Quyển IX
[1a]
Kỷ Hậu
Trần
Giản Định
Đế
Tên húy
là Ngỗi, con thứ của Nghệ Tông, tên hiệu cũ là Giản Định, họ Hồ đổi
phong là Nhật Nam Quận Vương. Cuối đời Hồ, khởi binh khôi phục nhà
Trần. Ở ngôi hơn 2 năm. Vua không có tài dẹp loạn, lại giết bỏ người
giúp ḿnh, tự chuốc lấy diệt vong, chẳng phải v́ không may.
Đinh Hợi,
Hưng Khánh năm thứ 1 [1407], (từ tháng 10 trở về trước là Hán Thượng
Khai Đại năm thứ 5, Minh Vĩnh Lạc năm thứ 5). Mùa xuân, tháng 2,
ngày 20, Tả tướng quốc Hồ Trừng tiến quân đến sông Lô, quân Minh giữ
hai bên bờ sông đánh kẹp lại, quân Trừng thất bại, lui giữ cửa
Muộn1335 . Quư Ly và Hán Thương đều trở về Thanh Hóa. Kinh lộ phần
nhiều theo giặc làm phản. Hồ Đỗ, Hồ Xạ bỏ B́nh Than qua Thái B́nh,
Đại Toàn đến cửa muộn1336 , hợp sức đắp lũy, đúc hỏa khí, đóng
thuyền chiến để chống giặc. Quyên mộ tiền của, ai đóng góp th́ được
lấy con gái tôn thất và được cấp 10 mẫu ruộng.
Thị trung
của họ Hồ là Trần Nguyên Chỉ cùng công chúa Thiên Huy dẫn nhân dân
tránh loạn ra Đồ Sơn, trung thư lệnh Trần Sư Hiền cùng công chúa
Thiên Gia ngược ḍng sông Cái đều đầu hàng quân Minh.
Tướng chỉ
huy quân Thần Đinh của họ Hồ là Ngô Thành nhân gió theo nước triều
lên tiến đánh, đột kích đến Giao Thủy. Phụ, Thạnh chia quân ra hai
bên bờ sông chặn đánh. Thành thế cô bị hăm trận chết, được truy tặng
Kiêu vệ tướng quân.
Người
Kiến Hưng là Nguyễn Nhật Kiêm tụ tập bạn bè đảng giết viên Trấn phủ
sứ Phan Ḥa Phủ rồi đầu hàng Trương Phụ (sau Nhật Kiên kiêu căng
không giữ phép, bị Phụ giết).
Quân Minh
đối luỹ với quân Hồ, ngày đêm đánh nhau, v́ nắng mưa, dịch bệnh, lại
bùn lầy ẩm uớt khó ở, chúng bèn dời đến đóng ở Hàm Tử, lập doanh
trại pḥng bị nghiêm ngặt. Tả tướng quốc Trừng và Hồ Đỗ cũng dời
quân đến Hoàng Giang, lại đón Quư Ly, Hán Thương từ [2a] Thanh Hóa
tới. Bấy giờ người ở Kinh lộ bị quân Minh sai khiến và mất cả gia
thuộc, mang ḷng oán hận, các quân nhân và tráng đinh đều đến cửa
quân tự nguyện gắng sức lập công.
Tháng 3,
ngày 13, Tả tướng quốc Hồ Trừng cùng Hồ Đỗ, Đỗ Măn tiến quân đến cửa
Hàm Tử.
Hồ Xạ và
Trần Đĩnh chỉ huy quân bộ ở bờ nam; Đỗ Nhân Giám, Trần Khắc Trang
chỉ huy quân bộ ở bờ bắc; Nguyễn Công Chửng chỉ huy 100 chiến thuyền
làm tiên phong. Trừng và Đỗ ở trong doanh bọn Đỗ Măn, Hồ Vấn chỉ huy
quân thủy. Quân thủy, quân bộ tổng cộng 7 vạn người, nói phao là 21
vạn, đều tiến đánh. Người Minh chia hai mặt thủy bộ xông ra. Quân
hai bên bờ sông của họ Hồ quay ngược
giáo nhảy
xuống chết, chỉ có thủy quân thoát được. Nhưng các thuyển chiến và
thuyền chở lương đều bị ch́m, không một người nào sống sót về được.
Khi ấy Hồ
Xạ biết người Minh có mai phục, không chịu tiến quân. Hồ Đỗ [2b] sai
người đến trách rằng: "Tướng quân sao không đánh giặc?". Xạ bèn tiến
đánh, bị thua. An phủ sứ Bắc Giang Nguyễn Hy Chu bị Trương Phụ bắt
sống, Hy Chu chửi Phụ là giặc tàn bạo, bị Phụ giết.
Mùa hạ,
tháng 4, ngày mồng 1, nhà Minh xuống chiếu cho t́m khắp nơi con cháu
họ Trần lập làm quốc vương. Bọn quan lại và bô lăo nhiều lần nói là
đă bị họ Lê giết hết cả, không c̣n ai có thể nối dơi nhà Trần được
nữa. Nước An Nam vốn là đất Giao Châu, xin được trở lại làm quận
huyện như xưa để cùng các nha môn vệ, sở, phủ, châu, huyện. Lấy Đô
chỉ huy Lữ Nghị giữ đô ty. Bắc Kinh hành bộ Thượng thư Hoàng Phúc
giữ hai ty Bố chính và Án sát. Lại cấm sai phái và ngừng thu các
loại thuế 3 năm.
Quư Ly và
Hán Thương dẫn các tướng và quan lại [3a] vượt biển trở về Thanh Hóa.
Ngày 23,
quân Minh đánh vào Lỗi Giang1337 , quân Hồ không đánh mà tan.
Ngày 29,
quân Minh đánh vào cửa biển Điển Canh1338 , quân Hồ bỏ thuyền tự tan
vỡ. Hai [cha con] họ Hồ định lánh đến Thâm Giang1339 nhưng không
thành. Nguỵ Thức xin hai cha con họ Hồ tự thiêu. Ông nói:
"Nước đă
sắp mất, bậc vương giả không chết bởi tay kẻ khác".
Quư Ly
giận, chém chết.
Tháng 5,
ngày mồng 5, quân Minh đánh vào cửa biển Kỳ La1340 , châu Nhật Nam.
Nguyễn Đại (Nguyễn Đại trước thờ họ Hồ, sau phản lại họ Hồ, đầu hàng
quân Minh, đến đây dẫn người Minh sang xâm lược) bắt được Hữu tướng
quốc Quư Tỳ và con ông là Phán trung đô Nguyễn Cửu1341 .
Ngày 11,
quân Minh đánh vào Vĩnh Ninh1342 . Bọn vệ quân Vương Sài Hồ 7 người
bắt được Quư Ly ở băi Chỉ Chỉ; Giao Châu hữu vệ quân là bọn Quư Bảo
10 người bắt được Tả tướng quốc Trừng ở cửa biển Kỳ La.
Ngày 12,
đầu mục bộ hạ của Mạc Thúy [3b] là bọn Nguyễn Như Khanh bắt được Hán
Thương và thái tử Nhuế ở núi Cao Vọng1343 .
Bọn Hồ Đỗ,
Phạm Lục Tài, Nguyễn Ngạn Quang, Đoàn Bồng đều bị bắt. C̣n bọn Trần
Nhật Chiêu, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Cẩn, Đỗ Măn đều đă đầu hàng từ
trước.
Duy có
Hành khiển tham tri chính sự Ngô Miễn, trực trưởng Kiều Biểu nhảy
xuống nước chết. Khi Miễn chết, vợ là Nguyễn thị ngửa mặt lên trời
than rằng:
"Chồng ta
thờ chúa, một đời ăn lộc, ngày nay giữ tiết nghĩa mà chết, thế là
chết xứng đáng, c̣n oán hận ǵ nữ? Nếu thiếp muốn sống cho qua ngày,
chẳng lẽ lại không c̣n chỗ đến nữa hay sao? Nhưng đạo chồng, ơn vua,
một chốc mà phụ bạc th́ thiếp không nỡ nào! Chi bằng, xin theo nhau!".
Nói xong,
cũng nhảy xuống nước chết.
Nói Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Vợ Ngô Miễn là Nguyễn thị, không những chỉ
chết v́ ngghĩa mà [4a] thôi, câu nói cũng đủ làm lời khuyên cho đời,
nên chép ra đây để nêu gương.
Trước hai
[cha con] họ Hồ đến Kỳ La là định chạy vào Tân B́nh. Dân ở đó, có
một phụ lăo ra bái yết thưa rằng:
"Xứ này
tên là Ky Lê1344 , trên có núi Thiên Cầm là điều không lành. Xin chớ
lưu lại".
[Quư Ly]
liền chém người ấy. Đến đây, quả nhiên bị bắt trói ở chổ ấy.
Người
Minh thống kê những thứ đă thu được: 48 phủ, châu, 168 huyện,
3.129.500 hộ, 112 con voi, 420 con ngựa, 35.750 con trâu ḅ, 8.865
chiếc thuyền.
Trước đây,
Hoàng Hối Khanh nhân lệnh cai trị Thăng Hoa. Khi đến quận, dùng thổ
quan là Đặng Tất và Phạm Thế Căng làm tâm phúc. Tất cả cùng Tả châu
phán Nguyễn Rổ vốn ghen ghét nhau v́ công trạng. Gặp khi hai họ Hồ
chạy về phía tây, [4b] bị quân Minh đánh gấp, viết thư báo Hối Khanh
lấy một phần ba số dân di cư khi trước, gộp với quân lính địa phương
giao cho Rỗ chỉ huy để làm quân cần vương, lại sắc phong cho Cổ Lũy
huyện thượng hầu Chế Ma Nô Đà Nan làm Thăng Hoa quận vương để vỗ yên
dân Chiêm Thành. Hối Khanh đều giấu đi không cho mọi người biết.
Đến khi
Chiêm Thành cất quân định thu lại đất cũ, dân di cư sợ chạy tan că,
bọn Hối Khanh trở về Hóa Châu, chỉ một ḿnh Ma Nô Đà Nan chống nhau
với Chiêm Thành, thế cô sức núng, bị người Chiêm giết chết. Hối
Khanh trước đă thề bồi với dân Nghĩa Châu. Rỗ biết Tất và Hối Khanh
có ư đồ khác nên không đi dự thề. Hối Khanh trở về Hóa Châu, th́ Rỗ
đưa dân di cư đi đường bộ đến chậm, Tất đi đường thủy đến trước,
Trấn phủ sứ lộ Thuận Hóa là Nguyễn Phong ngăn không cho vào. Tất cố
sức đánh, giết Phong, vào được thành, lại đánh nhau với Rỗ [5a] hơn
một tháng. Rỗ không có viện binh, liềm đem gia quyến sang Chiêm
Thành. Hối Khanh đem giết mẹ và gia thuộc của Rỗ. Chiêm Thành cho Rỗ
làm quan to. Sau nhà Minh đ̣i Rỗ đến Kim Lăng, giả cách cho làm Hồ
Quảng chỉ huy sứ, rồi giết đi.
Hai cha
con họ Hồ đă thất bại, Thế Căng trở về Tân B́nh, đón hàng người Minh
ở Nghệ An nhận chức Tri phủ của Trương Phụ, cướp bóc của dân rồi trở
về. Chiêm Thành lại chiếm cứ Thăng Hoa, rồi sang cướp Hóa Châu. Tất
xin với Phụ cho làm quan để cai quản Hóa Châu, Chiêm Thành dẫn quân
rút về. Đến đây, Tất sai người đưa Hồi Khanh về, đến cửa biển Đan
Thai1345 th́ Hối Khanh tự vẫn. Phụ đem phụ cấp của Khanh ra bêu ở
chợ Đông Đô.
Trương
Phụ, Mộc Thạnh sai Đô đốc thiêm sự Liễu Thăng; Hoành hải tướng quân
Lỗ Lân; Thần cơ tướng quân Trương Thăng, Đô chỉ huy sứ Du Nhượng;
Chỉ huy đồng tri Lương Định; Chỉ huy thiêm sự Thân [5b] Chí bằ1t
giải Quư Ly và các con là Hán Thương, Trừng, Triết, Uông, các cháu
là Nhuế, Lô, Phạm, cháu nhỏ là Ngũ Lang, em là Quư Tỳ, cháu gọi bằng
bác là Nguyên Cữu, Tử Tuynh, Thúc Hoa, Bá Tuấn, Đ́nh Việp, Đ́nh
Hoảng; các tướng thần là Đông Sơn hương hầu Hồ Đỗ, Hành khiển Nguyễn
Ngạn Quang, Lê Cảnh Kỳ; các tướng quân là huyện bá Đoàn Bổng, đ́nh
bá Trần Thang Mông, trung lang tướng Phạm Lục Tài cùng các ấn tín
đến Kim Lăng để dâng.
Vua Minh
hỏi rằng : "Trung Quốc như vậy, sao không sợ phục mà dám láo xược
chống cự?".
Đều trả
lời là không biết.
Vua Minh
nói: "Từng sai sứ giả sang bảo, không phải là không biết".
Nhà Minh
vờ cho Vương Nhữ Tương, Đồng Ngạn Hú, Nguyễn Quân, Lê Sứ Khải làm
Kinh Bắc1346 thị lang và tham chính ở Sơn Tây, Thiểm Tây, Sơn Đông,
sai người đưa đi, đến nửa đường th́ giết.
Mùa thu,
tháng 7, gió lớn [6a] nước to.
Người
Minh lùng t́m những người ẩn dật ở rừng núi, người có tài có đức,
thông minh chính trực, giỏi giang xuất chúng, thông kinh giỏi văn,
học rộng có tài, quen thuộc việc quan, chữ đẹp tính giỏi, nói năng
hoạt bát, hiếu để lực điền, tướng mạo khôi ngô, khỏe mạnh dũng cảm,
quen nghề đi biển, khéo các nghề nung gạch, làm hương... lục tục đưa
dần bản thân họ về Kim Lăng, trao cho quan chức, rồi cho về nước làm
quan phủ, châu, huyện. Những người có tiếng tăm một chút đều hưởng
ứng.
Duy có
Bùi Ứng Đẩu từ chối, lấy cớ đau mắt, bọn hạ trai học sinh Lư Tử Cấu
mấy người lui ẩn không chịu ra mà thôi. Bấy giờ có câu ngạn ngữ: "Muốn
sống vào ẩn núi rừng, muốn chết làm quan triều Ngô1347 . Đến khi
Thái Cao Tổ Hoàng đế1348 ta diệt trừ bọn hung tàn, bọn nguỵ quan,
đứa nào có tiếng xấu đều bị giết hết, quả đúng như [6b] lời ấy.
Trương
Phụ cho là Nguyễn Đại có công trong việc bắt hai cha con họ Hồ, trao
cho chức Giao Chỉ đô chỉ huy sứ. Đại kiêu căng ra mặt, lại ngầm có
chí làm phản. Phụ bèn giết đi.
Tháng 8,
Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân về, lưu lại đô ty Lữ Nghị, thượng
thư Hoàng Phúc để trấn giữ. (Phúc người Xương Ấp, tỉnh Sơn Đông).
Trước đây, Hoàng Phúc đốc suất thổ binh tỉnh Quảng Tây điều vận
lương thực, theo quân tiến đánh. Đến đây, được giữ lại. Phúc là
người thông minh, giỏi ứng biến, có tài trị dân, người ta phục là
giỏi.
Phan Phu
Tiên nói: Họ Hồ mất nước, Nguyễn Hy Chu chửi giặc, Hồ Xạ, Đỗ Nhân
Giám (Nhân Giám là con Đỗ Măn) chết trận, Lê Cảnh Kỳ đến Kim Lăng
không chịu ăn. Loại người như vậy, tựa hồ có thể khen là chết v́
tiết nghĩa được. Nhưng Hy Chu từng xui họ Hồ giết họ Trần; [7a] cha
con Nhân Giám là bề tôi cũ của nhà Trần, thế là phường ác giúp nhau.
Anh ruột của Xạ là Ông Thiện can tội đảng [mưu giết Quư Ly] bị chết,
Xạ không chút đoái hoài, lại hăng hái đánh giặc cho Quư Ly. Thế là
chỉ biết ăn lộc của ai chế v́ người ấy là nghĩa mà không biết người
ấy là kẻ bất nghĩa. Cảnh Kỳ là người chỉ lo thỏa măn thân ḿnh, kiếm
chác lộc vị, không chết khi Quư Ly cướp ngôi mà chết lúc hắn bị bại
vong th́ không đáng khen. C̣n như Ngô Miễn, Nguyễn Lệnh, Kiều Biểu
vốn là kẻ hoạn nạn, cái chết của bọn họ là điều nên lắm. Than ôi!
Dương Hùng nhảy từ trên gác xuống3 không phải là người trung nghĩa,
nhưng khó tránh khỏi cái tội làm tôi cho Vương Măng. Thiệu Hốt chết
theo4 không thể coi là phải đạo, thế nhưng những kẻ phản trắc há
chẳng thấy thế mà phấp phỏng chột dạ hay sao?.
[7b] Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Ngày xưa, Hạ Trưng Thư giết Trần Linh Công,
người trong nước không đánh giết được. Sở Tử vào nước Trần, giết
Trưng Thư rồi dùng xe xé xác ở cử thành, kinh Xuân thu ca ngợi việc
đánh giết đó.
Họ Hồ
giết Trần Thuận Tông mà cướp lấy nước, những người như Trần Hăng,
Trần Khát Chân mưu giết mà không được. Sau khi họ chết, trong khoảng
7, 8 năm, không c̣n ai có thể làm được việc ấy nữa. [Họ Hồ] tự cho
là người trong nước không c̣n ai dám làm ǵ nữa. Nhưng bọn loạn thần
tặc tử th́ ai ai cũng có thể giết chết chúng được và trời cũng không
một ngày nào tha trừng phạt chúng dưới gầm trời này! Người trong
nước giết chúng không được th́ ngưoời nước láng giềng có thể giết,
người nước láng giềng giết không được th́ người Di người Địch có thể
giết. V́ thế người Minh mới có thể giết được chúng. C̣n như [người
Minh] giả nhân giả nghĩa, sát hại sinh linh th́ chính là một bọn
giặc tàn bạo. [8a] Cho nên Thái Cao Tổ Hoàng Đế ta lại có thể tiêu
diệt được bọn chúng.
Than ôi,
bọn phạm tội đại ác làm sao trốn được sự trừng phạt của trời? Đạo
trời rơ ràng như vậy, đáng sợ thay!
Mùa đông,
tháng 10, ngày mồng 2, Gản Định Đế lên ngôi ở Mô Độ1349 , châu
Trường Yên, dựng niên hiệu là Hưng Khánh. Trước đó, Trương Phụ yết
bảng bắt các tôn thất họ Trần và đầu mục quan lại cũ để đưa về. Vua
trốn chạy đến Mô Độ. Người Thiên Trường là Trần Triệu Cơ đem quân
đến lập lên ngôi, xưng theo tên hiệu cũ1350 .
Tháng 4,
quân Minh đánh vào hành dinh, v́ quân mới chiêu tập, không đánh mà
tan vỡ. Vua liền đi về phía tây, đến Nghệ An tạm đóng tại đó. Đại
trị châu Hóa Châu là Đặng Tất nghe tin, giết vien quan nhà Minh, đem
quân tới hội, tiến con gái ḿnh sung vào hậu cung. Vua phong Tất
[8b] làm Quốc công, cùng mưu việc khôi phục.
Người
Minh ngờ viên thổ quan là Hữu tham nghị Bùi Bá Kỳ có bụng khác, bắt
đưa về Kim Lăng.
Bá Kỳ (người
Phù Nội, Hạ Hồng) vốn là phe Trần Khát Chân, tự xưng là bề tôi trung
nghĩa của Nam triều, trốn sang nước Minh, vừa gặp tên Trần vương
nguỵ là Thiêm B́nh đến trước, người Minh hỏi có biết không, Bá Kỳ
trả lời là không biết.
Đến khi
nhà Minh đưa Thiêm B́nh về nước, hỏi Thiêm B́nh cần bao nhiêu quân,
Thiêm B́nh nói: "Chẳng qua vài ngh́n thôi, đến đó người ta tự nguyện
hàng phục". Bá Kỳ nói rằng không thể được. Vua Minh giận, phế bỏ Bá
Kỳ, đem an trí tại Thiểm Tây, Cam Túc. Đến khi Thiêm B́nh thất bại,
vua Minh gọi Bá Kỳ về ban sắc cho, ân cần hứa hẹn lập con cháu nhà
Trần và để Bá Kỳ làm phụ thần, rồi sai Kỳ đi theo quân, nên trao cho
chức ấy. Bá Kỳ không dự với đồng liêu ở nha môn, chỉ ở nhà riêng thu
nạp các viên quan cũ bị sa cơ lỡ bước. Bấy giờ [9a] viên thổ hào ở
Đông Triều là Phạm Chấn lập Trần Nguyệt Hồ làm vua ở B́nh Than, đề
cờ chiêu an gọi là Trung nghĩa quân, cho nên người Minh ngờ Bá Kỳ.
Sau Trần Nguyệt Hồ bị người Minh bắt, Phạm Chấn bỏ trốn.
Tháng 12,
vua sai Trần Nguyên Tôn, Trần Dương Đ́nh, cựu hành Trần Ngạn Chiêu
lại cùng Phạm Chấn thu quân về B́nh Than. Không bao lâu bị tan vỡ,
chạy về hành tại Nghệ An.
Giết bọn
nguỵ quan Trần Thúc Giao, Trần Nhật Chiêu và thuộc hạ hơn 500 người.
Trước đây,
người Minh lấy tôn thất họ Trần là Trần Thúc Giao (là con Trần
Nguyên Đán) giữ đất Diễn Châu, cựu tướng quân Trần Nhật Chiêu giữ
đất Nghệ An. Đến đây, vua lên ngôi, v́ họ không đón rước trước nên
bị giết.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Thiên hạ đại loạn, nhân dân Nghệ An, Diễn Châu biết
[9b] ai là chân chúa. Thúc Dao là con người tôn thất, Nhật Chiêu là
tướng quân cũ, nhận quan tước của nhà Minh, giữ đất, trị dân, dân
không theo có được không? Giết Thúc Dao và Nhật Chiêu là phải, c̣n
bọn thuộc hạ nên vỗ về mà dùng, th́ chúng không cảm kích ơn đức đó
hay sao? Thế là lại giết nhiều như vậy, sao gọi là quan nhân nghĩa
được? Xem như Lê Tiệt và Lê Nguyên Đỉnh nhầm họp quân ở Hát Giang,
mưu đánh úp Trùng Quang Đế, mà Trùng Quang Đế chỉ có Tiệt Đế và
Nguyễn Đỉnh thôi, c̣n đều tha cả, so với Giản Định Đế th́ đằng nào
hơn?
Năm ấy
đói và dịch bệnh, nhân dân không cày cấy được, người chết gối lên
nhau.
Mậu Tư, [Hưng
Khánh] năm thứ 2 [1408], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 6). Mùa xuân, tháng
giêng, ngày 30, tướng nhà Minh là Trương Phụ cùng bọn thổ quan Mạc
Thúy đánh vào Diễn Châu. Vua và Đặng Tất v́ quân ít không địch nổi,
rút về nam đến Hoá [10a] Châu, Quân Minh đuổi theo, đánh vào cửa
biển
Bố
Chính1351 , Phạm Thế Căng đón hàng, Phụ trao cho chức tri phủ Tân
B́nh, rồi đặt lưu quan để cai trị. Phụ trở về Đông Đô.
Mùa hạ,
tháng 4, Đặng Tất rước vua trở về Nghệ An.
Nhà Minh
xuống chiếu, đại lược nói:
"C̣n nghĩ
bọn dư chúng1352 vốn là ngu muội, hoặc v́ đói nghèo bức bách, hoặc
bị kẻ mạnh bắt ép, hặc bị bọn gian dụ dỗ, việc không thể đừng, t́nh
cũng đáng thương, nếu nhất loạt bắt tội cả, trẫm thực không nỡ. Khi
chiếu thư này tới, đều tha cho cả. Quan lại ở các nha môn, quân dân
thuộc đất Giao Chỉ hăy thể ḷng chí nhân của trẫm phải khoan hồng
thương xót, chớ làm ráo riết, chớ vơ vét của dân, hết thảy những
việc không cần kíp phải ngừng bỏ cả".
Tháng 6,
ngày 16, Đặng Tất cả phá tên bạn thần Phạm Thế Căng ở cửa biển Nhật
Lệ, bắt được Thế Căng và cháu nó là Phạm Đống Cao giải về hành tại
giết [10b] đi.
Trước đó,
Thế Căng nhận quan chức của nhà Minh, làm oai làm phúc tiếm xưng là
Duệ Vũ Đại Vương. Đến đây, họp quân chiếm cứ núi An Đại1353 . Tất
đánh dẹp được.
Tháng 9,
động đất, nhà cửa, cây cối như nghiêng đổ cả.
Mùa đông,
tháng 10, quốc công Đặng Tất điều quân các lộ Thuận Hóa, Tân B́nh,
Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa tiến đánh Đông Đô. Khi quân đi qua các
xứ Trường Yên, Phúc Thành1354 , các quan thuộc cũ và các hào kiệt
không ai không hưởng ứng đi theo. Tất chọn những người có tài đều
trao cho quan chức.
Tháng 12,
ngày 14, quốc công Đặng Tất cả phá quân Minh ở Bô Cô hăn1355 .
Bấy giờ
nhà Minh sai tổng binh Mộc Thanh mang tước Kiềm quốc công, đeo ấn
Chinh di tướng quân, đem 5 vạn quân từ Vân Nam đến Bô Cô, vừa khi
vua cũng từ Nghệ An tới, quân dung nghiêm chỉnh, gặp lúc nước triều
lên gấp, gió thổi mạnh, sai các quân đóng cọc giữ, [11a] và lên hai
bên bờ đắp lũy. Thạnh cũng chia quân thủy, quân bộ cùng cầm cự. Vua
cầm dùi đánh trống, hạ lệnh, các quân thừa cơ xông ra đánh, từ giờ
Tỵ đến giờ Thân1356 , quân Minh thua chạy, chém được Binh bộ thượng
thư Lưu Tuấn, Đô ty Lữ Nghị, cùng quân mới, quân cũ đến hơn 10 vạn
tên. Chỉ một ḿnh Mộc Thạnh chạy thoát trốn về thành Cổ Lộng1357 .
Vua bảo
các quân:
"Hăy thừa
thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch, như sét đánh không kịp
bịt tai, tiến đánh thành Đông Quan1358 th́ chắc chắn phá được chúng".
Tất tâu:
"Hăy bắt hết bọn giặc c̣n sống sót, không nên để mối lo về sau".
Do dự măi
không quyết định được. Quân giữ thành Đông Quan đến cứu viện, đón
Mộc Thạnh về. Tất chia quân vây các thành, gửi hịch cho các lộ hành
quân đánh giặc.
Phan Phu
Tiên nói: Đặng Tất chỉ biết hành quân là gấp mà không biết cứu [11b]
Đông Đô c̣n gấp hơn. Đông Đô có tầm h́nh thế của cả nước. Chiếm được
Đông Đô th́
các lộ
không đâu không hưởng ứng, hơn nữa hào kiệt trung châu đều ở cả đó.
Bỏ nơi ấy mà không lo đánh chiếm, lại chia quân phân tán đi các xứ,
v́ thế hiệu lệnh không thống nhất, rốt cuộc đi đến sụp đổ là đáng
lắm!
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Đường Thái Tông dùng binh, phần nhiều nhân thế chẻ
tre mà giành thắng lợi, là v́ có tư thế anh hùng mà tướng và quân
vốn đă rèn sẳn. Vua tính kế quyết thắng nhưng Tất không theo, cố
nhiên là đáng tiếc. Song có lẽ Tất liệu vua ḿnh không phải là bậc
anh hùng như [Đường] Thái Tông, mà quân th́ từ xa đến, lương thực có
thể không tiếp tế được, c̣n quân ở kinh lộ th́ chưa tập hợp được,
chẳng thà theo phép hơn địch gấp 10 lần th́ bao vây, hơn địch gấp 5
lần th́ đánh1359 là hơn. Nếu không thế th́ thành Cổ Lộng chỉ cách Bô
Cô không quá nửa ngày đường sao vẫn không thể thừa thế chẻ tre mà
đánh. [12a] huống chi thành Đông Quan. Kẻũ ấy cũng chưa lấy ǵ làm
hỏng lắm, chỉ v́ vua tin lời gièm mà vội giết Tất thôi. Than ôi,
Đặng Tất sau khi phá được giặc mạnh, trổ tài mới trong khoảng một
tuần một tháng, công việc chưa làm được một nửa mà bị chết oan, đó
là cái họa sụp đổ [của nhà Trần], chứ đâu phải là tội của Tất.
Quan quân
đến phủ Kiến Xương, viên thổ quan đồng tri Trần Quốc Kiệt trốn vào
rừng bị chết đói. Trần Phúc1360 nghe tin cho lập đền thờ.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Quốc Kiệt chết đói, không phải là giữ tiết nghĩa
với nhà Minh, mà là xấu hổ v́ nhận quan chức của nhà Minh đó! Thế
mới biết ḷng hổ thẹn là đầu mối của điều nghĩa. Tiếc thay Quốc Kiệt
không biết xấu hổ ngay từ đầu.
Kỷ Sửu, [Hưng
Khánh] năm thứ 3 [1409], (từ tháng 3 trở đi là Trùng Quang đến năm
thứ 1, Minh Vĩnh Lạc năm thứ 7). Mùa xuân, tháng 2, giết quốc công
Đặng Tất [12b] và Đồng tri khu mật viện sự tham mưu quân sự Nguyễn
Cảnh Chân.
Khi ấy
vua đóng ở Hoàng Giang, nội nhân là Nguyễn Quỹ (có sách viết là?)
học sinh Nguyễn Mộng Trang mật tâu rằng Nguyễn Cảnh Chân và Đặng Tất
chuyên quyền bổ quan và cách chức, nếu không tính sớm đi, sau này
khó ḷng kiềm chế. Vua cho gọi hai người đến, bóp cổ giết Tất, Chân
chạy lên bờ, lực sĩ đuổi theo chém chết.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Vua may thoát khỏi ṿng vây hăm nguy hiểm, cầu
người cứu giúp nạn nước, được cha con Đặng Tất có tài làm tướng, cha
con Cảnh Chân giỏi tài mưu lược, đủ để lập được công khôi phục, dựng
được nghiệp trung hưng. Với trận thắng Bô Cô, thế nước lại nổi. Thế
mà nghe lời gièm pha ly gián của bọn hoạn quan, một lúc giết hại hai
người bề tôi pḥ tá ḿnh, th́ làm sao nên việc được!
Cho nên
đức của người làm vua quư ở chỗ cương quyết, sáng suốt. Cương quyết
th́ có thể [13a] xử đoán được, sáng suốt th́ có thể xét rơ được. Ôi,
nếu lúc đó vua gọi hai đại thần đến, dẫn hai đứa ấy kể rơ tội gièm
pha vu hăm hại đại thần rồi chém ngay chúng đi th́ uy lệnh được thi
hành và bọn Tất dũng cảm càng tăng, cảm kích càng sâu, giả sử có
manh tâm chuyên quyền chả lẽ không sợ uy mà phải tự bỏ, sợ ǵ khó
kiềm chế nữa. Đă không làm được như thế th́ chỉ có long đong rồi đến
chết ch́m mà thôi!
Con
Nguyễn Cảnh Chân là Cảnh Dị, con Đặng Tất là Dung đều căm giận v́
cha bị chết oan, mới đem quân Thuận Hóa về Thanh Hóa, đón rước Nhập
nội thị trung Trần Quư Khoáng đến Nghệ An lên làm vua.
Tháng 3,
ngày 17, vua lên ngôi ở Chi La1359 , đổin niên hiệu là Trùng Quang,
lấy Nguyễn Súy là Thái phó, Nguyễn Cảnh Dị làm Thái bảo, Đặng Dung
làm đồng b́nh chương [13b] sự, Nguyễn Chương
làm Tư mă.
Giản Định Đế giữ thành Ngự Thiên1362 chống nhau với quân Minh. Bọn
Súy hội đánh úp bắt được.
Mùa hạ,
tháng 4, ngày mồng 7, Hưng Khánh thái hậu1363 cùng với hành khiển là
Lê Tiệt, Lê Nguyên Đỉnh ngầm khởi binh ở Hát Giang mưu đánh úp Trùng
Quang Đế. Người Nghệ An là Nguyễn Trạo tiết lộ việc ấy. Trùng Quang
Đế giết bọn Tiệt và Nguyên Đỉnh, c̣n những người khác đều tha cả.
Ngày 20,
bọn Nguyễn Súy dẫn Hưng Khánh Đế đến sông Tam Chế 1364 ở Nghệ An,
trùng Quang đổi mặc áo thường xuống thuyền đón rước. Khi ấy trời đất
đương tối sầm bỗng nhiên mây vàng rực rỡ hiện ra, mọi người đều kinh
ngạc. Bèn tôn Hưng Kháng Đế làm Thượng hoàng, cùng chung sức đánh
giặc.
Tháng 5,
bà phi của Trùng Quang Đế mất.
Tháng 6,
Hưng Khánh thái hậu mất.
Tháng 7,
mưa dầm suốt mấy tuần không tạnh.
Tổng binh
nhà Minh là Mộc Thạnh sai Hoàng La tới. Vua sai [14a] người tiếp hắn
ở Nỗ Giang1365 , Thanh Hóa.
Hai vua
ra quân đánh giặc. Thượng hoàng tiến quân tới Hạ Hồng, vua đem quân
đến B́nh Than, đóng đinh ở đấy. Quân Minh đóng ở cửa thành cố thủ.
Vua hạ lệnh cứ 4, 5 ngày một lần đi tuần tra. Hào kiệt các lộ đều
hưởng ứng, chỉ có tri phủ Tam Giang1366 là Đỗ Duy Trung (Duy Trung
là thổ hào ở Thao Giang) bảo dưỡng quan lại nhà Minh nên không chịu
theo thôi.
Vừa khi
tổng binh Trương Phụ, với tước Anh quốc công đeo ấn Chinh Di tướng
quân sang cứu viện, thế quân Minh lại lên. Thượng hoàng liền bỏ
thuyền lên bờ, đến trấn Thiên Quan1367 . Vua ngờ Thượng hoàng có ư
khác, sai Nguyễn Súy đuổi theo nhưng không kịp. Trương Phụ chia quân
đuổi theo, bắt được Thượng hoàng và Thái bảo Trần Hy Cát cùng ấn báu,
giải về Kim Lăng, rồi bị hại.
Tháng 8,
Trùng Quang Đế cầm cự nhau với Trương Phụ ở B́nh Than.
Vua lệnh
cho B́nh chương Đặng Dung giữ cửa Hàm Tử. Bấy giờ [14b] lương thực
rất thiếu thốn, Dung chia quân đi gặt lúa sớm để cấp cho quân. Quân
Minh ḍ biết, dùng thủy quân đánh cửa Hàm Tử, quân của Dung tan vỡ.
Vua nghe tin thất thủ, tự lượng không chống nổi, mới dẫn quân về
Nghệ An mưu việc tiến thủ.
Phụ đi
đến đâu, giết chóc rất nhiều, có nơi thây chất thành núi, có chỗ moi
ruột quấn vào cây, hoặc rán thịt lấy mỡ, hoặc nướng đốt làm tṛ,
thậm chí có đưá mổ bụng lấy thai, cắt lấy hai cái tai để nộp theo
lệnh. Kinh lộ các nơi lần lượt đầu hàng. Những dân c̣n sót lại bắt
hết làm nô tỳ và bị đem bán, tan tác khắp bốn phương cả.
Thượng
thư Hoàng Phúc lại đặt quan chức, chia ra trị các phủ, huyện từ
Thanh Hóa trở ra Bắc. Người địa phương có ai chiêu an được, hay có
công cướp giết, Trương Phụ đều trao cho quan chức. Hoàng Phúc xin
nâng hai châu Thái Nguyên và Tuyên Quang lên thành phủ.
Năm này
đói và dịch bệnh nặng hơn [15a] năm trước.
TRÙNG
QUANG ĐẾ
Tên húy
là Quư Khoáng, con thứ của Mẫn Vương Ngạc, cháu nội Nghệ Tông, cháu
gọi Giản Định Đế bằng chú, ở ngôi 5 năm. Vua gặp thời loạn lạc, gắng
chí mưu việc khôi phục, nhưng v́ trời không giúp nhà Trần nữa, nuốt
hận mà chết, thương thay!
Canh Dần,
[Trùng Quang] năm thứ 2 [1410], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 8). Mùa xuân,
tháng giêng, Trương Phụ sai người Minh mở thêm đồn điền ở nơi gần
thành và thu thóc lúa ở Thái Nguyên, Tuyên Quang, Tam Giang để dự
trữ lương quân.
Mùa hạ,
tháng 5, vua đem bọn Nguyễn Cảnh Dị tiến quân đến bến La, Hạ Hồng,
đánh phá quân của đô đốc Giang Hạo, thừa thắng đuổi theo, tiến quân
đến B́nh Than, đốt phá gần hết thuyền trại của quân Minh.
Bấy giờ,
các hào kiệt nghe tin đều hưởng ứng. Người Thanh Hóa là Đồng Mặc,
tên hiệu là Lỗ Lược tướng quân, đánh giết bọn giặc nhiều không kể
xiết. Chỉ huy của quân Minh là Tả [15b] Địch bị bắt, Vương Tuyên (có
sách ghi là Vương Đản) thế cùng phải tự vẫn. Hưng Khánh Đế cho Mặc
làm Phủ quản quận Thanh Hóa.
Lại có
người Nguyễn Ngân Hà tuy không bằng Mặc, nhưng cũng là ngườitrội
trong đám hào kiệt. Lê Nhị ở Thanh Oai giết cha con tên đô ty Lư
Vượng ở cầu Ngọc Tản, lại chiếm giữ huyện Từ Liêm, quân Minh rất sợ
hăi. Lê Khang ở Thanh Đàm1368 , Đỗ Cối, Nguyễn Hiệu ở Trường Yên
cũng họp quân chống giặc. Nhưng v́ hiệu lệnh không thống nhất, quân
đội không có chỉ huy chung, nên sau đều tan vỡ cả. Gặp khi Trương
Phụ đến Diễn Châu, vua lại đem quân về Nghệ An.
Hoàng
Phúc xin cấp ruộng cho các thổ quan, tùy theo phẩm trật, để họ cho
người cày cấy thu tô thay cho bổng lộc, c̣n các lưu quan th́ cấp
lính để cấy ruộng thu thóc, chi cấp lương ăn.
Tân Măo,
[Trùng Quang] năm thứ 3 [1411], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 9). Mùa xuân,
tháng giêng, Trương Phụ cấp bằng cho thổ quan các phủ v́ có công
[16a] đánh dẹp, gồm cả những thổ quan ở phủ, châu cai quản quân lính,
những người thuộc thiên trưởng, bách trưởng lấy làm chỉ huy thiên bộ.
Tháng 2,
nhà Minh xuống chiếu ân xá, đại lược nói: "Giao Chỉ đă thuộc về Chức
phương1369 mà liền mấy năm chưa được yên nhgỉ. Nghĩ thương dân ấy
sau cơn khốn khổ, đặc cách ban ân khoan thứ, xót thương, ngơ hầu
khiến cho triệu dân đều được thấm nhuần đức trạch".
Lại dụ
bọn quan lại, quân dân rằng: "Người Giao Chỉ đều là dân của trời, đă
vỗ về chúng, th́ chúng đều là con đỏ của trẫm. Chúng nhất thời đi
theo bọn giặc, nghe nói bị giết, trẫm thực thương xót trong ḷng,
sao lại nỡ để chúng như vậy? Vả lại, bọn gây tội ác chỉ có mấy đứa
thôi, c̣n trăm họ nơi băi biển, hang núi,bị chúng cưỡng bức, uy hiếp,
hoặc giúp chúng lương thực, hoặc bị chúng đem theo làm giặc ở các
nơi, đều là bắt đắc dĩ, bị chúng làm cho lầm lỡ chứ không phải là do
bản tâm. Nếu biết [16b] hối hận sửa bỏ lỗi lầm, đều cho được đổi mới.
