An Nam Chí Lược
Lê tắc
Lời Giới Thiệu
Song song
với công việc biên mục Châu bản triều Nguyễn, Ủy ban Phiên Dịch Sử
Liệu Việt-Nam đă lập một kế hoạch riêng để hiệu đính và phiên dịch
các bộ sử Việt Nam. Theo kế hoạch dự định ấy, các phiên dịch viên
trong Ủy ban đă tham khảo các truyền bản tàng trử tại các thư viện
Nhật Bản, Trung Hoa và Anh Quốc, làm xong một hiệu bản của bộ An Nam
Chí Lược và hoàn thành một bản phiên dịchViệt văn.
Nói về
cuốn An Nam Chí Lược, ai ai cũng biết rơ soạn giả Lê Tắc là một tên
phản bội với Tổ
quốc. Trong lúc nước nhà đang gặp ngoại xâm, xă tắc nguy cấp, nhân
dân đau khổ, Lê Tắc cùng bọn Trần Kiện và Trần Ích Tắc, không những
không chịu gắn sức phấn đấu để cứu nước cứu dân, trái lại nhẩn tâm
và làm tôi địch. Hơn nữa, trong bộ An Nam Chí Lược, Lê Tắc quên ḿnh
là người Việt, dựa vào lập trường và quan điểm người Nguyên để soạn
tập. Chẳng hạn, như những lời nịnh nọt a dua của soạn giả, những
đoạn văn kiêu ngạo tự tôn tự đại tŕnh bày trong các chiếu chỉ nhà
Nguyên và trong các bài tựa các danh nhân hồi ấy, đều khiến cho
chúng ta vô cùng uất ức và đau đớn.
Sở dĩ Ủy ban lấy bộ An Nam Chí Lược làm công việc phiên dịch đầu
tiên, là v́ bộ ấy có lẽ là bộ sử xưa nhất do một cá nhân người Việt
soạn ra, và gồm có nhiều sử liệu đáng quư có liên quan đến cổ sử và
trung sử Việt Nam, chứ không phải Ủy ban có chút định nào dung thứ
những hành động và quan niệm sai lầm của soạn giả đối với tổ quốc.
Nói khác, chúng tôi coi cuốn sách này là một sử liệu, là một đối
tượng cho cuộc nghiên cứu sử học thuần túy, bởi vậy, thành thực muốn
cung cấp một bộ hiệu bản và bản dịch đáng tin cậy cho học giới mà
thôi.
Trong hai ngh́n năm quốc sử, chúng ta không thể không công nhận rằng
c̣n nhiều chỗ thiếu
sót, mơ hồ, đang chờ đợi sự cố gắng của sử gia Việt Nam, để bổ túc
hoặc xác định lại. Vậy, điều cần thiết cho nền sử học Việt Nam ngày
nay là gây phong trào nghiên cứu theo phương pháp khoa học, nhất là
về phương diện sưu tầm và khảo đính sử liệu, chúng ta nên t́m cách
nâng đỡ và xúc tiến. Căn cứ vào quan điểm ấy, tôi thành thực tin
rằng bộ hiệu bản và bản dịch này là một thực hiện mới của nền sử học
tại Việt Nam, và sẽ đem lại rất nhiều bổ ích cho công việc t́m ṭi
sự thực trong quốc sử.
Huế, ngày 22 tháng 4 năm 1960 Viện Trưởng Viện Đại Học Huế
L. M. Cao Văn Luận
Tống tự
Quyển đệ nhất
Cổ-Ái đông sơn Lê-Tắc
biên
Tống Tự
Từ xưa nước An-Nam thông giao với Trung-Quốc, thời vua Chuyên-Húc,
phía bắc đi tới U-Lăng, phía nam đi tới Giao-Chỉ. Vua Đế-Nghiêu sai
Hy Hoà qua ở đất Nam-Giao, vua Thuấn sai Vũ qua Nam yên-vỗ Giao-Chỉ.
