc Quảng Đông, bỏ sang ở Chân Lạp từ
khi nhà Thanh cướp ngôi nhà Minh, chủ ṣng bạc và cai quản 7 xă gồm
toàn lưu dân, gọi là Hà Tiên, xin thuộc về chúa Nguyễn. Chúa phong
cho Mạc Cửu làm chức tổng binh, giữ đất Hà Tiên. Khi Mạc Cửu mất,
con là Mạc Thiên Tứ lại được làm chức đô đốc, trấn ở Hà Tiên. Mạc
Thiên Tứ đắp thành, xây lũy, mở chợ, làm đường và rước thầy về dạy
Nho học để khai hóa đất Hà Tiên.
Năm 1753, biết vua Chân Lạp là Nặc Nguyên thông sứ với chúa Trịnh ở
ngoài Bắc để lập mưu đánh chúa Nguyễn, chúa Nguyễn sai Nguyễn Cư
Trinh sang đánh Nặc Nguyên. Năm 1755 Nặc Nguyên thua bỏ thành Nam
Vang, chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ, rồi xin dâng hai phủ Tầm
Bôn và Lôi Lạp (nay là ??) để chuộc tội.
Năm 1759 Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận đang xin chúa Nguyễn
phong cho làm vua th́ bị người con rể là Nặc Hinh giết và cướp ngôi.
Quan tổng suất là Trương Phúc Du thừa kế sang đánh thắng Nặc Hinh.
Chúa Nguyễn cho lập Nặc Tôn, con Nặc Nhuận, vốn đang nương nhờ Mạc
Thiên Tứ ở Hà Tiên trong lúc hoạn nạn, làm vua Chân Lạp. Nặc Tôn
dâng đất Tầm Phong Long để tạ ơn chúa Nguyễn. Chúa bèn sai Trương
Phúc Du và Nguyễn Cư Trinh đem dinh Long Hồ về xứ Tầm Bào (Vĩnh Long
bây giờ) và đặt ra ba đạo là Đông Khẩu (Sa Đéc), Tân Châu (Tiền
Giang) và Châu Đốc (Hậu Giang). Nặc Tôn lại dâng 5 phủ là Hương Úc,
Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt và Linh Quỳnh để tạ ơn Mạc Thiên Tứ. Mạc
Thiên Tứ đem những đất ấy dâng chúa Nguyễn, chúa cho thuộc về trấn
Hà Tiên cai quản. Đất thuộc 6 tỉnh miền nam Việt Nam bây giờ th́
trước đó là đất của Chân Lạp, tuy nhiên trước đó th́ Chân Lạp lại là
kẻ chiếm đất của Phù Nam đă từng tồn tại từ khoảng thế kỷ 2 đến thế
kỷ 9. |