Làm ác chỉ có mấy đứa, trăm họ không có tội ǵ. Trong đó, người nào
hiên ngang dũng cảm, có kiến thức, có thể bắt được mấy đứa kia đem
dâng th́ nhất định sẽ ban cho quan to, tước cao. C̣n bọn làm ác, nếu
biết tẩy rửa tâm trí, đổi lỗi sửa ḿnh, th́ chẳng những được khoan
tha tội lỗi, lại c̣n chắc chắn được làm quan vinh hiển nữa".
Tháng 3,
nhà Minh sai quan mang sắc chỉ cho các thổ quan như sau: "Các ngươi
tài năng khôi kiệt, tư chất đôn hậu, sáng suốt nh́n xa, trước đă
thành tâm gắng sức, tận trung với triều đ́nh, nghĩ tới công lao của
các ngươi, đặc ân thăng cho chức vụ vinh hiển. Nay nghe các ngươi
biết làm tṛn nghĩa vụ,
dốc sức
lập công, bắt giết bọn phản nghịch, giữ vững đất đai, nghĩ đến ḷng
trung thành ấy, xiết nỗi vui mừng khen ngợi. hiện nay, bọn giặc c̣n
sót chưa dẹp yên hết, các ngươi hăy lập thêm nhiều công, ra sức quét
sạch bọn chúng để tiếp nối công tích trước đây. Ta đặc cách sai
người [17a] sang úy lạo ban thưởng. Các ngươi hăy kính cẩn phục tùng
mệnh lệnh ân sủng này".
Mùa thu,
tháng 7, sông Đáy nước lên to, vỡ đê quai, trôi cả nhà cửa của dân.
Tháng 9,
vua và bọn Nguyễn Súy chia đường tiến đến cửa biển, bắt được tên chỉ
huy Nguyễn Chính người địa phương ở Bài Lâm, chém bêu đầu rồi về.
Sai Hành
khiển Hồ Ngạn Thần làm sứ giả cầu phong, Thẩm h́nh là Bùi Nột Ngôn
làm phó, mang biểu văn, phương vật và hai tượng người bằng vàng và
bằng bạc thay thân ḿnh.
Trước đó,
vua đă sai hành khiển Nguyễn Nhật Tư và thẩm h́nh Lê Ngân sang cầu
phong. Vua Minh nổi giận, bắt giam rồi giết cả. Đến đây lại sai bọn
Ngạn Thần đi.
Đến Yên
Kinh, vua MInh sai Hồ Trừng giả vờ lấy ân t́nh cũ hỏi thăm quốc chủ
khoẻ hay yếu, t́nh h́nh trong nước thế nào, Ngạn Thần nóu hết cả với
Trừng. Nột Ngôn th́ không chịu khuất phục. Nhà Minh giả cách cho vua
làm Giao Chỉ Bố chính sứ, Ngạn Thần làm Tri phủ Nghệ An.
Sứ về
nước, Nột Ngôn tâu hết [17b] việv Ngạn Thần tiết lộ việc nước và
nhận lệnh của giặc. [Vua sai] bắt Ngạn Thần giam ngục rồi giết.
Gả Quốc
tỷ trưởng công chúa1370 cho Hồ Bối người Hóa Châu, phong Bối làm Tư
đồ rồi sai ra Thanh Hóa chống giặc.
Nhà Minh
bắt giam viên Tham nghị Giải Tấn rồi giết đi (Tấn là người Cát An,
tỉnh Giang Tây). Tấn đỗ tiến sĩ cập đệ, bổ Hàn lâm học sĩ, v́ nói
việc trái ư vua, bị đuổi ra làm Tham nghị ở Giao Chỉ. Khi đến ty,
lại nói rằng:
"Giao Chỉ
chia đặt quân huyện không bằng để nguyên như cũ, phong tước chia đất
cho các thổ hào để họ cai quản lẫn nhau. [Chia đặt quận huyện] dẫu
có cái được cũng không bù được những cái mất, cái lợi không chữa
được cái hại".
Vua Minh
xem tờ tâu nổi giận, cho là Giải Tấn có ư tư vị họ Trần, bất lợi cho
nước, xuống chiếu bắt giam ở Cẩm y vệ, rồi ốm chế. Đến năm Minh Nhân
Tông lên ngôi, mới được đưa về chôn, gia thuộc mới được về quê hương.
[18a] Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Lời nói của bề tôi ngay thẳng không phải lợi
cho ḿnh mà lợi cho nước. Nhưng các vua chúa tầm thường th́ không
hay coi đó là lợi mà cứ muốn hại người ta. Đó là do họ bị che lấp
nặng rồi. Minh Thái Tông một khi đă manh tâm hiếu đại hư công, tham
cướp được nước ta, Giải Tấn há lại không biết nói thế là chạm tới
cơn giận giữ hay sao? Đó chính là v́ nước không nghĩ đến ḿnh. Thái
Tông không nghe, cùng binh độc vũ, cho rằng ắt chiếm được. Lời của
Giải Tấn lúc ấy h́nh như chưa ứng nghiệm.
Đến khi
Thái Tổ ta1371 dẹp loạn trừ bạo, bắt được phong thư bọc sáp của
Vương Thông nói rằng: "Quân để dùng phải được như số quân đi đánh
lúc đầu, và phải được 6, 7 viên đại tướng như Trương Phụ mới có thể
đánh được, mà dẫu có lấy được cũng không thể giữ được", th́ bấy giờ
lời Giải Tấn mới ứng nghiệm. Lời nói của bề tôi ngay thẳng chả lẽ
không [18b] lợi cho nước hay sao? Cốt ở người làm vua biết soi xét
mới được.
Người
Minh bắt giải giáo thụ Lê Cảnh Tuân về Kinh Lăng.
Trước đây,
Cảnh Tuân là hạ trai học sinh1372 của họ Hồ. Năm Hưng Khánh thứ 1,
viết bức thư một vạn chữ1373 dâng cho Tham Nghị Bùi Bá Kỳ, nêu ba
phương sách thượng, trung, hạ, đại lược nói rằng:
"Nhà Minh
đă có sắc ban cho ngài theo quân tiến đánh, đợi khi bắt được họ Hồ
th́ chọn con cháu họ Trần lập làm vua, gia tước cho ngài để ở nước
làm phụ tá. Nay thấy thiết lập ty bố chính, phong tước cao cho ngài,
mà chỉ cấp người quét dọn đền miếu nhà Trần. Nếu ngài có thể tâu lại,
phân tích những lời khai của các quan lại, kỳ lăo, nói rơ con cháu
họ Trần, đó là thượng sách. Nếu không được như thế, th́ xin thôi
chức vị hiện nay, nguyên làm [19a] quan coi nhà thờ họ Trần, đó là
trung sách. Nếu ngày c̣n tiếc quan tước to, tham bổng lộc nhiều, th́
đó là hạ sách.
Nếu ngài
làm theo thượng sách th́ tôi là nhân sâm, cam thảo, chỉ xác, trần b́
bổ sung vào ô thuốc của ngài, tùy ngài sử dụng. Nếu ngài làm theo
trung sách, th́ tôi xin bưng khay chén hầu hạ ở đó, cũng xin tùy
ngài sai khiến. Nếu ngài làm theo hạ sách th́ tôi sẽ là kẻ câu vắng
cầy nhàn1374 cho hết tuổi thừa mà thôi".
Đến khi
tịch biên nhà Bá Kỳ, bắt được bức thư ấy, tâu lên, sai bắt Cảnh Tuân
để xét hỏi, th́ gần đây v́ loạn lạc, không biết đi đâu.
Đến đây,
đặt học hiệu ở Giao Châu, bắt được Cảnh Tuân đưa về Kim Lăng giam
xuống ngục của y vệ Cẩm. Cảnh Tuân ở trong ngục 5 năm, cùng con là
Thái Điên đều ốm chết.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Ba phương sách của Cảnh Tuân có khí thái của bậc
trượng phu. Ông nhận [19b] chức giáo thụ của nhà Minh phải chăng là
v́ muốn ẩn dật mà khônng được?
Nhâm Th́n,
[Trùng Quang] năm thứ 4 [1412], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 19). Mùa xuân,
tháng giêng, viên phụ đạo ở Đại Từ, Thái Nguyên là Nguyễn Nhuế khởi
binh, hoại động ở vùng núi tam Đảo, bị Trương Phụ nhà Minh bắt.
Bấy giờ
kinh lộ đều phụ thuộc vào nhà Minh, trăm họ phải làm sai dịch và nộp
lương theo sự sai bắt của bọn quan thú nhiệm. Thổ quan th́ đóng
thuyền và lập đồn điền để giúp việc cho tổng binh. Từ Ciễn Châu trở
vào nam, không được cày cấy.
Mùa hạ,
tháng 6, Trương Phụ và Mộc Thạnh nhà Minh đem quân đánh vào hành tại
ở Nghệ An, gặp bọn Nguyễn Súy, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung ở Mô Độ.
Dung, Phụ đều liều chết đánh nhau chưa phân thắng bại, th́ Súy và
Cảnh Dị vượt biển chạy, Hồ Bối bỏ thuyền lên bờ. Dung thế cô, không
có cứu viện, bèn đi thuyền nhẹ vượt biển trốn đi.
[20a] Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Đạo cầm quân chế thắng cốt ở đồng tâm hiệp lực.
Giả sử bọn Súy và Dị một ḷng quyết đánh th́ Dung và Phụ cũng chưa
biết ai được ai thua. Đó là v́ trời không giúp họ Trần vậy!.
Mùa thu,
tháng 7, nhà Minh sai Tổng binh Hàn Quan với chức Hữu quân đô đốc
đồng trị, đeo ấn Chinh Nam tướng quân sang trấn giữ.
trương
Phụ nhà Minh lệnh cho Tam Giang và Tuyên Hóa đóng thuyền để cấp cho
quân.
Bọn
Trương Phụ nhà Minh lại vào cướp hành tại ở Nghệ An; Thanh Hóa, Diễn
Châu đều bị hăm.
Mùa đông,
tháng 12, nhà Minh mang sắc dụ các quan lại, kỳ lăo các châu, phủ,
huyện thuộc Bố chính ty rằng:
"Trẫm
vâng mệnh trời, thống trị thiên hạ, chỉ mong cho dân thiên hạ được
yên ổn, Giao Chỉ ở xa tận ven biển, xưa là đất của Trung Quốc, nay
[20b] đă lại như cũ, binh lính và dân chúng theo về giáo hóa đến nay
đă mấy năm rồi, đă đặt mục, bá, thú, lệnh và quân, vệ, ty, chọn dùng
những người
trung
lương, hiền năng để vỗ trị. Trẫm sớm khuya nghĩ đến, c̣n lo rằng đất
xa dân đông, giáo hóa có chổ không thấu tới, không được thấm ơn
trạch yêu thương, nuôi nấng của nhà nước.
Nay bọn
các ngươi đều là bề tôi trung lươmg, phải thể ḷng kính trời thương
dân của trẫm, hưng lợi trừ hại cho dân, thuận theo ḷng yêu ghét của
dân mà trừ bỏ mối gian tệ cho dân. Dạy dân cày ruộng, trồng dâu,
khiến cho không trái thời vụ th́ áo mặc, cơm ăn có chổ trông cậy;
dạy dân bằng hiếu, để, trung, tín; khuyên dân điều lễ nghĩa, liêm sĩ,
th́ phong tục sẽ tốt lành. Khi tang ma, hoạn nạn th́ thương xót giúp
đỡ lẫn nhau; lúc khốn cùng long đong th́ chu cấp phù tŕ cho nhau.
Người già phải dạy con trẻ, kẻ dưới phải kính bề trên,, ai nấy phải
thuận theo bản tính, không được làm trái với lễ. [21a] Chớ có làm
trộm cướp, chớ có đi lừa dối, chớ múa may văn chương mà đùa với luật
pháp, chớ theo ư riêng ,mà bỏ lẽ công, muốn cho dân chúng an cư lạc
nhgiệp, măi măi là dân trời vô sự, để cùng vui thời thịnh trị thái
b́nh, th́ bọn các người phải thận trọng với chức vị của ḿnh, làm
tṛn công việc của ḿnh, theo được đức y thay trời nuôi dân của trẫm,
để có thể sánh vai với những bậc tuần lương đời xưa, tên tuổi chiếu
sáng sử xanh, thế chẳng tốt đẹp lắm sao!".
Nông Văn
Lịch ở Lạng Sơn tụ tập quân lính chiếm giữ đất ấy, chẹn lấp đường đi
lại của người Minh, giết bắt vô số. Tham chính Mạc Thúy từng đem
quân tiến sâu vào đất ấy, bị trúng tên thuốc độc mà chết. Sau v́ Văn
Lịch thông dâm với vợ của cấp dưới, binh sĩ tức giận giết chết.
Nguyễn
Liễu ở Lư Nhân1375 chiêu tập người các huyện Lục Na1376 , Vũ Lễ đánh
cướp người Minh trong mấy năm. Vua ở Nghệ An, đường bị ngăn trở
không thông, quân của Liễu bị tan vỡ dần, Tham nghị Nguyễn huân vờ
kết thông [21b] gia rồi dụ [Liễu] đến giết chết.
Quư Tỵ, [Trùng
Quang] năm thứ 5 [1413], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 11). Mùa xuân, tháng
giêng, vua dẫn bọn Nguyễn Súy, Nguyễn cảnh Dị lại đem quân vượt biển
đến Vân Đồn, Hải Đông và các băi biển để thăm ḍ và lấy lương thực,
đánh quân Minh đóng giữ ở những nơi ấy.
Hoàng
Phúc nhà Minh chọn lựa thợ giỏi và vợ con họ đưa về Yê Kinh để đóng
thuyền.
Tháng 2,
Trương Phụ nhà Minh lệnh cho quân nhâ đem đổi lấy thóc lúa ở Tam
Giang, Tuyên Hóa, Quy Hóa để trữ lương quân, lại mộ khách buôn nộp
thóc, chở thuyền đem về các xứ Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang,
Tứ Xuyên, Vân Nam để bán.
Tháng 3,
ngày mồng 4, vua lại trở về Nghệ An, quân lính mười phần chỉ c̣n 3,
4 phần.
Tổng binh
Hàn Quan ốm chết ở thành Đông Quan.
Mùa hạ,
tháng 4, bọn Trương Phụ nhà Minh vào cướp Nghệ [22a] An.
Vua ngự
đến Hóa Châu, sai đái quan Nguyễn Biểu làm sứ cầu phong, mang phương
vật tới Nghệ An. Trương Phụ giữ Biểu lại, Biểu tức giận mắng Biểu
rằng:
"Bên
trong th́ mưu kế đánh chiếm, bên ngoài th́ rêu rao là quân nhân
nghĩa. Đă hứa lập con cháu họ Trần, lại đặt thành quận huyện, không
chỉ cướp bóc của cải châu báu, lại c̣n tàn hại sinh dân, thực là
loài giặc dữ".
Phụ nổi
giận giết chết.
Tháng
6,Trương Phụ và Mộc Thạnh nhà Minh họp các tướng bàn kế đánh chiếm.
Thạnh nói:
"Hóa Châu
núi cao biển rộng, chưa dễ lấy được". Phụ nói:
"Tôi sống
được cũng là v́ Hóa Châu, có làm ma cũng là v́ Hóa Châu. Hóa Châu mà
chưa dẹp được, tôi c̣n mặt mũi nào trông thấy chúa thượng nữa!".
Bèn đem
quân thủy đi, mất 21 ngày, đánh vào thành châu Thuận Hóa.
Mùa thu,
tháng 9, bọn Trương Phụ nhà Minh đánh nhau với Nguyễn Súy ở kênh Sái
Già1377 . Quân Nam quân Bắc [22b] đương cầm cự nhau, Đặng Dung mai
phục binh tượng, nửa đêm đánh úp doanh trại Phụ. Dung nhảy lên
thuyền của Phụ, định bắt sống Phụ nhưng không nhận ra hắn. Phụ vội
đi thuyền nhỏ trốn chạy. Quân Minh tan vỡ đến một nửa, thuyền bè,
khí giới bị đốt phá gần hết. Bọn Súy không chịu hợp sức đánh. Phụ
thấy quân của Dung ít, quay lại đánh. Quân của Dung tan chạy, từ đấy
chỉ ẩn nấp trong núi hang.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Trận đánh ở Sái Già, Đặng Dung, Nguyễn Súy, đem tàn
quân trơ trọi chống lại bọn giặc mạnh, quân tướng đều tinh nhuệ.
Dung nửa đêm đánh úp doanh trại giặc làm cho tướng giặc sợ hăi chạy
trốn, đốt hết thuyền bè, khí giới của chúng, không phải người thực
sự có tài làm tướng, th́ có làm được như thế hay không?. Thế nhưng
cuối cùng vẫn bại vong, đó là do trời. Tuy thất bại, cũng vẫn vinh
quang, v́ sao vậy?.
Bọn Dung
v́ nghĩa không thể cùng sống với giặc, phải tiêu diệt bọn chúng mới
nghe, cho nên mới hết ḷng, hết sức giúp đỡ [23a] Trùng Quang để mưu
khôi phục. Trong khoảng 5 năm, kiên tŕ chiến đấu với giặc, dẫu có
bất lợi, nhưng ư chí không núng, khí thế càng hăng, đến kiệt sức mơí
chịu thôi. Ḷng trung v́ nước của người bề tôi, dẫu trăm đời sau vẫn
c̣n tưởng thấy được!
Ngày xưa
nước Lỗ đánh nhau với nước Tề ở đất Can Th́ bị thất bại, thánh nhân
không v́ thua mà kiêng né, lại chép rơ để nêu niềm vinh quang chiến
đấu với kẻ thù, chứ không bàn đến việc thành bại. Thế th́ trận đánh
ở Sái Già, quân Minh bị tan vỡ một nửa, quân ta đến khi sức kiệt mới
chịu thua cũng vinh quang lắm thay!
Mùa đông,
tháng 10, Trương Phụ nhà Minh lấy Đô đốc Hoàng Trung đi ḍ trước,
chặn ở thượng lưu. Nguyễn Súy sai ba thích khách, đội cỏ xuôi ḍng
đến thuyền của Phụ. Một người trèo lên mũi thuyền, hai người trèo
lên đuôi thuyền. Phụ biết, bắt được hai người, giết một người, thả
một người, lại c̣n [23b] cho tiền bạc. Hôm sau Phụ hội họp các tướng
nghị bàn, Hoàng Trung nói không hợp ư Phụ, Phụ nổi giận kể tội Trung
pḥng giữ không nghiêm, để đến nỗi có chuyện khích thách, rồi chém
Trung. Các tướng đều tái mặt đi.
Tháng 11,
bọn Nguyễn Cảnh Dị và Đặng Dung bị Trương Phụ nhà Minh bắt sống.
Cảnh Dị mắng ngay vào mặt Phụ:
"Tao định
giết mày, lại bị mày bắt", chửi Phụ luôn miệng. Phụ giận lắm, giết
Dị rồi lấy gan ăn.
Vua chạy sang Lăo Qua.
Phụ sai người lùng bắt được, đưa đến cửa quân. Người Thuận Hóa đều
hàng. Thế là nhà Trần mất.
Trước đây, nhà Hậu Trần
dấy binh mưu việc hưng phục, viên Trấn phủ cũ Phan Quư Hựu có công
bày mưu giúp việc, được thăng dấn đến Thiếu bảo. Đến khi Trương Phụ
vào cướp Nghệ An, vua ngự tới Hóa Châu, Quư Hựu hàng giặc. Phụ mừng
lắm. Được mươi hôm th́ Quư Hựu ốm chết. Phụ cho con là Liêu làm Tri
châu Nghệ An và hậu thưởng gia thuộc Quư Hựu. [24a] Liêu đem t́nh
h́nh tướng văn tướng vơ giỏi kém thế nào, số quân có được bao nhiêu,
núi sông hiểm dị ra sao kể rơ cho Phụ biết. Bấy giờ Phụ mới quyết
chí đánh Hóa Châu.
Trở lên làđời vua nhà
Trần, bắt đầu từ năm Bính Tuất (1226) chấm dứt ở năm Kỷ măo (1399),
tổng cộng 174 năm và 2 đời vua nhà Hậu Trần 7 năm.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
Trùng Quang Đế lấy quân một lữ để mưu khôi phục đất nước trong lúc
loạn lạc lưu ly, ví như dùng một cây gỗ để chống giữ ngôi nhà lớn đă
đổ, chả lẽ không biết rằng thế không thể cứu văn được nữa hay sao?
Nhưng hăy làm hết bổn phận nên làm, ngơ hầu có thể văn hồi được
thiên mệnh!.
C̣n như khi bị giặc bắt
đem về, giữ nghĩa không chịu nhục, cam ḷng nhảy xuống biển mà chết,
để cùng mất với nước, thực đúng là "quốc quân chết v́ xă tắc", mà
các [24b] bề tôi của ngài như Cảnh Dị chửi giặc mong cho chúng giết
ngay ḿnh, Nguyễn Biểu kể tội ác của giặc rồi chết, đều là những
người đáng ca ngợi cả. Chỉ có Hồ Ngạn Thần đi sứ làm nhục mệnh vua,
đă bị giết rồi, Phan Liêu đem t́nh h́ụnh mạnh yếu trong nước đi báo
cho giặc, tuy được thoát chết trong một thời, nhưng sau lại bị Thái
Tổ Cao Hoàng Đế ta giết chết. Than ôi, người làm tôi trung với nước
tuy chết v́ nghĩa không có tội ǵ, mà để lại tiếng thơm măi măi, c̣n
bọn bất trung phản quốc, không khỏi tránh khỏi chết, lại c̣n để
tiếng xấu ngàn năm, thực đúng như thế.
K _ T H U
Ộ C M I N H
Giáp Ngọ,
[1414], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 12). Mùa xuân, tháng giêng, Trương
Phụ và Mộc Thạnh nhà Minh chiêu dụ, vỗ về Tân B́nh, Thuận Hóa, chia
đặt quan cai trị để cùng làm việc với thổ quan, khám xét nhân khẩu,
gộp làm sổ hộ.
[25a] Phủ
Thăng Hoa tuy có đặt quan, nhưng Chiêm Thành vẫn có trưởng lộ chiếm
giữ cai trị, nên nhà Minh chỉ ghi tên không mà thôi.
Quan lại
ở kinh lộ, những ai lánh giặc đi theo Trùng Quang Đế đến Hóa Châu,
đến đây người th́ mang cả nhà chạy sang nước Lăo Qua, người th́ chạy
sang Chiêm Thành, c̣n người trong nước từ đấy đều làm thần thiếp cho
người Minh cả.
Mùa hạ,
tháng 4, tổng binh Trương Phụ, Mộc Thạnh, Binh bộ thị lang Trần Hiệp
của nhà Minh đem trùng Quang Đế, Nguyễn Súy và Đặng Dung về Đông
Quan. Quan lại các phủ, châu, huyện sắm lễ vật cùng trướng vẽ cờ
thêu đến mừng. Sai người giải về Yên Kinh.
Trùng
Quang Đế đi đến nửa đường nhảy xuống nước chết. Súy thấy Trùng Quang
Đế đă nhảy xuống nước chết, ngày ngày chơi cờ với viên chỉ huy coi
giữ ḿnh, thành quen, mới lấy bàn cờ đánh hắn ngă xuống nước chết,
Súy cũng nhảy xuống nước chết. Quốc thống từ đấy thuộc về nhà Minh.
Mùa thu,
tháng 7, [25b] Trương Phụ nhà Minh ra lệnh cho các phủ, châu, huyện,
phàn quân nhân bắt được tôi tớ, cùng đàn bà con gái trốn đi xứ khác
th́ giải về cửa quân. Bọn quan lại ch́u ư cấp trên bắt nhiều dân
nghèo xiêu tán giải nộp.
Tháng 8,
Trương Phụ, Mộc Thạnh và Trần Hiệp trở về bắc, chia quân trấn giữ.
Tháng 9,
Hoàng Phúc nhà Minh truyền bảng cho các phủ, châu, huyện dựng Văn
Miếu và các đàn thờ thần xă tắc, thần gió, thần mây, thần núi, thần
sông và những thần không ai thờ cúng để tế lễ thường xuyên.
Nhà Minh
cấm con trai, con gái không được cắt tóc; phụ nữ mặc áo ngắn, quần
dài, đồng hóa theo phong tục phương bắc.
Mùa đông,
tháng 10, nhà Minh mở học hiệu và sức t́m ṭi những người nho học,
thầy thuốc, thầy tướng số, nhà sư, đạo sĩ, hạ lệnh cho các phủ, châu,
huyện lấy lễ mà thành tân thỉnh mời. Đó là làm theo lời của Hữu tham
tri Bành Đạo Trường.
Nhà Minh
bắt khai số ruộng và đất trồng dâu, trưng thu lương thực, tơ tằm.
Mỗi hộ 1 mẫu th́ bắt khai thành 3 mẫu. [26] Đến sau xét hộ khẩu tăng
hàng năm, định số ruộng mỗi hộ là 10 mẫu (nghĩa là mỗi mẫu chỉ có 3
sào, 10 mẫu thực ra chỉ có 3 mẫu). Mỗi mẫu thu 5 thăng thóc, đất băi
mỗi hộ một mẫu thu 1 lạng tơ, mỗi cân tơ dệt được 1 tấm lụa.
Ất Mùi,
[1415], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 13). Mùa thu, tháng 8, nhà Minh khám
thu các mỏ vàng, bạc, mộ phụ đăi nhặt vàng bạc và bắt voi trắng, ṃ
trân châu. Thuế khóa nặng, vơ vét nhiều, dân chúng điêu đứng. Băi
muối ven biển cấm dân mua bán riêng, sai nội quan coi giữ cả. Lại
đặt chức cục sứ và phó của từng băi muối để chia nhau trông coi. Các
phủ, châu, huyện đêù đặt phó sứ ty Thuế khóa và sở Hà bạc.
Phép lấy
muối của nhà Minh: Trước hết sai viên cục sứ và viên phó đốc thúc
dân nấu muối, mỗi tháng được bao nhiêu đưa tới ty Đề cử thu giữ. Các
viên nội quan mộ người buôn bỏ tiền ra lĩnh giấy khám hợp1378 của ty
Bố chính. Giấy khám hợp lớn [26b] th́ lấy 10 cân muối, giấy khám hợp
nhỏ th́ lấy 1 cân rồi mới được đem bán. Nếu không có giấy [giấy khám
hợp] th́ [xử tội] như luật nấu lậu. Lạ cấm người đi đường, lệ chỉ
được đem 3 bát muối và 1 lọ nước mắm thôi.
Tháng 9,
Hoàng Phúc nhà Minh sai quan áp giải đích thân những bọn nho học,
thầy thuốc, thầy tướng số, nhà sư, đạo sĩ đưa về Yên Kinh trao cho
quan chức rồi đưa về các nha môn làm việc. Lại ra lệnh cho các quan
ty sở tại cấp cho tiền đi đường và ngưoời bạn tống, nếu không sẽ bị
trừng trị; dọc đường phải cấp cơm ăn và tiền đi đường.
Mùa đông,
tháng 10, Tổng binh nhà Minh là Trương Phụ giữ chức Chinh lỗ phó
tướng quân, lại sang trấn thủ.
Nhà Minh
mở đường thủy Vĩnh An, Vạn Ninh, đặt trạm đón chuyển đường thủy đến
thẳng Khân Châu. Lại đặt trạm chạy ngựa đến thẳng Hoành Châu1379 .
Bính Thân,
[1416], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 14). Mùa xuân, tháng giêng, nhà Minh
bắt đầu đưa những thượng quan văn vơ và kỳ lăo sang Yên [27a] Kinh,
đổi trát văn của Tổng binh mà dùng giấy vàng của bộ để thực thụ quan
chức. Thăng Tham nhgị Nguyễn Huân làm Tả bố chính sứ; Tri phủ Lương
Nhữ Hốt, Đỗ Duy Trung làm Tham chính. C̣n lại th́ thăng chức Tri phủ,
Đồng tri phủ, Tri châu, Đồng tri châu, Tri huyện. Nhân đó, ban sắc
rằng:
"Trước
kia b́nh định Giao Chỉ, các ngươi đă tỏ ḷng thành, làm việc nghĩa,
ḷng hướng về triều đ́nh, trẫm khen ngợi ḷng thành của các ngươi mà
trao cho quan chức. Từ khi nhận mệnh đến nay, đă biết tận tâm hết
sức, hăng hái trung thành, quét diệt phản nghịch, vỗ yên bờ cơi, cố
gắng làm tṛn chức phận, đă nhiều lần thăng thưởng để biểu dương
công trạng của các ngươi. Nay các ngươi đến cửa khuyết triều cống,
trẫm xét ḷng thành, đánh nên khuyến khích. Nay đặc ân thăng cho các
ngươi làm chức mỗ... Các ngươi hăy cố gắng trung thành, cần mẫn hơn
nữa, kính cẩn giữ khí tiết của người bề tôi, úy lạo, vỗ về, khiến
cho dân chúng đều được yên nghiệp sinh sống, cùng hưởng phúc thái
b́nh [27b] th́ sẽ được trời che chở, các ngơi sẽ được phúc lộc dồi
dào nối đến đời con đời cháu, mà tiếng tốt của các ngươi sẽ lưu
truyền trong sử sách, măi măi không cùng".
Tháng 2,
Trương Phụ nhà Minh ra lệnh xét duyệt danh số thổ quân, lấy một phần
ba số hộ khẩu chia về c1c vệ, sở. Mỗi hộ định mức là 3 đinh. Từ
Thanh Hóa trở vào Nam, nhân đinh thưa thớt, định mức là 2 đinh. Chỗ
nào không phải là vệ, sở mà là nơi quan yếu, cũng lập đồn lũy, lấy
dân binh canh giữ.
Mùa thu,
tháng 9, quân lính huyện Tân An nổi lên, Trương Phụ dẹp được.
Nhà Minh
chiêu dụ các quan cũ của triều trước, giả cách bổ đi các nha môn
quân, dân làm việc rồi chuyển đưa về Yên Kinh giữ lại. Bọn người bon
chen, vốn không phải là quan lại cũ, chưa được thực thụ quan chức,
cũng hănh hái ra nhận, trong nước v́ thế trở nên trống rỗng. Ở được
vài năm, thấy vất vả khổ sở, thỉnh thoảnh họ lại trốn về.
Nhà Minh
bắt đầu đưa các thổ lại đi, [28a] người nào đủ 9 năm th́ giữ lại nha
môn ở Kinh để làm việc, người nào chưa đủ năm th́ cho về.
Đinh Dậu,
[1417], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 15). Nội quan nhà Minh là Mă Kỳ tâu
rằng Tổng binh Trương Phụ ở Giao Chỉ chọn lấy những thổ nhân mạnh
khỏe can đảm làm vi tử thủ1380 , vua Minh nghi
ngờ, gọi
Phụ về, sai Phong Thành hầu Lư Bân với chức Tổng binh Chinh Di tướng
quân sang thay Phụ trấn giữ.
Nhà Minh
sai Giám sát ngự sử chia giữ việc tuần xét bắt đầu từ đấy.
Binh bộ
thượng thư nhà Minh là Trần Hiệp, lại giúp việc quân chính cho Tổng
binh.
Nhà Minh
định lệ mỗi năm cống các nho học, sinh viên saung vào Quốc tử giám;
Nhà phủ học mỗi năm 2 tên, nhà châu học 2 năm 5 tên, nhà huyên học
mỗi năm 1 tên. Sau lại quy định nhà phủ học mỗi năm 1 tên, nhà châu
học 3 năm 2 tên, nhà huyện học 2 năm 1 tên.
Bộ Lại
khám hợp, lệnh cho 2 ty Bố chính và Án sát cùng [28b] các quan phủ,
châu, huyện, ở Giao Chỉ, hẹn đến ngày mồng 1 tháng giêng sang năm
đến kinh triều cận, không kể là chức chánh hay chức tá, chỉ cần
người giữ chức lâu năm, cho dẫn đầu, đưa các quan lại cùng đi. Lại
khám các hạng mục hộ khẩu, ruộng đất lương thực trong 3 năm, từ
tháng 7 năm Giáp Ngọ, đến cuối tháng 6 năm này, làm thành sổ "tu
tri"1381 dâng lên để kê xét.
Hoàng
Phúc sức cho các hào phú, thổ quan là bọn Nguyễn Huân, Lương Nhữ Hốt,
Đỗ Duy Trung, Đỗ Hy Vọng, Lương Sĩ Vĩnh, Dương Cự Giác đều phải đem
người nhà sang Yên Kinh phục dịch, xây dựng cung điện. Vua Minh nói
là làm khó nhọc người phương xa, ban cho ưu hậu rồi cho về.
1335 Cửa
Muộn: (nguyên văn là Muộn Khẩu) là cửa sông Hồng ở huyện Xuân Thủy,
tỉnh Nam Hà, thuộc đất Giao Thủy cũ, nhưng nay đà bị lấp.
1336 Thái
B́nh, Đại Toàn: là hai cửa sông. thái B́nh là cửa sông Thái B́nh ở
huyện Vĩnh Bảo, Hải Pḥng. Đại Toàn có lẽ là cửa sông Diêm Hộ tỉnh
Thái B́nh.
1337 Lỗi
Giang: một nhánh của sông Mă ở huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, hạ
lưu thông với sông Đại Lại.
1338 Điển
Canh: sau là cửa Ghép hay cửa Mom thuộc huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh
Hóa.
1339 Tức
cửa sông Ngàn Sâu ở tỉnh Hà Tĩnh.
1340 Cửa
Kỳ La: ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tỉnh.
1341 MCB 11 chép là Vô
Cửu.
1342 Núi Cao Vọng: ở
huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
1343 Núi Cao Vọng: ở
huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
1344 Ky Lê ? là do chử Kỳ
La đọc chệch ra, có nghĩa là "trói họ Lê", Thiên Cầm? có nghĩa là "trời
bắt". Thực ra nơi ấy tên là "Thiên Cầm" nghĩa là "đàn trời". Người
phụ lăo không muốn họ Hồ lưu lại, nên nhân thanh gần nhau mà nói
chệch đi đánh lừa.
1345 Cửa biển Đan Thai:
tức Cửa Hội (cửa sông Lam) ở tỉnh Nghệ An.
1346 Có lẽ là Bắc Kinh bị
chép nhầm ra Kinh Bắc.
1347 Nguyên văn: "Dục
hoạt nhập ẩn sơn lâm, dục tử Ngô triều tố quan".
1348 Tức Lê Lợi.
1349 Dương Hùng: làm đại
phu nhà Hán, Vương Măng cướp ngôi nhà Hán, Hùng theo Măng. Sau v́
liên quan đến việc Lưu Phần, sứ giả đến bắt, Dương Hùng nhảy từ gác
Thiên Lộc xuống đất gần chết, được Măng tha tội.
1350 Thiệu Hốt: là bề tôi
của công tử Tử Củ nước Tề, định đưa Tử Củ từ nước Lỗ về tranh ngôi
với anh là Tiểu Bạch (Tề Hoàn Công). Sau Tử Củ bị giết, Thiệu Hốt
chết theo.
1349 Mô Độ: bến Yên Mô, ở
xă Yên Mô, huyện Yên Mô, nay thuộc huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh B́nh.
1350Giản Định Đế tên húy
Ngỗi, trước được phong là Giản Định Vương, nhà Hồ đổi phong là Nhật
Nam Quận Vương. Đến đây xưng theo tên hiệu cũ là Giản Định.
1351 Tức là cửa sông
Giang ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng B́nh.
1352 Dư chúng: chỉ những
người không chịu phục tùng nhà Minh.
1353 An Đại: một ngọn núi
ở huyện Lệ Ninh, tỉnh Quảng B́nh.
1354 Trường Yên: là đất
Ninh B́nh; Phúc Thành: sau là xă Phúc An, huyện Yên Khánh, nay thuộc
tỉnh Ninh B́nh.
1355 Bô Cô là tên một bến
đ̣ ở xă Bô Cô, sau đổi là xă Hiếu Cổ, huyện Phong Doanh, tỉnh Nam
Định cũ, nay thuộc đất huyện Ư Yên, tỉnh Nam Định.
1356 Khoảng từ 11 giờ đến
16 giờ.
1357 Thành do người Minh
đắp, thuộc xă B́nh Cách, huyện Ư Yên, tỉnh Nam Định, tục gọi là
thành Cách.
1358 Thành Đông Quan: tức
là thành Đông Đô là kinh đô Thăng Long cũ nay là Thủ đô Hà Nội.
1359 Nguyên văn "Thập vị
ngũ công" là cách nói tắt của câu: "Thập tắc vị chi, ngũ tắc công
chi" trong binh pháp cổ Trung Quốc ("Thaông điển" và "Tôn Tử thập
gia chú") nghĩa là: Hơn địch 10 lần th́ bao vây, hơn địch 5 lần th́
đánh. Ư nói là cách đánh cẩn thận chắc chắn.
1360 Nên sửa là Hoàng
Phúc.
1361 Chi La: Tên huyện La
Sơn, nay là huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
1362 Ngự Thiên: tên huyện,
trước là hương Đa Cương, có mộ tổ nhà Trần ở đấy nên gọi là Ngự
Thiên, nay thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái B́nh.
1363 Mẹ của Đế Ngỗi.
1364 Khúc sông Lam ở gần
chân núi Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.
1365 Nỗ Giang: khúc sông
Mă chảy qua làng Nguyệt Viên, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, c̣n
gọi là sông Nguyệt Thường.
1366 Phủ Tam Giang: là
đất tỉnh Phú Thọ ngày nay.
1367 Trấn Thiên Quan: là
vùng đất gồm huyện Hoàng Long, tỉnh Ninh B́nh và huyện Lạc Sơn, tỉnh
Ḥa B́nh ngày nay.
1368 Huyện Thanh Đàm: là
huyện Thanh Tŕ, Hà Nội ngày nay.
1369 Chức phương: chức
quan nắm giữ bản đồ của thiên hạ, trông coi việc tiến cống của bốn
phương. Ở đây ư nói Giao Chỉ đă nằm trong bản đồ của nhà Minh.
1370 Tức trưởng công chúa
chị gái vua.
1371 Chỉ Lê Lợi.
1372 Đời Trần hhọc sinh
chia làm ba bậc là thượng trai, trung trai và hạ trai.
1373 Nguyên văn: "Vạn
ngôn thư".
1374 Chỉ người đi ở ẩn.
1375 Lư Nhân: là tên
huyện thời thuộc Minh, nay là huyện Lư Nhân, tỉnh Nam Hà.
1376 Lục Na: là tên huyện
thời thuộc Minh, nay là huyện Lục Ngạn, tỉnh Hà Bắc.
1377 Sái Già: theo Minh
sử và Minh sử kỷ sự của Cốc Ưng Thái chép về việc này, đều nói đánh
ở sông Ái Tử, th́ có lẽ Sái Già tức là chổ này (lời chữa của CMCB
12).
1378 Giấy khám hợo: giấy
chứnh nhận có đónh dấu, được cắt làm hai nửa, người được phéo cầm
một nửa, quan nhà giữ một nửa, để khi khám xét, có thể ráp lại xem
đúng con dấu hay không.
1379 Hoành Châu: thuộc
phủ Nam Ninh, sau là Hoành Huyện, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
1380 Vi tử thủ: là những
người sung vào làm công việc ở nơi quan phủ. Ở đây, có lẽ Phụ chọn
những người khỏe mạnh, can đảm đem vào dinh thự của ḿnh để sai
khiến và đề pḥng bất trắc.
