Kháng Thư Của Người
Việt Hải Ngoại Tố Cáo Đảng Cộng Sản Nhượng Đất Bán Nước Cho Ngoại
Bang
L.S. Nguyễn Hữu
Thống
Nam Quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại
thiên thư
( Lư Thường Kiệt )
Nước Việt ta
Vốn xưng văn hiến từ lâu
Sơn hà cương vực đă chia
Phong tục
Bắc Nam cũng khác
( Nguyễn
Trăi )
Lănh thổ
Việt Nam bất khả phân nhượng
( Hiến
Pháp Việt Nam 1967 )
Những câu
trên khẳng định rằng Việt Nam là một quốc gia độc lập, thống nhất và
toàn vẹn lănh thổ. Biên thùy nước ta đă được xác định về địa phận (định
phận), và cương vực (khu vực biên cương). Dân tộc Việt Nam đă công
bố chủ quyền lănh thổ không thể phân chia(bất khả phân) và không thể
chuyển nhượng (bất khả nhượng).
Vậy mà
trong những năm 1999 và 2000, Đảng Cộng sản Việt Nam đă phản bội
quyền lợi của dân tộc, không bảo vệ chủ quyền lănh thổ của quốc gia
và đă kư kết 2 hiệp ước để Nhượng Đất và Bán Nước cho ngoại bang.
Đó là
Hiệp Ước Biên Giới Việt Trung kư ngày 30-12-1999, phê chuẩn ngày
9-6-2000, và Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ kư ngày 25-12-2000 hiện chưa được
phê chuẩn. Cứ theo đà này th́ trong một thời gian không xa, Đảng và
Nhà Nước Cộng Sản sẽ lại kư các Hiệp Ước Biển Đông để bán cho Trung
Quốc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại hải phận Trung và Nam
Việt.
Chia sẻ
nguyện vọng của đồng bào trong nước, đồng bào hải ngoại phản kháng
và tố cáo hành vi Nhượng Đất và Bán Nước cho ngoại bang của Đảng và
Nhà Nước Cộng Sản.
Sự phản
kháng này là để nói thay cho đồng bào trong nước không c̣n quyền
được nói, đồng thời phủ nhận những hiệp ước bất công và bất nhân mà
cũng là để giành cho các chính phủ dân cử tương lai quyền phủ nhận
và tiêu hủy các hiệp ước nhượng đất bán nước nói trên.
Các Hiệp
Ước Song Phương và Công Ước Quốc Tế về Luật Biển.-
Về mặt
pháp lư sau khi thiết lập chế độ bảo hộ, chính phủ Pháp đă kư với
chính phủ Măn Thanh Hiệp Ước Thiên Tân (1885), theo đó Trung Hoa
thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp tại Việt Nam. Từ đó Việt Nam không
c̣n thần phục Trung Hoa nữa, các ấn sắc phong của vua nhà Thanh cho
vua Việt Nam bị tiêu hủy. Việt Nam và Trung Hoa phân định chủ quyền
lănh thổ và chính phủ bảo hộ đă vẽ bản đồ và cắm ranh mốc tại biên
giới Việt Hoa.
Về chủ
quyền hải phận, chính phủ Pháp đă kư với chính phủ Trung Hoa Hiệp
Ước Brévié (1887) để phân ranh vùng biển Bắc Việt theo Đường Brévié
chạy từ Trà Cổ (Móng Cáy) dọc theo kinh tuyến 108 Đông. Phía tây
Đường Brévié là đảo Bạch Long Vĩ thuộc Việt Nam, và phía đông là đảo
Hải Nam thuộc Trung Hoa.
Như vậy
vấn đề phân ranh lănh thổ và hải phận tại Bắc Việt đă được giải
quyết từ cuối thế kỷ 19 chiếu công pháp quốc tế.
Về các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mọi tranh chấp chủ quyền được quy
định bởi Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (1982) (Law of the Sea
Convention hay LOS Convention).
Tháng
11-1993, Công Ước được phê chuẩn. Một năm sau, tháng 11-1994 Công
Ước có hiệu lực chấp hành. Tới nay hơn 170 quốc gia đă kư kết và gia
nhập Công Ước trong đó có Việt Nam và Trung Quốc.