Qua đời Chu-Thành-Vương (1115-1079 trước công nguyên), họ Việt-Thường
qua chín lần thông-ngôn, tới cống-hiến mà nói rằng: "Trời không có
gió bảo, không mưa dầm, ngoài biển không nổi sóng dữ đă ba năm nay,
có lẽ ở Trung-Quốc có đấng thánh-nhân trị-v́, sao chẳng tới chầu?".
Lúc bấy giờ, Chu-Công đặt bài ca, đánh đàn thuật chuyện họ Việt-Thường
tới chầu: "Ô hi ta ta! Phi Đán chi lực, Văn-Vương chi đức", nghĩa
là: ôi ôi! vui thay, cảnh-tượng thái-b́nh không phải nhờ sức của Đán
(tên của Chu-Công) mà là nhờ đức của vua Văn-Vương. Nước Việt-Thường,
tức đất Cửa-Châu, ở phía nam Giao-Chỉ.
Quyển Hán-Quan-Nghi của Ứng-Thiện chép rằng: "trước tiên Trung-Quốc
mở mang từ "sóc" (phương bắc), rồi sau tiến sang phương nam lấy làm
"cơ chỉ". Hiện nay, các sách viết chữ "chỉ" (cái nền) là viết sai.
Nhà Tần (246-207 trước công nguyên) lấy Giao Chỉ làm Tượng-Quận; đến
khi nhà Tần loạn th́ Đô-uư quận Nam-hải là Triệu-Đà nổi binh đánh
lấy hết các quận quốc, rồi tự lập làm vua. Khi ấy, Hán- Cao-Tổ sai
Lục-Giả qua lập Đà làm Việt-Vương. Sau khi Cao-Tổ băng, Cao-Hậu cấm
Nam-Việt mua đồ sắt của Trung-Quốc, Đà tiếm hiệu xưng đế, rồi phát
quân đi đánh Trường-Sa. Văn-đế lại sai người đưa thư qua trách Đà.
Đà có ư sợ, bèn bỏ hiệu đế, nguyện làm tôi và cống hiến phẩm vật.
Năm Kiến-Nguyên thứ 3, (vua Vơ-đế, 142 trước công nguyên) Đà mất,
con cháu họ Triệu truyền xuống bốn đời, kể được hơn chín mươi năm.
Vơ-đế sai Chung-Quân đi sứ qua Nam-Việt để dụ vua Việt tên là Hưng
vào chầu, Hưng muốn đi, nhưng bị tướng Lữ-Gia can ngăn, vua không
nghe, Gia làm phản, nổi binh đánh giết vua và cả sứ-gả nhà
Hán, lập Kiến-Đức là anh khác mẹ lên làm vua Nam-Việt. Năm Nguyên-Đinh
thứ 5 (112 trước công nguyên), Vệ-Uư là Lộ-Bác-Đức xuất mười vạn
quân qua đánh Nam-Việt, năm thứ sáu, mới đánh bại người Việt, lấy
đất đó chia làm các quận: Nam-Hải, Thương-
Ngô, Uất-Lâm, Hợp-Phố, Giao-Chỉ, Cửu-Chân, Nhật-Nam, Châu-Nhai và
Đam-Nhỉ, mỗi quận đặt Thái-thú để cai trị. Qua nguyên-niên Sơ-nguyên
của Nguyễn-Đế (48-33 trước công nguyên), băi bỏ hai quận Châu- Nhai
và Đam-Nhỉ, c̣n lại bảy quận, kể cả Giao-Chỉ. Khi đầu, Giả-Quyên-Chi
tâu rằng: Châu-Nhai, Đam Nhỉ, đều ở hải ngoại; xứ ấy thường cậy thế
hiểm trở mà làm phản, đến lúc dụng binh tới dẹp, th́ chỉ có miếng
đất vô dụng mà thôi, nếu bỏ đi cũng không đáng tiếc. Vua Hán bèn hạ
lời chiếu băi bỏ. Nhan-Sư-Cổ nói: bảy quận đều thuộc về Giao-Châu,
theo chế độ nhà Hán, các quận thuộc châu, nên đặt Thứ-sử Giao-Châu
để cai-trị chung. Năm Kiến-Vơ thứ 16 (40 sau công nguyên), đời vua
Hán Quang-Vơ, có người đàn bà Giao-Chỉ tên là Trưng-Trắc làm phản,
năm thứ 19 (43), sai Mă-Viện qua đánh dẹp yên, rồi dựng trụ đồng để
làm giới hạn nhà Hán.