1381 Tu tri: có nghĩa "cần
biết'. Sổ "tu tri" có nghĩa là sổ ghi số hộ khẩu, ruộng đất, lương
thực cần phải biết để nắm t́nh h́nh.
Quyển X
[1a]
Kỷ Nhà Lê
Thái Tổ
Cao Hoàng Đế
Vua họ Lê,
tên húy là Lợi, người hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh
Hóa1382 . Ở ngôi 6 năm, thọ 51 tuổi1383 , táng ở Vĩnh Lăng.
Vua hăng
hái dấy nghĩa binh đánh dẹp giặc Minh. Sau 10 năm th́ thiên hạ đại
định. Đến khi lên ngôi, đă ấn định luật lệnh, chế tác lễ nhạc, mở
khoa thi, đặt cấm vệ, xây dựng quan chức, thành lập phủ huyện, thu
nhập sách vở, mở mang trường học, có thể gọi là có mưu kế xa rộng mở
mang cơ nghiệp. Song đa nghi, hiếu sát, đó là chỗ kém.
Trước kia,
tổ ba đời của vua tên húy là Hối, một hôm, đi chơi Lam Sơn, thấy đàn
chim bay lượn quanh chân núi, như h́nh ảnh nhiều người tụ họp, bèn
nói: "Đây chắc hẳn là chổ đất tốt", rồi dời nhà đến ở đấy. Sau 3 năm
th́ thành sản nghiệp. Từ đó, đời đời làm quân trưởng một phương. Hối
sinh ra Đinh, nối được nghiệp nhà, có tới hơn 1 ngh́ tôi tớ, lấy vợ
là Nguyễn Thị [1b] (tên húy là Quách), sinh được hai người con trai,
con cả là Ṭng, con thứ là Khoáng. Khoáng lấy vợ người Chủ Sơn (Chủ
Sơn nay là Thủy Chú)1384 là Trịnh Thị (tên húy là Thương), đến năm
Ất Sửu, tháng 8, ngày mồng 61385 sainh ra vua tại hương Chủ Sơn,
huyện Lôi Dương1386 . Vua sinh ra, thiên tư tuấn tú khác thường,
thần sắc tinh anh kỳ vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai có
một nốt ruồi, tiếng nói như chuông, dáng đi tựa rồng, nhịp bước như
hồ, kẻ thức giả đều biết vua là bậc phi thường.
Bấy giờ,
họ Hồ cướp ngôi nhà Trần, rồi quân Minh xâm lược nước Nam, chia cắt
nước ta thành quận huyện, bắt nhân dân ta làm tôi tớ, luật pháp
phiền hà khắc nghiệt, thuế má lao dịch nặng nề,. Đối với những người
hào kiệt trong nước, chúng phần nhiều vờ trao cho quan tước rồi đem
về an trí ở phương Bắc. Vua hiểu biết hơn hẳn mọi người, sáng suốt
và cương quyết, không bị quan tước dụ dỗ, không bị uy thế khuất phục.
Người Minh đă dùng trăm phương ngàn kế xảo trá, vẫn không dụ được
vua.
Trước đó,
bọn Đặng Tất, Nguyễn Súy ở Châu Hóa [2a] cùng lập con cháu nhà Trần
là Trần Ngỗi, Trần Khoáng làm vua. Nhưng vua thấy họ yếu hèn, lại
say đắm tửu sắc, biết là chẳng làm nên chuyện, mới ẩn náu chốn núi
rừng, dụng tâm nghiền ngẫm thao lược, t́m mời những người mưu trí,
chiêu tập dân chúng lưu ly, hăng hái dấy nghĩa binh, mong trừ loạn
lớn.
Vua từng
bảo mọi người:
"Ta cất
quân đánh giặc, không phải là có ḷng ham muốn phú quư, mà chính v́
muốn để ngàn na8m về sau, người đời biết ta không chịu làm tôi tớ
cho bọn giặc tàn ngược".
Phép dùng
binh của vua là biết lấy mềm đánh cứng, lấy yếu thắng mạnh, cho nên
phần nhiều đều dẫn tới thắng lợi. Các thành Nghệ An, Thuận Hóa, Tây
Đô, Đông Đô đều sai văn thần Nguyễn Trăi viết thư, dụ bảo bọn giặc
điều họa phúc, nên không cần đánh mà chúng phải đầu hàng, chưa từng
giết lạm một người nào. Bắt được hơn 10 vạn viện binh của quân Minh,
cũng đều tha cả. Vua kinh dinh thiên [2b] hạ tronh khoảnh 10 năm,
dẹp yên loạn lớn và dựng nên nghiệp đế.
Mậu Tuất,
[1418], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 16). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Canh
Thân, vua khởi binh ở Lam Sơn.
Trước đó,
ngựi Minh đă có lần trao quan chức để dụ dỗ, nhưng vua không chịu
khuất phục, khảng khái, có chí lớn dẹp loạn. Vua từng nói:
"Bậc
trượng phu sinh ở đời phải cứu nạn lớn, lập công to, lưu lại tiếng
thơm ngàn naăm sau, sao lại chịu hèn nhát để cho người sai khiến?".
Thế rồi,
dẫn đầu hào kiệt, dựng cờ nghĩa, thề diệt giặc Minh.
Ngày mồng
9 tháng ấy, bọn nội quan nhaà Minh là Mă Kỳ đem đại binh tới uy hiếp
vua ở Lam Sơn. Vua bèn lui quân đến đóng ở Lạc Thủy1387 , đặt quân
mai phục để chờ giặc.
Ngày 13,
bọn Kỳ quả nhiên đến. Vua tung hết quân mai phục xông ra đánh giặc.
Cháu vua (có sách chép là con vua, Minh sử chép là em vua) là Lê
Thạch cùng các tướng Đinh Bồ, Lê Ngân, Lê Lư... dẫn đầu xông vào
trận giặc, chém được hơn [3a] 3.000 thủ cấp, thu được hàng ngàn quân
tư, khí giới, rồi dời quân đến núi Chí Linh1388 .
Ngày 16,
tên phản bội Ái (không rơ họ) đẫn đường cho giặc đi lối tắt, đánh úp
đằng sau vua, bắt mất gia thuộc của vua và rất nhiều vợ con của quân
dân. Quân sĩ dần dần chán nản bỏ đi. Vua cùng bọn Lê Lễ, Lê Náo, Lê
Bí, Lê Xí, Lê Đạp bí mật nương náu ở trên núi1389 .
Tháng 2,
vua hết lương, không c̣n ǵ nổi lửa. Gặp khi giặc lui quân, bèn về
đắp thành đất ở Lam Sơn.
Tháng 3,
đánh ra Mường Yên1390 , thu được hơn trăm người.
Mùa hạ,
tháng 4, trước nhà Minh ra lệnh cho các phủ, huyện, châu nước ta
trồng hồ tiêu, nay đă lên tốt, sai nội quan Lư Lượng sang thu về
dùng. Từ đấy, quan lại đốc thúc bắt trồng, mỗi cây giống giá tới 5
quan tiền. Mùa thu, tháng 7, nhà Minh sai hành nhân Hạ Thanh, tiến
sĩ Hạ [3b] th́ sang thu lấy lại các loại sách ghi chép về sự tích
xưa nay của nước ta.
Nhà Minh
mở công trường ṃ ngọc trai, kiếm hương liệu, săn bắt chồn trắng,
hươu trắng, voi trắng, t́m lùng rùa chín đuôi, chim đậu ngược, vượn
bạc má, trăn, rắn... để dâng nộp.
Tháng 9,
viên Tổng binh nhà Minh là Lư Bân đem quân tới sùng lục. Và đặt quân
mai phục ở Mường Một1391 , dùng tên thuốc độc bắn giặc chết và bị
thương quá nửa. Bân thua rút quân về.
Nội quan
nhà Minh là Thái giám Sơn Thọ đốc suất quân dân, vây núi Tam Trĩ,
châu Tĩnh Yên1392 , săn được một con voi trắng, trên lưnmg có vằn
đốm, dùng yên bạc thắng lên rồi sai Đô đốc Giang Hạo đưa về Yên Kinh,
cho là điềm lành. Các ty trong ngoài dâng biểu chúc mừng.
Kỷ Hợi,
[1419], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 17). Mùa xuân, tháng 2, nhà Minh sai
giám sinh Đường Nghĩa sang ban các sách Ngũ kinh, Tứ thư, Tính lư
đại toàn, Vi thiện âm chất, Hiếu thuận sự thực, cho [4a] nho học các
phủ, châu, huyện. Sai tăng học truyền giảng kinh Phật tại Tăng đạo
ty.
Lư Bân
nhà Minh tâu xin Hộ bộ ban cấp hộ thiếp1393 cho Giao Chỉ, bắt châu
huyện làm sổ thuế khóa phu dịch1394 và lên danh sách lư trưởng và
giáp thủ1395 từng năm1396 . Đại để, cứ 110 hộ là một lư, mỗi năm cử
1 lư trưởng, 10 giáp thủ, để nhận các việc lao dịch, hết lược lại cử
từ đầu. Người làm lư trưởng, giáp thủ bị roi vọt đánh đập khổ sở
khôn xiết.
Mùa hạ,
tháng 4, vua đánh đồn Nga Lạc1397 , bắt được viên thổ quan chỉ huy
Nguyễn Sao, chém được 300 thủ cấp.
Tháng 5,
vua đóng ở sách Đà Sơn1398 , quân Minh tiến đánh. Vua phục kích ở
Mường Chánh1399 , cả phá quân giặc, rồi dời đến đóng quân ở sách Lư
Sơn1400 , ít lâu sau, dời sang Mường Thôi1401 , rồi lại về đóng bản
doanh ở Vu Sơn1402 .
Mùa thu,
tháng 7, viên thổ quan Tri phủ Nghệ An là Phan Liêu v́ bị bọn nội
quan nhà Minh [4b] bức bách lấy vàng bạc, bèn dẫn quân bắt giết các
quan do nhà Minh phái đến, rồi đem quân vây thành Nghệ An, sắp hạ
được thành th́ Lư Bân chợt đem quân đến. Liêu trốn sang Ai Lao. Bân
đuổi tới châu Ngọc Ma1403 không kịp, lại quay về Nghệ An1404 , sửa
sang thành tŕ, vỗ yên dân chúng.
Khi Bân
đi đánh Liêu, có sai viên chỉ huy Lộ Văn Luật làm tiên phong1405 .
Văn Luật đă đi, lại bị giữ lại bàn tính mưu kế, trong ḷng hoài
nghi, lo sợ, nên bỏ trốn đi. Bân bắt mẹ già, gia thuộc và anh em của
Luật như Đồng tri châu châu Tam Đái là Văn Phỉ. Đồng tri châu phủ
Trấn Man Phan Kiệt là anh họ của Liêu, nghe tin Liêu trốn đi, cũng
đem cả nhà đi theo, nhưng chưa ra khơi cơi đă bị thắt cổ chết cùng
với vợ.
Mùa đông,
tháng 11, Trịnh Công Chứng và Lê Hanh ở Hạ Hồng1406 Phạm Thiện ở Tân
Minh1407 , Nguyễn Đặc ở Khoái Châu, Nguyễn Đa Cấu và Trần Nhuế ở
Hoàng Giang thấy thành Đông Quan chỉ c̣n những quân lính ốm yếu,
liền dấy [5a] quân tiến đánh. Quân đến Lô Giang, đánh phá được cầu
phao, nhưng ít lâu sau, bị Lư Bân đánh bại, tan tác chạy dài.
Bấy giờ,
chỗ nào cũng rối loạn, chỉ c̣n các xứ Tam Giang, Tuyên Quang, Hưng
Hóa là yên tĩnh như cũ1408 .
Canh Tư,
[1420], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 18). Mùa xuân, tháng 2, Lư Bân từ
Nghệ An trở về Đông Quan.
Mùa, hạ,
tháng 4, Lộ Văn Luật dấy binh ở Thạch Thất, Lư Bân đánh phá được.
Lộ Văn
Luật chạy sang Ai Lao, dân chúng th́ trốn vào hang núi Phật Tích và
An Sầm1409 . Quân Minh dỡ nhà hun động, người trong động bị khói lửa
hun đều chết, người nào ra hàng cũng bị giết cả, vợ con bị bắt làm
nô tỳ.
Mùa hạ,
tháng 6, nhà Minh sai Vinh Xương bá Trần Trí sang trấn giữ phủ Phụng
Hóa.
Trần Thái
Xung ở Đạo Hồi, Phạm Ngọc ở Đồ Sơn đều tụ quân nổi dậy, Bân đánh bại
cả.
Nhà Minh
lấy Hùng Tông Lỗ làm Giao Chỉ hữu tham nghị.
Tông Lỗ
(người Tứ Xuyên) [5b] trước làm Tri phủ Tam Giang, bị Hoàng Phúc
nhận xét là: "Hỏi đến vốn học th́ chẳng biết ǵ, xét đến việc làm
th́ không có ǵ đáng kể, cả phủ chỉ một ḿnh là nhất, nhưng suốt ba
năm công việc chỉ nhờ người", sai đưa về Yên Kinh. Lại bộ dẫn lời
nhận xét ấy, tâu xin giáng làm thương quan1410 . Vua Minh hỏi lư do,
Lại bộ trả lời là trước đă từng Giang Tây tham nghị, Vua Minh nói:
"Trưởng quan khó làm th́ hăy cho trở về chức phó nhị". V́ thế mới
đổi làm tham nghị. Khi tới nơi nhận chức, Tông Lỗ nói: "Trước đây
đạn nhân xét tôi vào bậc dưới, nay tôi cũng được cùng ngồi một công
đường với ngài". Đến năm Ất Tỵ, đời Hồng Hy (niên hiệu của Minh Nhân
Tông), Tông Lỗ lại bị xét là hèn kém, mất chức, làm dân.
Người
làng Tràng Kênh, huyện Thủy Đường1411 là Lê Ngă đổi họ tên thành
Dương Cung, tự xưng là Thiên Thượng Hoàng Đế, đăt niên hiệu là Vĩnh
Thiên.
Ngă vốn
là gia nô của Trần Thiên Lại, tướng mạo rất đẹp, đă từng đi khắp bốn
phương, đến đâu cũng được mọi người cung dưỡng. Ngă lại trá [6a]
xưng là lính hầu của Mă Kỳ, đi doạ nạt các châu huyện làm kế nuôi
thân. Thấy Công Chứng, Phạm Ngọc, Phạm Thiện đua nhau nổi dậy, Ngă
bảo những người quan biết:
"Các anh
có muốn giàu sang không? Ai muốn th́ hăy theo ta!".
Đến huyện
Đan Ba1412 , Lạng Sơn, Ngă trá xưng là cháu bốn đời của Trần Duệ
Tông, từ nước Lăo Qua trở về. Phụ đạo Đan Bá là Bế Thuấn đem con gái
gả cho và lập làm vua. Trong khoảng mấy tuần một tháng, đă có vài
vạn quân, hắn ra An Bang1413 chiếm trại Hồng Doanh. Sau khi Công
Chứng, Phạm Ngọc bị thất bại, th́ dư đảng của họ theo về với Ngă, số
quân được đến mấy vạn người. Ngă tiếm xưng
tôn hiệu,
dựng niên hiệu, đặt quan chức, đúc tiền, đốt thành Xương Giang1414 ,
cướp trại B́nh Than. Có người biết hắn là Ngă cũng không dám nói.
Thiên Lại đi gặp hắn, trở ra nói rằng:
"Nó là
gia nô của ta, việc ǵ phải lạy nó".
Rồi dời
thuyền trốn đi. Ngă đuổi theo nhưng không kịp. Thiên Lại gởi hịch
cho các huyện gần đó, tự xưng là Hưng Vận quốc [6b] thượng hầu, đem
quân đánh nhau với Ngă, bị Ngă giết chết, Lư Bân đem đại quân thủy
bộ dến đánh. Ngă và Thuấn đang đêm bỏ trốn cả, không biết là đi đâu.
Tả tham
chính Hầu Bảo giữ đồn Hoàng Giang1415 , bị Nguyễn Thuật, người Kiến
Xương1416 đánh giết.
Mùa đông,
tháng 10, vua nghe tin quân Minh sắp đến, đặt mai phục ở bến
Bổng1417 chờ giặc, chém giết quân giặc nhiều vô kể, bắt được hơn
trăm con ngựa. Vua cho nghỉ quân ở Mường Nanh1418 , rồi lại dời đến
đóng quân ở Mường Thôi.
Tên Đồng
tri châu Quỳ Châu là Cầm Lạn dẫn bọn Lư Bân, Phương Chính đem hơn 10
vạn quân, theo đường Quỳ Châu đến thẳng Mường Thôi. Vua phục kích
chúng ở Thi Lang1419 . Bân và Chính chỉ chạy thoát được thân ḿnh.
Tháng 12,
vua tiến quân đóng ở sách Ba Lẫm1420 thuộc huyện Lỗi Giang, khiêu
khích cho giặc ra đánh. Tướng giặc là bọn Đô ty Tạ Phương, Hoành
Thành bỏ đồn Nga Lạc, về giữ trại Quan Du1421 để pḥng [7a] bị cho
thành Tây Đô, cố giữ không ra đánh. Vua ngày đêm dùng nhiều cách
tiến công uy hiếp để giặc mỏi mệt, rối loạn. Lại sai Lê Sát, Lê Hào
chia nhau tiến đánh, cả phá bọn giặc, chém được hơn ngh́n thủ cấp,
thu được rất nhiều chiến cụ, từ đó thế giặc ngày một suy. Vua bèn
chiêu tập nhân dân các xứ. Các huyện bên cạnh đều sôi nổi hưởng ứng,
cùnh nhau tiến đánh và uy hiếp các đồn giặc.
Tam ty
nhà Minhkhiến nghị rằng: Bọn quan lại, quân dân Giao Chỉ mắc tội từ
tử h́nh trở xuống, xin đều cho chúng nộp thóc tùy theo mức độ để
chuộc tội, lấy số thóc đó làm lương thực dự trữ nơi biên giới. Vua
Minh nghe theo.
Năm ấy,
Hoàng Phúc xin miễn việc bắt quan lại về chầu hầu, v́ địa phương này
chưa yên.
Tân Sửu,
[1421], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 19). Mùa xuân, tháng giêng, nhà Minh
xây dựng xong điện Phụng Thiên ở Yên Kinh. Vua Minh ngự chính điện
để các quan vào chầu, xuống chiếu cho các quan phủ, huyện, châu vào
mừng.
Mùa hạ,
tháng 4, ngày mồng 8, [7b] điện bị cháy, mới thôi.
Bắt đầu
lấy những người thiến hoạn sung vào nội phủ.
Tháng 6,
lộ Tam Giang lụt to. Có người bảo là (thủy thần) lấy gỗ cḥ đề dùng
nên có tai họa đó.
Mùa thu,
tháng 9, nước sông Đáy1422 , dâng tràn.
Tổng binh
Lư Bân và nội quan Lư Lượng của nhà Minh bắt Phạm Luận là sinh viên
huyện Giáp Sơn, buộc Luận mạo nhận là Dương Cung để cho qua chiếu
lệnh lùng bắt1423 , bắt đến cả gia thuộc Luận là bọn Phạm Xă giải về
Yên Kinh.
Tri huyện
Dặc Khiêm nhận thực không phải là tên Cung. Bân không nghe. Khiêm
lấy bao vàng dâng đại cáo, tâu thẳng về Yên Kinh. Bân sai người chặn
đường bắt về. Hoàng Phúc khuyên Khiêm rằng:
"Mọi
người đều cho là đúng, chỉ riêng ngươi bảo không phải là làm sao?".
Khiêm nói:
"Ai ra
ngoài mà chẳng phải ra cửa ngơ?"1424 .
Bân cho
giải cả Khiêm và Luận về Yên Kinh, giao xuống cho pháp ty xét hỏi.
Khiêm suưt nữa bị tội, v́ có người anh đánh trống đăng văn1425 khiếu
oan nên được miễn tội. Sau thăng dần đến chức Hữu bố chính sứ nước
ta. Gia thuộc của Luận cuối cùng bị chết [8a] trong ngục.
Mùa đông,
tháng 11, ngày 20, tham tướng nhà Minh là Trần Trí đem quân các vệ
Giao Châu cùng ngụy binh, gồm hơn 10 vạn tên đánh sát đến ải Kính
(có sách chép là Ḱnh) Lộng1426 , sách Ba Lẫm. Vua họp các tướng bàn
rằng:
"Quân
giặc nhiều, quân ta ít, nhưng quân giặc mệt, quân ta nhàn. Binh pháp
có nói được hay thua là ở tướng chứ không phải ở quân nhiều hay ít,
nay quân giặc tuy nhiều, nhưng ta đem quân nhàn đợi đánh quân mệt
mỏi, chắc chắn sẽ đánh bại chúng".
Đến đêm,
vua chia quân đánh úp doanh trại giặc. Quân ta đánh trống reo ḥ
xông tới, phá được bốn doanh trại giặc, chém được hơn ngàn thủ cấp.
Sau Trí khinh vua ít quân, lại phá núi mở đường để tiến đánh. Vua
ngầm phục kích ở đèo Ống1427 để đợi giặc. Đến trưa, Trí quả nhiên
đem quân đi theo đường núi đến. Quân phục hai bên xông ra, đánh bại
giặc. Quân Trí phải rút.
Nhưng
đúng lúc ấy. Ai Lao đem 3 vạn quân và 100 thớt voi1428 th́nh ĺnh
tới doanh trại của vua phao tin là cùng hợp sức với vua để đánh [8b]
giặc. Vua tin lời họ, không pḥng bị. Đến nửa đêm, bị họ đánh úp.
Vua phải đích thân đốc chiến, suốt từ giờ Tư đến giờ Măo, đánh tan
bọn Ai Lao, chém hơn 1 vạn thủ cấp, bắt được 14 con voi, thừ thắng
truy kích liền 4 ngày đêm, đuổi đến tận sào huyệt của bọn chúng rồi
về.
Tháng 12,
vua tiến ra đóng quân ở Sách Thủy1429 .
Tù trưởng
Ai Lao Là Măn Sát đă cùng quẫn, muốn vua hoăn đánh để đợi viện binh,
mới giả vờ xin ḥa. Vua biềt đó là mưu kế xảo quyệt, không cho. Các
tường cố xin cho hoà, nói là quân lính khó nhọc đă lâu, nên cho nghỉ
ngơi môt chút. Chỉ có B́nh chươngLê Thạch cho là không thể cho giặc
giải ḥa, liền tự cho ḿnh hăng hái xông lên trước, chẳng may trúng
phải chông ngầm mà chết.
Thạch là
con người anh của vua. Vua thuở ấu thơ, được vua nuôi nấng nên ngài
yêu Thạch hơn cả con ḿnh. Thạch tính người nhân ái, ham đọc sách,
khoẻ mạnh, dũng cảm, yêu mến quân sĩ, vua từng sai chỉ huy quân tiên
phong, đánh đâu thắng đấy. Đáng tiếc Thạch dũng cảm nhưng kém [9a]
mưu. Đến đây chết, vua rất thương xót.
Trước
đây, vua vốn ḥa hiếu với Ai Lao, chưa từng có hấn khích ǵ. Khi vua
cầm cự với giặc tại sách Lư Sơn, Ai Lao từng cho quân sang cứu viện.
Đến khi tên ngụy quan Lộ Văn Luật trốn giặc sang Ai Lao, sợ uy danh
vua, thêu dệt gây nên hiềm khích, nên mới đến nỗi thế.
Phương
Chính và Hoàng Phúc nhà Minh cùng với bọn Tổng binh, Tam ty và Trấn
thủ Trần Hiệp bàn định rằng: những viên văn vơ thổ quan nào có kêu
xin việc ǵ th́ mượn cớ đă đủ hạn khảo khóa, sai về Yên Kinh làm
việc công để an trí tại đó.
Nhâm Dần,
[1422], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 20). Mùa xuân, ngày mồng 1, nhật
thực.
Tháng 2,
viên Tổng binhnhà Minh là Phong Thành hầu Lư Bân bị bệnh nhọt chết.
Mùa đông,
tháng 12, vua tiến quân đóng ở Quan Da. Ai Lao lạin với quân Minh
đánh vào trước mặt và sau lưng quân ta, nhiều người chết và bị
thương. Vua bèn bí mật lui về [9b] sách Khôi1430 . Mới được 7 ngày,
giặc Minh lại đem đại binh đến vây. Vua bảo các tướng sĩ:
"Giặc vây
ta bốn mặt, có muốn chạy cũng không có lối nào. Đây chính là "tử
địa"1431 mà binh pháp đă nói, đánh nhanh th́ sống, không đánh nhanh
th́ chết".
Vua nói
xong chảy nước mắt. Các tướng sĩ đều xúc động, tranh nhau liều chết
quyết chiến.
Bọn Lê
Lĩnh, Lê Vấn, Lê Hào, Lê Triện xông lên trước phá trận, chém được
tham tướng Minh là Phùng Quư và hơn ngh́n thủ cấp giặc, bắt được
trăm con ngựa. Mă Kỳ và Trần Trí chỉ thoát được thân ḿnh chạy về
Đông Quan, quân Ai Lao cũng bỏ trốn.
Vua đem
quân về đóng ở núi Chi Linh. Quân lính hết lương, hơn hai tháng, chỉ
ăn rau củ và măng tre mà thôi. Vua giết 4 con voi và cả ngựa của
ḿnh cưỡi để nuôi quân sĩ. Song thỉnh thoảng vẫn có kẻ bỏ trốn. Vua
bèn cấm giữ nghiêm ngặt, bắt được kẻ nào bỏ trốn th́ chém, để rao
cho mọi người biết. Quân lính lại nghiêm [10a] túc như trước.
Bấy giờ,
do trải nhiều phen hoạn nạn, quân lính đă mỏi mệt, muốn được nghỉ
ngơi, đều khuyên vua giảng ḥa với giặc. Vua bắt đắc dĩ phải vờ ḥa
hiếu với bọn tướng giặc Sơn Thọ, Mă Kỳ, Trần Trí, để yên ḷng quân.
Sai bề tôi thân thích là bọn Lê Vận, Lê Trăn đi giảng ḥa.
Nhà Minh
sai nội quan cùng Hộ bộ chủ sự Mă Minh kiễm kê tiền bạc và lương
thực chứa trong kho các phủ, châu, huyện. Đồng thời, sai An B́nh bá
Lư An và Trần Trí, đều giữ chức tham quan để trấn trị đất này.
Quư Măo,
[1423], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 21). Mùa hạ, tháng 4, ngày 14, vua
lại đem quân về Lam Sơn.
Bọn tham
tướng Trần Trí, nội quan Sơn Thọ nhà Minh đưa biếu vua nhiều trâu
ngựa, cá muối cùng thóc giống và nông cụ để dụ dỗ. Vua cũng sai bọn
Trăn đưa tặng vàng bạc để đáp lễ, nhưng vẫn bí mật [10b] pḥng bị.
Bọn Trí biết ư định của vua bề ngoài giả cách thân thiện, nhưng bên
trong th́ ngầm mưu đánh úp, liền bắt giữ bọn Trăn không cho về. Vua
nổi giận, cắt đứt giảng ḥa. Các tướng sĩ cũng sôi sục căm thù, đều
thề xin liều chết quyết chiến.
Bọn quan
lại ở nước ta lại phải [sang Yên Kinh] làm lễ chầu hầu và dâng sổ tu
tri1432 . Nơi nào chỉ có một viên lưu quan1433 và có thổ quan th́
sai viên lưu quan đi, lấy viên quan khác đến thay. Những viên lưu
quan đều bị xét hỏi, xong việc th́ được trở về chức cũ, chỉ có bọn
thổ quan, thổ lại th́ thả về ngay.
Mùa đông,
tháng 11, ngày 21, hoàng tử Nguyên Long sinh.
Giáp
Th́n, [1424], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 22). Mùa xuân, tháng giêng, nhà
Minh ra lệnh khai thác mỏ bạc. Trước đó, chỉ khai thác mỏ vàng. Đến
đây, ra lệnh khai thác mỏ bạc, nhưng chưa làm lại thôi.
Mùa thu,
tháng 7, vua Minh thân hành đi đánh giặc Hồ1434 , đem quân về đến
sông Du Mộc1435 th́ ốm nặng, để di mệnh truyền ngôi cho hoàng thái
tử. Ngày Tân Măo 18, vua Minh băng, nhưng giữ kín, đưa về đến Yên
Kinh mới phát tang, thọ 65 tuổi, táng ở Trường Lăng, miếu hiệu [11a]
Thành Tổ, tên thuỵ là Văn Hoàng Đế.
Mùa thu,
tháng 8, ngày 15, thái tử nhà Minh Cao Xí lên ngôi, đổi niên hiệu là
Hồng Hy, đại xá. Tờ chiếu viết:
"Trẫm
nghĩ, trời sinh ra dân, liền lập ra vua chúa để yêu nuôi muôn triệu
người cho đến cơi thái ḥa, để thống trị Hoa Di, để cùng đạt tới
phồn vinh thịnh vượng. Tiên hoàng ta vâng mệnh trời vỗ yên đất nước,
trị hóa cao hơn cả trăm vua, văn đức vũ công, thanh giáo ban ra khắp
bốn biển. Mới đây, v́ biên cương báo động, cần phải xa giá thân
chinh; đến khi quân về, đỗng đâu Đỉnh Hồ1436 xa khuất.
Ngài để
lại di mệnh đem ngôi báu trao cho kẻ ít đức này. Đương lúc đau
thương khôn xiết, đâu dám vội nguôi mà tuân theo lệnh. Nhưng các tôn
thân, công hầu bá, pḥ mă, các quan văn vơ, nhân dân, kỳ lăo và các
sứ thần triều cống của tứ di1437 đều cúi đầu dưới cửa khuyết, dâng
biểu khuyên lên ngôi, cho là ngôi trời không thể bỏ trống lâu ngày,
sinh dân không thể [11b] không có người đứng chủ, mà con trưởng đích
nối giữ đại thống là đạo vĩnh hằng của nhà nước. Lời tâu bày đền hai
ba lần, ḷng thành khẩn xiết bao giải tỏa.
Cho nên,
ta trên tuân lệnh theo di mệnh, dưới thể ḷng mọi người, ngày 15
tháng 8 đă kính cáo trời đất, tông miếu, xă tắc, lên ngôi hoàng đế,
để đón phúc lớn của tông miếu, để nhờ mưu xa của thánh thần. Nay
nhân buổi mới lên ngôi, ban mệnh đổi mới, lấy sang năm làm năm Hồng
Hy thứ nhất, c̣n các việc nên làm, nêu rơ như sau:
"Những
việc như lấy vàng bạc, t́m hương liệu ở Giao Chỉ đều đ́nh chỉ hết.
Các quan viên trong ngoài sai đi trông coi, hạn trong 10 ngày phải
lên đường về kinh, không được kiếm cớ ở chậm lại mà ngược hại nhân
dân. Ôi! vua tôi cùng một dạ, thương dân cốt ở khoan hồng, thưởng
phạt có phép thường, trị nước trước phải minh tín. Những mong các
hiền tài [12a] giúp việc văn vơ, các quan chức giỏi giang trong
ngoài hết ḷng trung trinh, giúp chỗ thiếu sót để nối nghiệp lớn.
Cho nền quốc gia hưng thịnh măi măi, để ban ân huệ tới khắp dân đen,
để mở rộng phúc trị b́nh cho mọi nơi trong cơi".
Các nha
môn lớn nhỏ ở nước ta sai quan đem lễ vật sang tế lễ vá chúc mừng.
Mùa thu,
tháng 9, ngày 20, vua chỉ huy quân và voi đánh úp đồn Đa Căng1438 ,
phá được đồn này. Tham chính nhà Minh là Lương Nhữ Hốt chỉ chạy
thoát được thân ḿnh, ta thu hết khí giới, đốt phá đồn giặc.
Đô chỉ
huy sứ nhà Minh Nguyễn Suất Anh1439 đem quân đến cứu viện, nhưng đồn
đă mất. Anh chưng hửng, không chổ bấu víu, vua lại đánh bại chúng.
Anh chạy vào thành Tây Đô. Vợ con của Anh bị ta bắt được, vua đều
tha cho về cả.
Nhà Minh
cho gọi Công bộ thượng thư nắm việc hai ty Bố chính và Án sát ở Giao
Chỉ là Hoàng Phúc về nước. Tờ sắc viết:
"Khanh là
bậc lăo thành của nước, khó nhọc lâu ở ngoài, trẫm mong nhớ khôn
khuây, muốn được trông thấy [12b] mặt ngay. Thấy sắc tới th́ khanh
đi trạm mau về kinh để thỏa ḷng trẫm mong đợi. C̣n vợ con th́ sai
phu trạm đưa về sau".
Nhà Minh
lấy Binh bộ thượng thư Trần Hiệp sang trấn giữ, kiêm coi việc hai ty
Bố chính, Án sát và giúp đỡ việc quân chính cho tổng nhung.
Hiệp
người phủ Thường Châu, tỉnh Trực Lệ, trước kia làm Đại lư thiếu
khanh. Năm Bính Tuất, Khai Đại năm thứ 4 đời Hồ(1406), vận chuyển
lương thực đi theo quân Minh, đến năm Kỷ Sửu, Hưng Khánh năm thứ 3
(1409), Binh bộ thượng thư Lưu Tuấn bại trận bị chết ở bến Bô Cô,
điều Hiệp làm Thị lang quản sự, khi b́nh được châu Hóa, được thăng
làm Binh bộ thượng thư.
Hoàng
Phúc được gọi về, có tâu xin bảo cử các thổ hào làm quan như phụ đạo
B́nh Nguyên là Hoàng Ngân Phong, con Tri phủ Đỗ Hy Vọng là Đỗ Cử,
con Diêm vận đồng tri Thân Bí Quyết là Bá Tuân. Lại tâu rằng:
"Các thổ
lại vẫn quyến luyến quê hương, nếu khoan dung cho chúng th́ trái với
[13a] phép tắc đă quy định, nếu g̣ bó chúng th́ phần nhiều đều bỏ
trốn, đến khi lùng bắt th́ chúng quay lại giúp đỡ giặc cướp. Xin
xuống chiếu cho Vân Nam để những tên suốt đời làm lại th́ chuyển cho
làm việc ở các nha môn".
Vua Minh
nghe theo.
Vua chọn
đinh tráng, sửa khí giới, rèn bộ ngũ, chứa sẳn lương khô, tiến thẳng
vào Nghệ An.
Khi qua
núi Bồ Lạp (có sách chép là xứ Bồ Cứ) thuộc châu Quỳ1440 , th́ gặp
tên Chỉ huy đồng tri nhà Minh là Sư Hựu cùng viên thổ quan là Tri
phủ châu Trà Lân Cầm Bành đem 5.000 quân đón ở phía trước, lại có
các tướng Minh Trần Trí, Lư An, Phương Chính, Thái Phúc đem quân
tiếp đến uy hiếp mặt sau.
Trời sắp
tối, vua bèn phục sẵn binh tướng trong rừng. Bọn Phương Chính đến,
vua tung quân ra đánh. Quân Minh tan vỡ lớn. Ta chém được Đô ty Trần
Trung và hơn hai ngh́n thủ cấp quân giặc, bắt được hơn một trăm cổ
ngựa. Quân Minh tháo chạy.
Hôm sau,
quân ta tiến đến trang Trịnh Sơn1441 , châuTrà Lân1442 , [13b] gặp
Sư Hựu ở đó, lại cả phá chúng, chém được thiên hộ Trương Bản và hơn
ngh́n quân giặc. Hựu chỉ chạy thoát thân ḿnh. Vua dẫn quân đến sách
Mộc. Bọn Trần Trí đuổi theo đến núi Trạm Hoàng, nhưng v́ đă nhiều
phen bị thua đau, không dám tiến sâu, lui về giữ thành Nghệ An.
Mùa đông,
tháng 11, vua sai người chiêu dụ Cầm Bành. Bành cự tuyệt không theo,
ḿnh hắn cùng với hơn ngàn quân lên dựng rào lũy trên đỉnh núi để
đón quân cứu viện. Vua đem quân tới bao vây.
Tháng 12,
Sơn Thọ nhà Minh sai Nguyễn Sĩ đưa trả Lê Trăn để cầu ḥa.
Bọn
Phương Chính, Sơn Thọ đến Nghệ An, muốn cứu Cầm Bành nhưng không dám
tiến quân, bèn sai người đem thư xin vua giải vây cho Bành.
Bấy giờ,
Cầm Bành cố thủ, vây đă hơn một tháng chưa lấy được, lại nghe tin
quân cứu viện tới. Vua gọi các tướng lên bảo rằng:
"Cầm Bành
đang nguy khốn, bọn Chính đáng lẽ phải cấp tốc cứu viện, nay lại
dùng dằng, hẳn là có ư lo sợ. Chi bằng ta [14a] giả cách cho ḥa để
xem t́nh thế ra sao, tin đi tin lại mất hàng tuần hàng tháng, th́
Cầm Bành lúc ấy chắc đă bị bắt rồi".
Vua bèn
viết thư để trên bè cho thuận ḍng trôi xuống. Trong thư vua nói
thác là vẫn muốn theo lời thỉnh cầu của họ, trở về Thanh Hóa. Nhưng
lại bị Cầm Bành chặn đường, nếu có ḷng thương th́ xin cho một người
tạm đến ḥa giải để thông đường về.
Bọn Chính
nhận được thư, sai Trần Đức Nhị chạy đến bảo Cầm Bành ḥa giải, Cầm
Bành biết là viện binh không đến, mở cửa thành ra hàng, Châu Trà Lân
đă dẹp yên. Vua ra lệnh cho quân rằng:
"Cầm Bành
đă đầu hàng, chớ có mảy may xâm phạm, tha tội cho tất cả, không được
giết một người nào". (Sau Cầm Bành mưu phản, vua giết chết).
Vua vỗ về
an ủi các bộ lạc, khao thưởng các tù trưởng. Tuyển chọn đinh tráng
bổ sung quân ngũ được 5 ngh́n người, thế quân càng mạnh. Quân tin
nghe tin Cầm Bành đă hàng, liền quay lại đánh trại Trà Lân. Vua lại
đánh phá được.
Vua muốm
đánh thành Nghệ An, [14b] nhưng chưa biết t́nh thế ra sao. Gặp khi
vua Minh mới lên ngôi, sai nội quan Sơn Thọ dùng lời lẽ quỷ quyệt để
dụ dỗ vua. Vua biết dụng ư của chúng liền nói:
"Giặc sai
ngươi đến lừa ta, ta nhân chỗ sơ hở của chúng mà lừa lại, chính là
dịp này đây".
Rồi lại
trao đổi đi lại với giặc, trinh sát t́nh h́nh của chúng để mưu đánh
úp thành Nghệ An. Bọn Thọ biết là mưu kế của chúng không đánh lừa
nổi, mới lại đoạn tuyệt không cho sứ đi lại nữa.
Bấy giờ
vua chấn chỉnh binh tượng, tiến quân bao vây thành Nghệ An. Quân sắp
đi, vừa lúc có tin báo quân Minh đă sắp đặt voi ngựa, thuyền bè,
tiến quân cả hai đường thủy và bộ, định ngày mai sẽ tới. Vua chia
hơn 1.000 quân, cho bọn Lê Liệt đi đường tắt đóng giữ huyện Đỗ
Gia1443 . Vua đích thân chỉ huy đại quân giữ chổ hiểm yếu để chúng.
Được ba
bốn hôm, quân Minh quả nhiên đến quán Lậu và cửa Khả Lưu1444 , bày
doanh trại ở hạ lưu. Vua ở thượng lưu, ban ngày dựng cờ đánh trống,
ban đêm th́ đốt lửa sáng trưng. Nhưng ngầm sai binh tượng [15a] vượt
sông, phục sẵn ở chổ hiểm yếu. Trời gần sáng, giặc liền đem quân đến
đánh dinh vua. Vua giả vờ rút lui, dẫn giặc tới chổ có quân mai
phục. Giặc không để ư, đem quân tiến vào sâu, quân mai phục bốn mặt
nổi dậy, xông ra đánh phá. Quân giặc bị chém đầu và chết đuối tới
hàng vạn tên.