Chiếu
Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển các quốc gia duyên hải có hải
phận như sau:
l. Lănh
Hải 12 hải lư (Territorial Sea), kể từ bờ biển hay đường căn bản
chạy ra khơi.
2. Tiếp
nối lănh hải 12 hải lư là vùng 200 hải lư để đánh cá mệnh danh là
Vùng Đặc Quyền Kinh Tế (Exclusive Economic Zone).
3. Cũng
tiếp nối lănh hải 12 hải lư (và trùng với Vùng Đặc Quyền Kinh Tế
đánh cá) là 200 hải lư Thềm Lục Địa (Continental Self) để khai thác
dầu khí. Ngoài Thềm Lục Địa pháp lư (200 hải lư), quốc gia có thể
đ̣i thêm Thềm Lục Địa địa lư hay Nền Lục Địa (Continental Margin)
dài tới 350 hải lưù nếu về mặt địa h́nh, đáy biển là sự tiếp nối tự
nhiên của thềm lục địa từ đất liền ra ngoài biển (đó là trường hợp
của Việt Nam).
Tại Hoàng
Sa, về mặt địa h́nh đáy biển phía đông Trị Thiên Nam Ngăi, thềm lục
địa chạy thoai thoải từ dẫy Trường Sơn ra quần đảo Hoàng Sa. Đây là
những b́nh nguyên của thềm lục địa Việt Nam trên mặt biển. Từ 1925
Viện Hải Học Đông Dương, sau 2 năm nghiên cứu và đo đạc đă đi đến
kết luận: Về mặt địa h́nh, những đảo Hoàng Sa là thành phần của Việt
Nam. (Géologiquement les Paracels font partie du Vietnam).
Về mặt
địa chất, các thủy tra thạch kết tụ các chất hữu cơ do nước phù sa
sông Hồng Hà chảy ra Biển Đông từ cả triệu năm nay. Đây là vùng có
dầu khí. Không có con sông lớn nào từ đảo Hải Nam hay lục địaTrung
Hoa chảy ra Biển Đông cho phép Trung Hoa khai thác các túi dầu khí
tại vùng này.
Về mặt
khí hậu và sinh thực học, các đảo san hô cũng như cây cỏ và sinh vật
tiêu biểu cho vùng nhiệt đới Việt Nam, chứ không thấy ở vùng ôn đới
Trung Hoa.
Về mặt
địa lư, các đảo Hoàng Sa thuộc thềm lục địa Việt Nam v́ nằm trong
phạm vi 200 hải lư từ lănh hải. Cù Lao Ré (Quảng Ngăi) cách đảo Trí
Tôn (thuộc Hoàng Sa) chỉ có 123 hải lư.
Các tài
liệu lịch sử cho biết, ít nhất từ 1816 dưới đời vua Gia Long, Việt
Nam đă chiếm cứ công khai, liên tục và ḥa b́nh các hải đảo Hoàng
Sa. Lịch sử Trung Hoa không mang lại bằng chứng nào cho biết họ đă
liên tục chiếm cứ Hoàng Sa từ thời nhà Hán hay ít nhất từ thời Măn
Thanh.
b) Tại
Trường Sa cũng vậy. Về măït địa chất, địa lư, địa h́nh đáy biển, khí
hậu và sinh thực học, các đảo Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên của
thềm lục địaViệt Nam. Tại Băi Tứ Chính, nơi khai thác dầu khí, biển
sâu không tới 400 mét. Băi Tứ Chính cách bờ biển Việt Nam 160 hải lư
nên nằm trên thềm lục địa Việt Nam. Trong khi đó quần đảo Trường Sa
cách bờ biển Trung Hoa từ 500 đến 1000 hải lư, nên không thuộc thềm
lục địa Trung Hoa.
Về mặt
địa h́nh đáy biển, Trường Sa cách bờ biển Trung Hoa bằng rănh biển
sâu tới 3, 4 ngàn mét, chỗ sâu nhất đo được 4683m.