Năm Kiến-An thứ 15 (210), Hiến-Đế dời chỗ cai trị qua quận Nam-Hải.
Vương-Phạm nói: chỗ quận trị của quan Thứ-sử ở đất Giao-Châu, cuối
đời Hán, đổi qua Nam-Hải, khi Tôn-Quyền mới được ấn mạng của nước
Nguỵ, cũng cầm cờ mao tiết làm tổng-đốc Giao-Châu và kiêm lĩnh Kinh-Châu.
Tôn-Tư làm Giao-Chỉ Thái-thú quá tham bạo, bị quận lại Lữ-Hưng giết,
các quận Cửu-Chân và Nhật-Nam đều phản, và hàng nhà Tấn. Tôn-Quyền
thấy Giao-Chỉ ở xa, bèn chia Giao-Châu đặt Quảng-Châu và dời quận
trị của Giao- Châu qua Long-Biên. Nguyên niên Kiến-Hoành (269), vua
nước Ngô là Tôn-Hạo sai các tướng là Tiết-Hủ, Đào-Hoàng qua thu phục
Giao-Chỉ, giết các tướng do nhà Tấn đặt ra, như vậy đất Cửu-Chân lại
thuộc về Ngô. Đến lúc nước Ngô mất, Giao-Châu trở về nhà Tấn, trải
qua các triều: Tống, Tề, Lương, Trần, Tuỳ, Đường đều để y như cũ,
chỉ cải tên Cửu-Chân làm Ái-Châu, Nhật-Nam làm Hoan-Châu, đều thiết
Thứ-Sử, hoặc đặt Giao-Châu tổng-quản hoặc An-Nam đô-đốc để thống trị.
Qua đời Đờng mới chia Lĩnh-Nam làm đông tây đạo, đều đặt Tiết Độ-Sứ,
lại đặt ra năm quận: Quế, Quản, Ung, Dung và An-nam, đều thống thuộc
Đông-đạo, về phận Tây-đạo, th́ đặt An-nam đô-hộ kiêm cả ngũ quản.
Kinh-Lược-Chiêu-Thảo-Sứ là Trương-Bá-Nghi đắp La-Thành tại An-nam,
công tŕnh chưa xong, đến năm Nguyên-Hoà thứ 3 (808), đôhộ là Trương-Chu
đắp tiếp thêm mới hoàn công. Lâm-Tư nói rằng: La-Thành chu-vi 2000
bước, tốn hết 25 vạn công.
Đến đời vua Tuyên-Tông, niên hiệu Đại-Trung (847-859) có viên đô-hộ
cai trị không được đứng đắn, đăi dân bằng lối bạo ngược, họ bèn liên-kết
với rợ Nam-Chiếu, trở lại đánh phủ An-nam, cuộc rối loạn chém giết
kéo dài luôn mấy năm không thôi. Năm Hàm-Thông thứ 3 của vua Y-Tông,
(682), nước Nam-Chiếu đánh hăm La-Thành; viên Kính-Lược-Sử Thái-Tập
bị chết, vua sai Cao-Biền làm chức đô-hộ, đem quân đánh khôi phục
phủ thành, chém tướng mọi là Đoàn-Tù-Thiên và bọn quân mọi hơn
30.000 cái đầu; rồi tu bổ La-Thành lại, cải xưng đô-hộ-phủ Tịnh-Hải-Quân.