Hôm sau,
giặc liền dựa vào thế núi, đắp hào lũy để ở, không ra đánh nữa.
Bấy giờ
lương thực của giặc có rất nhiều mà quân của vua th́ không đủ lương
ăn cho 10 ngày. Vua nói với tướng sĩ:
"Giặc cậy
có nhiều lương, cố thủ để làm kế lâu dài, ta lương ít không thể cầm
cự dài ngày với giặc".
Rồi đốt
cháy doanh trại, ngược ḍng sông giả cách trốn đi, nhưng lại ngầm đi
đường tắt trở về, đợi giặc đến th́ đánh. QUân Minh cho là vua đă
chạy, mừng lắm, bèn tiến quân vào đóng ở doanh trại cũ của vua, lên
núi đắp lũy.
Ngày hôm
sau, vua cho quân tinh nhuệ ra khiêu chiến. Giặc đem quân ra ngoài
lũy để đánh. Vua phục sẵn ở Bồ Ải1445 , giữa nơi hiểm yếu. Giặc lại
không ngờ tới, đem hết [15b] quân ra đánh. Vua bèn tung phục binh
xông vào trận giặc. Bọn Lê Sát, Lê Lễ, Lê Vấn, Lê Nhân Chú, Lê Ngân,
Lê Chiến, Lê Tông
Kiều, Lê
Khôi, Lê Bôi, Lê Văn An tranh nhau nên trước phá quân giặc, chém đầu
giặc không sao kể xiết. Thuyền giặc trôi ngổn ngang, xác chết đuối
nghẹn tắc khúc sông, khí giới vứt đầy cả rừng núi. Ta bắt sống Đô ty
Chu Kiệt, chém tướng tiền phong là Đô ty Hoành Thành, bắt sống hàng
ngh́n tên giặc. Trần Trí, Sơn Thọ thu nhặt tàn quân chạy về thành
Nghệ An. Vua thừa thắng đuồi dài suốt 3 ngày, đến tận dưới chân
thành. Bọn Trí vào thành cố thủ.
Nhà Minh
sai Cẩm y vệ xá nhân sang bắt bọn Phương Chính và Sư Hựu về kinh, v́
bị thua trận ở châu Trà Lân. Hựu đi đến giữa đường uống thuốc độc
chết, Phương Chính vẫn được làm Đô đốc đồng tri, gia chức tham
tướng.
Nhà Minh
ra lệnh cho bọn Mă Kỳ lại [16a] sang lấy vàng bạc, châu báu và hương
liệu.
Ất Tỵ,
[1425], (Minh Nhân Tông Cao Xí Hồng Hy năm thứ 1). Mùa xuân, tháng
giêng, vua đem quân đến hương Đa Lôi1446 , huyện Thổ Du, trấn Nghệ
An. Già trẻ tranh nhau đem trầu rượu đến đón và khao quân. Mọi người
đều nói: "Không ngờ ngày nay lại được trông thấy uy nghi của nước
cũ".
Tri phủ
châu Ngọc Ma là Cầm Quư đem hơn 8.000 quân và hơn 10 con voi đến
theo giúp. Vua ra lệnh cho các tướng rằng:
"Dân
chúng khổ về chính sách bạo ngược của giặc đă lâu rồi. Những châu
huyện nào chúng ta đi tới, không được mảy may xâm phạm của dân. Nếu
không phải là trâu ḅ, thóc lúa của bọn nguỵ quan, th́ dẫu đói khát
khốn khó đến đâu cũng không được lấy bậy".
Mọi người
đều tuân lệnh.
Bấy giờ,
quân lính đă ba ngày chưa được ăn mà vẫn không có ai vi phạm lệnh
đó. Dân thấy pháp lệnh đă được ban ra và thi hành nghiêm ngặt như
vậy, liền đem hết trâu ḅ, thóc lúa của giặc Minh cấp cho quân lính.
Bấy giờ, vua chia quân đi lấy lại đất đai các nơi. Dến châu huyện
nào, người ta đều nghe tiếng mà quy phục, cùng [16b] nhau hợp sức
vây đánh thành Nghệ An. Giặc cố thủ không dám ra nữa. Thế là đất
Nghệ An đều về ta cả.
Vua huấn
luyện tướng sĩ, sửa chữa chữa vũ khí, chưa đầy 10 ngày, chiến cụ đă
đầy đủ cả. Bèn duyệt vơ nghệ, dạy cho binh sĩ phép ngồi, đứng, đánh,
đâm, chỉ bảo các thế kỳ, chính, phân, hợp, cho họ biết hiệu chiêng,
hiệu trống, hiệu cờ. Kỷ luật quân đội đă nghiêm chỉnh, tinh thần
binh sĩ càng tăng thêm. Thưởng phạt thi hành, nên quân lính gan dạ
quyết chiến. Nhân dân trong vùng đều dắt díu nhau tới, đông vui như
đi chợ. Vua vỗ về phủ dụ, mọi người đều hân hoan vui vẻ.
Mùa hạ,
tháng 4, Tham tướng nhà Minh là An B́nh bá Lư An đem thủy quân từ
thành Đông Quan đến cứu. Vua đoán là Trần Trí bị cùng quẫn lâu ngày,
thấy quân cứu viện đến, tất mở cửa thành ra đánh, bèn dời quân tới
đóng ở huyện Đỗ Gia, đào cửa sông, phục quân trên bờ sông đợi quân
giặc đến [17a] để đánh.
Ngày 17,
bọn Trí đem hết quân ra đánh trại Lê Thiệt. Đợi quân của Trí sang
một nửa, quân mai phục liền nổi dậy đánh tan, chém hơn ngàn thủ cấp
giặc, bọn chết đuối cũng rất nhiều. Từ đó, giặc càng sợ hăi, đắp
thên hào lũy gắng sức cố thủ.
Tháng 5,
vua sai Tư không Lê Lễ (Lễ là cháu gọi vua bằng cậu, vốn họ Đinh,
được ban họ Lê) đi tuần ở Diễn Châu1447 . Lễ đặt phục binh trước.
Quân Minh không biết. Gặp khi Đô ty Trương Hùng của nhà Minh đem hơn
300 chiếc thuyền chở lương từ Đông Quan đến. Trong thành mừng lắm,
tranh nhau mở cửa thành ra đón. Quân phục th́nh ĺnh nổi dậy, chém
viên Thiên hộ họ Tưởng và hơn 300 quân giặc. Hùng tháo chạy, Lễ cướp
lấy thuyền lương rồi đuổi theo, vừa đi vừa đánh, đến tận thành Tây
Đô.
Bấy giờ,
giặc đều đến cứu thành Nghệ An, vua đoán lá các thành Tây Đô đều đă
suy yếu, liền chọn 200 quân tinh nhuệ, [17b] 2 thớt voi, sai bọn Lê
Lễ, Lê Sát, Lê Nhân Chú và Lê Triện, Lê Bị đi gấp
theo
đường đất đánh úp thành Tây Đô1448 , chém được hơn 500 thủ cấp giặc,
bắt sống được rất nhiều. Quân Minh đóng cửa thành cố thủ. Dân cư
ngoài thành, bọn Lê Triện đều phủ dụ được cả. Bấy giờ người Thanh
Hóa tranh nhau đến cửa quân xin liều chết đánh giặc. Bèn bao vây
thành đó.
Vua Minh
băng, thọ 48 tuổi, miếu hiệu là Nhân Tông. Thái tử Minh là Chiêm Cơ
lên ngôi, đổi niên hiệu là Tuyên Đức, tức là Tuyên Tông. Các quan
phương diện và phủ, huyện, châu về chầu mừng.
Mùa thu,
tháng 7, vua dự đoán thành giặc ở các xứ Thuận Hóa, Tân B́nh đă từ
lâu không thông tin tức với Nghệ An và Đông Đô, bảo các tướng:
"Người
làm tướng giỏi ngày xưa bỏ chỗ rắn đánh chỗ mền, tránh chỗ mạnh đánh
chỗ yếu, như thế chỉ dùng một nữa sức mà nên công gấp đôi".
Bèn sai
Tư đồ Trần Hăn và Thượng tướng Lê Nỗ [18a] báo cho bọn Lê Đa Bồ đem
hơn 1000 quân và 1 thới voi ra đánh các thành Tân B́nh, Thuận Hoá và
chiêu dụ nhân dân.
Đến sông
Bố Chính1449 th́ gặp giặc Minh, bọn Hăn đưa quân vào chỗ hiểm yếu,
bí mật mai phục ở Hà Khương để nhử giặc. Tướng Minh là Nhậm Năng đem
hết quân tiến vào. Bọn Hăn hợp binh tượng c̣n lại để đánh rồi giả
cách thua chạy. Năng đuổi theo, quân mai phục đánh kẹp hai bên, giặc
Minh tan vỡ, bị chém đầu và chết đuối rất nhiều.
Bấy giờ,
quân của Hăn và Nỗ có ít mà quân giặc c̣n rất đông, đă sai người báo
gấp và xin thêm quân từ trước. Vua sai tiếp bọn Lê Ngân, Lê Bôi, Lê
Văn An đem 70 chiếc thuyền chiến vượt biển đến thẳng chổ đó. Đến khi
được tin thắng trân của Nỗ, liền thừa thắng đánh vào các xứ ở Tân
B́nh1450 , Thuận Hóa1451 . Quân và dân các nơi bị giặc chiếm đều quy
thuận. Quân Minh vào thành cố thủ. Thế là Thuận Hóa, Tân B́nh đều
thuộc về ta cả. Các tướng say tôn [18b] vua là "Đại thiên hành
hóa"1452 . Từ đó, các mệnh lệnh, dụ văn, phần nhiều lấy bốn chữ ấy
để xưng.
Bính Ngọ,
[1426], (Minh Tuyên Tông Chiên Cơ, Tuyên Đức năm thứ 1). Mùa xuân,
tháng giêng, Lễ bộ nhà Minh hạ lệnh mở khoa thi hương để chọn học
tṛ. Tổng binh và hai ty Bố chính và Án sát xin tạm ngừng. Lại xin
miễn lễ chầu hầu sang năm v́ địa phương chưa yên.
Mùa hạ,
tháng 5, vua Minh xuống chiếu rằng:
"Đạo lư
thống trị cốt ở yên dân, ḷng nhân xót thương, cũng nên tha tội.
Giao Chỉ từ khi sáp nhập vào bản đồ dến nay đă hai mươi năm, nhiều
lần gây chuyện phản nghịch, phải huy động tới quân của nhà vua.
Nhưng ghét chết, thích sống, ḷng người không ai khác ai, lội nước
vào lửa, bản tâm có ai muốn thế. Xét kỹ duyên do, đều bởi người có
chức trách đă không biết cách vỗ về, lại c̣n cướp bóc không hề biết
chán. T́nh cảnh kẻ dưới không thấu lên trên, ơn trạch người trên
không thấm xuống dưới. Đến nỗi dân chúng khốn khổ, nảy ḷng nghi
ngờ, trốn vào núi rừng, họp nhau làm loạn. Xét thực t́nh đều là do
bất đắc [19a] dĩ, nên xử tội cũng đáng được xót thương. Vậy ban ơn
mưa móc, cho đều được thấm nhuần. Những quan lại và quân dân Giao
Chỉ mắc tội phản nghịch và các tội khác, đă bị phát giác hay chưa bị
phát giác, đă được xét xử hay chưa được xét xử, kể từ ngày chiếu thư
này ban ra, không kể là tội lớn hay tội nhỏ, đều tha cho cả. Quân và
dân đất Giao Chỉ, nhoài việc nộp tiền thuế và lương thực ra, các
khoản trưng thu khác, cùng những việc đổi lấy vàng bạc, tiền đồng,
muối, sắt, hương liệu, thuế cá... đều lập tức đ́nh chỉ cả, cho phép
được trao đổi ở trong hạt với nhau, quan phủ kkông được cấm, làm như
vậy để tỏ ḷng thương dân của trẫm".
Mùa hạ,
tháng 6, có người đàn bà nghèo hèn ở trang Phao, huyện Đáy Giang mắc
bệnh hủi, bị chồng ruồng bỏ. Bỗng một hôm mụ gặp một cụ già trên
đường trao cho một ḥn đá nhỏ như quả trứng gà, băo mài nước bôi vào
chổ loét th́ khỏi ngay. Mụ làm theo như vậy, quả nhiên hỏi bệnh. Xa
gần nghe tin, nhiều người đem tiền lụa đến xin chữa cho [19b]. Mụ
ứng tiếp không xuể, chỉ lấy ḥn đá mài nước mà cho, gọi là nước bồ
tát. Người ta nối nhau trên đường, hỏi xin đă xin được nước đó chưa.
Việc bị phát giác, cả người và đá đều bị bắt đưa về giữ lại ở Tam
ty. Không bao lâu, quan quân tới, người đàn bà ấy mới được đưa về.
Kẻ thức giả cho rằng đó là điềm Lê Thái Tổ lấy được nước.
Mùa thu,
tháng 8, vua cho là quân tinh nhuệ của giặc đều ở Nghệ An cả, các xứ
Đông Đô của chúng nhất định suy yếu,bèn tăng thêm binh tượng, sai
bọn Khu mật đại sứ Phạm Văn Xảo, Thái úy Lê Triện, Thái gám Lê Khả,
Á hầu Lê Như Huân, Lê Bí đem hơn 3.000 quân 1 thớt voi đi tuần các
xứ Thiên Quan1453 , Quảng Oai, Quốc Oai, Gia Hưng1454 , Quy Hóa1455
, Đà Giang, Tam Đới1456 , Tuyên Quang để cắt đứt đường viện binh của
giặc từ Vân Nam sang; bọn thái úy Lê Bị, Thái giám Lê Khuyển [20a]
đem 2.000 quân và1 thớt voi đánh ra các xứ Khoái Châu1457 , Bắc
Giang, LẠng Giang để chặn viện binh từ Lưỡng Quảng tới; bọn Tư không
Lê Lễ và Lê Xí th́ đem tinh binh tiến sau đaể phô trương thanh thế.
Quân ta đi đến đâu, không mảy may xâm phạm của dân, chợ búa không
thay đổi hàng quán. V́ thế, các lộ ở Đông Đô và các xứ phiên trấn,
chỗ nào cũng vui mừng, tranh nhau mang trâu dê cơm rượu đến khao
quân lính và đều hưởng ứng vây đánh các thành giặc. Quân Minh chỉ
c̣n ngồi giữ để đợi viện binh mà thôi.
Ngày 12,
bọn Triện đem 3.000 quân tiến sát đến thành Đông Quan.
Quân MInh
thấy Triện mang quân trơ trọi từ xa tới, dốc hết quân ra đánh. Đến
các xứ Ninh Kiều1458 thuộc Ứng Thiên (nay là Chương Đức) th́ bọn Lê
Triện, Lê Khà, Lê Bí dốc sức quyết chiến, phá tan quân giặc, chém
được hơn 2.000 thủ cấp, rồi tiến quân đóng ở phía tây sông Ninh
Giang1459 .
Tham
tướng nhà Minh là Trần Trí cho là thành Đông Quan trơ trọi nguy hiểm
[20b] mới đắp thêm lũy, đào thêm hào, làm kế cố thủ, lại gởi thư cho
bọn Lư An, Phương Chính bảo bỏ thành Nghệ An về cứu đất căn bản1460
.
Tháng 9,
ngày 17, bọn Lư An, Phương Chính bỏ thành Nghệ An, vượt biể chạy về
ĐôngQuan, chỉ để Thái Phúc ở lại giữ thành Nghệ An. Vua tiến đánh
phía ngoài thành, phá được.
Vua liệu
tính thế giặc ngày một suy, quân ta ngày một mạnh, thời cơ đă đến mà
không hành động ngay sợ lỡ mất cơ hội, liền để bọn Lê Ngân, Lê Văn
An, Lê Bôi, Lê Điền, Lê Lĩnh, Lê Văn Linh, Lê Quốc Hưng ở lại đóng
dinh vây thành Nghệ An. Vua đích thân chỉ huy đại quân, ngày đêm đi
theo đường thủy, đường bộ tiến gấp đuổi theo bọn An, Chính.
Khi đến
thanh Tây Đô, vua đóng dinh ở Lỗi Giang, úy lạo tướng sĩ, ban thưởng
bô lăo trong làng và họ hàng cùng những người quen biết cũ theo thứ
bậc khác nhau. Bấy giờ nhân dân các huyện nghe tin vua [21a] đến
Thanh Hóa, đều hăng hái đến trước cửa quân, t́nh nguyện rong ruổi
theo hầu để lập chút công lao.
Ngày 20,
viên Đô ty Vương An Lăo ở Vân NAm của nhà Minh đem hơn1vạn việnbinh
đến cầu Xa Lộc1461 , lộ Tam Giang. Bọn Phạm Văn Xảo, Lê Khả đón đánh
phá tan giặc, chém hơn 1.000 thủ cấp, giặc chết đuối rất nhiều. Quân
giăc c̣n sót lại chạy vào thành Tam Giang.
Hôm ấy,
Lê Triện đánh nhau với quân Minh ở cầu Nhân Mục1462 , chém hơn một
ngh́n thủ cấp giặc, bắt được tên Đô ty nhà Minh là Vi Lượng1463 .
Mùa đông,
tháng 10, nhà Minh sai bọn Tổng binh Thành Sơn hầu Vương Thông và
Tham tướng Mă Anh đem 5 vạn quân, 5 ngh́n ngựa chia đường sang cứu
viện các thành Đồng Đô. Một vạn quân Vân Nam tiến trước, thẳng đến
Tam Giang1464 , thuận ḍng mà xuống. Bọn Lê Khả nghe tin giặc [21b]
đến, từ Ninh Kiều hành quân cấp tốc, gặp giặc ở cầu Xa Lộc, đón đánh
bại quân giặc.
Ngày mồng
6, bọn Vương Thông nhà Minh đem các quân mới cũ gồm hơn 10 vạn tên,
chia làm ba đường đánh vào quân ta.
Vương
Thông từ Khâu Ôn tới, qua cầu Tây Dương1465 , đóng quân ở bến Cổ
Sở1466 , làm cầu phao cho quân qua sông. Phương Chính tiến từ cầu
Yên Quyết1467 , đóng quân ở cầu Sa Đôi1468 . Sơn Thọ và Mă Kỳ tiến
từ cầu Nhân Mục, đóng quân ở cầu Thanh Oai1469 . Quân giặc dàn doanh
trại liền nhau đến vài mươi dặm, cờ xí rợp đồng, giáo mác rực trời,
tự cho là đánh một trận là bắt hết được quân ta.
Bọn Lê
Triện, Lê Bí mai phục binh tượng ở đồng Cổ Lăm1470 , cho du binh nhử
đánh vào doanh quân Thọ, Kỳ rồi giả vờ thua chạy. Quân Minh đuổi
theo, khi qua bờ cầu Tam La1471 , chổ ấy ruộng nước, bùn lầy, quân
mai phục của ta nổi dậy đánh tạt ngang vào bọn giặc. Quân giặc bị sa
lầy. Ta chém hơn một ngh́n thủ cấp, đuổi tận đến cầu Nhân Mục. Xác
giặc phơi ngổn ngang đến vài [22a] mươi dặm, ta bắt sống hơn 500
tên. Bọn Triện định đánh chặn hậu doanh của Phương Chính, nhưng
Chính đă rút đi rồi. Trời tối, bèn thu quân về.
Ngày mồng
7, bọn Lê Triện đánh Vương Thông ở các trại ngoài Cổ Sở.
Bấy giờ,
giặc đă phục binh sẵn, đan tra làm lá chắn, bên trong gài chông sắt,
giả cách vứt lá chắn bỏ chạy. Voi của ta giẫm lên, trúng phải chông
sắt, quân ta thất lợi, phải tạm lui. Bọn Triện tự liệu không thể
chặn được mới phá hủy doanh trại cũ, thu quân giữ nơi hiểm yếu, cáo
cấp trước với bọn Lê Lễ, Lê Chiến, Lê Xí.
Lúc ấy,
bọn Lễ đă bí mật mai phục tinh binh ở Thanh Đàm1472 để đợi giặc,
được tin báo của Triện, bèn đang đêm đem hơn 3 ngh́n quân tinh nhuệ
và 2 thớt voi đến dứu, hội quân ở Cao Bộ1473 , chia quân phục sẵn ở
các chổ hiểm yếu. Nhân bắt được gián điệp của giặc, tra hỏi biết
được giặc định đặt súng phía sau quân ta.
[22bb] Lễ
và triện dùng luôn kế của giặc để đánh giặc, hạ lệnh cho các quân
nghe tiếng súng nổ vẫn nằm im không được nhúc nhích. Giặc cho là
không có quân, đi theo đường tắt tới, nổ súng rối đem toàn bộ quân
tiến sâu vào.
Đến cách
sông Yên Duyệt1474 vài dặm th́ phụd binh ta ba mặt đều xông lên,
hăng hái đánh vào các xứ Tốt Động1475 , Chúc Động1476 , phá tan quân
giặc1477 , chém được thượng thư Trần Hiệp, Nội quan Lư Lượng và 5
vạn quân giặc. Giặc chết đuối rất nhiều, nước sông ở Ninh Kiều do
vậy mà tắc nghẽn. Bắt sống hơn 1 vạn tên giặc, thu được ngựa, quân
tư, khí giới, xe cộ nhiều không kể xiết. Phương Chính theo đường bến
Cổ Sở trốn về. BọnVương Thông, Mă Kỳ chỉ thoát được thân, chạy về
thành Đông Quan.
Tin thắng
trận báo về hành dinh ở Lỗi Giang. Bấy giờ, vua đương đóng quân ở
Thanh Hóa, hội các quân ở Hải Tây, nhận được thư báo thắng trận của
bọn Lê Lễ, bèn đích thân dẫn đại quan [23a] và 20 thớt voi chia hai
đường thủy, lục ngày đêm đi gấp.
Ngày 11,
tới sông Lũng Giang1478 đóng dinh, các tướng tới đón mừng.
Tri châu
phủ Chính B́nh là Hà Trung bị vua bắt, giết chết.
Bọn Vương
Thông nhà Minh v́ bị thua ở Tốt Động, quân khí cơ hồ mất sạch, bèn
phá chuông Quy Điền và vạc Phổ Minh1479 để làm súng đạn, hỏa khí.
Sau khi Trần Hiệp chết, Hữu bố chính sứ Dặc Khiêm giữ ấn của Bố
chính ty, án sát sứ Dương Th́ Tập giữ ấn của Án sát ty, Đô đốc thiêm
sự Trần Duệ giữ ấn của Đô ty. Từ đó, lịch chính sóc1480 của nhà Minh
không được thi hành ở các quận huyện nước ta nữa.
Ngày 22,
vua tiền quân đến Tây Phù Liệt1481 .
Ngày 23,
vua sai bọn Trần Hăn, Lê Bị đem hơn trăm chiếc thuyền thủy quân,
ngược ḍng sông Đại Lũng ra cửa sông Hát, rồi thuận [23b] ḍng xuôi
đến bến Đông Bộ Đầu sông Lô1482 , bọn Lê Lễ đem hơn 1 vạn quân bộ bí
mật tiến đến cầu Tây Dương. Vua đích thân dẫn binh tượng đến cửa Nam
ngoài thành Đại La để đánh thành Đông Quan.
Đến đêm,
hồi canh ba, quân bốn mặt đánh ập vào, phóng lửa đốt các nhà ở ngoài
thành, khói lửa mù mịt đầy trời. Các doanh quân đóng ngoài thành của
Phương Chính tranh nhau chạy vào cửa thành xác chết gối lên nhau. Ta
bắt hết những người trong nước buộc phải theo giặc và hơn trăm chiến
thuyền cùng rất nhiều khí giới, nghi trượng. Giặc biết là quân dân
các vùng gần đó đều theo về ta cả, thế là mỗi ngày một cùng quẫn,
lại đắp thêm tường lũy, liều chết cố thủ, để đợi viện binh.
Vua dời
ra đóng dinh ở Đông Phù Liệt1483 .
Khi vua
mới tới thành Đông Đô, những hào kiệt ở kinh lộ và nhân dân các phủ
huyện cùng các tù trưởng ở biên trấn đều tấp nập kéo đến cửa quân,
xin hết sức liều chết đánh thành giặc ở các xứ. Vua biểu dương [24a]
ḷng thành của họ, phủ dụ, úy lạo, báo cho họ biết lẽ bỏ nghịch theo
thuận. Từ kẻ sĩ tới dân chúng, hễ ai đến quân doanh, vua đều dùng
lời lẽ khiêm tốn, dùng nghi lễ trang trọng để tiếp đăi, rồi tùy theo
tài năng hơn hay kém của từng người để bố trí các chức vụ khác nhau.
Lấy ban thưởng để khích lệ khiến người người đều hăng hái, dùng h́nh
phạt mà răn đe, nên ai ai cũng giữ ǵn. V́ vậy, mọi người đều cảm
kích mong được dốc trọn sức ḿnh, quân đi đến đâu là thành công đến
đấy.
Vua chia
các lộ trấn ở Đông Đô thành bốn đạo1484 . Đặt quan lại văn vơ trong
ngoài và tuần kiểm ở các cứ cửa biển để khám xét những người qua lại
và bắt bọn nguỵ quan, bọn phản bội, bọn ngang ngạnh không chịu cải
hóa, bọn ăn ở hai ḷng, bọn mang thư chạy về phương Bắc.
Lại dụ
những người có tài văn chương mà chưa được nhận chức, nếu ai viết
thư dụ được người thành Đông Quan, khiến họ mở cửa thành ra hàng và
giảng ḥa về nước, [24b] th́ sẽ được thăng chức vượt cấp.
Lại ra
lệnh tịch thu vợ con, nô tỳ sản nghiệp của bọn ngụy quan nộp lên,
c̣n thóc lúa của chúng th́ vẫn để ở bản xứ để đợi cung cấp cho quân
đội.
Mùa đông,
tháng 11, vua t́m được Trần Cảo lập làm vua.
Trước đó,
có người tên là Hồ Ông, là con một người ăn xin, trốn theo Cầm Quư,
giả xưng con cháu họ Trần.
Bấy giờ
người trong nước khổ về chính lệnh hà khắc của giặc, mong có người
làm chủ, mà vua th́ gấp việc diệt giặc cứu dân, nên sai người đón
lập Cảo cho xong việd việc quyền nghi nhất thời, mà cũng muốn mượn
cớ để trả lời nhà Minh để họ tin.
Đặt niên
hiệu là Thiên Khánh, sai Tả bộc xạ Lê Quốc Hưng dạy cho, nhưng thực
ra là để coi giữ. Cảo trước đóng dinh ở núi Không Lộ1485 , sau dời
về Vũ Ninh1486 .
Tháng 12,
cấm chặt phá hoa quả, cây cối và cướp bóc của dân.
[25a] Vua
thân đốc suất tướng sĩ ngày đêm đánh Đông Đô.
Bọn Vương
Thông, Sơn Thọ nhà Minh hễ đánh là thua, chán nản lo sợ, mưu kế đă
cùng, viện binh không có, t́nh thế ngày một khốn quẫn, bèn sai người
đưa thư xin ḥa, mong được toàn quân trở về nước. Vua nói:
"Câu đó
đúng hợp ư ta. Vả lại, binh pháp không đánh mà khuất phục được quân
của người là kế hay hơn cả."
Bèn bằng
ḷng cho giảng ḥa, hẹn ngày kíp gọi quân sĩ ở các thành cùng một
lúc về tập hợp ở thành Đông Quan để cho về nước cả. Sai cận thần
trao đổi với quân Minh, cho phép họ được đi lại, mua bán không khác
ǵ dân thường.
Bấy giờ,
bọn nguỵ Đô ty Trần Phong1487 , Tham chính Lương Nhữ Hốt1483 Đô chỉ
huy Trần An Vinh, đă bán nước làm quan to cho giăc, sợ sau khi giặc
rút về, chúng sẽ hết đường sống sót, bèn ngấm ngầm làm kế phản gián,
bảo [người Minh] rằng:
"Trước
kia Ô Mă Nhi bị thua ở sông Bạch Đằng, đem quân về hàng. Hưng Đạo
[25b] Đại Vương cho hàng, nhưng dùng mưu lấy thuyền lớn cho đưa họ
về nước, rối cho người giỏi bơi lặn sung làm phu thuyền. Ra đến
ngoài biển, lừa lúc ban đêm mọi người ngủ say, bọn phu thuyền lặn
xuống nước, dùi đủng đáy thuyền, những người đầu hàng đều bị chết
đuối hết, không một ai sống sót trở về được".
Bọn Thông
tin lời, đem ḷng ngờ vực, lại nảy ư khác, đắp thêm tầng lũy kép
hào, thả chông để làm kế tạm bợ, ngoài mặt nói hoà hiếu, nhưng ngấm
ngầm bày mưu tính kế. Chúng bí mật sai mấy chục boọn mang thư bọc
sáp đi lối tắt về xin viện binh. Vua bắt được người mang thư, ghét
bọn chúng tráo trở, bèn bí mật phục quân ở bốn phía quanh thành Đông
Quan, đón giặc ra vào , bắt được hơn 3 ngh́n tên ḍ thám, hơn 5 trăm
con ngựa. Từ đấy, quân Minh đóng chặt cửa thành không ra, sứ qua lại
cũng dứt.
Vua sai
các tướng chia quân đi đánh các thành: Quốc Hưng đánh hai thành Điêu
Diêu1489 , và Thị Cầu1490 ; [26a] Lê Khả và Lê Khuyển đánh thành Tam
Giang1491 ; Lê Sát, Lê Thụ, Lê Lư, Lê Lănh và Lê Triện đánh thành
Xương Giang1492 ; Lê Lựu và Lê Bôi đánh thành Khâu Ôn1493 .
Ngày 20,
đặt chức an phủ sứ các lộ. Lấy bọn Đào Công Soạn, Nguyễn Dực 24
người làm chức đó. Đặt chức viên ngoại lang của Lục bộ, lấy bọn
Nguyễn Công Vĩ 6 người làm chức ấy.
Đinh Mùi,
[1247], (Minh Tuyên Đức năm thứ 2). Mùa xuân, tháng giêng, vua tiến
quân sang bờ bắc sông Lô, đối lũy với thành Đông Quan. Bọn Thiếu úy
Lê Khả giữ cửa Đông, Tư đồ Lê Lễ giữ cửa Nam, Thái giám Lê Chửng đem
hai vệ Thiết đột là bọn Nghi Phúc giữ cửa Tây, Thiếu úy Lê Triện đem
quân hai vệ giữ cửa Bắc, vây đánh thành Đông Quan.
Sơn Thọ
nhà Minh sai bọn thông sự Nguyễn Nhậm gồm 3 người sang thông tin
tức.
Ban chức
hỏa thủ1494 cho quân các lộ theo thứ bậc khác nhau.
[26b] SAi
Dương Thái Nhất sửa lại đền thờ Hưng Đạo Đại Vương, cấm không được
chặt cây cối ở các đền miếu.
Hạ lệnh
cho lộ An Bang nộp gỗ cọc và tên tre.
Bổ thuộc
lại Hàn lâm viện và bốn đạo gồm 515 người.
Hạ lệnh
cho các lộ, trấn chứa lương ở các thành Xương Giang và Tam Giang để
cấp cho quân.
Hạ lệnh
cho các tướng hiệu, các quan lộ t́m hỏi những người có tài lược, trí
dũng, làm nổi các chức quan trọng như Tư mă, Thượng tướng, mỗi viên
tiến cử lấy một người.
Hạ lệnh
cho nhân dân dâng thóc cung cấp cho quân sĩ. Ai tiến thóc được
thưởng tước tùy theo mức độ khác nhau.
Quân Minh
ở Nghệ An và Diễn Châu1495 ra hàng.
Vũ Cự
Luyện người huyện Đường An và Đoàn Lộ người huyện Cổ Phí dâng kế
sách đánh thành và các kiểu chiến bằng, xe phần ôn, xe phi mă1488 .
Sai các tướng theo các kiểu ấy mà làm.
Hạ lệnh
cho các xứ thờ cúng đền miếu các công thần.
Sai viên
bách bộ nhà Minh là Hà Vương đem thư vào thành Đông Quan.
Sai bọn
Tuyên Quang Tư mă Lương Thế Vĩnh và [27a] Đề đốc phụ đạo Ma Tông Kế
đóng thuyền chiến.
Hạ lệnh
cho viên Tổng tri coi việc quân dân Lạng Sơn và An Bang là Nhập nội
thiếu bảo Lê Lựu đem quân đi đánh giặc, cho quyền tiền trảm hậu tấu.
Lấy Hàn
lâm viện thừa chỉ học sĩ Nguyễn Trăi làm Triều liệt đại phu, Nhập
nội hành khiển, Lại bộ thượng thư kiêm hành Khu mật viện sự.
Bấy giờ,
vua dựng lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề trên bờ sông Lô1497 . (Khi ấy,
có hai cây bồ đề ở trong dinh, nên gọi là dinh Bồ Đề), cao bằng tháp
Báo Thiên, hằng ngày vua ngự trên lầu nh́n vào thành để quan sát mọi
hành vi của giặc, cho Trăi ngồi hầu ở tầng hai, nhận lệnh soạn thảo
thư từ qua lại.
Ngày 13,
bọn Lê Lựu, Lê Bôi ngày đêm đánh gấp thành Khâu Ôn. Quân Minh tự
lượng chống đỡ không nổi, đang đêm bỏ thành chạy trốn.
Giết Tư
mă [27b] Lê Lai, tịch thu gia sản, v́ Lai cậy có chiến công, nói
năng khinh mạn.
Chém
Thiên hộ Lư Vân và ṭng nhân Bùi Vĩnh v́ chở trộm mắm muối vào thành
Chí Linh1498 .
Hạ lệnh
kiểm kê quân khí, người nào để thiếu th́ xử tội theo quân pháp.
Hạ lệnh
cho Thái Nguyên và Lạng Sơn nộp vỏ gai.
Hạ lệnh
cho Tư mă Cao Ngự tổng chỉ huy trấn Thiên Quan vây thành Cổ Lộng.
Cho phép xử tội phải tâu trước rồi sau mới được trị tội.
Hạ lệnh
cho huyện tân Phúc mở ḷ rèn đồ sắt.
Hạ lệnh
cho thiếu úy Lê Vân đóng ở cửa Đông thành Đông Quan; Tư không Lê Lễ,
Thiếu úy Lê Sát, Lê Lư, Lê Lỗi, Lê Chích đóng ở cửa Nam; Thiếu úy Lê
Bị, Thái giám Lê Nguyễn, Chấp lệnh Lê Chửng đem ba vệ Thiết đột đóng
ở cửa Tây; thiếu úy Lê Triện, Lê Văn An đem 14 vệ quân đóng ở cửa
Bắc. Hạ lệnh cho các lộ Tam Giang, Tam Đái, Tuyên Quyên, Quy Hóa
[28a] nộp luồng vầu làm thành dưới nước, dựa vào bờ bắc sông Nhị,
cao ngang với thành Đông Quan.
Bọn Chỉ
huy Trương Lân và Tri phủ Trần Vân ở thành Điêu Diêu ra hàng.
Chế súng
Cổn dương, ra lệnh cho các tướng theo kiểu đó mà làm.
Hạ lệnh
cho người trong nước, ai có cha mẹ, vợ con, anh em, nô t́, thân
thích theo giặc ở trong thành cho tự nguyện lên thành1499 , khi phá
được thành sẽ cho nhận đem về. Nếu không tự nguyện lên thành mà
tranh nhau nhận về đoàn tụ th́ phải xử theo quân luật.
Ra lệnh
cho phụ đạo các xứ nhận các chức Thủ ngự, Đoàn luyện, tước trung
phẩm.
Tháng 2,
ngày mồng 7, Phương Chính ngầm đem quân đánh úp Cảo Động1500 , huyện
Từ Liêm, Triện có sức đánh lại, bị tử trận, Bí bị giặc bắt sống.
(Sau giặc về nước, lấy lễ trả Bí về).
Ngày 19,
quân Minh đánh vào Bài Sa Đôi, huyện Từ Liêm. Quân ta cố thủ quyết
chiến, binh khí hết sạch, dùng mảnh nồi [28b] chơ, chum vại ném vào
giặc. Giặc không tiến vào được, liền phá nhà cửa của dân để đánh hỏa
công. Hôm ấy, gió rét lửa nóng, quân ta tránh lửa vượt sang sông, có
nhiều người bị chết đuối. Chỉ có những quân lính ở Thiên Quan không
biết bơi, ở lại tử chiến với giặc, giặc lại thua chạy.
Người
Minh giữ thành Thị Cầu là Đường Bảo Trinh ra hàng.
Sai viên
chỉ huy họ Tăng đă đầu hàng, theo Nguyễn Trăi đi chiêu dụ thành Tam
Giang.
Sứ Chiêm
Thành sang cống. Ban yến, cho ngựa và lụa bảo về. Sai Thiêm tri khu
mật Hà Luật cùng đi với họ.
Hạ lệnh
thưởng công cho các tướng hiệu bắt đầu từ việc lập công mới: đại
thần đến thiếu úy có công lao lớn, được thưởng phù vàng th́ được ăn
lộc một quận; chức chấp lệnh mà có công th́ được ăn lộc một cấp; các
đốc tướng, quân nhân có công cũng được ăn lộc một quân hay một ấp
theo thứ bậc khác nhau. Người nào không có công, không được thưởng
ǵ đều phải giáng làm dân thường.
Xuống
chiếu rằng: [29a] Các lăng miếu của triều trước, nơi nào bị giặc phá
hoại th́ làm lại, cấp cho số người giữ việc thờ cúng theo thứ bậc
khác nhau.
Tháng 3,
vua duyệt binh ở Vĩnh Động1501 . Chánh đốc Nguyễn Liên để hàng ngũ
trống thiếu, vũ khí không đủ, bị chém để rao trong quân.
Lấy Bùi Ư
Đài là Lễ bộ thượng thư kiêm tri Đông đạo quân dân tịch hạ.
Hạ lệnh
cho ba quân, người nào có thể liều ḿnh v́ nước, tinh thông vơ nghệ,
khỏe mạnh dũng cảm, không kể sống chết, đều được cấp văn bằng và
tuyển vào làm thị vệ ở nội phủ.
Tháng 6,
bọn Chỉ huy sứ Lưu Thanh ở thành Tam Giang ra hàng.
Trước
đây, quân lính ở thanh Tam Giang theo sự điều động của quan Tổng
binh nhà Minh đi đánh vua ở Thanh Hóa, bị thua trở về, có tên ngụy
binh buông lời khinh mạn vua. Thanh mắng nó: "Thằng man vô lễ, ông
ấy1502 sẽ là [29b] hoàng đế của chúng mày đấy:. Đến đây th́ ra hàng.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Vua nổi dậy, nghĩa binh đi đến đâu, quân Mnh đều
thua chạy, coa phải v́ ta nhiều địch ít, ta mạnh địch yếu mà chúng
không chống nổi đâu? Là v́ đức của vua là hợp với lẽ trời, nên trời
giúp cho, làm đẹp ḷng người nên người theo về, không những là người
nước ta vui vẻ thuận phục, mà cả đến bọn phản nghịch cũng tôn kính
như vậy, nên chúng không c̣n chí chiến đấu và đều ra hàng là phải
lắm! Thế th́ việc dấy quân nhân nghĩa của vua có những chổ rực rỡ
hơn so với Thang Vũ, mà qua việc này lại càng nổi bậc. C̣n như cái
điềm được nước1503 th́ đâu có thể dùng thuyết sấm vĩ mà xét được?.
Hơn 1 vạn
quân Minh đầu hàng trong các thành âm mưu làm phản bị giết . Thành
Tam Giang không nằm trong số đó.
Trước đó,
[30a] ngày mồng 9, Tư không Lê Lễ, thượng tướng quân Lê Xí đánh nhau
với quân Minh ở My Động (nay là Hoàng Mai)1504 . Lễ tử trận.