Chiếu
Điều 76 Luật Biển 1982, các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa v́ nằm
trong Thềm Lục Địa Việt Nam nên thuộc chủ quyền hải phận của Việt
Nam. Thềm Lục Địa thuộc quyền tuyệt đối của các quốc gia duyên hải
trong việc khai thác dầu khí. Quyền này không tùy thuộc vào sự chiếm
cứ (occupation) hay công bố (declaration). Do đó việc Trung Quốc
chiếm đóng các đảo Hoàng Sa và Trường Sa không có hiệu lực tước đoạt
chủ quyền của Việt Nam tại Thềm Lục Địa.
Chúng ta
phải viện dẫn các quan điểm pháp lư để cảnh giác Đảng và Nhà Nước
Cộng Sản về chủ quyền hải phận của Việt Nam đối với các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
Hành Vi
Nhượng Đất Bán Nước của Đảng và Nhà Nước Cộng Sản.
Đảng Cộng
Sản đă không làm tṛn nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền lănh thổ và hải phận.
Họ đă nhượng đất tại biên giới Hoa Việt và đă bán nước tại Vịnh Bắc
Việt. Trong tương lai họ không thể táng tận lương tâm để bán nước
thêm một lần nữa tại hải phận Trung và Nam Việt bằng cách nh́n nhận
chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Muốn h́nh
thành một hiệp ước quốc tế phải trải qua 4 giai đoạn: thương thuyết,
kư kết, phê chuẩn và công bố ban hành. Trong vụ này, Đảng Cộng Sản
đă giấu giếm, dối trá và không chịu công khai hóa hiệp ước. Họ đă
cùng đối phương tham dự 20 phiên họp kín (mật đàm), bí mật kư kết (mật
ước), quốc hội âm thầm phê chuẩn (lén lút thông qua) và chính phủ
không dám công bố bản văn hiệp ước trước quốc dân qua công báo, báo
chí, các đài truyền thanh, truyền h́nh v...v...
V́ họ
cũng biết rằng đây là một hiệp ước sai lầm về pháp lư (legally
wrong) và vi phạm đạo lư (immoral). Nó đi trái với những hiệp ước
quốc tế hiện hành được kư kết từ thế kỷ 19, và trái với những nguyên
tắc ghi trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân
Quyền như b́nh đẳng, hợp tác, hữu nghị, ḥa b́nh, công lư, tự do kết
ước, không áp bức, không lấn chiếm.
Theo nhận
định của giới am hiểu th́ thời điểm lấn đất đă thực sự phát khởi từ
đầu thập niên 1950 thời Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất, khi Bắc
Kinh tiếp tế quân trang, quân dụng, cung cấp cố vấn và cán bộ huấn
luyện cho Bắc Việt. Các xe vận tải và xe lửa Trung Quốc đă chạy sâu
nhiều cây số vào lănh thổ Việt Nam để lập các cơ quan chỉ huy, trung
tâm huấn luyện, điều quân, tiếp tế và chôn giấu vơ khí. Trong Chiến
Tranh Đông Dương Thứ Hai hàng trăm ngàn binh sĩ Trung Quốc đă đồn
trú tại Bắc Việt để giữ an ninh lănh thổ khi các sư đoàn chính quy
Bắc Việt kéo vào xâm chiếm Miền Nam trong các chiến dịch Tổng Công
Kích (Tết Mậu Thân) và Tổng Tấn Công Xuân Hạ (1972) (Mùa Hè Đỏ Lửa).
Và trong Chiến Tranh Việt Trung (1979) Quân Đội Trung Quốc đă kéo
sang tàn phá 6 tỉnh miền biên giới và khi rút lui đă đem công binh
gài ḿn nhiều cây số trong nội địa Việt Nam.
Trong
những cuộc tấn công và tiếp viện này họ đă kéo theo từng đoàn sắc
dân thiểu số Trung Hoa từ Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông sang chiếm
đất và định cư tại miền biên giới, sâu trong lănh địa Việt Nam. Nay
Bắc Kinh tạo áp lực buộc Hà Nội phải theo chính sách hợp thức hóa
t́nh trạng đă rồi (politique du fait accompli). Họ bắt Đảng CS Việt
Nam phải vẽ lại ranh giới theo thỉnh nguyện của các sắc dân thiểu số
Trung Hoa trú ngụ tại miền biên giới.