Biền được trao cho làm chức Tiết-Độ- Sứ. Kịp dời Ngũ-Đại, các người
thố hào ở các Châu Giao, Ái là Khúc-Hạo, Dương-Diên-Nghệ, Kiều- Công-Tiện,
v.v... thay nhau dùng vơ lực cướp quyền. Tướng cũ của Nghệ là Ngô-Quyền
bèn giết Công-Tiện mà tự lập làm vua, truyền được vài đời, đến khi
Ngô-Xương-Văn chết, th́ có bộ thuộc là Ngô-B́nh (tức Lữ-Xữ-B́nh),
dành làm vua; Đinh-Bộ-Lĩnh giết Ngô-B́nh, lănh nước Giao-Chỉ, tự
xưng là Vạn-Thắng-Vương, lại tự ư cho con Liễn làm Tiết-Độ-Sứ. Đầu
nhà Tống, Liễn khiến Sứ nhập cống, Thái-tổ phong Bộ-Lĩnh làm Giao-chỉ
Quận-Vương và hạ chiếu cho Liễn làm Tiết-Độ-Sứ An-nam đô-hộ. Sau
Liễn và cha đều mất, em là Triền kế lập th́ bị Thái-Hiệu Lê-Hoàn phế
bỏ và cướp ngôi. Lê-Hoàn giả làm tờ biểu dâng vua nhà Tống, nói rằng:
Triền khiến Hoàn thay làm vua. Thái-Tông nhà Tống bèn phong Hoàn làm
vua. Nhà Lê truyền được ba đời, cộng ba mươi năm, bị Lư-Công-Uẩn
cướp ngôi. Vua Chân-Tông lại phong Công-Uẩn làm Giao-Chỉ Quận-Vương.
Năm Long-Hưng thứ 2 của Hiếu-Tông (1164), Lư-Thiên-Tộ sai sứ nhập
cống, được vua Tống phong làm An-nam quốc-vương, tên nớc An-nam bắt
đầu từ đó.
Họ Lư truyền ngôi được tám đời, không có con trai, do con gái là
Chiêu-Thánh nối ngôi.
Trong năm Canh-Dần niên hiệu Thiệu-Định nhà Tống (1230), Chiêu-Thánh
nhường ngôi cho chồng là Trần-Nhật-Cự (tức Trần-Cảnh), vua Tống lại
phong Nhật-Cự làm An-nam Quốc-Vương.
Năm Quư-Sửu (1253), Đại-Nguyên đă dẹp yên Vân-Nam, đến mùa đông năm
Đinh-Tỵ (1257), sai Đại-Soái là Ngột-Lương Hợp-Đăi đem quân qua biên-giới
An-nam, do đường Quảng-Tây để hội binh đánh nhà Tống; quân-đội nhà
Trần chống cự, không được thắng, bèn nạp khoản xưng thần, rồi khiến
bồi-thần dâng lời biểu và thường năm qua cống hiến phẩm vật.
Đến năm Tân-Dậu niên-hiệu Trung-Thống (1261), vua Thế-Tổ Hoàng-Đế
lại phong họ Trần làm vua An-nam; qua năm Đinh-Sửu, hiệu Chí-Nguyên
(1277), vua Trần mất, Thế-Tử (tức Nhật-Hoảng),
không xin sắc-mạng, mà tự lập làm vua, nên vua sai Thượng-Thư bộ Lễ
là Sài-Thung sang mời nhập triều; vua Trần mượn cớ có tật không đi.
Qua năm sau, lại lấy cớ có tật không đi, sai quốc-thúc là Trần-Di-Ái
sang triều-kiến.
Thế-Tổ viện cớ vua có bịnh, bèn lập Di-Ái làm vua. Năm Tây-Tỵ
(1281), sai Sài-Thung nhận chức An-nam-Hành Tuyên-Uư-Sứ Đô-Nguyên-Soái,
xuất binh 1000 người, đưa Di-Ái về nước, đi đến địa-giới Vĩnh-B́nh,
An-nam không chịu nh́n nhận, Dị-Ái sợ, ban đêm trốn về, chỉ sai bồi-thần
thay mặt tiếp rước Sài-Công vào nước, tuyên lời dụ chỉ của vua rồi
trở về.