Hôm ấy,
Vương Thông đem quân tinh nhuệ trong thành ra đánh Thái giám Lê
Nguyễn ở Tây Phù Liệt. Nguyễn giữ vững thành lũy chống lại. Vua vội
sai Lê Lễ, Lê Xí đem hơn 500 quân Thiết đột đến đánh , đuổi giặc tới
My Động. Vương Thông thấy Lễ ít quân, mới đánh kẹp vào. Lễ và Xí
cưỡi voi cố sức đánh, voi sa lầy, bị quân Minh bắt sống đem vào
thành Đông Quan. Lễ không chịu khuất phục, bị giết
chết. Xí
về sau nhân đêm mưa gió, dùng mẹo đánh lừa tên canh giữ, chạy thoát
về, ra mắt vua ở dinh Bồ Đề. Vua kêu lên: "Sống lại":
Trước
kia, mỗi lần Lễ ra trận, vua thường răn chớ nên khinh địch. Đến khi
thắng trận ở Tốt Động, mọi người đều khen Lễ là giỏi. Vua nói: "
Trăm trận đánh được cả trăm không phải là điều hay cả đâu. Hắn cậy
quân tinh [30b] quen mui được luôn, thất bại có thể đứng mà chờ
đó!".
Đến đây
quả nhiên như vậy:
Sử thần
Ngô Sĩ Liên nói: Khuất Hà quen mùi thắng trận ở Bồ Tao đến nỗi bị
bại vong1505 , đó là quân tàn bạo, bị cô lập, đi xâm chiếm nước nhỏ.
Lê Lễ quen thói đánh được ở Tốt Động, cũng v́ thế mà bại vong, nhưng
là quân khảng kkhái phục thù. Tuy hai người đều thất bại như nhau,
nhưng ư nghĩ lại rất khác. Cho nên tướng giỏi thời ấy, th́ Lễ và
Triện xứng đáng đứng đầu.
Lấy thông
hầu Lê Nhân Chú làm Hành quân đốc quản nhập nội đại tư mă, lĩnh
Tiền, Hậu, Tả, Hữu tứ vệ, kiêm tri Tân vệ quân sự.
Hạ lệnh
cho tướng hiệu và quân nhân các lộ Quốc Oai và Tam Đái rằng:
Kẻ nào
thấy thư của giặc dụ dỗ, phỉnh phờ, đe doạ mà lén tŕnh riêng với
tướng của ḿnh th́ bị chém, các viên đốc tướng không biết giám sát
cũng xử tội như vậy. Kẻ nào lừa gạt, mê hoặc các châu huyện th́ bắt
giải tới quan [31a] môn để chém.
Chia bọn
quan lại nhà Minh đă đầu hàng cho ở các xứ Thanh Hóa, Nghệ An, Lam
Ấp1506 , Tân B́nh.
Hạ lệnh
cho các lộ tiến cử những người hiền tài, chính trực, trí dũng anh
kiệt, cho gọi tới trả lời các câu hỏi, rồi cất nhắc sử dụng. Ai che
dấu th́ bị xử tội truất giáng.
Hạ lệnh
cho bọn Thiếu úy, Chấp lệnh, TỔng giám rằng:
Ngày
thường quân nhân phạm pháp th́ không được tự ư giết chết. Khi ra
trận mà kẻ nào traái lệnh th́ cho phép chém trước tâu sau.
Ngày 19,
thành Thị Cầu ra hàng.
Vua hạ
lệnh rằng: Người nào có vợ con, anh em trước bị giặc ở các thành
cướp bắt làm thê thiếp hoặc nô tỳ cho chúng, nay ta đă chiêu hàng,
các ngươi hăy kéo nhau đến thành Đông Quan. Nếu chém được thủ cấp
giặc, th́ ta trả lại vợ con anh em cho, lại c̣n thưởng tước, thăng
cấp theo thứ bậc khác nhau.
Cấm những
kẻ xưng là đồng cốt, tà đạo, mượn tiếng ma quỷ, thần thánh, gieo rắc
hoang mang, bịa đặt mê hoặc ḷng người.
Hạ lệnh
[31b] cho dân phiêu bạt trở về quê quán cày cấy. Người nào không có
điền sản th́ cho phép buôn bán. Kẻ nào bỏ nghề nghiệp th́ bị xử tội
nặng.
Sai Chu
Sài là người Minh đầu hàng đem 340 con ngựa đến châu Hóa để chăn
nuôi.
Diễn tập
thủy trận.
Sai các
viên Thiếu úy tuyển chọn con em những nhà giàu có trong dân, vóc
người cường tráng to lớn, vơ nghệ tinh thông, khỏe mạnh dũng cảm,
mỗi viên chọn lấy 200 người, bổ làm quân thị vệ, kẻ nào hèn nhát th́
không lấy.
Cấm chở
mắm, muối qua cửa ải Bạch Lâm, v́ tên Đào Quư Khách thông đồng với
giặc.
Tháng ấy,
nhà Minh sai An Viễn hầu Liễu Thăng đem quân sang xâm lược, lấy Binh
bộ thượng thư Lư Khánh làm Tham tán quân vụ.
Bấy giờ
Trần Hiệp đă bị thua chết, Thành Sơn hầu Vương Thông tâu xin thêm
quân. Nhà Minh sai bọn Thăng đem 7b vạn quân sang và ra lệnh cho
Khánh cử các thuộc viên có tài lược của lục khanh [32a] cho đi theo
để giúp ḿnh, Khánh tâu cả bọn Trần Dung trở xuống, gồm hơn 10 người
cùng đi.
Mùa hạ,
tháng 4, sai pḥng ngự sứ Trần Ban đôn đốc tu sửa ải Lê Hoa1507 .
Vua nói:
"Ta không có tài dũng, trí tuệ, một ḿnh gánh vác công việc nặng nề,
sợ không làm nổi, cho nên phải nhún ḿnh cầu hiền, dốc ḷng trọng
sĩ, cùng mưu việc lớn, để cứu vớt sinh dân. Ai tiến cử được người
mưu trí dũng lược hơn người, hoặc người nào tự tiến cử ḿnh th́ đều
làm quan cao, tước trọng".
Phong
Đinh Liệt là em Lê Lễ làm Nhập nội thiếu úy Á hầu. Các vợ lẽ của Lễ
là bọn Hà Ngọc Dung 5 người đều phong làm Tông cơ, để đền công Lễ
chết v́ nước.
Cho Lê Ba
Lao làm Quan sát sứ, tước Thượng phẩm, cấp cho 100 mẫu ruộng v́ con
là Triện nhiều lần đánh bại giặc mạnh, lập chiến công lớn, chết v́
việc nước. Cho con Triện là Lăng làm Pḥng ngự sứ, tước Thượng trí
tự [32b]. Trước Phục hầu và cho 2 con ngựa.
Hạ lệnh
rằng người nào bắt được bọn to lớn khỏe mạnh mà chưa vào sổ quân
dân, bọn du thủ thực, không chịu sai dịch, đưa đến cửa quân, th́
được thưởng trước 1 tư.
Hạ lệnh
dụ bảo các tướng hiệu và quân nhân thuộc 14 vệ Thiết đột rằng: "Có
thể đồng ḷng liều chết đánh tan quân giặc là sức của các ngươi, c̣n
xếp đặt lo toan, áo cơm khen thưởng là do ở ta. Bọn các ngươi chớ
ngại khó nhọc, chớ lo nghèo túng. Bao giờ thấy vợ con ta nghèo túng
th́ vợ con các ngươi mới nghèo túng. Mongcác ngươi một ḷng đánh
giặc, chớ nảy lo phiền".
Hạ lệnh
cho các tướng hiệu và quân nhân các xứ Nghệ An, Tân B́nh, Thuận Hóa
rằng:
"Ta khởi
binh ở đất các ngươi, đă gần thành công. Mong các ngươi trước sau
một ḷng, vàng đá một tiết, để trọn nghĩa vua tôi, cha con. Ta biết
các ngươi đều là hiền sĩ của đất nước [33a]. Trước kia, Hưng Khánh,
Trùng Quang1508 chỉ có tiếng hăo, không nên công ǵ là bởi chính
lệnh không thống nhất, đại thần không được biết ǵ. Bọn các ngươi
chỉ uổng phí sức lực cho họ thôi. Nay thiên hạ về một mối, ta cùng
các ngươi như nghĩa cha con, mong các ngươi dốc ḷng khôi phục lănh
thổ nước nhà. Từ xưa các tướng văn tướng vơ được phong hầu cũng chỉ
như các ngươi thôi, có khác ǵ đâu. Các ngươi hăy chỉnh đốn đội ngũ
của ḿnh, luyện tập quân sĩ của ḿnh, sau khi dẹp yên bọn giặc tàn
bạo, sẽ chia một nửa số người về làm ruộng. Nay trời mượn tay ta
diệt giặc, việc không đừng được. Kẻ nào theo lệnh ta th́ phá được
giặc, vẫn sống mà lại có công, kẻ nào không theo lệnh ta th́ chết mà
chẳng được việc ǵ! Mỗi đội đều phải chép lại một bản lệnh này, mỗi
ngày đọc đi đọc lại nhiều lần cho quân lính được biết".
Hạ lệnh
cho các tướng và quân nhân rằng:
Giặc Minh
tàn hại dân ta đă hơn hai chục năm. Buổi đầu số quân của ta có mấy
trăm1509 người. Hiện nay có [33b] 35 vạn. Đợi khi phá được thành
Đông Quan, sẽ cho 25 vạn người về nhà làm ruộng, chỉ để lại 10 vạn
làm quân để đề pḥng việc nước. Một nhà 3 người th́ 1 người làm
quân, mọi loại phú dịch đều tha cho 3 năm. Lại nêu 10 điều quân luật
cho các tướng hiệu và quân nhân:
1-Làm
huyên náo trong quân.
2-Gây
kinh động hăo, bịa điều họa phúc làm dao động ḷng quân.
3-Khi ra
trận, nghe tiếng trống, thấy cờ hiệu mà giả cách không nghe, không
thấy, dùng dằng không tiến.
4-Khi ra
trận, trông thấy cờ dừng quân, nghe thanh la dừng quân mà không đứng
lại.
5-Nghe
tiếng chiêng lui quân mà cưỡng lại không lui.
6-Canh
pḥng túc trực không siêng, hoặc ngủ say bỏ canh, bỏ hàng ngũ ngầm
trốn về.
7-Đắm
đuối nữ sắc,lén lút thả riêng cho người họ nhà vợ không làm quân
dịch.
8-Thả
quân lính để lấy tiền và che dấu không biên vào sổ quân.
9-Theo
thói ưa ghét của riêng ḿnh [34a] mà đảo lộn công tội của người.
10-Bất
hoà với mọi người, gian ác, trộm cắp.
Mười điều
trên đây, kẻ nào phạm phải đều bị chém.
Lấy Thiếu
bảo Lê Văn An làm Tổng tri, coi các việc quân của Quốc Oai Thượng,
Quốc Oai Trung, Tam Đái, Quảng Oai, và lệnh cho rằng: Nếu có viên
chấp lệnh hay giám quan nào không theo quyền tiết chế của ngươi th́
chém trước tâu sau.
Lấy 3
điều răn bảo các quan văn vơ:
1- Chớ
thờ ơ.
2- Chớ
lừa dối.
3-Chớ
tham lam.
Dụ các
hào kiệt trong nước rằng:
"Các
thành đă phá được rồi, chỉ c̣n thành Đông Quan chưa hạ được. Ta v́
thế mà nằm không yên chiếu, ăn không ngon miệng, sớm khuya suy nghĩ,
khô héo ruột gan. Thế mà bên cạnh ta, vẫn chưa có được người giúp
đỡ. Ta tuy là chủ tướng, nhưng xét lại bản thân ḿnh một là già ốm,
[34b] bất tài, hai là học thức nông cạn, ba là trách nhiệm nặng nề
khó bề kham nổi, mà các đại thần như tả, hữu tướng quốc, thái phó,
thái bảo vẫn chưa đặt, thái úy, đô nguyên soái vẫn c̣n khuyết, hành
khiển và các quan, mười phần mới được một, hai phần. Cho nên, ta
nhún ḿnh thành thực khuyên bảo các hào kiệt cùng nhau dốc sức, cứu
giúp muôn dân, chớ có mai danh ẩn tích, để thiên hạ phải lầm than
măi măi. Nếu có ai khí tiết thanh cao như Tứ Hạo1510 , lánh đời ẩn
tích như Tử Pḥng1511 cũng hăy ra cứu nạn cho dân đă, đợi khi thành
công, muốn thoả chí xưa th́ lại trở về rừng núi, không hề cấm giữ".
Hạ lệnh
rằng: Khi sai phái thuộc hạ dưới quyền, đều phải cấp giấy tờ có đóng
dấu phải kư họ tên quan phụ trách và ghi rơ số người đi là bao
nhiêu, đến chỗ nào, làm việc ǵ, hạn định ngày nào phải về dinh,
không được đi lại tự do. Quan phụ trách và người dười quyền nếu
không tuân lệnh này [35a] th́ tùy tội nặng nhẹ, mà xử giáng cấp,
phạt trượng, chặt chân, hay chém đầu. Nếu xét được t́nh trạng bọn
giặc móc nối với nhau th́ có trọng thưởng.
Cấm không
được trao đổi mắm muối với Cầm Lạn.
Hạ lệnh
cho những nơi trọng yếu phải canh giữ cho nghiêm, xét hỏi kỹ những
người lạ mặt và thư từ về việc quân qua biên giới xem có thực hay là
giả.
Tháng 5,
hạ lệnh cho các tướng hiệu lớn nhỏ phải làm tờ khai, cam kết không
gian tham nhận của đút lót, không lấy vợ người bản lộ, không chiếm
giữ người họ hàng của quân lính để sai khiến riêng.
Hạ lệnh
tiếp tục nộp những văn bằng, giấy khám hợp và ấn tín đă nhận trong
thời giặc Ngô.
Nguyễn Tử
Hoan ở huyện Bố Chính dâng kế sách hợp ư vua, được trao chức Quân
sư.
Hạ lệnh
rằng, các tăng đạo phụ lăo người nào đón tiếp quan quân nhiều lần
th́ quan ở lộ điều tra xem, nếu quả có đức hạnh, tuổi già th́ cấp
cho quan tước.
Hạ lệnh
cho các thiếu úy, chấp lệnh, lộ quan bắt ngay những quân dân, vợ
con, [35b] nô tỳ, tài vật, trâu ḅ của các thổ quan ngụy ở trong
thành đem giải nộp cho hết, điều tra những kẻ có ḷng khác, thu nhập
văn bằng ẩn tin của ngụy quan, theo đúng hạn nộp lên.
Tuyển
chọn đinh tráng tiếp tục bổ sung quân ngũ, không được thay đổi người
khác.
Bọn Vi
Báo 12 người ở các châu Lăng, Thông thuộc phủ Tư Minh của nhà Minh
sang đầu hàng.
Thưởng
công đánh trận ở Cơ Xá huyện Từ Liêm.
Hạ lệnh
cho các tướng hiệu rằng:
Khi nào
nghe thấy 1 tiếng súng lớn mà không có chiêng th́ các tướng phải đến
ngay để nghe lệnh. Nếu thấy 2 hoặc 3 phát súng lớn và 2 hoặc hoặc 3
tiếng chiêng, như vậy là có báo động khẩn cấp, các chấp lệnh và đốc
tướng phải chỉnh đốn ngay đội ngũ, c̣n thiếu úy th́ tới ngay quân
doanh nghe lệnh.
Hạ lệnh
cho các xứ Thiên Trường, Kiến Xương, Lư Nhân, Tân Hưng nhận nuôi hơn
6 ngh́n đàn ông, đàn bà ở các thành giặc đă đầu hàng, không để họ
đói rét lang thang.
Bọn phụ
đạo Mường Mộc1512 , trấn Gia Hưng là Xa Khả Tham quy [36a] thuận.
Trao cho
Khả Tham chức Nhập nộ tư không đồng b́nh chương sự tri Đà Giang trấn
thượng ban; ban cho túi kim ngư1513 , tước Trụ quốc Quan Phục hầu.
Cho Xa
Lộc làm Kim ngô vệ thượng tướng quân, tước Đại Trí tự; Xa Khát, Xa
Bàn, Xa Điểm1514 đều được làm Ngọc kiểm vệ đại tướng quân, tước Ninh
tự, đều được ban quốc tinh1515 .
Mùa hạ,
tháng 6, ngày mồng 10, trấn thủ Quảng Tây Chinh man tướng quân Trấn
Viễn hầu Cố Hưng Tổ của Nhà Minh đem 5 vạn quân, 5 ngh́n cổ ngựa, từ
Quảng Tây sang cứu viện các thành. Đế cửa ải Pha Lũy1516 bị tướng
giữ ải Lê Lựu, Lê Bôi đón đánh ngay tại cửa ải, phá tan quân giặc,
chém hơn 3.000 thủ cấp, bắt được 500 ngựa. Hưng Tổ thua to chạy về.
Phụ đạo
Quỳ Châu Cẩm Lạn quy thuận.
Gia phong
thị trung Tư Tề làm Tư đồ; Đại tư mă Lê Nhân Chú làm Tư không; Thiếu
úy Lê [36b] Vấn, Lê Sát làm Tư mă; Thượng tướng Lê Bôi làm Thiếu úy
và răn họ rằng:
"Chức
tước đă cao, sớm khuya chớ có lơ là, không được thỏa măn mà xao nhăn
lập công".
Ban cho
mỗi người một chiếc lọng.
Đinh lệ
tiền chuộc các vợ cả, vợ lẽ và nô tỳ của ngụy quan. Vợ Bố chính ty
th́ 70 quan, dưới đến các hạng sinh viên, thổ quan, thừa sai, bạn
đương, th́ vợ là 10 quan, con trai, con gái và nô tỳ từ 10 tuổi trở
xuống th́ 5 quan.
Hạ lệnh
cho các lộ tích trữ thóc công, không được khinh suất phát ra.
Đắp thành
nhỏ ở băi Cơ Xà, quân Minh đến đánh phá, vua ra lệnh không cho cứu,
để giặc tưởng là quân ta nhát.
Mùa thu,
tháng 7, hạ lệnh cho các lộ cùng quan văn các hỏa và tướng hiệu các
quân làm sổ hộ tịch.
(Bấy giờ
vẫn theo danh hiệu cũ của nhà Trần gọi Hành khiển của Thượng thư
sảnh và Môn hạ sảnh là Tả hữu hỏa).
Người
Chiêm Thành dâng lễ vật địa phương.
Hạ lệnh
cho các vệ thủy quân, mỗi chiếc thuyền chiến dùng 50 người, giữa
[37a] trại 5 người, vận lương 5 người, sai phái 5 người.
Hạ lệnh
cho ba lộ Bắc Giang, mỗi lộ chuyển 3.000 gánh lương chúa tại thành
Xương Giang.
Hạ lệnh
rằng hễ thấy người áo đỏ Mường Mộc chở mắm muối về th́ không được
ngăn cấm.
Hạ lệnh
rằng: các quân khi ra trận, nếu 50 người hoặc 100 người kéo nhau rút
chạy mà bỏ lại 1, 2 người không cứu th́ bị chém cả toán. Nếu không
may có người chết tại trận mà cùng nhau góp sức khiêng xác ra ngoài
th́ được tha tội.
Ra lệnh
cho các tướng rằng:
"Người
cầm quân phải chăm đánh dẹp, người coi chuyên chở phải chăm tải
lương. Vào núi xẻ ván, nấu cát làm muối, ngăn giữ trên bộ, dưới
sông, chặn bắt những kẻ gian phi, ai nấy đều phải quên ḿnh hết sức,
cùng nhau lo việc diệt giặc. Ta là cha mẹ dân, có đâu lại không nghĩ
tới nỗi gian lao mà dám gây ra việc đau khổ? Đó chỉ là do bắc đắc
[37b] dĩ mà thôi".
Xét
thưởng chiến công trong trận Thổ Khối1517 thàng ĐôngQuan. Ban thưởng
ngân bài và tiền bạc, tơ lụa.
Tư không
Lê Khả Tham dâng 3 con voi, cùng ṿng vàng, ṿng bạc chiêng đồng.
Ai Lao
dâng sản vật địa phương.
Tháng 8,
ban dụ cho cả nước rằng:
"Giặc c̣n
ở trong nước ta, dân chúng vẫn chưa được yên, liệu các ngươi có yên
được không? Trước kia, họ Hồ vô đạo, giặc thừa dịp ấy mà cướp nước
ta. Tội ác tàn bạo của chúng, các ngươi cũng đă thấy cả rồi. Vả lại,
ra sức khó nhọc trong một năm mà có cơ nghiệp thái b́nh muôn thuở,
các ngươi hăy nghĩ cho kỹ điều đó, chớ để phải hối hận về sau".
Hạ lệnh
cho các lộ rằng:
Hễ thấy
dân quân chở lương đi bán th́ cấp giấy và chỉ bảo cho nơi đến bán,
không được đi lung tung.
Lấy VIên
ngoại lang Lê Khắc Hài và Bùi Tất Ứng làm chánh, phó sứ mang ngựa và
[38a] đồ uống rượu bằng pha lê màu xanh trắng ban cho chúa Chiêm
Thành.
Ra lệnh
chế tạo xe đánh thành và tu sửa chiến khí.
Thưởng
cho Lê Khả Tham 20 tấm lụa, 10 con ngựa.
Hạ lệnh
cho nhân dân các lộ tới dinh Bồ Đề tuyển chọn người khỏe mạng bổ
sung quân ngũ.
Ban dụ
cho các tướng hiệu và quân nhân ở Tân B́nh, Thuận Hóa rằng:
"Trước
kia, nước Chiêm Thành trái mệnh, xâm lấn bờ cơi của ta, cha ông các
ngươi đă dốc chí ttrung thành lo báo đền nhà nước, đánh giết bọn
giặc lấy lại cơi bờ, tiếng thơm, công lớn c̣n sáng ngời trong sử
sách. Ngày nay, giặc Minh vô đạo, trái mệnh trời, hung hăng hiếu
chiến1518 , ḥng mở rộng măi đất đai, khiến cho sinh dân lầm than đă
hơn hai chục năm rồi. Ngày ở kinh lộ của ta cũng chưa thấy có ai
dốc ḷng
hết sức, lập công nêu danh mà bọn các ngươi là bề tôi ở chốn phên
dậu biên cương lại biết nghĩ tới công sức của ông cha ngày trước,
hết ḷng với vua mà đánh giặc, lập công trước. [38b] Ḷng trung
thành đó, thực đáng ngợi khen. Vậy đặc biệt thăng cho các ngươi tước
Á đại liêu ban, các ngươi hăy cố gắng".
Tháng 9,
ngày mồng 8, bọn Thái úy Trần Hăn, Tư mă Lê Sát, thiếu úy Lê
Triện1519 , Lê Lư đánh lấy được thành Xương Giang.
Khi ấy,
viên chỉ huy nhà Minh là Kim Dận cho là thành này nằm ngay trên
đường về của quân Minh, nên cùng với tên quan mới bổ đến là Lư Nhậm
liều chết cố thủ. Trăi qua hơn 6 tháng trời cầm cự với các quân
Khoái Châu, Lạng Giang, chúng vừa đánh vừa giữ, khiến quan quân
không thể lên được thành. Vua sai bọn Hăn đắp đất, mở đường đánh
nhau với giặc, dùng câu liêm, giáo dài, nỏ cứng, tên lửa, súng lửa,
bốn mặt đánh vào, thành cuối cùng bị hạ. Bọn Dân, Nhậm đều tự sát.
Đem ngọc lụa và con gái bắt được của giặc ban hết cho quân sĩ. Tổng
binh Vương Thông được tin, làm hai bài văn tế. Được hơn 10 ngày th́
viện binh giặc tới nơi, nhưng thành đă bị hạ.
Vua sai
các tướng đắp đê Vạn Xuân1520 để làm [39a] chiến lũy. Trước đây,
quân Minh đào mương nhỏ cạnh sông Cái1521 ngoài thành để chứa thuyền
chiến và khí giới, lại đắp thêm thành phụ để cố thủ, mà đê Vạn Xuân
là lối đi lại cho quân do thám và người chăn ngựa, cắt cỏ của giặc,
ở trên đê cao này mà nḥm xuống th́ rất tiện. Giặc cho thế là đắt
sách. Khi quan quân tiến đánh, quân Minh thường đặt mai phục để
tranh hơn. Vua hạ lệnh cho các tướng vượt sông, lừa lúc giặc không
ngờ, cướp lấy đê đắp thành chiến lũy, chỉ một đêm là xong, toàn bộ
quăng đê về ta. Đến khi nghe viện binh của giặc tới, các tướng sĩ
nhiều người dâng thư khuyên vua đánh các thành ở Đông Đôđể cắt đứt
nội ứng của giặc. Vua nói:
"Đánh
thành là hạ sách. Ta đánh thành bền vững hàng năm hàng tháng không
hạ được, khi ấy quân ta sức mỏi chí nhụt, nếu viện binh của giặc lại
đến th́ trước mặt, sau lưng đều bị tấn công, đó là con đường nguy
hiểm. Chi bằng nuôi sức quân, mài giũa tinh thần sắc bén, để đợi
viện binh của giặc. VIện binh giặc bị phá th́ thành giặc nhất định
phải hàng. Như thế là nhất cử lưỡng tiện, là mưu chước vẹn toàn".
Bèn hạ
lệnh [39b] canh giữ nghiêm ngặt, ngày đêm tuần tra khám xét.
Hạ lệnh
cho các xứ Lạng Giang - Bắc Giang - Tam Đái, Tuyên Quang, Quy Hóa
dời vợ con của quân dân đi xa để tránh viện binh của giặc tới.
Ngày 18,
nhà Minh sai Tổng binh Chinh lỗ tướng quân Thái tử thái phó An Viễn
hầu Liễu Thăng, Tham tướng Bảo Định bá Lương Minh, Đô đốc Thôi Tụ,
Binh bộ thượng thư Lư Khánh, Công bộ thượng thư Hoàng Phúc, thổ quan
Hữu bố chính sứ Nguyễn Đức Huân đem hơn 10 vạn quân và 2 vạn ngựa
đánh vào cửa Pha Lũy.
Chinh Nam
tướng quân thái phó Kiềm quốc công Mộc Thạnh, Tham tướng Hưng An bá
Từ Hanh, Tân Ninh bá Đàm Trung đem 5 vạn quân và 1 vạn ngựa đánh vào
cửa Lê Hoa. Cả hai đều đă tới đầu địa giới nước ta.
Vua họp
các tướng bàn rằng:
"Giặc vốn
khinh ta, cho là ngưới nước ta nhút nhát, sợ oai giặc đă lâu, nay
nghe tin đại quân sang, hẳn là ta rất hoảng [40a] sợ. Huống chi lấy
mạnh nạt yếu, lấy nhiều lần ít đó là lẽ thường. Giặc không thể tính
được h́nh thế được thua của người của ḿnh, không thể hiểu được cơ
vi qua lại của thời của vận. Vả lại, quân đi cứu nguy cấp phải lấy
mau chóng làm quư, giặc nhất định phải hành quân gấp vội. Binh pháp
có nói: Hành quân 500 dặm mà chỉ vội hám lợi th́ sẽ què thượng
tướng. Nay Liễu Thăng đến, đường sá xa xôi, quân lính tất mỏi mệt.
Ta đem quân nhàn khỏe, đợi đánh quân mỏi mệt, nhất định sẽ thắng".
Bèn sai
bọn Lê Sát, Lê Nhân Chú, Lê Lănh, Lê Liệt, Lê Thụ đem 1 vạn quân
tinh nhuệ, 5 thớt voi, bí mật mai phục trước ở ải Chi Lăng1522 để
đợi giặc.
Trước đó,
Lê Lựu giữ cửa Pha Lũy, thấy giặc đến, lui giữ cửa ải [Lưu]1523 .
Giặc tiến đánh, Lưu lại bỏ cửa [Ải] Lưu lui về đóng ở Chi Lăng. Giặc
lại tiến quân đánh phá uy hiếp Chi Lăng. Bọn Sát và Nhân Chú mật sai
Lựu ra [40b] đánh rồi giả cách thua chạy. Giặc quả nhiên rất mừng.
Ngày 20,
Liễu Thăng đốc suất đại quân đuổi theo. Đến chỗ có mai phục, bọn Sát
và Nhân Chú tung hết quân mai phục, bốn mặr đều nổi dậy xung vào
đánh giặc. Quân giặc thua to. Chém được Liễu Thăng ở núi Mă Yên1524
và hơn 1 vạn thủ cấp quân giặc.
Ngày 25,
vua lại sai Lê Lư và Lê Văn An đem 3 vạn quân tiếp đến ải núi Mă
Yên. Bọn Sát và Nhân Chú chỉ huy các quân tung hết binh sĩ ra đánh
giặc, chém Bảo Định bá Lương Minh tại trận1525 .
Ngày 28,
Lư Khánh cũng chết. Thôi tụ và Hoàng Phúc dẫn quân miễn cưỡng tiến
lên. Nhân Chú lại đánh bại bọn chúng, chém được hơn 2 vạn thủ cấp,
bắt được lừa ngựa, trâu ḅ, quân tư khí giới nhiều không kể xiết1526
.
Mùa đông,
tháng 10, vua sai Lê Lư và Lê Văn An đem 3 vạn quân bao vây bốn mặt,
lại dựng rào lũy ở [41a] tả ngạn sông Xương Giang1527 để ngăn chặn.
Bọn Tụ không c̣n mưu kế ǵ khác, đành phải đắp lũy giữa cánh đồng để
tự vệ1528 .
Tụ ngỡ là
thành Xương Giang chưa bị phá, dẫn quân định đến đó. Khi tới nơi th́
thành Xương Giang đă bị mất, chúng hết cả hy vọng, lại càng kinh
hoàng sợ hăi. Gặp lúc trời báo tai biến, mưa to gió lớn, núi rừng
gầm thét, người ngựa nh́n nhau không nhích lên được bước nào. Giặc
chỉ c̣n cách đợi đến đêm vắng, bắn súng làm tín hiệu báo cho hai
thành Đông Quan và Chí Linh để họ nghe thấy tiếng súng th́ ra cứu
viện. Nhưng Đông Quan và các thành khác tự cứu c̣n chưa xong, biết
đâu đến chỗ khác!.
Vua bèn
sai các quân thủy, bộ cùng tiến quân bao vaây chúng. Lại chia quân
chặn hết các ải Mă Yên, Chi Lăng, Pha Lũy, Bàng Quan1529 . Thôi Tụ
và Hoàng Phúc muốn tiến cũng không được, muốn lui cũng không xong,
bèn giả ḥa, nhưng âm mưu định chạy vào thành Chí Linh. Vua biết
được quỷ kế của chúng, kiên quyết khước từ không cho ḥa. Kế đó,
Trần Hăn chặn đứng [41b] đường vận chuyển lương thực của giặc, sai
bọn Lê Vấn, Lê Khôi, đem 3 ngh́n quân Thiết đột, 4 thớt voi, cùng
với bọn Sát, Lư, Nhân Chú, Văn An tấn công bọn giặc.
Ngày 15,
quân Minh đại bại, ta chém hơn 5 vạn thủ cấp giặc, bắt sống bọn Thôi
Tụ, Hoàng Phúc và hơn 3 vạn tên, thu được vũ khí, ngựa chiến, vàng
bạc, vải lụa nhiều không kể xiết1530 . C̣n những kẻ chạy trốn th́
trong khoảng không đến 5 ngày đều bị bọn chăn trâu kiếm củi bắt gấn
hết, không sót tên nào.
Bấy giờ
Tổng binh Vân Nam là Kiềm quốc công Mộc Thạnh cùng với bọn Phạm Văn
Xảo, Lê Khả, Lê Trung, Lê Khuyển cầm cự nhau ở Lê Hoa.
Vua lệiu
tính rằng Mộc Thạnh tuổi đă già, từng trải việc đời đă nhiều, lại
biết tiếng vua từ trước, nhất định c̣n đợi xem Liễu Thăng thành bại
ra sao chứ không nhẹ dạ tiến quân, bèn gởi thư mật, bảo bọn Khả,
Khuyển cứ đặt mai phục chờ đợi, chớ giao chiến vội. Đến khi quân
Liễu Thăng đă bị thua, vua sai lấy [42a] 1 tên chỉ huy và 3 tên
thiên hộ của giặc mà ta bắt được, cùng những sắc thư, phù ấn của
Liễu Thăng đưa đến chỗ quân Mộc Thạnh.
Bọn Thạnh
trông thấy rất hoảng sợ, trong phút chốc quân hắn tan vỡ tháo chạy.
Bọn Văn Xảo và Khả thừa thắng tung quân ra đánh, phá tan quân giặc ở
Lănh Câu1531 và Đan Xá1532 , chém hơn 1 vạn thủ cấp, bắt sống hơn 1
ngh́n tên và hơn 1 ngh́n con ngựa, c̣n bị chết đuối ở khu vực th́
nhiều không kể xiết. Mộc Thạnh th́ chỉ c̣n một ḿnh một ngựa tháo
chạy. Ta thu được chiến khí, của cải, xe cộ nhiều hơn hẳn thành
Xương Giang.
Sai thông
sự Đặng Hiếu Lộc giải Thôi Tụ, Hoàng Phúc và tù binh bắt được cùng
là song hổ phù và ấn bạc hai tầng của Chinh lỗ tướng quân1533 ,
chiến khí, cờ trống, sổ quân... bảo cho thành Đông Đô biết.
Bấy giờ
quân Minh trông thấy khí giới thu được ở thành Xương Giang đưa tới,
lại nghe tin hai đạo quân cứu viện và hai thành Đông Quan1534 và Chí
Linh đều đă mất, nhưng trong ḷng c̣n nghi [42b] hoặc chưa tin hẳn,
vẫn đóng cửa thành cố thủ. Đến đây thấy ta bắt được bọn Phúc, Tụ,
th́ sợ hết vía, không dám hành động ǵ nữa.
Hạ lệnh
cho các tướng sĩ sửa soạn rào gỗ, chiến khí để vây thành Đông Quan.
Mùa đông,
tháng 11, hạ lệnh các tướng hiệu dâng kế sách bàn về những việc
đương thời, nếu có ích th́ được ban thưởng hậu.
Kiểm tra
xe đánh thành và mang chiến khí của các quân.
Tổng binh
Vương Thông và nội quan Sơn Thọ nhà Minh sai viên thiên hộ họ Hạ
mang thư đến giảng hoà, xin mở cho đường về. Vua chấp nhận, lại gởi
tặng thổ sản và hải sản.
Sai bọn
Đại tướng Nguyễn Lôi mang thư dụ hàng hai thành Cổ Lộng và Tây Đô.
Sai bọn
Chủ thư thị sử Trần Hồ đi chiêu dụ châu Ninh Viễn (sau đổi là châu
Phục Lễ, nay là phủ An Tây). Phụ đạo châu ấy là Đèo Cát Hăn đem binh
tướng theo về.
Ban hành
tiền mới đúc (tức là đúc vào năm Thiên Khánh)1535 .
Thưởng
chiến công ở cửa thành Đông Quan.
Bấy giờ
có viên Phán đại lư [43a] chính họ Trần (không rơ tên) tâu với vua
là v́ tính ngông cuồng nhiều bệnh, xin được thôi việc để xuất gia.
Vua y cho, nhưng c̣n an ủi, muốn đền công lao. Trần vội cắt tóc, vào
từ tạ mà đi, từng đến ở chùa Cổ Lăm, huyện Thanh Oai, sau không biết
là đi đâu.
Quan quân
vây thành gấp, quân Minh nhiều lần đánh đều thua. Bọn đi kiếm củi
chăn ngựa đều bị ta bắt. VƯơng Thông tuy xin giảng ḥa, nhưng vẫn do
dự chưa quyết. Các quân ta đắp lũy, Vương Thông lo sợ, đem hết quân
ra đánh. Quan quân đặt mai phục rồi giả vờ thua chạy. Quân Minh đuổi
theo, quân phục xông ra đánh, phá tan quân giặc. Thông ngă ngựa suưt
nữa bị bắt. Quân ta đuổi đến cửa
Nam
thành, đắp lũy phía ngoài để chẹn giặc. Vua lại thân đốc suất các
tướng dắp lũy từ phường Yên Hoa1536 đến tận cửa Bắc thành, chỉ trong
một đêm là xong.
Vua đă
cho quân Minh giảng ḥa, hạ lệnh cho Bắc Giang, Lạng Giang sửa cầu
đắp đường, lại hạ lệnh cho các [43b] lộ chuẩn bị thuyền ghe, buồm
chèo đưa tới quân doanh giao cho chúng về nước.
Vua dụ
các tướng hiệu, quan nhân 6 điều là:
1- Kẻ làm
tôi con phải trung thành thờ vua, không được làm điều dối trá.
2- Ở với
mọi người phải cho ngay thẳng, không được làm điều gian phi.
3- Khi ra
trận đánh giặc có bắt được tù binh, chém được giặc không được cướp
công của nhau.
4- Có kẻ
nào gian ác, phi pháp ở trong quân, trong dân th́ phải bắt giữ để
trị tội, mà các ngươi cũng phải lấy đó làm gương răn, chớ để tội đến
thân ḿnh.
5-Các
quan thị vệ chớ cậy ḿnh được yêu quư mà ngược đăi, bắt nạt mọi
người.
6- Khi
làm việc, lúc lập công, phải tự ḿnh làm gương trước, để mọi người
dưới trông vào bắt chước.
Ngày 22,
vua cùng với Tổng binh quan nhà Minh Thái tử thái bảo Thành Sơn hầu
Vương Thông, Tham tướng hữu đô đốc Mă Anh, Thái giám Sơn Thọ, Mă Kỳ
Vinh Xương bá Trần [44a] Tứ, Anh B́nh bá Lư An, Đô đốc Phương Chính,
chưởng Đô ty sự đô đốc thiêm sự Trần Tuấn, Đô chỉ huy thiêm sự Trần
Hựu, giaám sát ngự sử Chu Kỳ Hậu, Cấp sự trung Quách Vĩnh Thanh, Hữu
bố chính sứ Dặc Khiêm, Hữu tham chính Lục Quảng B́nh, TẢ tham chính
Hồng Binh Lương, Lục Trinh, Án sát sứ Dương Th́ Tập, Thiêm sự Quách
Đoan, hội thề ở phía nam thành. Họ hẹn đến ngày 12 tháng 12 th́ đem
quân về nước và sai người đem tờ tŕnh xin trả lại đất đai cho ta.
Bấy giờ
bọn Thông ở trong thành đă quẫn bách lắm rồi, chỉ c̣n trông cây vào
viện binh, th́ viện binh lại bị ta đánh bại, cho nên phải giảng ḥa,
xin rút quân về nước.
Khi ấy,
các tướng sĩ và người nước ta, khổ v́ bọn giặc tàn ngược đă lâu, rủ
nhau cố xin với vua rằng giặc nhiều mánh khoé biến trá, phải dùng
quân mà đánh thắng chúng, khuyên vua hăy giết chúng đi. Chỉ có Hành
khiển Nguyễn Trăi tham mưu ở nơi màn trướng, đă xem thư bọc sáp của
Thông ]gởi về nước] nói rằng:
[44b]
"Chớ v́ một góc đất đai nhỏ nhoi mà bao phen làm nhọc quân đi muôn
dặm. Giả sử dùng tới số quân như lần đánh ban đầu1537 , có được 6,
7, 8 viên đại tướng... như bọn Trương Phụ th́ mới có thể đánh được.
Nhưng dẫu có đánh được cũng không thể nào giữ được".