Theo sự
ước tính của các giới am hiểu th́ Việt Nam đă nhượng cho
Trung
Quốc một giải đất từ 2 cây số đến 12 cây số dọc theo lằn biên giới
dài khoảng 1300 cây số. Như vậy tổng số diện tích đất bị mất có thể
là từ
2600 cây
số vuông tới 15600 cây số vuông.
Và với
lằn trung tuyến mới áp dụng tại Vịnh Bắc Việt thay thế cho Đường
Brévié th́ vùng biển bị mất có thể được ước tính là từ 10% đến 16%,
nghĩa là từ 12.000 cây số vuông đến 20.000 cây số vuông (diện tích
vùng Vịnh Bắc Việt là 126.250 cây số vuông).
V́ Hiệp
Ước Biên Giới không được công bố nên không ai biết rơ những vùng đất
nào Đảng CS Việt Nam đă nhượng cho Trung Quốc. Nhiều người tiết lộ
rằng Việt Nam đă mất những địa danh như Ải Nam Quan và Thị Trấn Đồng
Đăng tại Lạng Sơn, Thác Bản Giốc tại Cao Bằng.
Và ngày
nay có người Việt nào không ngậm ngùi đau xót:
- C̣n đâu
Ải Nam Quan, nơi Cực Bắc địa đầu giới tuyến, điểm xuất phát cuộc
hành tŕnh lịch sử từ mấy ngàn năm của cha ông chúng ta đă băng ngàn
vượt suối, d́u dắt nhau tới miền Cực Nam giới tuyến là Mũi Cà Mâu!
- C̣n đâu
Ải Nam Quan, nơi Nguyễn Trăi tiễn Phi Khanh đi lưu đầy biệt xứ, khóc
thương cha, nước mắt đầm đ́a tuôn thành suối, dân gian đặt tên là
Suối Phi Khanh!
- C̣n đâu
Đồng Đăng với Phố Kỳ Lừa
Với Nàng
Tô Thị với Chùa Tam Thanh!
- C̣n đâu
Thác Bản Giốc nổi danh là thắng cảnh hùng vĩ của Cao Bằng!
- C̣n
không Dẫy Hoàng Liên Sơn cao ngất, hiên ngang đứng chắn một cơi biên
thùy Lao Kay?
- C̣n
không Ải Chi Lăng anh dũng, nơi Lê Đại Hành phá quân nhà Tống, Trần
Hưng Đạo chặn quân nhà Nguyên và Lê Lợi chém tướng nhà Minh?...
*
*
*
Về mặt
pháp lư, Chiếu Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (1982) Hoàng Sa
và Trường Sa không thuộc hải phận của Trung Quốc v́ tọa lạc xa bờ
biển Hoa lục từ 250 đến 1000 hải lư. Biết rơ nhược điểm này, năm
1983, Bắc Kinh tập hợp 400 học giả Trung Quốc ngày đêm nghiên cứu
thảo luận ṛng ră trong suốt 10 năm, để đi đến kết luận Biển Nam Hải
là Biển Lịch Sử của Trung Quốc từ thời nhà Hán, cách đây 2000 năm.
Họ đưa ra thuyết Lưỡi Rồng Trung Quốc mệnh danh là Đặc Khu Hành
Chánh Hải Nam. Lưỡi Rồng Trung Quốc nằm cách bờ biển Quảng Ngăi 40
hải lư, cách đảo Natuna (Nam Dương) 30 hải lư, và cách Palawan (Phi
Luật Tân) 25 hải lư. Nó chiếm trọn 3 túi dầu khí Tứ Chính (Vanguard)
của Việt Nam, Natuna của Nam Dương và Cỏ Rong (Reed Bank) của Phi
Luật Tân.
Tuy nhiên
chiếu Điều 8 Công Ước về Luật Biển th́ Biển Lịch Sử phải tọa lạc tại
đất liền, phía bên trong bờ biển hay Đường Căn Bản. Nó không thể là
Biển Đông hay Biển Nam Hải v́ đây là một ngoại hải cách xa bờ biển
Trung Hoa tới 2000 cây số.