Năm Nhâm-Ngọ, hiệu Chí-Nguyên (1282), quan Hữu-Thừa là Toa-Đô cầm
quân qua đánh thâu Chiêm-Thành, triều-đ́nh sai sứ yêu-cầu vua An-nam
cho mượn đường tiến binh, và giúp quân lương, Thế-Tử (tức vua Trần)
không chịu. Đến mùa đông năm Giáp-Thân, hiệu Chí-Nguyên (1284), vua
sai Trấn-Nam-Vương Thoát-Hoan và quan B́nh-Chương là A-Lư-Hải-Nha
tiến tới biên giới, Thế-Tử kháng cự, thua chạy, em là Ích-Tắc, quy
thuận vào chầu, vua thương t́nh, phong Ích-Tắc làm An-nam quốc-vương,
lại phong cận-thần là Trần-Tú-Viên làm Phụ-Nghĩa-Công, các quan lại
đi theo cũng đều cho tước-vị. Năm Đinh-Hợi, hiệu Chí-Nguyên (1287),
Thế-Tổ sai Trấn-Nam-Vương và quan B́nh-Chương là Áo-Lỗ-Xích cầm quân
qua b́nh-định An-nam, khi quân kéo đến, Thế-Tử đánh thua, chạy trốn
ngoài ḥn
đảo ở giữa biển. Qua mùa xuân, tháng ba, năm sau, Trấn-Nam-Vương
thấy khí-hậu nước An-nam quá nóng-nực độc-địa, bèn kéo quân về.
Trong năm Quư-Tỵ hiệu Chí-Nguyên (1293), vua lại sai Đại-Vương Ích-Cát-Liệt-Đải
và quan B́nh- Chương là Lưu-Nhị-Bạt-Đô, v.v... qua đóng đồn tại đất
Việt, để chờ qua năm là năm Giáp-Ngọ (1294), trong khoảng mùa thu
th́ tiến binh. Nhưng tháng giêng năm ấy vua Thế-Tổ băng; qua tháng
tư mùa hạ, Thành-Tông Hoàng-Đế lên ngôi, hạ chiếu băi binh, lại
khiến quan Thị-Lang bộ Lễ là Lư-Hản, quan Lang-
Trung là Tiêu-Thái-Đăng đi sứ qua An-nam tha tội cho Thái-Tử An-nam
và dẫn sứ-thần An-nam là Đào- Tử-Kỳ về nước để tuyên lời dụ-chỉ. Lúc
đó, Thế-Tử đă mất từ mấy năm, nên con vua suất các quan liêu ra đón,
đặt bàn xông trầm, trông về cửa khuyết (nước Nguyên) mà lạy tạ ơn.
Lại khiến bồi-thần qua dâng lời biểu chúc mừng, xin làm phiên-thần
vĩnh-viễn, chiếu-lệ thường triều-cống, đến nay vẫn c̣n. Nam-Giao đời
xưa, nhà Chu gọi là Việt-Thường, nhà Tần gọi là Tượng-Quận, nhà Hán
đặt làm ba quận: Giao-Châu, Cửu-Chân và Nhật-Nam. Nhà Đường lại cải
Giao-Châu làm An-nam phủ, quận Cửu- Chân làm Ái-Châu, quận Nhật-Nam
làm Hoan-Châu, tức là La-Thành, Thanh-Hoá và Nghệ-An ngày nay vậy.
Quận ấp
Quyển đệ
nhất
Cổ-Ái
đông sơn Lê-Tắc biên
Đất Nam-Giao
xưa, nhà Chu gọi là Việt-Thường, nhà Tần đặt tên là Tượng-Quận. Đến
cuối nhà Tấn, Nam-Hải-Uư là Triệu-Đà đánh tóm thâm đất, tự lập làm
một nước riêng và tiếm xưng vương-hiệu.