Nên Trăi
biết rất rơ chổ mạnh yếu của giặc, mới chủ trương hoà nghị. Vua nghe
theo. Bèn lệnh cho các quân giải vây và rút ra. Bấy giờ quân Minh
cho Sơn Thọ, MĂ Kỳ ra dinh Bồ Đề làm con tin với vua.Vua cũng sai Tư
đồ Tư Tề và Lê Nhân Chú vào than2h Đông Quan làm con tin với quân
Minh. Cuối cùng ḥa ước đă thành. Trước đây, vua cho Lê Quốc Trịnh
và Lê Như Tỳ đi làm con tin. Đến đây, v́ muốn cho Sơn Thọ và Mă Kỳ
tới hội, cho nên sai Tư Tề và Nhân Chú cùng đi.
Trước đó
vua sai Nguyễn Trăi soạn thư cầu phong, sai người dâng biểu của Cảo
xin lập làm [45a] ḍng dơi họ Trần, chuyển tới Quảng Tây và Vân Nam
nhà Minh mỗi nơi một bản. Kiềm quốc công Mộc Thạnh nhận được thư,
lập tức chạy tâu về kinh, vua Minh nhận được biểu, ra dụ cho các
quan văn vơ rằng:
"Những
người bàn không hiểu ư nghĩa của việc ngừng can qua, hẳn cho rằng
làm thế là không có uy vũ1538 . Nhưng nếu dân được yên th́ trẫm có
kể ǵ lời bàn của người khác".
Rồi sai
bọn Công bộ thượng thư La Nhữ Kính, Từ Vĩnh Đạt mang chiếu sắc phong
Trần Cảo làm An Nam Quốc Vương, băi quân nam chinh. Sắc thư viết:
"Gần đây
các quan biên ải đem thư tử tâu lên, thấy tŕnh bày rất khẩn thiết,
có điều hợp ư với trẫm, đáng được đại xá, không kể là tội lớn hay
tội nhỏ, đều cho được sửa đổi duy tân". Và bảo vua kể rơ tên các con
cháu nhà Trần hiện c̣n sống, tâu lên để sai sứ sang sách phong.
Triều cống th́ vẫn theo lệ cũ năm Hồng Vũ.
Thành Sơn
hầu Vương Thông không đợi lệnh mà đem quân về trước, v́ bị vua đánh
gấp, [45b] c̣n thư từ qua lại lời lẽ rất thành khẩn, đều là do Trăi
vâng lệnh soạn thảo cả.
Sai Đồng
tri Nguyễn Mẫn, Đội trưởng Nguyễn Lôi mang thư đến hai thành Tây Đô
và Cổ Lộng ra lệnh giải vây, v́ hai thành này chưa hạ được.
Bọn hương
hộ1539 người địa phương là Vương Manh đem vợ con 39 người tới dâng
đoạn tấm và hương quư. Bấy giờ đối với nguỵ quan, thổ quân và các hộ
đăi vàng, t́m hương liệu trong thành, Vương Thông cho họ được tự
nguyện về phương Bắc hay ở lại nước Nam theo ư của ḿnh. Nhưng người
muốn ở lại th́ nhiều, muốn xin đi th́ ít.
Ngày 29,
sai sứ sang tŕnh bày với nhà Minh.
Trước đó,
vua đă lập Trần Cảo. Hồi tháng 8, đă sai sứ sang cầu phong.
Đế đây,
lấy Hàn lâm đăi chế Lê Thiếu Dĩnh (người làng Khả Mộ, nay là Mộ
Trạch, huyện Đường An), Chủ thư sứ Lê Cảnh Quang đều làm Thẩm h́nh
viện sứ. Quốc tử bác [46a] sĩ Lê Đức Huy, Kim ngô vị tướng quân Đặng
Hiếu Lộc làm Thẩm h́nh viện phó sứ (bốn người này đều là đầu mục),
nội lệnh sử Đặng Lục và Lê Trạc, Vũ vệ tướng quân Đỗ Lănh và Trần
Nghiễm đều làm An phủ sứ (bốn người này đều là ṭng nhân) đem tờ
biểu và phương vật (hai pho tượng người bằng vàng thay cho ḿnh, một
chiéc lư hương bạc, một đôi b́nh hoa bạc, 300 tấm lụa thổ, 14 đôi
ngà voi, 20 lọ xông hương áo, 2 vạn nén hương, 24 khối trầm hương và
tốc hương) cùng với bọn chỉ huy do Vương Thông sai về, đều lên đường
đưa về [Yên] Kinh. Đồng thời, đưa cả chiếc song hổ phù và quả ấn bạc
hai tầng của Quan tổng binh An Viễn hầu, nguyên lĩnh Chinh lỗ phó
tướng quân, 13.578 quân nhân, 280 viên sĩ quan, 2.137 viên quan lại,
13.180 tên quân cờ, 1.200 con ngựa tốt, [46b] lập bản danh sách đầy
đủ, đưa sang Yên Kinh để trần t́nh và xin phong Trần Cảo là Quốc
vương. Sau khi sai bọn Lê Thiếu Dĩnh sang cầu phong, tất cả bọn ngụy
quan và lương dân bị cưỡng bức đi theo ở trong thành Đông Quan, vua
đều sai đưa về cả.
Tháng 12,
ngày 12, Vương Thông nhà Minh sai quân bộ qua sông Lô đi trước, quân
thủy theo sau.
Bấy giờ
các tướng sĩ và người nước ta rất căm thù quân Minh đă giết hại cha
con, thân thích họ, liền rủ nhau tới khuyên vua giết bọn chúng đi.
Vua dụ rằng:
"Trả thù
báo oán là thường t́nh của mọi người, nhưng không thích giết người
là bản tâm của bậc nhân đức. Vả lại, người ta đă hàng, mà ḿnh lại
giết th́ là điềm xấu không ǵ lớn bằng. Nếu cốt để hả nỗi căm giận
trong chốc lát mà mang tiếng với muôn đời là giết kẻ đă hàng, th́
chi bằng tha mạng sống cho ức vạn người, để dập tắt mối chiến tranh
cho đời sau, sử xanh ghi chép [47a] tiếng thơm muôn đời, há chẳng
lớn lao sao?".
Bèn hạ
lệnh: Cánh đường thủy, cấp 500 chiếc thuyền, cho Phương Chính, Mă Kỳ
lănh nhận. Cánh đường bộ, cấp lương thảo, cho Sơn Thọ, Hoàng Phúc
lănh nhận. C̣n hơn 2 vạn người bị bắt hoặc đầu hàng và 2 vạn con
ngựa th́ do Mă Anh lănh nhận. Chinh man tướng quân Trần Tuấn đem
quân trấn thủ đi theo. Tất cả đều tới dinh Bồ Đề lạy tạ mà về. Bọn
Phương Chính vừa xúc động vừa hổ thẹn đến rơi nước mắt.
Ngày 17,
Vương Thông nhà Minh dẫn quân bộ đi sau. Thông cùng vua nói chuyện
từ biệt suốt đêm rồi đi. Vua sai đưa trâu rượu, cờ thêu, trướng vẽ
cùng các lễ vật tiễn chân rất hậu. Quân thủy, bộ của ba thành Tây
Đô, Cổ Lộng, Chí Linh cùng lục tục rút tiếp. Từ đây, việc binh đao
dập tắt, khắp thiên hạ thái b́nh.
1384 Chủ
Sơn: tên hương, sau đổi là thôn Thủy Chú, huyện Lôi Dương, nay thuộc
xă Xuân Thắng, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa.
1385 Tức
là ngày 19 tháng 9 năm 1385.
1386 Xem
chú thích 3.
1387 Lạc
Thủy: theo CMCB 13 th́ Lạc Thủy thuộc huyện Cẩm Thủy sau này. Huyện
Cẩm Thủy bấy giờ là huyện Lỗi Giang, ở phía hữu ngạn sông Mă, thuộc
lưu vực sông Âm của huyện Lang Chánh ngày nay. Nhưng căn cứ vào địa
bàn hoạt động của nghĩa quân năm này (1418), th́ có lẽ Lạc Thủy ở
đây là một địa điểm vùng thượng lưu sông Chu, phía trên Lam Sơn.
1388 Núi
Chí Linh: tức là núi Pù Rinh, thuộc xă Giao An, huyện Lang Chánh,
tỉnh Thanh Hóa ngày nay.
1389 Tức
núi Chí Linh.
1390
Mường Yên: tức là xă Yên Nhân, phía tây núi Pù Rinh (Chí Linh).
1391
Mường Một: hay Mường Mọt, sau là xă Bất Một, thuộc huyện Thường Xuân
ngày nay.
1392 Châu
Tĩnh Yên: thời thuộc Minh là đất tỉnh Quảnh Ninh ngày nay. Núi Tam
Tri: tức núi Ba Chẽ.
1393 Hộ
thiếp: như sổ hộ tịch, mỗi tấm hộ thiếp có ghi rơ họ tên, quê quán
và số đinh trong mỗi hộ, có đánh số chữ kư hiệu và đóng một nửa phần
dấu kiềm đề pḥng khi khám nghiệm. Sổ hộ khẩu th́ để ở Hộ bộ, c̣n hộ
thiếp th́ phát cho các hộ (theo Đại Minh hội điển).
1394
Nguyên văn: Phú dịch hoành sách, tức là quyển sách b́a vàng kê khai
thuế khóa phu dịch. Theo Thông giám tập lăm, th́ năm Hồng Vũ thứ 14
(1381) nhà Minh hạ chiếu bắt cả nước làm sổ "hoàng sách".
1395 Giáp
thủ: là người đứng đầu một giáp (gồm 10 hộ), lư trưởng: người đứng
đầu 1 lư (gồm 110 hộ).
1396
Nguyên văn: Lư trưởng, giáp thủ chu niên đồ dạng.
1397 Đồn
Nga Lạc: ở gầnLam Sơn, thuộc vùng Bái Thượng ngày nay.
1398 Đà
Sơn: tên sách, có lẽ cũng gần Lam Sơn.
1399
Mường Chánh (nguyên văn không có chữ "Mường"): huyện Lang Chánh sau
này.
1400 Lư
Sơn hay Lô Sơn: theo Thanh Hóa tỉnh chí th́ Lư Sơn ở vùng giáp giới
hai xă Trịnh Điện và Hựu Thủy thuộc châu Quan Hóa. Theo Đồng Khánh
dư địa chí th́ hai xă Trịnh Điện và Hựu Thủy thuộc tổng Hựu Thủy và
động Lư Sơn là một danh thắng của châu Quan Hóa.
1401
Mường Thôi (nguyên văn không có chữ "Mường "): có lẽ là Man Xôi, ở
phía tây bắc tỉnh Thanh Hóa, giáp Lào.
1402 Vu Sơn: có lẽ là Lư
Sơn.
1403 Châu Ngọc Ma: thời
thuộc Minh là phủ Ngọc Ma, thời Lê thuộc Nghệ An, thời Nguyễn đổi
làm phủ Trấn Định, gồm các huyện Cam Môn, Cam Cát, Cam Linh.
1404 Thành Nghệ An: tại
núi Thành, xă Hưng Phú, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An ngày nay.
1405 Lộ văn Luật: người
huyện Thạch Thất, Hà Tây. Luật đầu hàng giặc, được giặc cho làm chỉ
huy quân ở Nghệ An.
1406 Vùng phía nam tỉnh
Hải Hưng ngày nay.
1407 Huyện Tân Minh sau
đổi là Tiên Minh, nay là huyện Tiên Lăng, Hải Pḥng.
1408 Thực ra các xứ đó
vẫn c̣n những cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ, đặc biệt cuộc đấu tranh của "
1409 Phật Tích và An Sầm:
là hai hang núi thuộc huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Núi Phật Tích:
c̣n gọi là núi Sài Sơn hay núi Thầy.
1410 Thương quan: là chức
quan trông coi kho tàng.
1411 Huyện Thủy Đường:
nay là huyện Thủy Nguyên, Hải Pḥng.
1412 Huyện Đan Ba: nay là
huyện Đinh Lập, tỉnh Lạng Sơn.
1413 An
Bang: là đất tỉnh Quảng Ninh ngày nay.
1414
Thành Xương Giang: ở đất xă Thọ Vương, nay thuộc thị xă Bắc Giang,
tỉnh Hà Bắc.
1415 Đồn
này ở ngă ba Tuần Vường tỉnh Nam Hà ngày nay.
1416 Kiến
Xương: là vùng đất các huyện Vũ Thư, Kiến Xương tỉnh Thái B́nh ngày
nay.
1417 Bến
Bổng: có lẽ nằm trên thượng lưu sông Chu.
1418
Mường Nanh: nay c̣n địa danh Mường Nang, tức là xă Thịnh Nang, huyện
Lang Chánh. Mường Nanh có lẽ là đất ấy.
1419 Thi
Lang: hay Bồ Thi Lang, là một địa điểm gần căn cứ của nghĩa quân lúc
ấy.
1420 Ba
Lẫm: tên sách, có lẽ là vùng Chiềng Lâm ở xă Điền Lư, thuộc huyện Bá
Thước, tỉnh Thanh Hóa.
1421 Quan
Du: sau đổi là châu Quan Hóa, nay là huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
1422 Sông
Đáy: tức sông Tiểu Đáy ở tỉnh Tuyên Quang, nay thuộc tỉnh Hà Tuyên.
1423
Dương Cung: tức là Lê Ngă, Lê Ngă nổi lên đánh phá giặc Minh, tin
truyền về triều đ́nh nhà Minh, vua Minh ra lệnh lùng bắt rất nghiêm
ngặt, bọn Lư Bân phải bày ra mưu này cho qua chuyện.
1424 Ư
nói mọi người đều cùng một duộc với Hoàng Phúc.
1425
Trống đăng văn: trống để ở điện đ́nh, ai có việc oan khuất th́ đánh
lên, tŕnh bày nỗi oan để được xét lại.
1426 Ải
Ḱnh Lộng: tức là Ải Cỗ Lũng sau này, thuộc huyện Cẩm Thủy tỉnh
Thanh Hóa.
1427
Nguyên là núi Ứng ải, tức đèo Ống ở xă Thiết Ông, trên tả ngạn sông
Mă.
1428 Đại
Việt thông sử chép là 5 vạn quân và 100 thớt voi.
1429 Sách
Thủy: bản dịch cũ cho là đất Hữu Thủy ở gần Lư Sơn.
1430 Sách
Khôi: tức là Khôi huyện, thuộc trấn Thiên Quan, ở giữa hai huyện Nho
Quan, tỉnh Ninh B́nh và huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa.
1431 "Tử
Địa": tức là "đất chết", chỉ hoàn cảnh hiểm nghèo.
1432 Sổ
tu tri: tức là sổ hộ tịch, ruộng đất, lương bổng của các nơi ở Giao
Chỉ.
1433 Lưu
quan: chỉ quan lại Trung Quốc do nhà Minh cử sang.
1434 Giặc
Hồ: chỉ người Thát Đát A Lỗ Thái.
1435 Sông
Du Mộc: ở huyện Đa Luận, tỉnh Sát Cáp Nhĩ.
1436 Đỉnh
Hồ: theo truyền thuyết Trung Quốc: Hoàng đế đúc vạc ở chân núi Kinh
Sơn, vạc đúc xong, liền cưỡi rồng bay đi. Chỗ ấy gọi là Đỉnh Hồ. Sau
dùng chữ Đỉnh Hồ để chỉ vua chết.
1437 Tứ
di: chỉ các nước xung quanh Trung Quốc hồi ấy.
1438 Đồn
Đa Căng: có lẽ là Bất Căng, thuộc xă Thọ Nguyên, huyện Thọ Xuân,
tỉnh Thanh Hóa ngày nay. Đồn này nằm trên hữu ngạn sông Chu.
1439 Lam
Sơn thực lục và Đại Việt thông sử chép là Nguyễn Hoa Anh.
1440 Bồ
Lạp: là tên núi, cũng gọi là Bồ Cứ, Bồ Đắng, là một ngọn núi ở xă
Châu Nga, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Nhân dân địa phương thường
gọi là Bù Đờn và phía đông bắc có một bản nhỏ gọi là Bản Liệp. Vùng
này nay thuộc xă Châu Nga, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An.
1441
Trang Trịnh Sơn: là Kẻ Trịnh, nay thuộc xă Thạch Ngàn, huyện Con
Cuông, cách thành Trà Lân (hay Trà Long) hơn 10 km.
1442 Châu
Trà Lân: hay Trà Long, là đất huyện Con Cuông, Tương Dương, tỉnh
Nghệ An ngày nay, đời Trần là đất Mật Châu, đời Nguyễn gọi là phủ
Tương Dương.
1443 Đỗ
Gia: nay là đất huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Gần xă Linh Cảm của
huyện này có làng Đỗ Xá, có lẽ là nơi đóng quân của Lê Liệt.
1444 Khả
Lưu: là tên một cửa ải xưa, ở phía bắc sông Lam, thuộc xă Vĩnh Sơn,
huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An.
1445 Bồ
Ải: Là một địa điểm ở về phía trên ải Khả Lưu, cách Khả Lưu không
xa. Hiện nay, ở xă Đức Sơn, huyện Anh Sơn,tỉnh Nghệ An có khe Ải đổ
ra sông Lam và ngọn núi thấp ở đây cũng có người gọi là Bù Ải...Có
lẽ đó là Bồ Ải xưa kia.
1446
Hương Đa Lôi: nay là Nam Kim, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
1447
Thành Diễn Châu: c̣n có tên là thành Trài, nay c̣n dấu vết ở xă Diễn
Hồng, Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, cách quốc lộ số 1 gần 400 mét về phía
đông và cách Cửa Vạn 2 km.
1448
Thành Tây Đô: nay ở vào khoảng giữa hai xă Vĩnh Tiến và Vĩnh Long,
huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
1449 Sông
Bố Chánh: tức là sông Gianh, tỉnh Quảng B́nh.
1450 Tân
B́nh: tên phủ thời thuộc Minh, gồm dất các huyện Quảnh Trạch, Bố
Trạch, Lệ Ninh, Tuyên Hóa, Bến Hải, tỉnh Quảng B́nh ngày nay.
1451
Thuận Hóa: tên phủ thời thuộc Minh gồm đất các huyện Triệu Hải,
Hương Điền, Hương Phú, Hương Hóa, Phú Lộc, tỉnh Quảng Trị và tỉnh
Thừa Thiên-Huế ngày nay.
1452 Đại
thiên hành hóa: nghĩa là thay trời tiến hành việc giao hóa.
1453
Thiên Quan: vùng đất huyện Nho Quan cũ, nay thuộc huyện Hoàng Long,
tỉnh Ninh B́nh.
1454 Gia
Hưng: gồm các huyện Thuận Châu, Mộc Châu, Yên Châu, Mai Sơn, Phù Yên
tỉnh Sơn La, các huyện Thanh Sơn, Tam Thanh tỉnh Phú Thọ và huyện
Mai Châu tỉnh Ḥa B́nh ngày nay.
1455 Quy
Hóa: thuộc Yên Bái, Lào Cai ngày nay.
1456 Tam
Đới: thuộc tỉnh Vĩnh Phú ngày nay.
1457
Nguyên văn là Khoái Giang, sửa lại theo Đại Việt thông sử và Cương
mục.
1458 Ninh
Kiều: là vùng Ninh Sơn, xă Ngọc Sơn, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây
ngày nay. Đây là một vị trí trọng yếu và hiểm trở nằm trên đường
thượng đạo từ Đông Quan vào Thiên Quan và Thanh Hóa.
1459 Ninh
Giang: là đoạn sông Đáy chảy qua vùng Hà Tây, Nam Hà rồi theo sông
Mỹ Đô chảy vào sông Hồng (đoạn Hoàng Giang).
1460 Chỉ
Đông Đô.
1461 Cầu
Xa Lộc: tục gọi là cầu Ṛng Rọc ở gần làng Tứ Xă, huyện Lâm Thao,
nay thuộc tỉnh Phú Thọ.
1462 Cầu
Nhân Mục: tức là Cống Mọc ở xă Nhân Chính, huyện Từ Liêm Hà Nội, cầu
bắc qua sông Tô Lịch, trên đường từ Đông Quan đến Ninh Kiều.
1463 Minh sử chép là Viên
Lượng.
1464 Thành Tam Giang: là
trị sở của phủ Tam Giang, nằm ở phía bắc ngă ba Hạc, có thể là thành
cổ Dục Mỹ, ở gần cầu Xa Lộc.
1465 Cầu Tây Dương: tức
cầu Giấy, bắc qua sông Tô Lịch, huyện Từ Liêm, Hà Nội ngày nay.
1466 Bến Cổ Sở: tức bến
Giá ở xă Yên Sở, huyện Hoài Đức, Hà Tây ngày nay.
1467 Cầu Yên Quyết: tức
là cống Cót ở Hạ Yên Quyết, gần Láng, Hà Nội ngày nay.
1468 Cầu Sa Đôi: cầu bắc
ngang sông Nhuệ c̣n gọi là cầu Đôi ở phía tây xă Đại Mỗ, huyện Từ
Liêm , Hà Nội.
1469 Cầu Thanh Oai: bắc
qua sông Đỗ Động ở xă B́nh Minh, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây ngày
nay.
1470 Cổ Lăm: tức tổng
Thắng Lăm, tên nôm là Sốm, nay gồm các xă Phú Lâm, Phú Cường, Văn
Khê, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây.
1471 Cầu Tam La:tức Ba
La, c̣n gọi là Ba La Bông Đỏ, sát thị xă Hà Đông, trên đường đi
Thanh Oai, tỉnh Hà Tây.
1472 Thanh Đàm: tức là
Thanh Tŕ, trị sở huyện này xưa ở phía đông nam Văn Điển, Hà Nội
ngày nay.
1473 Cao Bộ: tên nôm là
làng Bụa, thuộc xă Trung Ḥa, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây ngày nay.
1474 Sông Yên Duyệt: ở
làng Yên Duyệt, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây ngày nay.
1475 Tốt Động: tên nôm
gọi là làng Rér. Đây là vùng đất thấp, lầy lội. Cánh đồng Tốt Động
là đồng chiêm trũng, rất lầy lội.
1476 Chúc Động: cách Tốt
Động 6km về phía đông bắc và ở ngay phía tây Ninh Kiều. Cả hai con
đường từ Ninh Kiều đến Cao Bộ đều phải đi qua vùng Cbúc Động. Chúc
Động nay là Chúc Sơn, xă Ngọc Sơn, huyện Chương Mỹ, Hà Tây.
1477 Đoạn này Toàn thư
viết rất khó hiểu. Xin ghi lại đoạn nói về trận đánh này của Cương
mụd để tiện tham khảo: "Bắt được gián điệp của địch, ta biết Thông
đă tiến đóng ở Ninh Kiều, ngầm cho kỳ binh tiền nhanh đến phía sau
quân Triện, c̣n chính binh của Thông sẽ vượt sông tiến lên phía
trước. Chúng hẹn nhau hễ nghe tiếng súng pháo nổ, th́ các mũi quân
địch cùng lúc đánh khép lại. Hồi canh năm đêm ấy, bọn Lễ sai quân
bắn súng pháo ở nơi yếu hại để đánh lừa giặc. Giặc nghe súng nổ, đều
đỗ xô đi chiếm lấy chỗ thuận lợi. Chúng lùa quân đi tắt vào. Bấy giờ
trời mưa, đường lầy lội, chúng kéo đến Tốt Động, bị phục binh ta bốn
bề nổi dậy. Quân ta hợp sức lại, hăng hái chiến đấu, cả phá dược
quân giặc ". (CMCB 13, 28-29).
1478 Lũng Giang: tức là
sông Đáy, c̣n gọi là sông Đại Lũng.
1479 Chuông Quy Điền:
tương truyền được đúc từ đời nhà Lư, chuông để ở chùa Một Cột. Vạc
Phổ Minh: là chiếc vạc lớn ở chùa Phổ Minh gần thành phố Nam Định,
tỉnh Nam Hà. Chùa này làm vào năm Thiệu Long năm thứ 5 (1262).
1480 Lịch chính sóc:
chính sóc là ngày mồng một tháng giêng Âm lịch. Ở đây chỉ lịch tính
theo tuần trăng của nhà Minh.
1481 Tây Phù Liệt: thuộc
huyện Thanh Tŕ, Hà Nội ngày nay.
1482 Sông Lô: bây giờ là
sông Hồng. Đông Bộ Đầu: nay ở khoảng dốc Hàng Than, phía trên cầu
Long Biên, Hà Nội.
1483 Đông Phù Liệt: tên
xă, cũng thuộc huyện Thanh Tŕ, Hà Nội ngày nay.
1484 Bốn đạo: 1-Tây Đạo
gồm các trấn Tam Giang, Hưng Hóa, Tuyên Quang và Gia Hưng; 2-Đông
Đạo gồm các lộ Thượng Hồng, Hạ Hồng, Nam Sách Thượng, Nam Sách Hạ và
trấn An Bang; 3-Bắc Đạo gồm các lộ trấn Bắc Giang, Thái Nguyên;
4-Nam Đạo gồm các lộ Khoái Châu, Lư Nhân, Tân Hưng, Kiến Xương và
Thiên Trường.
1485 Núi Không Lộ: ở
huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Trên núi có chùa Lạc Lâm, xưa là nơi
hóa thân của nhà sư Không Lộ.
1486 Vũ Ninh: sau là
huyện Vơ Giảng, nay thuộc đất Quế Vơ, tỉnh Bắc Ninh.
1487 Trần Phong: người
huyện Chí Linh, nay thuộc tỉnh Hải Hưng, theo giặc MInh làm đến Đô
ty.
1488 Lương Nhữ Hốt: theo
giặc MInh làm đến Tham chính. Bọn Trần Phong, Nhữ Hốt sau được Lê
Lợi tha chết , nhưng rồi lại mưu phản, cuối cùng đều bị giết.
1489 Thành Điêu Diêu: ở
huyện Gia Lâm, Hà Nội.
1490 Thành Thị Cầu: nay
thuộc thị xă Bắc Ninh, tỉnh Hà Bắc.
1491 Thành Tam Giang: ở
huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.
1492 Thành Xương Giang:
nay là thị xă Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
1493 Thành Khâu Ôn: là
tỉnh lỵ Lạng Sơn ngày nay.
1494 Hoả thủ: như chức
đội trưởng sau này.
1495 Tướng Minh giữ thành
Nghệ An là Thái Phúc, giữ thành Diễn Châu là Tiết Tụ.
1496 Chiến bằng: là đài
cao bằng gỗ dùng để đánh thành. Xe phần ôn: là loại xe để đánh
thành, có 4 bánh, căng dây làm khung, che bằng da trâu, dươái có thể
nấp được mười người, sắt, lửa, gỗ, đá không thể phá được. Xe phi mă:
cũng là loại xe để đánh thành.
1497 Theo Bắc Ninh tỉnh
chí, th́ dinh Bồ Đề ở thôn Phú Hựu, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An,
tỉnh Bắc ninh, nay thuộc xă Phú Viên, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
1498 Thành Chí Linh: lúc
ấy quân Minh c̣n đóng giữ.
1499 Nguyên văn là "tự
nguyện đăng thành" (tự nguyện lên thành), chúng tôi ngờ có lầm lẫn
từ chữ "đăng tải" (khai báo) ra chữ "đăng thành" (lên thành).
1500 Cảo Động: tên xă,
tức là Nhật Tảo, hay Xuân Bảo ở phía tây Hồ Tây, Hà Nội.
1501 Sau là huyện Kim
Động, tỉnh Hưng Yên cũ nay thuộc huyện Kim Thi, tỉnh Hưng Yên.
1502 Chỉ Lê Lợi.
1503 Xem việc tháng 6,
năm BÍnh Ngọ BK 10, 19b.
1504 Hoàng Mai: nay thuộc
Hà Nội.
1505 Thao Tả truyện, Lỗ
Hoàn Công năm thứ 11 và 13, Khuất Hà đánh được quân nước Vân ở Bồ
Tao, cho ḿnh là giỏi. Sau đánh nước La, khinh nước La nhỏ bé, không
pḥng bị, bị nước La đánh cho thua, phải tự tử.
1506 Lam Ấp: theo cương
mục là Lam Sơn (CMCB12, 6b).
1507 Ải Lê Hoa: là một
địa điểm ở ven sông Lô chảy qua vùng biên giới tỉnh Hà Tuyên và tỉnh
Vân Nam Trung Quốc bây giờ.
1508 Tên hiệu của Trần
Ngỗi và Trần Quư Khoáng.
1509 Nguyên văn: "sổ bách
vạn" chổ này hẳn có nhầm lẫn. Có lẽ là "mấy trăm người".
1510 Tứ Hạo: bốn ông già
ở ẩn trên núi Thượng Sơn đầu đời Hán là Đồng Viên công, Ư Quư Ly, Hạ
Hoàng công và Dụng Lư tiên sinh.
1511 Tử Pḥng: tức là
Trương Lương, vốn là thần tử của nước Hàn, để trả thù cho vua Hàn bị
Hạng Vũ giết, đă theo giúp Lưu Bang. Khi Lưu Bang đă thống nhất được
Trung Quốc, Trương Lương bỏ đi ở ẩn.
1512 Nay là Mộc Châu,
tỉnh Sơn La.
1513 Túi kim ngư: túi cờ
h́nh con cá bằng vàng.
1514 Xa Lộc, Xa Khát, Xa
Bàn và Xa Điểm; đều là con Xa Tham (Theo CMCB 14, 15b).
1515 Quốc tinh: là họ
vua, ở đây là họ Lê.
1516 Ải Pha Lũy: tức là
cửa Nam Quan sau này, ngày nay là Hữu Nghị Quan.
1517 Thổ Khối: tên xă, ở
tả ngạn sông Hồng, gần xă Bát Tràng, nay thuộc huyện Gia Lâm Hà Nội.
1518 Nguyên văn: "Cùng
binh độc vũ".
1519 Lê Triện đă hy sinh
trong trận Cảo Động, huyện Từ Liêm, ngày 7 tháng 2 năm ấy, ở đây hẳn
có sự lầm lỗi.
1520 Đê Vạn Xuân: tức đê
Thanh Tŕ ngày nay.
1521 Nguyên văn: "Đại
giang", tức sông Nhị.
1522 Chi Lăng: là ải hiểm
trở nhất trên con đường từ Pha Lũy đến Đông Quan, cách Pha Lũy
khoảng 60 km, thuộc xă Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn ngày nay.
1523 Ải Lưu: (nguyên văn
thiếu chử Lưu) cũng là cửa ải trên đường từ Khâu Ôn đến Chi Lăng,
nằm ở khoảng Lạng Nắc, hoặc trên đó không xa lắm, vùng giáp giới hai
xă Nhân Lư và Sao Mai, huyện Chi Lăng ngày nay.
1524 Mă Yên: tên nôm là
núi Yên ngựa, một ḥn núi đá cao khoảng 40m so với mặt đất, chu vi
300m, nằm ở phía nam cánh đồng lầy lội, muốn qua phải bắc cầu mới đi
được.
1525 Đây là trận phục
ḱch lớn xảy ra ở Cần Trạm, nay là vùng Kép và một số xóm phía tây
nam xă Hương Sơn, huyện Lạng Giang, tỉnh Hà Bắc ngày nay.
1526 Trận ngày 28 tháng 9
(tức ngày 18 thánh 10) xảyra ở Phố cát là vùng đồi đất giữa Cần Trạm
và Xương Giang, khoảng xă Xương Lâm, huyện Lạng Giang, Hà Bắc ngày
nay. Trận này, Lư Khánh phải thắt cổ tự tử.
1527 Đoạn sông Thượng
chảy qua vùng Xương Giang. Khi ấy, quân thủy bộ ta lợi dụng đoạn
sông Thương này để bố trí bao vây địch ở mặt tây.
1528 Khu vực đóng quân
của địch ở phía bắc thành Xương Giang, đó là một vùng đồng ruộng và
xóm làng rộng lớn gồm xă Tân Dinh (thuộc huyện Lạng Giang, tỉnhHà
Bắc ngày nay) và xung quanh, cách Xương Giang 3 km.
1529 Ải Bàng Quan: hay
Nội Bàng, ở vùng Chũ, tỉnh Hà Bắc ngày nay.
1530 Trận này chỉ có một
tên chủ sự Phan Hậu trốn thoát về nước (Theo Hoàng Minh thực lục).
1531 Nghĩa là "ng̣i Nước
Lạnh".
1532 Lănh Câu và Đan Xá
là hai địa điểm gần của ải Lê Hoa.
1533 Tức là Liễu Thăng.
1534 Sửa lại thành Xương
Giang mới đúng.
1535 Niên Hiệu của Trần
Cảo, tức năm Bính Ngọ. 1426.
1536 Tức là Yên Phụ, Hà
Nội ngày nay.
1537 Chỉ lần xâm lược
nước ta vào năm 1407.
1538 Chữ (vũ) là do hai
chữ chỉ và qua hợp thành. "Chỉ qua": có nghĩa là "ngừng việc can
qua". Những bọn quan lại hiếu chiến cho rằng như thế là "bất vũ"
nghĩa là không anh hùng, không có uy vũ.
1539 Hương hộ: là những
hộ t́m kiếm hương liệu.
1540 Tức bài B́nh Ngô Đại
cáo do Nguyễn Trăi soạn. Khi dịch bài này, chúng tôi đă tham khảo
các bài dịch của Bùi Kỷ, Đào Duy Anh, Bùi Văn Nguyên, Vũ Khiêu.
1541 Do câu "điếu dân
phạt tội" ở Kinh Thư, nghĩa là thương xót nhân dân, đánh kẻ có tội.
1542 Lưu cung: vua Nam
Hán, sai con là Hoằng Thao đem quân sang xâm lược nước ta, bị Ngô
Quyền đánh bại
1543 Triệu Tiết: viên
tướng nhà Tống, sang xâm lược nước ta, bị Lư Thường Kiệt, đánh bại.
1544 Nguyên văn: Toa Đô
bị bắt ở cửa Hàm Tử. Ô Mă bị giết ở sông Bạch Đằng, chúng tôi sửa
một chút cho đúng sự thật lịch sử
1545 Dân đen, con đỏ: là
chỉ nhân dân nói chung.
1546 Muốn tiến về đông:
Nguyên văn là "dục đông", câu trong Hán thư. Khi Lưu Bang bị Hạn Vũ
bắt vào Tây Thục, bực dọc nói: "ta cũng muốn tiến về đông, sao chịu
ở măi chốn này". Câu này ư nói nghĩa quân chỉ lăm lăm muốn tiến về
Đông Đô (Hà Nội)
1547 Sử kư, Tín Lăng Quân
truyện: Tín Lăng Quân người nước Nguỵ nhge tiếng Hầu Doanh là một
hiền sĩ, đem xe đến đón, ḿnh ngồi phía hữu, để trống chỗ bên tả cho
Hầu Doanh. "Để dành phía tả" là có ư khao khát, tôn trọng người
hiền.
1548 Nguyên văn: "Yết can
vi kỳ", chữ trong Hán thư, ư nói cuộc khởi nghĩa có tính chất quần
chúng rộng răi.
1549 Manh lệ: manh chỉ
dân thường, nông dân; lệ là những người bị lệ thuộc, như nô tỳ, Mạnh
lệ là những người có thân phận hèn kém trong xă hội cũ.
1550 Nguyên văn: "Đầu lao
tướng sĩ". Xưa có viên tướng giỏi, được biếu một b́nh rượu ngon liền
đem rượu đổ xuống ḍng sông bảo quân sĩ cùng uống để tỏ ḷng đồng
cam cộng khổ từ trên xuống dưới.
1551 Mưu phạt tâm công:
đánh bằng mưu trí, đánh vào ḷng người.
1552 Tuyên Đức: là niên
hiệu của vua Tuyên Tông nhà Minh.
1553 Nguyên văn là "cùng
binh độc vũ".
1554 Thạnh, Thăng: là Mộc
Thạnh và Liễu Thăng.
1555 Bĩ rồi lại thái: qua
thời kỳ gian khổ, đến thời kỳ vui sướng, tươi sáng.
1556 Kiến Trung: là niên
hiệu của Thái Tông Trần Cảnh, Trần Cảnh lên ngôi năm Ất Dậu, 1225.
1557 Kiến Tân: Là niên
hiệu Thiếu Đế Trần An.
Trần An
bị phế năm Canh Thân. 1400.
1558 Chữ
Cảnh và chử An cùng có chử Hỏa ở dưới.
1559 Chỉ
nhà Tiền Lê do Lê Hoàn sáng lập.
1560 Đại
Lư: là tên một vương quốc trước đây ở Vân Nam, ở đây là chỉ vùng Vân
Nam, Trung Quốc.
1561 Tóc
dài, răng trắng: chỉ phong tục người Trung Quốc bấy giờ. Phong tục
của ta th́ tóc ngắn, nhuộm răng đen.
1562 Lưới
Thang: vua Thang nhà Thương thấy người đánh lưới chim bủa vây cả bốn
mặt, bèn cắt bỏ đi ba mặt, tỏ ḷng nhân đức.
1563 Họ
Hữu Miên trái mệnh, vua Thuấn cho múa mộc dưới thềm trong triều,
được 7 tuần th́ Hữu Miên quy phục.
1564 Tức
sách Việt giám thông khảo 26 quyển của Vũ Quỳnh, sách này chép từ
đời Hồng Bàng đến Mười hai sứ quân, làm phần Ngoại kỷ: từ Đinh Tiên
Hoàng đến khi Lê Lợi đuổi được giặc Minh làm phần Bản kỷ.
1565 Hỏa
thủ: chỉ huy, đội trưởng.
1566 Lũng
Nhai: tức Lũng Mi, tên nôm là làng Mé, thuộc xă Ngọc Phụng, huyện
Thường Xuân. Tại đây, vào ngày đầu tháng 2 năm Bính Thân 1416 có một
cuộc Hội thề lịch sử giữa Lê Lợi và 18 người đồng chí của ông. Những
người có công lao khó nhọc ở Lũng Nhai chỉ những người đă tham gia
khởi nghĩa buổi ban đầu.
1567 Bản
Chính Ḥa có ghi tên một người, nhưng ở bản chụp mà chúng tôi dịch,
chữ này bị mờ không đọc được. Các bản in khác chỉ có tên Lê Lễ mà
không có tên tên này. Theo CMCB 15, 3a th́ người đó là Lê nghiễn.
1568 Cha
đă chết gọi là "khảo', mẹ đă chết gọi là "tỷ".
1569 Thủ
tiễn: tên ném bằng tay, cũng gọi là phiêu.
1570 Sao
quân, sao đội: là người giữ việc biên chép trong 1 quân, 1 đội.
1571 Chỉ
việc không t́m được người họ Trần. Trong biểu cầu phong, Lê Lợi nói
là đă t́m khắp mọi nơi, nhưng không c̣n một người họ Trần nào để
lập.
1572
Nguyên văn là "định ngũ ngũ", hẳn là do khắc in sai.
1573
nguyên văn là "quan tỳ", sửa lại theo Minh sử.
1574 Vua
Minh trả lời là người con gái đă bị chết v́ bệnh đậu mùa.
1575 Ngôn
quan: Chỉ các quan giữ trách nhiệm khuyên can vua và đàn hặc các
quan.
1576
Tháng 2 này c̣n có việc bắt giết Trần Nguyên Hăn (xem CMCB 15, 20a).
1577 Năm
Thuận Thiên thứ 1, mùa hạ, tháng 4, có ghi sự kiện: "Sông Nhị nảy
vàng ṛng". Có lẽ ở đây nói tới số vàng đó.
1578 CMCB
15, 23 ghi rơ là mở khoa Minh kinh.
1579 Quy
chế đồng tiền, nguyên văn là "tiền pháp".
1580 Nguyên văn là "sao".
1581 Nguyên văn là
"tiền".
1582 Mao Toại: người đời
Chiền Quốc, gia khách của B́nh Nguyên Quân, ngày thường cũng như mọi
người, không lộ chút tài năng ǵ. Khi nước Ttriệu bị nước Tần đánh,
Mao Toại tự tiến cử ḿnh, xin cùng đi với B́nh Nguyên Quân sang cầu
cứu nước Sở. Kết quả là nhờ có Mao Toại thuyết phục được vau Sở,
nênlời giao ước "hợp tụng" để chống quân Tần được thực hiện.