Vả lại các băi dầu khí Tứ
Chính, Natuna và Cỏ Rong đều tọa lạc trong thềm lục địa của Việt
Nam, Nam Dương và Phi Luật Tân. Quyền khai thác dầu khí tại Thềm Lục
Địa là một quyền tuyệt đối của các quốc gia duyên hải, không tùy
thuộc vào sự chiếm cứ hay công bố.
Tuy nhiên với đà hiện nay
chúng ta lo ngại rằng Đảng Cộng Sản Việt Nam rồi đây sẽ lại nhượng
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Nhiều kinh nghiệm
lịch sử minh chứng cho sự lo ngại này:
Năm 1956, Ung Văn Khiêm (ngoại
trưởng) đă minh thị tuyên bố: Hà Nội nh́n nhận chủ quyền của Trung
Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc gọi là Tây
Sa và Nam Sa.
Năm 1958 Phạm Văn Đồng đă
gởi văn thư tán thành bản tuyên bố của Chu Ân Lai xác định chủ quyền
hải phận của Trung Quốc tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tháng 5-1976, báo Saigon
Giải Phóng trong bài b́nh luậân về việc Trung Quốc chiếm đóng Hoàng
Sa năm 1974 đă viết Trung Quốc là người thầy đă cưu mang Việt Nam
cho đến ngày hôm nay, th́ chủ quyền Hoàng Sa thuộc Trung Quốc hay
thuộc Việt Nam cũng vậy thôi. Khi nào Việt Nam muốn nhận lại, Trung
Quốc sẽ sẵn sàng trao lại quần đảo này.
Và sau khi Trung Quốc
tiến chiếm Trường Sa tháng 3 năm 1988, Báo Nhân Dân ngày 26-4-1988
đă viết: Trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược th́ Việt Nam
phải tranh thủ sự gắn bó của Trung Quốc, và ngăn chặn Hoa Kỳ sử dụng
2 quần đảo nói trên. Do đó những lời tuyên bố (của Phạm Văn Đồng năm
1958) phải được hiểu trên tinh thần và trong bối cảnh lịch sử đó.
Trong quá tŕnh đấu tranh
cướp chính quyền, Đảng Cộng Sản đă thủ tiêu cá nhân và tàn sát tập
thể các giới trí thức văn nghệ sĩ và nông dân tiểu tư sản, các tín
đồ các tôn giáo và các đảng phái quốc gia theo chủ nghĩa dân tộc.
Mục đích để giành độc quyền kháng chiến, độc quyền yêu nước và độc
quyền lănh đạo quốc gia.
Ngày nay Đảng Cộng Sản đă
thiết lập một bộ máy nhà nước công an hà khắc với chính phủ tay sai,
ṭa án công cụ và quốc hội bù nh́n. Theo lời thú nhận của chính họ
Trung Quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí mà
c̣n là người thầy tin cẩn, đă cưu mang chúng ta nhiệt t́nh để chúng
ta có ngày hôm nay. Do đó họ đă táng tận lương tâm để nhượng đất bán
nước cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc. Hành động này đi ngược lại
chủ quyền của quốc gia, trái với quyền lợi của dân tộc và phản bội
công lao dựng nước giữ đất của tiền nhân.
V́ không có sự kiểm soát
và chế tài của quốc dân, Đảng Cộng Sản đă lợi dụng sự độc quyền lănh
đạo để độc quyền bán nước.
Do đó quốc dân ta không
c̣n con đường nào khác là phải đồng loạt đứng lên đấu tranh đ̣i Dân
Tộc Tự Quyết, giành lại quyền làm chủ quốc gia, làm chủ xă hội. Có
như vậy chúng ta mới cứu được nước, cứu được dân và rửa được mối
nhục này.
Đồng bào hải ngoại chúng
tôi nguyện sát cánh với đồng bào trong nước trong cuộc đấu tranh
lịch sử này.
Làm tại hải ngoại những
ngày cuối năm Tân Tỵ
Tháng 1/2002
(Soạn giả: L.S. Nguyễn Hữu Thống) |