Sơ niên Tây-Hán, Cao-Tổ phong Đà làm Nam-Việt-Vương, trải được mấy
đời, th́ tướng Nam-Việt là Lữ-Gia làm phản, giết vua Triệu và các
sứ-thần của nhà Hán. Vũ-Đế sai Phục-Ba tướng-quân Lộ-Bác-Đức
sang đánh diệt Nam-Việt, rồi đặt ra chín quận, bổ quan cai trị. Nước
An-nam ngày nay tức là 3 quận Giao-Chỉ, Cửu-Chân và Nhật-Nam ở trong
chín quận ấy.
Về sau
các triều đại kế tiếp, chế-độ quận huyện không nhứt định.
Qua đời
Ngũ-Đại (907-959), người đất Ái-Châu là Ngô-Quyền, chiếm giữ quận
Giao-Chỉ; đời sau các nhà Đinh, Lê, Lư, Trần, nối nhau tranh quyền,
đều được nhà Tống phong vương tước. Quan-chế,
h́nh-pháp và hành-chính, ít nhiều học của Trung Hoa, c̣n về quận-ấp
hoặc theo cũ, hoặc đổi mới, nay lấy đại-khái mà chép lại.
Đại-La
Thành-Lộ1: xưa là nước Giao-Chỉ, đời nhà Hán để như cũ, nhà Đường
đặt làm An-nam đô-hộ-phủ, thành phủ ở tại phía tây bờ sông Lư-Giang;
Trương-Bá-Nghi đời Đường bắt đầu xây thành
1 Chữ-Lộ, theo nghĩa chính là đường đi, nhưng ở trong sách sử Địa
th́ có khi là một tỉnh, một phủ, huyện, một địa hạt, một thành phố
hay một châu quận.
ấy,
Trương-Chu, Cao-Biền tiếp-tục sửa sang đắp thêm. Trong thời
Chân-Tông nhà Tống, Lư-Công-Uẩn người quận ấy, kiến-quốc tại đây.
Đến nhà Trần nối theo nhà Lư lấy đất ấy đạt thêm ba phủ nữa: Long-Hưng,
Thiên-Trường và Trường-An. Long-Hưng-Phủ: tên cũ là Đa-Cương-Hương.
Tổ-tiên họ Trần lúc c̣n hàn-vi, ban đêm đi qua một cái cầu khe, khi
qua rồi, ngoảnh lại, không thấy cầu nữa. Chẳng bao lâu, họ Trần được
nước, người ta gọi khe ấy là Long-Khê, nên đổi tên Đa-Cương làm
Long-Hưng. Thiên-Trường-Phủ: tên cũ là Tức-Mặc-Hương, nơi phát-đích
họ Trần. Đến khi họ Trần được nước, xây một hành-cung tại đó, mỗi
năm đến một lần, để tỏ ra là không bỏ quân chỗ phát-tích của ông bà,
rồi đổi tên làm Thiên-Trường-Phủ, chỗ ấy có nước thuỷ-triều chảy
quanh thành, hai bên bờ mọc nhiều cây hoa, khí thơm ngát người,
hoạ-thuyền qua lại, giống như cảnh tiên vậy.
Trường-An-Phủ: vốn là động Hoa-Lư; chỗ sinh ra Đinh-Bộ-Lĩnh, cuối
đời Ngũ-Quư, họ Đinh lập quốc tại đó. Qui-Hoá-Giang-Lộ: tiếp với
biên-giới Vân-Nam.
Tuyên-Hoá-Giang-Lộ: tiếp giáp đạo Đăc-Ma.
Đà-Giang-Lộ: tiếp với địa-giới Kim-Xỉ.
Lạng-Châu-Giang-Lộ: tiếp với tả-giang và hữu-giang.
Bắc-Giang-Lộ: ở trên đông-ngạn của La-Thành, nước sông Lư-Giang
thông với biển, trên sông có bắc 10 cái cầu đồ sộ và đẹp đẽ.
Như-Nguyệt-Giang-Lộ.
Nam-Sách-Giang-Lộ.
Đại-Hoàng
Giang-Lộ.
Hồng-Lộ.
Khoái-Lộ. |