1583 Nịnh Thích: Người
nước Vệ, nhà nghèo phải đi đẩy xe thuê. Một hôm, thấy Tề Hoàn Công
đi qua, Nịnh Thích gơ vào sừng trâu mà hát, Hoàn Công cho là lạ, đưa
về cho làm thượng khách, sau có nhiều công lao, được phong tới Tướng
quốc.
1584 Nguyên văn là
"thiếp" cũng như giấy chứng thực ngày nay.
1585 Nghĩa là tạm coi
công việc của nước An Nam.
1586 Theo CMCB 15, 28a,
th́ chỉ bắt được Nông Đắc Thái, c̣n Bế Khắc Thiệu bỏ chạy rồi chết.
1587 CMCB 15, 29a dẫn Hội
diễn của nhà Minh nói rằng: lệ cống gồm có các
1588 Cuối năm này có việc
giết Thái úy Phạm Văn Xảo, một khai quốc công thần rất có uy vọng.
1589 Châu Mường Lễ: trước
là châu Ninh Viền, sau đổi là châu Phục Lễ, là vùng đất tỉnh Lai
Châu ngày nay.
1590 Châu Phục Lễ: xem
chú thích trên.
1591 Về việc đánh châu
Phục Lễ, Cương mục chép vào tháng 12 năm Tân Hợi (1413) và tháng
giêng năm Nhâm Tư (1432), tháng 3 rút quân về, tháng 11, Đèo Cát Hăn
xin hàng (CMCB 15, 30). Đại Việt thông sử của Lê Quư Đôn cũng chép
như vậy. Điều đó phù hợp với bài thơ của Lê Lợi khắc ở Pú Huỗi vào
mùa đông năm Tân Hợi (1431) và bài thơ lúc trở về khắc ở Thác Bờ vào
tháng 3 năm Nhâm Tư (1432).
1592 Theo Lam Sơn thực
lục, lực lượng ban đầu có 35 quan vơ, một số quan văn, 200 thiết kỵ,
200 nghĩa sĩ, 14 thớt voi và số người tham gia, tất cả độ 2.000
người.
1593 Tức là đến khi Lê
Lợi mất.
1594 Tức bài Văn bia Vĩnh
Lăng, nói về sự nghiệp khởi binh đuổi giặc Minh, giành lại độc lập
của Lê Lợi. Bài văn này, Nguyễn Trăi soạn vào tháng 10 năm Quư Sửu
(1438) đặt ở Vĩnh Lăng, nơi chôn Lê Lợi.
1595 Cương mục, dẫn Hoàng
Việt dư địa chí, nói rằng điện này ở xă Lam Sơn,huyện Thuỵ Nguyên,
phủ Thiệu Hóa, nay là xă Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa
(CMCB 15, 33a).
Xét Minh sử, đoạn trước
chép: Hoàng Phúc từ Giao Châu trở về, trước đó, Mă Kỳ [47b] đă nhiều
lần tâu xin cho Phúc trở lại chức cũ, v́ người Giao Chỉ rất nhớ
Phúc. Vua Minh theo lời tâu, sau Phúc cùng đi với với Liễu Thăng.
Đến khi qu6an Minh bị thua. Phúc bị quân ta bắt được, xuống ngựa van
lạy, quân ta không nỡ giết.
Đoạn tiếp chép: Thành Sơn
hầu Vương Thông bỏ Giao Chỉ dẫn quân về, thủy quân theo sau. Bọn
thăng đă thua chết, Vương Thông hoảng sợ, bèn tập hợp các tướng sĩ
bàn rằng: Thành th́ không thể giữ nổi, đánh cũng không thể thắng
được, chi bằng giữ toàn quân rồi rút về Bắc. Mọi người đều theo.
Thông bèn giảng ḥa với vua. Lại v́ vua tâu với triều đ́nh xin lập
con cháu họ Trần, rồi sai người mang tờ biểu của Cảolà cháu 3 đời
của quốc vương An Nam xin lập làm ḍng dơi nhà Trần.
Sau khi dẹp yên giặc Ngô,
vua ban bố Đại cáo khắp thiên hạ. Toàn văn bài Đại cáo như sau1540
Việc nhân nghĩa cốt ở yên
dân,
[48a] Quân điếu phạt1541
trước lo trừ bạo.
Xét như nước Đại Việt ta,
Thực là 1 một nước văn
hiến.
Cơi bờ sông núi đă riêng,
Phong tục
Bắc Nam cũng khác.
Trải
Triệu, Đinh, Lư, Trần nối đời dựng nước,
Cùng Hán,
Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương,
Tuy mạnh
yếu có lúc khác nhau.
Song hào
kiệt không bao giờ thiếu.
Cho nên:
Lưu
cung1542 tham công mà đại bại.
Triệu
Tiết1543 thích lớn phải tan tành.
Cửa Hàm
Tử giết tươi Toa Đô,
Sông Bạch
Đằng bắt sống Ô Mă1544
Việc xưa
xem xét,
Chứng cứ
rành rành.
Vừa rồi:
V́ họ Hồ
chính sự phiền hà,
Để đến
nổi ḷng người oán hận.
Quân
cuồng Minh đă thừa cơ gây họa,
Bọn gian
tà lại bán nước cầu vinh.
Nướng dân
đen1545 [48b] trên lửa hung tàn,
Vùi con
đỏ xuống hầm tai vạ.
Dối trời
lừa người, kế quỹ quyệt đủ muôn ngàn khoé.
Gây binh
kết oán, tội chồng chất ngót hai mươi năm.
Tan nghĩa
nát nhân, trời đất tưởng chừng muốn sập.
Sưu cao
thuế nặng, núi chầm hết thảy sạch không.
Kẻ t́m
vàng phá núi đăi bùn, lặn lội nơi lam chướng,
Người ṃ
ngọc gịng gây quăng biển, làm mồi lũ giao long.
Nhiễu
dân, đặt cạm bẫy hưư đen,
Hại vật,
chăng lưới bắt chim trả.
Đến cỏ
cây sâu bọ cũng chẳng được trọn đời,
Người goá
bụa khốn cùng không một ai yên ổn.
Hút máu
mủ sinh dân, quân gian ác miệng răng nhờn béo,
Dựng công
tŕnh thổ mộc, nhà công tư dinh thự nguy nga.
Chốn châu
huyện, bao tầm sưu dịch.
Nơi xóm
làng, lặng lẽ cửi canh.
Tát cạn
nước Đông Hải không đủ rửa tanh nhơ,
Chặt hết
trúc Nam Sơn [49a] không đủ ghi tội ác.
Thần
người đều căm giận,
Trời đất
chẳng dung tha.
Ta:
Phát tích chốn Lam Sơn,
Nương ḿnh nơi hoang dă.
Ngẫn thế thù há đội trời
chung.
Thề nghịch tặc khó cùng
tồn tại.
Đau ḷng nhức óc đă trăi
mười năm,
Nếm mật nằm gai phải đâu
một buổi.
Quên ăn v́ giận sách lược
thao suy xét đă tinh,
Lấy xưa nghiệm nay, lẽ
hưng phế đắn đo càng kỹ.
Chí phục thù đă quyết.
Dẫu thức ngũ không quên.
Vừa khi cờ khởi nghĩa mới
dấy lên,
Chính lúc thế giặc đương
rất mạnh.
Thế mà:
Nhân tài như lá mùa thu,
Tuấn kiệt tựa sao buổi
sớm.
Bôn tẩu trước sau đă ít
kẻ đỡ đần,
Vạch mưu dưới trướng lại
ít người bàn bạc.
Chỉ v́: Chí muốn cứu dân,
những đăm đăm muốn tiến về đông1546 ,
Nên: cỗ xe đăi hiền, vẫn
canh cánh để dành phía tả1547 .
Nhưng: Được người đâu dễ,
mù mịt [49b] xa vời,
Mong tự đáy ḷng, giáp
hơn cứu đuối.
Phần giận quân thù chưa
bị diệt.
Phần lo vận nước c̣n lao
đao.
Khi Linh Sơn lương hết
mấy tuần,
Lúc Khôi huyện quân không
một lữ.
Bởi trời muốn thử thách
ta, để trao mệnh lớn,
Nên ta càng mài ư chí,
quyết vượt gian nguy.
Dựng gậy làm cờ1548 , tụ
hội bốn phương manh lệ1549 ,
Ḥa rượu mời lính1550 ,
dưới trên một dạ cha con.
Lấy yếu chống mạnh,
thường đánh bất ngờ,
Rốt cuộc: Lấy đại nghĩa
thắng hung tàn,
Lấy chí nhân thay cường
bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang
chớp giật.
Miền Trà Lân trúc chẻ tro
bay.
Sĩ khí do
đó càng tăng,
Quân
thanh từ đây càng dậy.
Bọn Trần
Trí, Sơn Thọ, nghe hơi mà mất vía,
Lũ Lư An,
Phương Chính, nín thở mong thoát thân.
Thừa
thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta [50a] chiếm lại,
Tuyển
binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều
máu chảy thành sông, trôi tanh muôn dặm,
Tốt Động
thây phơi đầy nội, để thối ngàn năm.
Tâm phúc
giặc, Trần Hiệp đă phải bêu đầu,
Mọt gian
giặc, Lư Lượng cũng đành bỏ bỏ mạng.
Vương
Thông gỡ rối, đám cháy lại càng bùng,
Mă Anh
cứu nguy, lửa thù càng thêm bốc.
Nó trí
cùng lực kiệt, chờ chết bó tay,
Ta mưu
phạt tâm công1551 , không chiến cũng thắng.
Tưởng
chúng phải đổi nết thay ḷng,
Ngờ đâu
cũng làm càn chuốc tội.
Khăng
khăng cố chấp, gieo vạ cho bao người.
Thiển cạn
tham công, mưu cười khắp thiên hạ.
Thế rồi
thằng nhăi ranh Tuyên Đức1552 hiếu chiến hung hăng1553 .
Lại sai
lũ hèn nhát Thạnh, Thăng1554 đem dầu chữa chạy.
Tháng 9
năm Đinh Mùi, Liễu Thăng bèn đem quân từ Khâu Ôn [50b] tiến sang,
Tháng 10
cùng năm ấy, Môc Thạnh cũng chia đường từ Vân Nam kéo đến.
Ta trước
đă chọn quân chẹn hiểm, bẻ mũi tiên phong,
Rồi sau
lại điều binh chặn đường cắt nguồn lương giặc.
Ngày 18
tháng ấy, Liễu Thăng bị quân ta tiến công, rừng Chi Lăng mưu đồ đổ
sụp.
Ngày 20,
Liễu Thăng bị quân ta đánh bại, núi Mă Yên tử trận phơi thây,
Ngày 25,
Bảo Định bá Lương Minh trận hăm phải bỏ ḿnh,
Ngày 28,
Thượng thư Lư Khánh kế cùng phải thắt cổ.
Ta thuận
đà, đưa dao tung phá,
Giặc bí
nước, quay giáo đánh nhau.
Kế đó,
lại tăng quân vây bức bốn bên,
Hẹn đến
giữa tháng 10 nhất tề diệt giặc.
Kén quân
tỳ hổ, chọn tướng vuốt nanh,
Voi uống
cạn sông, gươm mài vẹt núi.
Đánh một
trận, sạch sanh ḱnh ngạc,
Đánh hai
trận [51a] tan tác chim muông
Nó như
kiến tan đàn dưới bờ đê vỡ.
Ta tựa
cơn gió mạnh quét sạch lá khô.
Đô đốc
Thôi Tụ lê gối xin đầu hàng,
Thượng
thư Hoàng Phúc trói ḿnh đành chịu bắt.
Lạng
Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường,
Xương
GIang, B́nh Than máu trôi đỏ nước.
Ghê gớm
thay, sắc phong vân phải đổi,
Ảm đạm
thay, ánh nhật nguyệt phải mờ.
Binh Vân
Nam bị quân ta chẹn ở Lê Hoa, nơm nớp hoảnh kinh trước đà vỡ mật,
Bọn Mộc
Thạnh nghe qu6an Thăng bại ở Cần Trạm, xéo nhau tháo chạy, chỉ cốt
thoát thân!
Suối Lănh
Câu, máu chảy trôi chày, nước sông rền rĩ,
Thành Đan
Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đỏ ḷm.
Hai cánh
viện binh đă gót chẳng kịp quay, thảy đều đại bại,
Mấy thành
giặc khôn cũng nối nhau cởi giáp, lũ lượt ra hàng
Tướng
giặc bị [51b] tù, nó đă vẫy đuôi xin tha mạng sống,
Oai thần
không giết, ta cũng thể ḷng trời mở đức hiếu sinh.
Tham
tướng Phưong Chính, nội quan Mă Kỳ, được cấp trước năm trăm chiếc
thuyền, đă vượt biển, vẫn hồn bay phách lạc,
Tổng binh
Vương Thông, tham chính Mă Anh, lại được cho mấy ngàn cỗ ngựa, về
nước rồi, c̣n tim thót chân run.
Nó đă
tham sống sợ chết, thực bụng cầu ḥa,
Ta coi toàn quân là hơn,
để dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế cực kỳ
sâu xa,
Mà cũng xưa nay chưa từng
nghe thấy.
Xă tắc do
đó vững bền,
Non sông
từ đây đổi mới.
Trời đất
bĩ rồi lại thái1555 .
Nhật
nguyệt mờ rồi lại trong.
Để mở nền
thái b́nh muôn thuở,
Để rửa
mối sỉ nhục ngàn thu!
Âu cũng
nhờ trời đất, tổ [52a] tông linh thiên ngầm giúp mới được như vậy.
Ôi!
Một gươm
đại định, nên công oanh liệt vô song,
Bốn biển
thanh b́nh, ban chiếu duy tân khắp chốn,
Bố cáo
gần xa,
Mọi người
đều biết.
(Bản Đại
cáo này do văn thần Nguyễn Trăi soạn)
Tướng
Minh là bọn Vương Thông về đến Long Châu. vua Minh đă liệu trước bọn
Vương Thông cùng quẫn, việc đă đến thế, không làm thế nào được nữa,
đành sai bọn La Nhữ Kính mang thư sang phong Trần Cảo là An Nam Quốc
Vương, băi bỏ quân nam chinh, ra lệnh cho Thông trở về Bắc, trả lại
đất cho An Nam, việc triều cống theo lệ cũ năm Hồng Vũ, cho sứ thần
đi lại.
Phan Phu
Tiên nói: Nhà Trần dựng nước vào năm Kiến Trung1556 , mất nước vào
năm Kiến Tân1557 . Quân Minh vượt sông vào ngày 12 tháng 12 năm Bính
Tuất [1406], cũng phải rút về nước ngày 12 tháng 12 năm Đinh Mùi
[1427]. [52b]. dẫu rằng mưu người chẳng nên, âu cũng là vận trời có
số cả. Kể ra, Thái Tông tên húy là Cảnh, Thiếu Đế tên huư là An, nét
chữ gần giống nhau1558 . Quân Minh khi vượt sông, lúc về nước, đều
gặp ngày 12 tháng 12, có phải chỉ là t́nh cờ mà không do số trời
đâu!.
Ngô Sĩ
Liên nói: lạc tột cùng th́ trị b́nh sẽ tới, đó là vận hành của trời.
Thánh nhân sinh ra th́ muôn vật sống lại (quẻ Càn, Kinh Dịch), đó là
hanh thông của thời. Xét suốt các cuộc loạn lạc trong cơi nước Việt
ta, chưa bao giờ đến tột cùng như lúc này, các lần dấy nghiệp đế
vương chưa bao giờ khó khăn như lúc này.
Triệu Vũ
Đế nhân nhà Doanh tần rối loạn, trung nguyên không có kẻ đứng đầu,
quần hùng đánh lộn lẫn nhau, mà kiêm tính đất đai, chưa lấy ǵ làm
khó. Đinh Tiên Hoàng nhân nhà Ngô đă mất, mười hai sứ quân cát cứ,
mất hết kỷ cương, mà dựng nên nước, cũng chưa lấy ǵ làm khó. Nhà
Lê1559 thay nhà Đinh, nhà Lư thay nhà Lê, nhà Trần thay nhà Lư [53a]
đều là nối đời thái b́nh, nhân lúc suy loạn, lại càng dễ lắm. Nói
cho cùng, cũng đều chưa khỏi tiếng cướp ngôi, chẳng phải là hành vi
nhân nghĩa để phô cùng thiên hạ, cho mọi người sướng mắt trông vào,
như cuộc đổi đời của vua Thang vua Vũ!.
Họ Hồ
thoán nghịch, tự chuốc bại vong, giặc Minh tàn bạo, ḥng thay bờ
cơi. Chúng giả nhân, diệt nước, giết hại, làm càn. Dân nước Việt ta,
gan óc lầy đất. C̣n thơ cháu bé bị giáo gươm đâm chém, quăng xác
thảm thê. Người lớn th́ phía nam chạy xuống Chiêm Thành, phía tây
trốn sang Đại Lư1560 . Làng mạc hoang phế, xă tắc thành g̣ cho thỏ
chui, cho hưu chạy, thành băi hoang cho chim đỗ, thành rừng rậm cho
hổ báo náu ḿnh. Rồi giặc chia châu, đặt huyện, đắp lũy, đào hào,
đóng quân trấn giữ đến hơn hai mươi năm, thay đổi phong tục nước ta
theo tóc dài, răng trắng1561 , biến người nước ta trở thành người
Ngô, Than ôi! hoạ loạn tột cùng[53b] đến mức như vậy!.
Vua sinh
vào thời buổi ấy, bẩm chất văn vơ thánh thần, gặp lúc trời đất đoái
thương, không nỡ ngồi nh́n sinh dân lầm than, quân giặc ngang ngược.
Nghĩ rằng trách nhiệm thay trời đánh giặc chẳng ở ta th́ c̣n ai nữa!
Nhưng c̣n lo vận trời đang bĩ chưa thông, việc lớn gian nan khó nổi.
Thế rồi hội tụ bề tôi cùng chí hướng, tôi gươm thiêng cho sắc, giấu
tiếng chốn Lam Sơn, xem thế, đợi thời. Gặp việc th́ lo sợ, không dám
vội vàng. Giữ chổ hiểm, đặt phục binh, thường lấy ít để địch nhiều;
tính thời cơ, nắm chắc thắng, hay lấy yếu để chống mạnh. Khí giới,
lương thực phần nhiều lấy ở chổ giặc. Kinh dinh hơn mười năm, khốn
lo bao nhiều độ. Chỉ v́ mưu đă sâu, kế lại kỹ, cho nên hễ đánh là
thắng, đă phá là tan.
Đánh một
trận mà dẹp yên châu Hoan, châu Hóa; đánh hai trận mà b́nh định châu
Diễn, châu Ái. Thế rồi phất cao cờ chính nghĩa, [54a] tạo thế vững
đàng hoàng. Đưa quân vượt biển mà giặc ở Cổ Lộng, Chí Linh vỡ mật,
hành binh qua núi mà giặc ở Tam Giang, Đông Quan bay hồn.
Bọn Vương
Thông, Phương Chính đă kế cùng, đành giữ thành bền lũy chờ cứu viện.
Lửa không nhóm tự cháy, quả nhiên Liễu Thăng từ bắc tiến sang giúp
Hạ Kiệt làm càn. Lại thêm Mộc Thạnh từ phía tây cũng tới. Nực cười
hai đạo viện binh, giơ càng bọ ngựsa chống xe, há chẳng ngu sao!
Huống chi lấy chí nhân đánh bọn bất nhân, giặc tất phải khiêng thây
mà chịu trói. Thú cùng trong cũi, vẫy đuôi xin tha. Th́ rủ ḷng nhân
mà mở lưới Thang1562 , cho múa mộc để phô đức Thuấn1563 . Cuối cùng
tha cho mười vạn quân hàng, được toàn mạng mà về bắc. Bốn biển hân
hoan chiêm ngưỡng, thỏa ḷng đă được hồi sinh. Phương xa mến đức sợ
uy, chúc cống chăm lo hết phận. Ôi ! thịnh thay!.
Thế mới
biết, họa loạn [54b] đến tột cùng th́ trị b́nh càng vững chắc. Nhân
nghĩa càng sâu th́ ảnh hưởng càng xa. Trời xoay vần, thời thông
suốt, nay đúng là lúc vận hội bắt đầu.
Xét sách
Toàn thư, tính bắt đầu từ năm Giáp Ngọ [1414], chấm dứt ở năm Đinh
Mùi [1427], cả thảy là 14 năm phụ thuộc nhà Minh. Nếu tính suốt từ
năm Giáp Ngọ [207 TCN] đời Triệu Vũ Đế trở về, đến năm Đinh Mùi quân
Minh rút về nước,là 1.634 năm, tính gồm cả Ngoại kỷ là 2.672 năm.
Nay chép theo sách Việt giám1564 , nhưng không dám không chép sách
Toàn thư để tham khảo.
Mậu Thân,
Thuận Thiên năm thứ 1, [1428], (Minh Tuyên Đức năm thứ 3). Mùa xuân,
tháng giêng, quân Minh đă về nước, vua bèn thâu tóm cả nước, lấy năm
này làm năm đại định:
Lời bàn:
Từ khi đất trời định vị, th́ Nam, Bắc chai rạch ṛi. Phương Bắc dẫu
lớn mạnh nhưng không thể [55a] đè nén được phương Nam, cứ xem các
thời Lê, Lư, Trần cũng đủ biết. V́ thế, cuối đời Tam Quốc, phương
Nam tuy có suy yếu, nhưng cũng chỉ có nội loạn thôi. Đến như nhà
Nhuận Hồ th́ bạo ngược đă quá, mà đến nỗi mất nước, thân nhục, giặc
Bắc hung tàn, dân Nam khốn khổ. May mà ḷng trời c̣n đó, thánh chúa
ra đời, chinh phục bằng nghĩa, đánh dẹp bằng nhân, non sông mới được
đổi mới, nhật nguyệt mới lại sáng tươi. Nhân dân từ đây b́nh yên,
nước nhà từ đây thuận trị. Đó là do vua tôi một dạ, trên dưới cùng
ḷng vậy. Ôi ! loạn tột tất phải tri, nay đă thấy điều này.
Ngày mồng
10, Trần Cảo uống thuốc độc chết.
Bấy giờ
các quan đều dâng sớ nói Trần Cảo không có công ǵ với dân, sao lại
ở trên mọi người, nên sớm trừ đi. Vua cũng biết là như vậy, nhưng
trong ḷng không nỡ, đối xử càng hậu. Cảo biết người trong nước
không phục ḿnh, bèn ngầm đi thuyền vượt biển [55b] trốn vào châu
Ngọc Ma. Đến Ma Cảng (đất Nghệ An) quan quân đuổi bắt được, đem về
Đông Quan, bắt uống thuốc độc chết.
(Có
thuyết nói rằng: Trước đây, sau khi lập Cảo, vua cho Cảo đóng dinh ở
núi Không Lộ, sau dời sang Ninh Giang. Đến năm này,chuyển về thanh
Cổ Lộng. Cảo tự nghĩ là trời không thể có hai mặt trời, nước không
thể có hai vua, ḿnh không có công ǵ với thiên hạ mà ở ngôi tôn,
nếu không sớm liệu, sợ nỗi hối hận sau này. Rồi ngầm đi thuyền ra
biển mà chết.
Có thuyết
nói rằng: Cảo tự biết người trong nước không phục, bèn cùng với bọn
Văn Nhuệ ngầm đi thuyền biển trốn đến ải Cổ Lộng, vua sai người đuổi
bắt giết đi, vứt xác vào bụi gai. Lúc Cảo chết, có câu khẩn trời, ai
nghe cũng phải thương xót, thiên hạ cho là oan. Sau này, thời Lê mạt
, Trần Cảo làm loạn, tương truyền đó là khiếp sau của Trần Cảo này.
Có thuyết
nói rằng: Trần Cảo tên là Địch, trong nạn giặc Minh, Địch ẩn náu
trong dân, đến khi Thái Tổ dấy quân, thấy ḷng người vẫn nhớ nhà
Trần, cho nên lập lên, Thái Tổ nói kín rằng: "Ta trải trăm
trận mới
lấy được thiên hạ, mà hắn lại giữ ngôi Cao". Cảo sợ hăi, chạy đến ải
Cổ Lộng, Thái Tổ sai người đuổi theo giết đi, ném xác vào bụi gai).
Hạ lệnh
cho các quan Tư không, Tư đồ, Tư mă, Thiếu úy, Hành khiển bàn định
pháp lệnh cai trị quân dân, để người làm tướng biết phép trị quân,
quan các lộ biết phép trị dân, cũng để răn dạy quân [56a] dân biết
là có pháp luật. Mọi công việc đều có các cơ quan phụ trách riêng,
dâng lên vua xem.
Hạ lệnh
cho các tướng hiệu và các quan rằng: Từ xưa tới nay, trị nước phải
có pháp luật, không có pháp luật th́ sẽ loạn. Cho nên học tập đời
xưa đặt ra pháp luật là để dạy các tướng hiệu, quan lại, dưới đến
dân chúng trăm họ biết thế nào là thiện, là ác, điều thiện th́ làm,
điều chẳng lành th́ tránh, chớ để đến nỗi phạm pháp.
Hạ lệnh
cho các đại thần, thiếu úy, chấp lệnh, truyền lệnh cho các lộ, nếu
thấy ngụy quan, thổ quân và dân chúng từ các thành trốn ra mà che
dấu, không giải tŕnh th́ chém. Lại hạ lệnh cho các lộ tra xét những
người lạ mặt qua lại, ai dám dung túng cho giặc Minh và ngụy quan
trốn lọt mà không biết, th́ lộ quan cùng người thủ đội đều bị chém.
Hạ lệnh
cho con em các nhà đầu mục và các tướng hiệu đều nên trở về nhận
ruộng đất ở quê cha đất tổ, để chấm dứt nạn tranh chiếm ruộng đất.
Nhà Minh
có chiếu nói rằng: Tất cả bọn quan lại, quân nhân của triều đ́nh
[56b] sai sang c̣n bị giam giữ đều phải trả về hết, các vũ khí c̣n
giữ lại cũng phải đưa nộp. Vua bèn cho yết bảng nghiêm cấm, nếu
người nào chứa giấu quan quân của nhà Minh từ 1 người trở lên th́
giết không tha. Người ra thú lục tục cho đưa về Yên Kinh.
Tháng 2,
định các mức khen thưởng cho những hỏa thủ1565 và quân nhân của quân
Thiết đột có công lao siêng năng khó nhọc ở Lũng Nhai1566 gồm 121
người.
Công
hạnng nhất, được ban quốc tính là bọn Lê Vấn, Lê Quy, Lê Dịch, Lê Ê
52 người làm Vinh lộc đại phu, tả Kim ngô vệ đại tướng quân, tước
Thượng trí tự.
Công hạng
hai, được ban quốc tính là bọn Lê Bồ, Lê Liệt, Lê Khảo 72 người, làm
Trung lượng đại phu, tả Phụng thần vệ tướng quân, tước Đại trí tự.
Công hạng
ba, được ban quốc tính là bọn Lê Lễ, Lê...1567 94 người, làm Trung
vũ đại phu Câu kiềm vệ tướng quân, tước Trí tự.
Hành
khiển Lê Cảnh [57a] phụng mệnh làm biểu ngạch.
Nhà Minh
sách phong hoàng trưởng tử Kỳ Trấn làm Hoàng thái tử.
Tháng 3,
ngày mồng 8, chánh sứ nhà Minh là Lễ bộ tả thị lang Lư Kỳ và Công bộ
hữu thị lang La Nhữ kính, phó sứ là Thông chính sứ ty hữu thông
chính Hoàng Kư và Hồng lô tự khanh Từ Vĩnh Đạt đến kinh sư.
Trước
đây, tháng 8, năm Đinh Mùi [1427], vua sai bọn Lê Thiếu Dĩnh sang
nhà Minh dâng biểu cầu phong, xin lập con cháu nhà Trần. Tháng 11,
nhà Minhb sai bọn Lư Kỳ, Nhữ Kính mang chiếu dụ và lệnh ân xá sang,
đến nay tới kinh sư.
Ngày 18, sai sứ sang nhà
Minh.
Bấy giờ bọn Lư Kỳ, La Nhữ
Kính về nước, vua sai bọn Hộ bộ lang trung Lê Quốc Khí (cháu ruột
Thái Tổ), Phạm Thành sang tạ ơn, bọn Khu mật thiêm sự Hà Phủ, Hà
Liễn sang báo tang của Trần Cảo, cùng đi với bọn Kỳ.
Phong con thứ là Nguyên
Long làm Lương quận công.
[57b] Đại hội các tướng
và các quan văn vơ để định công, ban thưởng, xét công cao thấp mà
định thứ bậc.
Lấy thừa chỉ Nguyễn Trăi
làm Quan phục hầu; tư đồ Trần Hăn làm Tả tướng quốc; Khu mật đại sứ
Phạm Văn Xảo làm Thái Bảo; đều được ban quốc tính.
Chia cả nước làm ba đạo.
Đạo đặt vệ quân, vệ đặt Tổng quản, lớn nhỏ giữ ǵn nhau, trên dưới
ràng buộc nhau. Lại đặt chức Hành khiển các đạo để chia giữ sổ sách
quân, dân.
Sai các quan chia nhau đi
tế thần kỳ núi, sông, đền, miếu các xứ và lăng tẩm của triều trước.
Truy tôn thuỵ hiệu từ
khảo tỷ1568 trở lên.
Tổ khảo Đinh làm Chiêu
Đức Hoàng Đế, bà là Nguyễn Thị Quách làm Gia Thục hoàng hậu, cha là
Khoáng làm Tuyên Tổ Hoàng Đế, mẹ là Trịnh Thị Thương làm Ư Văn hoàng
hậu.
Mùa hạ, tháng 4, vua từ
điện tranh ở Bồ Đào về đóng ở thành Đông Kinh.
Ngày 15, vua lên ngôi ở
Đông Kinh, đại xá, đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là
Đại Việt, [58a] đóng đô ở Đông Kinh (tức là thành Thăng Long. V́
Thanh Hóa có Tây Đô, cho nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh).
Xuống chiếu rằng, các thứ
thuế như tô ruộng, vàng bạc, đầm phá, băi dâu trong cả nước, đều tha
cho 2 năm không thu, những người già ở các lộ từ 70 tuổi trở lên
được miễn sai dịch, những người con hiếu thảo, đàn bà góa giữ tiết
th́ cho các quan ở lộ tâu lên để biểu dương khen thưởng. Các gia
đ́nh quân, dân, nếu trong 1 hộ có 3 người sung quân th́ cho miễn 1
người. Những lăng miếu của đế vương và công thần các đời th́ cho
huyện sở tại làm bản tâu lên để xét cấp cho người quét dọn.
Ngày 17, ra lệnh chỉ
rằng, từ sau ngày chiếu thư ban ra, nếu quân hay dân có dâng thư nói
việc ǵ th́ phải theo đúng niên hiệu, quốc hiệu, đô hiệu như trong
chiếu thư, ai trái thế th́ phải xử phạt trượng hay biếm chức; những
giấy tờ, văn khế, khoán ước về mua bán, đổi chác, vay mượn mà không
theo đúng như trong chiếu thư th́ sẽ không có giá trị.
Ngày 20, ban các chữ húy
tông miếu và chữ húy tên vua. Tất cả các chữ húy chính khi viết đều
không được [58b] dùng, nếu đồng âm mà khác chữ th́ không phải húy.
Húy Tông miếu có 5 chữ:
Hiển Tổ Chiêu Đức Hoàng Đế húy là Đinh, Hiển Tổ Tỷ Gia Thục Hoàng
Thái Hậu húy là Quách, Tuyên Tổ Hiến Văn Hoàng Đế húy là Khoáng,
Trinh Từ Ư Văn Hoàng Thái Hậu húy là Thương, huư của vua là Lợi, của
hoàng hậu là Trần, của anh vua là Học.
Khi có chiếu lệnh đại xá
đều xưng là Thuận Thiên Thừa Vận Duệ Văn Anh Vũ Đại Vương, hiệu là
Lam Sơn động cbủ.
Sông Nhị nảy vàng ṛng,
các quan dâng biểu chúc mừng.
Truy tặng Lê Thạch làm
Trung Vũ Đại Vương, đưa vào thờ ở tẩm miếu.
Lấy Lê Tri Vận làm tri Tả
hữu ban, phong liệt hầu; Nguyễn Lỗ là Xa kỵ vệ tổng tri (Tả hữu ban
nắm kho tàng của nhà nước, tổng tri th́ coi quân). Hai người đều là
họ ngoại. Tri Vận v́ có công làam con tin trong thành, sau được tặng
phong Nguyên cữu Quan nội hầu.
Ra lệnh chỉ cho các lộ là
nơi nào bị quân giặc cướp phá [59a] th́ được miễn giảm thuế.
Trị tội các ngụy quan.
Bọn Lê Thiếu Dĩnh từ nước
Minh trở về.
Trước đó, tháng 11 năm
Đinh Mùi [1472], vua sai bọn Thiếu Dĩnh sang trần t́nh với nhà Minh.
Tháng 3 năm nay, Lê Thiếu
Dĩnh dến Yên Kinh dâng biểu. Đến đây trở về, vua Minh ban cho Thiếu
Dĩnh áo vóc hoa, tiền giấy và có sắc dụ cho nước ta, đại ư nói:
Lập con cháu nhà Trần là
việc rất quan trọng, phải hợp với ḷng người trong nước, không được
tự tiện chuyên quyền, phải cùng với các bô lăo, tŕnh bày sự thực về
người cháu đích tôn củ họ Trần, tâu lên để làm bằng cứ mà ban chiếu
sắc phong. Số người và chiến khí c̣n bị giữ lại, cũng đưa trả về
hết.
Tháng 4 nhuận, ra lệnh
chỉ rằng:
Những quân dân bị bắt vào
bốn thành Tây Đô, Đông Kinh, Cổ Lộng, Chí Linh đă được bổ vào các
quân phụ vào quân Thiết đột mà có ruộng đất, nhà cửa bị tịch thu thỉ
được trả lại.
Bọn Thành Sơn hầu Vương
Thông nhà Minh [59b] về đến Yên Kinh, bị các quan hặc tội, đều phải
giam vào ngục Cẩm y vệ, có chiếu tha tội chết, biếm quan tước.
Ra lệnh chỉ cho bọn đại
thần định lại các quan lộ, huyện, quan trấn thủ, cùng các quan giữ
đầu nguồn, cửa biển và những nơi xung yếu, đều phải dùng những người
tài giỏi, liêm khiết, chính trực, cho các đại thần đều được tiến cử.
Đúc tiền Thuận Thiên.
Mây xanh xuất hiện, có
cánh, có1 chân, bên dưới có mâm ngọc, hai bên tả hữu tựa như h́nh
hai con cá chép vờn nhau.
Mùa hạ, tháng 5, ngày 12,
vua và các đại thần cùng nghị bàn việc nước; quyết định các quan
viên, các quan trấn thủ tại các lộ, trấn và những nơi xung yếu, định
luật lệnh kiện tụng, quy chế về chức tước.
Tháng 6, ra lệnh cho các
đại thần khảo xét các quan trong ngoài; hạng nhất là những người có
tài văn vơ, tháo vát, tinh nhanh; hạng nh́ là những người biết chữ
tháo vát tinh nhanh; hạng ba là những người viết tinh, viết thảo,
làm tính; ngoài ra [60a] những người không được xếp hạng nào th́ kê
riêng thành một hạng.
Ra lệnh cho các đại thần
và các quan văn vơ đều tiến cử người hiền lương phương chính, nếu
tiến cử được người giỏi th́ được thăng thưởng theo lệ tiến cử hiền
thần, nếu v́ tiền tài, v́ thân quen, tiến cử người không tốt th́ bị
trị tội theo lệ tiến cử kẻ gian.
Ngày 26, ra lệnh chỉ cho
các đại thần và các quan văn vơ rằng:
" Trẫm là người thế nào
mà được trao mệnh trời? Nhờ đâu mà thành nghiệp lớn? Hiện nay công
việc của triều đ́nh rất bề bộn, việc ǵ nên làm trước, việc ǵ nên
làm sau? Các tướng trong triều ai có thể cáng đáng được việclớn, có
thể trao cho sứ mệnh ở ngoài ngàn dặm? Ai là người có thể dạy dỗ
thái tử?".
Mùa thu, tháng 8, lấy
ngày sinh làm Vạn Thọ thánh tiết (tức ngày mồng 6).
Ngày mồng 10, quy định cờ
xí, nghi trượng, chiến khí, thuyền bè của các quân: trung đội cờ
vàng, thượng đội [60b] cờ đỏ, hạ đội cờ trắng.
Mỗi vệ có 1 lá cờ lớn của
chủ tướng. Mỗi quân có 1 lá cờ hạng trung, 10 lá cờ đội, 40 lá cờ
nhỏ, 10 chiếc thuyền hỏa chiến, 2 chiếc thuyền nhỏ trinh sát, 1
chiếc ống phun lửa "Đại tướng quân", 10 ống phun lửa cỡ lớn, 10
chiếc cỡ trung, 80 chiếc cỡ nhỏ, nỏ cứng 50 chiếc, câu liêm 50 cái,
giáo dài 50 cái, phi liêm 40 cái, mộc mỗi người 1 chiếc, phiêu th́
mỗi người dùng 4 thủ tiễn1569 hạng nhất, hạng nh́ th́ mỗi
người dùng 3 chiếc, đại
đao th́ mỗi người dùng 1 thanh. Mỗi quân dùng 1 người làm sao quân,
mỗi đội dùng một người làm sao đội1570 .
Ra lệnh chỉ đổi chức hỏa
đầu thành chánh phó ngũ trưởng.
Ngày 20, nhà Minh có sắc
thư [yêu cầu] trả bọn lại nah6n mà GAio Chỉ đă cấp ruộng đất cho ở
để họ trở về nước.
Tháng 9, ngày 21, nhà
Minh sai bọn La Nhữ Kính, Từ Vĩnh Đạt lại mang sắc thư sang dụ vua
rằng họ Trần nhiều đời vẫn được ḷng người, bảo vua phải ḍ t́m cho
được con cháu họ Trần mà tâu lên để ban cho mệnh lệnh nối ḍng đă
tuyệt. Lại bảo rằng đó 1571 hẳn là do các đầu mục bô lăo chưa hỏi
khắp, có thể vẫn c̣n người, nhưng họ chưa dám nói ra.
Lại dụ rằng [61b] những
quan lại và quân nhân c̣n giữ lại hăy đưa trả cho hết, các đồ quân
khí c̣n lưu lại cũng nộp trả cho hết.
Ban tiền giấy và chi phí
dọc đường cho bọn Nhữ Kính, đồng thời ban tiền giấy và áo lót vóc
hoa cho sứ nước ta là bọn Lê Quốc Khí, sai họ cùng đi với bọn Nhữ
Kính.
Quy định phẩm tước của
quan chức văn vơ. Ban quốc tính cho các công thần. Thải quân già
yếu, quy định biên chế quân ngũ1572 .
Mùa đông, thán 10,, ngày
11, có lệnh thôi kiêng húy chữ "Nguyễn".
Ngày 12, ra lệnh cho các
vệ quân đều đặt hỏa thủ làm chánh phó ngũ trưởng..
Ngày 19, sứ nhà Minh là
bọn Nhữ Kính về nước. Vua sai bọn Hà Lật sang tạ ơn nhà Minh và nộp
lễ cống, tượng người vàng thế thân, và tâu rằng đă t́m hỏi con cháu
họ Trần nhưng không c̣n người nào, các quan quân ra thú cũng đă lục
tục đưa về rồi.
[62a] Tháng 11, ngày mồng
1, vua sai bọn Đỗ Như Hùng sanh nhà Minh tâu bày rằng con cháu họ
Trần quả thực không c̣n ai, các quan lại, quân nhân cùngkhí giới bắt
được của nhà Minh đă đưa trả hết rồi, không c̣n giam giữ, chúa giấu
ǵ cả. Lại xin trả lại người con gái của vua bị lạc.
Trước kia, trong buổi
loạn ly, vua bị lạc mất người con gái nhỏ mới lên 9 tuổi. Viên nội
quan nhà Minh là Mă Kỳ đem về nuôi, rồi đưa về Yên Kinh tiến làm
cung tỳ1573 . Đến đây, vua sai sứ sang xin về1574 .
Ngày 24, giết bọn giặc
phản nghịch tên là Phong, tên Nhữ Hốt, tên An Vinh, tên Trung, tên
Tồn, tên Sĩ Văn, tên Sùng Lễ, tên Xác.
Trước kia, bọn Phương đón
hàng giặc Minh, giúp giặc làm điều bạo ngược, chống lại quan quân.
Đến khi giặc Minh bị dẹp mới ra đầu hàng, được vua tha tội cho.
Nhưng bọn Phong vẫn gây nhiều tội ác không chịu chừa, lại âm mưu làm
loạn, ngấm ngầm [62b] kết bè đảng, viết thư mật, ngầm sai người
điđường tắt tới xui quân Minh gây sự, bọn chúng sẽ làm nội ứng.
Người mang thư bị Thượng tướng Thái Nguyên là Hoàng Nguyên Ư bắt
được. Vua giết tên đưa thư rồi giấu chuyện ấy đi. Tháng 8, lại có
một tên trong bọn đến cáo giác, việc cũng giống thế. Đến đây, vua
mới hạ chiếu giất cả bọn.
Ngày 25, làm sổ ruộng
đất, sổ hộ tịch.
Ra chỉ thị cho các phủ,
huyện trấn, lộ khaám xét các chằm băi, ruộng đất, mỏ vàng bạc, những
sản vật núi rừng trong hạt, các loại thuế ngạch cũ, cùng ruộng đất
đă sung công của các nhà thế gia và những người tuyệt tự, và ruộng
đất của những bọn đào ngũ, hạn đến trung tuần tháng 2 năm Kỷ Dậu
tŕnh lên. Sổ hộ tịch năm
Mậu Thân và sổ ruộng đất năm Kỷ Dậu th́ dến tháng 4 năm Quư Sửu sẽ
nộp. Khi làm sổ ruộng đất và hộ tịch th́ khai cả từng hạng nguỵ
quan.
[63a] Ngày 27, ra lệnh
chỉ đặt xă quan. Xă lớn từ 100 người trở lên th́ đặt 3 viên, xă vừa
từ 50 người trở lên đặt 2 viên, xă nhỏ 10 người trở lên đặt 1 viên.
Ngày 28, ra lệnh chỉ cho
các quan viên và quân dân cả nước, hạn đến tháng 5 sang năm tới Đông
Kinh để các quan văn hỏi thi kinh sử, ai tinh thông được bổ làm quan
văn; các quan vơ hỏi thi về vơ kinh, pháp lệnh, kỳ thư...
Tháng 12, ngày mồng 7, ra
lệnh chỉ cho các quan văn quan vơ: Người nào đă đưa vợ con lên lẫn
tránh ở núi rừng cùng trẫm mưu lo việc nước, từ ở Mường Thôi đến Bồ
Đằng, Chí Linh, Khả Lam th́ cho con hoặc cháu được miễn các việc
quân dịch và dân dịch. Nếu đă làm quan th́ không thuộc lệ này. Con
cháu, anh em của tên nào đă bỏ đạo nghĩa, cầu an hàng giặc th́ không
được nhận. [63b] Ai làm trái th́ xử tội biếm hay băi chức.
Ngày 22, ra lệnh chỉ cho
các quan phủ, huyện, lộ, trấn, xă, sách đối chiếu, khám xét ruộng
đất, đầm băi công tư trong các huyện, xă của lộ ḿnh, cùng cá mú,
hoa quả, mắm muối và các rạch cá tư ngoài cửa biển, các loại vàng,
bạc, ch́, thiết, tiền.
Vua làm điện Vạn Thọ, lại
làm Tả, Hữu điện, điện Kính Thiên, điện Cần Chính.
Chế tạo chiến khí, thuyền
bè.
Đúc tiền Thuận Thiên
thông bảo, cứ 50 đồng là 1 tiền.
Trước kia, thời Trần Thái
Tông Kiến Trung năm thứ 2 [1226] có chiếu quy định trong dân gian
tiêu tiền th́ mỗi tiền là 69 đồng, dùng chính thức là 70 đồng.
Kỷ Dậu, [Thuận Thiên] năm
thứ 2 [1429], (Minh Tuyên Đức năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng,
ngày mồng 4, ra lệnh chỉ cho các quan, cho kinh đô [64a] và các lộ,
huyện, xă rằng:
Kẻ nào du thủ thực, đánh
cờ đánh bạc th́ quan ty và quân dân bắt nộp để trị tội. Đánh bạc th́
chặt 5 ngón tay, đánh cờ th́ chặt 1 ngón tay, những kẻ không phải là
việc quan mà vô cớ tụ họp uống rượu th́ xử phạt 100 trượg, người
chúa chấp bị tội kém một bậc.
Ra lệnh chỉ cho các quan
lộ, huyện, xă rằng:
Hễ là ấn công th́ do viên
chánh giữ. Ở các lộ th́ Tri phủ giữ ấn, không có Tri phủ th́ Trấn
phủ giữ ấn. Ở các huyện th́ Tuần sát giữ ấn. Nếu không có Trấn phủ,
Tri phủ th́ dùng Chiêu thảo hoặc Pḥng ngự giữ ấn. Có việc th́ cùng
bàn với nhau đáng đóng dấu th́ mới dùng.
Ngày mồng 7, sai Nhập nội
kiểm hiệu b́nh chương sự Lê Vấn, Nhập nội đại tư mă Lê Ngân , Nhập
nội thiếu phó Lê Văn Linh mang kim sách lập Hữu tướng quốc Khai quân
công Tư Tề làm Quốc [64b] vương, giúp coi việc nước.
Sai Nhập nội tư khấu Lê
Sát, Tư không Lê Nhân Chú, Nhập nội tư mă Lê Lư, Nhập nội thiếu úy
Lê Quốc Hưng mang kim sách lập Lương quận công Nguyên Long làm Hoàng
thái tử.
Ngày mồng 8, ra lệnh chỉ
cho đại thần và các quan văn vơ cùng các lộ, phủ, huyện, châu, trấn
rằng:
Nếu ai có việc đến Quốc
vương và Hoàng thái tử th́ dùng chữ "khải", chứ không được dùng chữ
"tấu" và xưng là "Quốc vương điện hạ", "Thái tử điện hạ". Nếu Quốc
vương có tuyên cáo hiệu lệnh ǵ th́ dùng chữ "Quốc vương chỉ huy",
không được dùng chữ "sắc".
Ngày mồng 9, ra lệnh chỉ
rằng:
Quan vơ từ chức Quản
lĩnh, quan văn từ chức Hành khiển trở lên, ai có con trai từ 5 tuổi
trở xuống, 9 tuổi trở lên, cho được vào hầu Hoàng thái tử. Ngày 15
tháng này, tới học đường đề kiểm mục, quan Nội mật viện [65a] lấy
danh sách. Quan vơ từ Đồng tri trở xuống đến Đại đội trưởng, Đội
trưởng
trở lên, quan văn từ
Thượng thư trở xuống đến thất phẩm, ai có con trai 17 tuổi trở
xuống, 9 tuổi trở lên tới nhà Quốc học điểm mục để học quan lấy danh
sách dạy học.
Ngày 22, ra lệnh chỉ cho
quan văn vơ đại thần nghị bàn việc lớn của nhà nước.
Như người đi đánh giặc
th́ nghèo, kẻ rong chơi th́ giàu. Người đi chiến đấu th́ không có
một thước, một tất đất mà c̣n ở những kẻ du thủ du thực, không có
ích ǵ cho nước lại có quá thừa ruộng đất, hoặc đi làm nghề trộm
cướp. Thành ra không có ai chịu hết ḷng với nước, chỉ ham nghĩa phú
quư mà thôi. Nay ra lệnh chỉ cho các đại thần bàn định số ruộng cấp
cho quan lại, quân nhân và dân chúng, trong từ đại thần trở xuống,
dưới đến người già yếu, mồ côi, góa chồng, đàn ông, đàn bà trở lên,
loại nào được cấp bao nhiêu th́ tâu lên.
[65b] Tháng 2, ngày 21,
ra lệnh chỉ cho tướng hiệu và quân nhân các vệ quân năm đạo rằng:
Đến ngày 27 sẽ diễn tập
chiến trận thủy, bộ, ai vắng mặt sẽ bị trị tội. Diễn tập xong, sẽ
chia mỗi vệ thành 5 phiên, 1 phiên ở lại, c̣n 4 phiên cho về làm
ruộng.
Ngày 26, ra lệnh chỉ cho
đại thần và các quan Hành khiển:
Nếu thấy các điều lệnh
của trẫm có điều ǵ bất tiện cho việc quân, việc nước, hoặc các việc
sai dịch không hợp lư, hoặc thuế khóa nặng nề, hoặc có việc tà dâm
bạo ngược, th́ tâu xin sửa lại.
Lại ra lệnh chỉ cho các
ngôn quan1575 rằng:
Nếu thấy trẫm có chính
lệnh hà khắc, thuế má nặng nề, ngược hại lương dân, thưởng công phạt
tội không đúng, không theo đúng phép xưa, hay các đại thần, quan
lại, tướng hiệu, quan chức trong ngoài không giữ phép, nhận hối lộ,
nhiễu hại lương dân, thiên hư phi pháp, th́ phải lập tức dâng sớ đàn
hặc ngay. Kẻ nào cứ ngồi nh́n mà dung túng, chỉ giỏi tṛ vặt, cùng
là nói hăo không đâu, [66a] th́ phải chiếu luật trị tội. Lại như các
quan vào sân điện, nếu để áo, mũ, cân đai không đúng phép, đi lại
ngang dọc không theo đúng lễ phép, th́ ngôn quan không được coi là
phận sự của ḿnh mà đàn hặc, v́ việc ở điện đ́nh đă có Tổng quan và
Chỉ huy sứ năm quân Thiết đột, Ngự tiền Thiết đột, Nội mật viện xét
hoặc1576 .
Tháng 3, ngày 20, ra lệnh
chỉ cho Đô tổng quản và Quản lĩnh các đạo cùng quan viên các phường
trong kinh thành rằng: Hiện nay, phần đất của các qau6n và phủ đệ
của công hầu trăm quan đều có phần nhất định, nên trồng cây trồng
hoa và các loại rau đậu, không được để đất hoang, ai không theo thế
th́ mất phần đất của ḿnh. Các công hầu đă được ban cho đất ở, nếu
trong phần đất của quân Thiết đột th́ không cho quá nhiều, chỉ từ 5
sào trở xuống; nếu không phải trong phần đất của quân Thiết đột
[66b] th́ cho 2 mẫu trở xuống đến 1 mẫu. Nếu đă được chia ruộng đất
vườn nhà nhất định rồi, lại c̣n chiếm đất trong thành Đại La làm nhà
cửa khác nữa th́ không được.
Mùa hạ, tháng 4, ngày 27,
ra lệnh chỉ cho đại thần và trăm quan phải nộp số vàng lấy được ở
bến Đông1577 cho nhà nước tùy theo thứ bậc: chánh nhất phẩm nộp 2
lạng, ṭng nhất phẩm 1 lạng rưỡi, ch1nh nhị phẩm 1 lạng, ṭng nhị
phẩm 5 đồng cân, chánh tam phẩm đồng cân, ṭng tam phẩm 2 đồng cân,
chánh tứ phẩm đến chánh ngũ đều 1 đồng cân, c̣n từ ṭngngũ trở xuống
không phải nộp.
Ngày 30, ra lệnh chỉ
rằngnhững nguỵ quan trước đă có lệnh cho tha tôi chuộc mệnh, th́ cho
miễn cả ruộng đất (không phải sung công).
Tháng 5, ngày mồng 3, ban
biển ngạch công thần cho 93 viên: Huyện thượng hầu 3 người là Lê
[67a] Vấn, Lê Sát, Lê Văn Xảo. Á thượng hầu 1 người là Lê Ngân.
Hương thượng hầu 3 người là Lê Lư, Lê Văn Linh, Lê Quốc Hưng, Đ́nh
thượng hầu 14 người là Lê Chích, Lê Văn An, Lê Liệt, Lê Thố, Lê Lễ,
Lê Chiến, Lê Khôi, Lê Đính, Lê Chuyết, Lê Lỗi, Lê Nhữ Lăm, Lê Sao,
Lê Kiệm, Lê Lật. Huyện hầu 14 người là: Lê Bị, Lê B́, Lê Bĩ, Lê Náo,
Lê Thụ, Lê Lôi, Lê Khả, Lê Bồi, Lê Khả Lang, Lê Xí, Lê Khuyển, Lê
Bí, Lê
Quốc Trinh, Lê Bật. Á hầu
26 người là bọn Lê Lạn, Lê Trăi. Quan nội hầu 16 người là bọn Lê
Thiệt, Lê Chương. Quan phục hầu 16 người là bọn Lê Cuống, Lê Dao.
Thượng trí tự Trước phục hầu 4 người là bọn Lê Khắc Phục, Lê Hài.
Ra lệnh chỉ rằng những
văn vơ hào kiệt nào c̣n bị bỏ sót, hoặc bị ch́m đắm chưa có chức
tước ǵ, không được ai tiến cử; [67b] hoặc v́ thù hằn mà bị đè nén,
vùi dập, th́ đến ngay chổ Thiếu phó Lê Văn Linh mà tự tiến, nếu xét
thực có tài đức th́ tâu tŕnh để cất nhắc sử dụng, không cứ là ngụy
quan hay sĩ thứ, cốt lấy tài đức là hơn.
Ra lệnh chỉ rằng: Các
quan chức văn vơ, quan vơ từ Thượng tướng tước Trí tự Trước phục hầu
trở lên đều cho mặc áo đỏ tía; quan văn từ Nhập nội đại hành khiển
Quan phục hầu trở lên cũng cho mặc áo đỏ tía.
Ngày 26, ra lệnh chỉ
rằng: Quân nhân các lộ phủ và những người ẩn dật ở núi rừng, nếu ai
quả thực thông kinh sử, giỏi văn nghệ th́ đến ngày 28 tháng này tới
sảnh đường tŕnh diện, chờ đến ngày cho vào trường thi hội1578 ,
người nào đỗ sẽ được tuyển dụng.
Ngày 28, ra lệnh chỉ cho
các quan văn vơ trong ngoài, người nào tinh thông kinh sử, từ tứ
phẩm trở xuống, hạn đến ngày 20 tháng này đều tới sảnh đường [68a]
để vào trường thi hội.
Ngày 30, định các hạng
ruộng đất của ngụy quan.
Mùa hạ, tháng 6, ngày
mồng 10, ralaệnh chỉ cho các tăng đạo, người nào thông kinh điển,
trong sạch, giữ tiết hạnh, hẹn đến ngày 20 tháng này tới sảnh đường
tŕnh diện, để xét duyệt cho thi, ai đỗ th́ cho làm tăng đạo, ai
không đỗ th́ bắt hoàn tục.
Làm sổ đinh.
Mùa thu, tháng 7, ngày
mồng 5, ra lệnh cho các đại thần và các quan văn vơ trong ngoài họp
bàn về quy chế đồng tiền1579 . Tờ chiếu viết:
"Tiền là mạch máu của
sinh dân, không thể không có. Nước ta vốn có mỏ đồng, nhưng tiền
đồng cũ đă bị nhà Hồ hủy bỏ, trăm phần chỉ c̣n được một. Đến nay,
việc quân, việc nước thường hay bị thiếu. Muốn cho tiền được lưu
thông sử dụng, để thuận ḷng dân, há chẳng khó sao? Mới rồi có người
dâng thư tŕnh bày, xin lấy tiền giấy1580 [68b] thay cho tiền
thực1581 . Trẫm sớm khuya nghĩ ngợi, chưa nghĩ ra các ǵ. V́ rằng
tiền giấy là thứ vô dụng, lại được lưu hành như vật hữu dụng trong
dân, thực không phải là ư nghĩa yên dân, dùng của. Nhưng đời xưa đă
có người cho rằng vàng, bạc, da, lụa, tiền thực, tiền giấy đều không
thể cân ngang nhau được, thế th́ thứ ǵ là hơn? Truyền cho các đại
thần trăm quan và những người hiểu việc đời ở trong, ở ngoài, đều
nghị bàn quy chế đồng tiền cho thuận ḷng dân, để không v́ ưa thích
riêng của một người mà bắt ép muôn ngh́n người không muốn phải theo,
để làm phép hay của một đời. Nên phải bàn định sớm rồi tâu lên, trẫm
sẽ tự chọn lấy mà cho thi hành".
Mùa thu, tháng 8, ngày
19, ra lệnh chỉ cho quân dân cả nước rằng: Những ngụy quan, văn từ
Tri châu, vơ từ Thiên hộ trở xuống, đă chết từ trước và thổ quan
cùng dân thường vào [69a] thành giặc, khi than2h bị hạ th́ ra hàng,
cho đến quan lại cũ nhà Hồ bị giặc bắt đưa về phương Bắc, nay có vợ
con ở các xă lộ, huyện, nếu họ chua8 được vào sổ hộ tịch, th́ có thể
miễn tiền chuộc mệnh. Người nào đă sung làm nô tỳ công hoặc đă ban
cho các quan rồi, cùng những kẻ có tiếng xấu th́ không thuộc lệ này.
Tháng 9, ngày 16, ra lệnh
chỉ cho các đại thần trăm quan rằng:
"Từ nay về sau, nếu viên
quan nào bàn một việc ǵ, đều phải lấy việc quân, việc dân làm điều
cần kíp, không được đem t́nh lư riêng tư làm đầu. Bởi v́, trẫm từng
nghiệm thấy, trong các việc tiến cử, hoặc xử án, hay như việc công
tư khác, rất nhiều khi người ta dung túng, che chở cho nhau, để biến
hóa
đổi thay, qua đó biết
được người làm quan trong sạch th́ ít mà nhơ bẩn th́ nhiều. Nay trẫm
xét ra việc của bọn phạm nhân Mộng Vân, Lương Châm, mới biết rơ t́nh
trạng thực, giả của các quan, cho nên ra mệnh lệnh này. Những kẻ làm
tôi con phải hết ḷng [69b] thờ vua, không được lấy tư hại công, khi
chuyện xảy ra, hối sao kịp nữa? Nay ban chiếu cho mọi người đều
biết".
Ngày 27, ra lệnh chỉ
rằng:
"Đại thần văn vơ trăm
quan các ngươi hăy chăm việc nông tang, chỉnh đốn quân ngũ, sửa sang
chiến khí, thuyền bè".
Mùa đông, tháng 10, ngày
mồng 1, hạ lệnh cho các đại thần văn vơ, công hầu đại phu từ tam
phẩm trở lên phải tiến cử hiền tài. Tờ chiếu viết:
"Trẫm nghĩ, muốn thịnh
trị phải được người hiền tài, muốn được người hiền tài phải do tiến
cử. Cho nên người đứng đầu thiên hạ phải lo việc ấy trước tiên.
Thời đại thịnh trị xưa
kia, người hiền ở triều rất đông đúc, người nọ nhường người kia. Cho
nên ở dưới không sót tài, ở trên không bỏ việc, làm nên thịnh trị
yên vui. Đến như bề tôi đời Hán, Đường, không ai là không tiến người
hiền, nhường người giỏi, lôi kéo dẫn dắt lẫn nhau, như Tiêu Hà tiến
cử Tào Tham, Ngụy Vô Tri [70a] tiến cử Trần B́nh, Địch Nhân Kiệt
tiến cử Trương Cửu Linh, Tiêu Tung tiến cử Hàn Hưu. Dẫu tài năng
phẩm hạnh của họ có hơn kém khác nhau, nhưng không ai không cử được
người giỏi, xứng đáng vớichức trách được trao.
Nay trẫm gánh vác trách
nhiệm nặng nề, sớm khuya kính cẩn lo sợ, như đứng bờ vực thẳm, chỉ
v́ chưa t́m kiếm được người hiền tài giúp đỡ trị nước. Vậy ra lệnh
cho đại thần văn vơ, công hầu đại phu từ tam phẩm trở lên, mỗi viên
tiến cử lấy một người, ở trong triều hay ngoài thôn dă, đă làm quan
hoặc chưa làm quan. Nếu người nào có tài năng, tri thức văn vơ, có
thể cai trị dân chúng, th́ trẫm sẽ tùy tài bổ dụng. Vả lại, tiến cử
được người hiền sẽ được thưởng mức cao nhất, lẽ xưa vẫn thế. Nếu
tiến cử được người có tài bậc trung, th́ được tăng tước hai bậc. Nếu
tiến cử được người tài đức đều ưu tú, vượt hẳn mọi người, th́ nhất
định được trọng thưởng.
Tuy vậy, nhân tài ở đời
cố nhiên là không ít, nên [70b] đường lối t́m người cũng không phải
chỉ có một phương. Nếu có ai ôm ấp tài lược kinh bang tế thế nhưng
vẫn phải chịu khuất ở hàng quan thấp, không có người tiến cử cho,
cùng là những người hào kiệt c̣n bị vùi dập ở bụi bờ, hay lẫn lộn
trong quân ngũ, nếu không tự đề bạc th́ trẫm làm sao biết được? Từ
nay về sau, các bậc quân tử, có ai muốn theo ta, đều cho tự tiến cử.
Ngày xưa, Mao Toại tự tỏ tài mà theo B́nh Nguyên1582 , Nịnh Thích gơ
sừng trâu mà cảm ngộ Hoàn Công1583 , có bao giờ câu nệ tiểu tiết
đâu? Khi chiếu này ban ra, các quan hăy đem hết ḷng thành, lo việc
tiến cử. C̣n như kẻ sĩ hàn vi ở chốn hương thôn, cũng nhơá cho thế
là phải đem ngọc bán rao mà hổ thẹn, để trẫm phải thở than v́ thiếu
nhân tài".
Ngày 13, nhà Minh sai bọn
Lễ bộ thị lang Lư Kỳ, Hồng lô tự khanh Từ Vĩnh Đạt, Hành nhân ty
hành nhân Trương Thông sang dụ bảo t́m kiếm [71a] con cháu họ Trần
và trả lại số người và chiến khí của nhà Minh c̣n bị giữ lại. Lại
cho bọn Hà Lật y phục, tiền nong, cho cùng đi với bọn Kỳ.
Ngày 18, ra lệnh chỉ cho
các đại thần, Tổng quản, Hành khiển trở xuống rằng:
"Người xưa có câu: Vua
không chọn tướng th́ khác ǵ dâng nước ḿnh cho giặc. Trẫm luôn suy
nghĩ điều đó, ngày đêm không quên, nên đaem việc quân, việc nước
quan trọng trao cho các ông. Thế mà các ông cứ điềm nhiên ngồi nh́n,
không để ư tới, nên phụ ḷng tin dùng của triều đ́nh, dưới chẳng
đoái thương tới quân dân, sao lại trễ biếng chức sự quá thế? Nay ra
chiếu này để răn bảo, nếu không biết sửa lỗi đổi mới, vẫn lại như
thế nữa, th́ nhà nước c̣n luật pháp đó, chớ bảo là trẫm phụ bề tôi
cũ có công đấy!".
Ngày 29, sứ nhà Minh là
bọn Lư Kỳ về nước. Vua sai bọn đầu mục là Đào Công Soạn, Lê Đức Huy,
Phạm Khắc [71b] Phục mang vàng bạc và sản vật địa phương sang nhà
Minh cầu phong, đồng thời giải đáp về việc đ̣i trả người và khí
giới, cùng việc t́m con cháu họ Trần.
Lời cầu phong đại ư là:
Người nướ chúng tôi đă t́m khắp nơi, nhưng con cháu họ Trần đều
không thấy c̣n ai. Bọn thần nghĩ rằng người đại đầu mục nước chúng
tôi là Lê Lợi, là người khiêm tốn, cung kính, cẩn thận, trung hậu,
biết cách trị dân, rất được ḷng người, có thể trông coi được đất
nước. Vua Minh xem xong bảo các thị thần:
"Những lời này chưa thể
vội tin được, phải cho đ̣i nữa đă".
Rồi xuống chiếu cho Lễ bộ
ban áo vóc hoa cho bọn Công Soạn, rồi sai họ mang sắc về dụ vua và
các đầu mục, bô lăo t́m hỏi con cháu họ Trần lần nữa, nếu quả thực
không c̣n ai th́ al2m biểu liên danh tâu sang để xử trí. Lại ban
tiền giấy cho bọn Công Soạn theo thứ bậc khác nhau.
Tháng 11, vua ngự về Tây
Đô bái yết sơn lăng, thưởng cho các tướng hiệu và quân nhân theo
hầu, [72a] mỗi người được thăng 1 tước bậc. Nếu là Thượng trí tự và
Đại trí tự th́ được thăng tước 1 tư. Người nào có con cháu được
phong hầu thay ḿnh và những người không có công lao th́ không thuộc
lệ này.
Tháng 12, ngày 19, ra
lệnh chỉ cho các quan phủ, lộ, châu, huyện, xă rằng:
Xă nào có nhiều ruộng đất
nhưng ít người, để bỏ hoang th́ cho phép các quan nơi đó cho những
người không có ruộng ở các xă khác đến cày cấy, người chủ ruộng xă
đó không được chiếm giữ rồi bỏ hoang. Ai vi phạm sẽ bị xử theo tội
cưỡng bức chiếm đoạt.
Ngày 27, ra lệnh chỉ cho
h́nh quan rằng:
Những người phạm tội phải
xử tội đồ lưu, th́ hạng phải thích từ 30 đến 20 chữ đầy vào châu Bố
Chính, hạng phải thích từ 10 đến 6 chữ đày vào Diễn Châu, hạng phải
thích 4 chữ đến đồ làm khao đinh phải vào phường voi, tất cả đều
giải đến cho quan Hành khiển ở đạo đó nhận lấy để giao tới chỗ bị
lưu hoặc đồ.
Mở khoa thi tăng đạo
[72b] để cấp giấy1584 .
Canh Tuất, [Thuận Thiên]
năm thứ 3 [1430], (Minh Tuyên Đức năm thứ 5). Mùa hạ, tháng 6, ngày
mồng 10, quy định các ngạch thuế.
Lại ban luật lệ. Đổi Đông
Đô thành Đông Kinh, Tây Đô thành Tây Kinh.
Mùa đông, tháng 11, vua
đi đánh bọn nghịch tặc ở châu Thạch Lâm, trấn Thái Nguyên là Bế Khắc
Thiệu và Nông Đắc Thái. Bấy giờ, Khắc Thiệu và Đắc Thái trnh nhau tự
lập, nên phải đi đánh. Vua đến châu Thạch Lâm, có đề thơ trước cửa
động rằng:
Bất từ vạn lư chỉnh sư
đồ, Duy lục biên manh xích tử tô. Thiên địa bất dung gian đảng tại,
Cổ kim thùy xá bạn thần chu. (Chẳng từ muôn dặm cất quân đi, Mong
cứu dân đen cơi biên thuỳ. Trời đất không dung phường gian ác, Xưa
nay tội phản phải tru di). Tuyển chọn quân bộ ở Bồ Đề. Người nào
t́nh nguyện trước được thưởng 1 tư.
Tân Hợi, [Thuận Thiên]
năm thứ 4 [1431], (Minh Tuyên Đức năm thứ 6). Mùa xuân, tháng giêng,
ngày mồng 1, vua sai bọn chánh sứ Lê Nhữ [73a] Lăm, phó sứ Lại bộ
thượng thư Hà Lật và Lê
Bính sang nhà Minh cầu
phong, đồng thời trần t́nh và giải đáp về việc có dụ đ̣i trả chiến
khí và t́m con cháu họ Trần.
Lời biểu đại ư là: "Đă
huy động rất nhiều người trong nước, t́m kiếm con cháu họ Trần ở
khắp nơi, đích thực không c̣n một ai. Trộm nghĩ đất nước chúng tôi
không thể không có người trông coi, nhưng vẫn chưa được lệnh của
triều đ́nh, v́ thế cứ phải tỏ bày măi măi".
Vua Minh bằng ḷng.
Ngày mồng 5, sai bọn
chánh sứ là Hữu thị lang Chương Xưởng và Thông chính ty hữu thông
chính Từ Kỳ mang ấn sắc sang phong vua làm Quyền thự An Nam Quốc
Sự1585 . Ban tiền giấy cho bọn Hà Lật và cho đi theo bọn Xưởng về
nước.
(Xét sách Hoàng Minh
thông kỷ, chép rằng vua Minh sai sứ sang phong vua làm An Nam Quốc
Vương, từ đây triều cống không dứt).
Tháng 2, vua bắt được Bế
Khắc Thiệu và Nông Đắc Thái đem về1586 . Tháng 3 về đến Kinh sư.
Quy định [73b] việc đặt
các gaím và ty xá nhân ở trong kinh ngoài trấn theo lời xin của Ngô
Văn Thông.
Mùa đông, tháng 11, ngày
mồng 1, sứ Minh là Chương Xưởng và Tử Kỳ tới kinh, mang ấn phong vua
làm Quyền thự An Nam Quốc Sự.
Ngày 20, bọn Xưởng, Kỳ về
nước. Vua sai Thẩm h́nh viện phó sứ Nguyễn Văn Huyến và Ngự sử trung
thừa Nguyễn Tông Chí đi theo bọn Xưởng sang nhà Minh tạ ơn và nộp 5
lạng vàng tuế cống, xin theo lệ cống 3 năm 1 lần đời Hồng Vũ1587 .
Từ đó về sau tiến cống thường xuyên không dứt. Vua Minh ban tiền
giấy cho bọn Văn Huyến và cho trở về.
Tháng 12, ngày mồng 6,
vua sai al2m sách Lam Sơn thực lục, vua tự làm bài tựa, kư là Lam
Sơn động chủ1588 .
Nhâm Tư, [Thuận Thiên]
năm thứ 5 [1432], (Minh Tuyên Đức năm thứ 7), Mùa xuân, tháng giêng,
sai thân vương Tư Tề đem quân đi đánh [74a] châu Mường Lễ1589 .
Tù trưởng châu là Đèo Cát
Hăn và con là Đèo Mạnh Vượng ra hàng. Cho ở Đông Kinh, lập Hăn làm
Tư mă, rồi năm sau giết chết.
Mùa đông, tháng 11, vua
thân đi đánh châu Phục Lễ1590 .
Vua lại đi đánh Ai Lao.
Quư Sửu, [Thuận Thiên]
năm thứ 6 [1433], (Minh Tuyên Đức năm thứ 8). Mùa xuân, tháng giêng,
tuyển chọn con trai các quan và (học tṛ) ba lộ Quốc Oai, hai lộ Bắc
Giang sung vào Quốc tử giám.
Vua thân đi đánh châu
Phục Lễ, đem quân về1591 .
Mùa hạ, tháng 4, ngày
mồng 8, sai bồi thần là Trần Thuấn Du, Nguyễn Khả Chi, Bùi Cầm Hổ
sang nhà Minh tiến cống: Vua Minh 3 phần, hoàng thái hậu và hoàng
thái tử đều 1 phần, đồng thời giải thích việc cống vàng hàng năm.
Làm sổ hộ tịch.
Mùa thu, tháng 8, giáng
con trưởng Tư Tề làm Quận vương, lấy con thứ Nguyên Long kế thừa
[74b] tông thống.
Vua về Lam Kinh.
Tháng 8 nhuận, sao Chổi
mọc ở phương tây.
Ngày 22, vua băng ở chính
tẩm.
Buổi đầu vua kinh dinh
bốn phương, phía Bắc đánh giặc Minh, phía tây đuổi Ai Lao, tránh chỗ
thực, đánh chỗ hư, đến đâu được đấy, chỉ có vơ thần là bọn Lê Thạch,
Lê Lễ, Lê Sát, Lê Vấn, Lê Ngân, Lê Lư 30 người, văn thần là bọn Lê
Linh, Lê Quốc Hưng; quân cha con th́ có 200 quân Thiết đột, 200
nghĩa sĩ, 300 dũng sĩ, 4 thớt voi; c̣n quân khinh dũng và quân già
yếu hộ vệ chỉ có 1 ngh́n người mà thôi1592 .
Vua có lần sau muôn việc
được thư thả, cùng bầy tôi bàn về lẽ c̣n mất, được thua xưa nay, nhâ
bàn đến việc giặc Minh sở dĩ thua, ta sở dĩ được, là v́ sao, các bề
tôi đều nói: "V́ giặc Minh h́nh phạt bừa băi, chính lệnh bạo ngược,
mất ḷng dân đă lâu, c̣n vua th́ trái lại, [75a] lấy nhân nghĩa thay
bạo tàn, đổi họa loạn thành yên trị, nên mới thành công chóng thế".
Vua nói:
"Lời các khanh nói cố
nhiên là như vậy, nhưng cũng chưa hết. Trẫm xưa kia gặp buổi loạn
lạc, nương ḿnh ở Lam Sơn, vốn chỉ mong giữ được mạng ḿnh thôi, chứ
không có ư muốn lấy thiên hạ. Đến khi giặc tàn ngược quá quắt, dân
không sống nổi, những ai có tri tức đều bị chúng giết hại, trẫm tuy
đem hết của cải để thờ phụng chúng, mong khỏi tai họa, nhưng tim đen
chúng muốn hại trẫm vẫn không bớt chút nào. Việc dấy nghĩa binh thực
là bắt đắt dĩ thôi".
Lời bàn: Thái Tổ từ khi
lên ngôi đến nay1593 , thi hành chính sự, thực rất khả quan, như ấn
định luật lệnh, chế tác lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, xạy dựng
quan chức, thành lập [75b] phủ huyện, thu thập sách vở, mở mang
trường học... cũng có thể gọi là có mưu kế xa rộng, mở mang cơ
nghiệp. Song đa nghi, hiếu sát, đó là chỗ kém.
Lại bàn: Vua nối cơ
nghiệp của ông cha, gặp buổi đại loạn mà chí càng bền, náu ḿnh chốn
núi rừng, làm nghề cày cấy. Do ḷng căm thù quân giặc bạo tàn, càng
lưu tâm vào các sách thao lược, đem hết của nhà hậu đăi tân khách.
Đến năm Mậu Tuất [1418], nhóm nổi nghĩa binh, kinh dinh thiên hạ,
trước sau trải mấy chục trận, đều là đặt quân phục, dùng binh kỳ,
tránh chỗ chắc, đánh chỗ mềm, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh.
Đến khi quân Minh đầu hàng th́ răn cấm qu6an lính không được mảy may
xâm phạm. Từ đấy, hai nước ḥa hiếu, bắc nam vô sự. Mường Lễ, Ai Lao
đều sáp nhập bản đồ, Chiêm Thành, Chà Bàn vượt biển sửa lễ cống. Vua
mặc áo sớm, ăn cơm trưa, [76a] trải 10 năm mà thiên hạ đại trị.
Sử thần bàn: Vua dấy
nghĩa binh, chưa từng giết bừa một người nào. Chỉ biết lấy mềm chống
cứng, lấy yếu địch mạnh, lấy ít thắng nhiều, không đánh mà khuất
phục được người, cho nên có thể đổi vận bĩ sang vận thái, chuyển thế
nguy thành thế yên, đổi cuộc loạn thành cuộc trị. Câu "Người có
nhân, thiên hạ không ai địch nổi" chính hợp với vua. Cho nên, vua
lấy được thiên hạ, truyền cơ nghiệp đến muôn đời là phải lắm.
Mùa thu, tháng 9, ngày
mồng 8, thái tử Nguyên Long lên ngôi Hoàng đế. Đại xá, đổi niên
hiệu, lấy năm sau làm năm Thiệu B́nh thứ 1. Bấy giờ vua mới 11 tuổi.
Mùa đông, tháng 11,
Nguyễn Trăi vâng lệnh soạn văn bia1594 , Hàn lâm viện đăi chế Vũ Văn
Phỉ vâng lệnh viết chữ.
[76b] Ngày 22, rước [vua]
về táng ở Vĩnh Lăng tại Lam Sơn, miếu hiệu là Thái Tổ, dâng tôn hiệu
là Thống Thiên Khải Vận Thánh Đức Thần Công Duệ Văn Anh Vũ Khoan
Minh Dũng Trí Hoàng Nghĩa Chí Minh Đại Hiếu Cao Hoàng Đế.
Tháng 12, ngày mồng 2,
sai bọn bồi thần Lê Vỹ, tŕnh Chân sang nhà Minh báo tang.
Ngày 19, nhà Minh sai
chánh sứ là Binh bộ thị lang Từ Kỳ, phó sứ là Hành nhân ty hành nhân
Quách Tế sang đ̣i số vàng cống hàng năm.
Trước đó, nhà minh mấy
lần sai sứ sang đ̣i nhiều số vàng cống hàng năm. Cao Hoàng Đế xin
theo như lệ cống ba năm một lần đời Hồng Vũ. Vua Minh khăng khăng
không chịu. Đến đây lại sai bọn Kỳ, Tế sang.
Các quan theo hầu về Tây
Kinh, dựng điện Lam Sơn1595 .
1382 Lam Sơn nay thuộc xă
Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
1383 Theo Đại Việt Thông
Sử của Lê Quư Đôn th́ Lê Lợi thọ 49 tuổi. Lê Lợi sinh năm Ất Sửu
(1385), mất năm Quư Sửu (1483) th́ thọ 49 tuổi, như Đại Việt Thông
Sử ghi là đúng.
1384 Chủ Sơn: tên hương,
sau đổi là thôn Thủy Chú, huyện Lôi Dương, nay thuộc xă Xuân Thắng,
huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa.
1385 Tức là ngày 19 tháng
9 năm 1385.
1386 Xem chú thích 3.
1387 Lạc Thủy: theo CMCB
13 th́ Lạc Thủy thuộc huyện Cẩm Thủy sau này. Huyện Cẩm Thủy bấy giờ
là huyện Lỗi Giang, ở phía hữu ngạn sông Mă, thuộc lưu vực sông Âm
của huyện Lang Chánh ngày nay. Nhưng căn cứ vào địa bàn hoạt động
của nghĩa quân năm này (1418), th́ có lẽ Lạc Thủy ở đây là một địa
điểm vùng thượng lưu sông Chu, phía trên Lam Sơn.
1388 Núi Chí Linh: tức là
núi Pù Rinh, thuộc xă Giao An, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa ngày
nay.
1389 Tức núi Chí Linh.
1390 Mường Yên: tức là xă
Yên Nhân, phía tây núi Pù Rinh (Chí Linh).
1391 Mường Một: hay Mường
Mọt, sau là xă Bất Một, thuộc huyện Thường Xuân ngày nay.
1392 Châu Tĩnh Yên: thời
thuộc Minh là đất tỉnh Quảnh Ninh ngày nay. Núi Tam Tri: tức núi Ba
Chẽ.
1393 Hộ thiếp: như sổ hộ
tịch, mỗi tấm hộ thiếp có ghi rơ họ tên, quê quán và số đinh trong
mỗi hộ, có đánh số chữ kư hiệu và đóng một nửa phần dấu kiềm đề
pḥng khi khám nghiệm. Sổ hộ khẩu th́ để ở Hộ bộ, c̣n hộ thiếp th́
phát cho các hộ (theo Đại Minh hội điển).
1394 Nguyên văn: Phú dịch
hoành sách, tức là quyển sách b́a vàng kê khai thuế khóa phu dịch.
Theo Thông giám tập lăm, th́ năm Hồng Vũ thứ 14 (1381) nhà Minh hạ
chiếu bắt cả nước làm sổ "hoàng sách".
1395 Giáp thủ: là người
đứng đầu một giáp (gồm 10 hộ), lư trưởng: người đứng đầu 1 lư (gồm
110 hộ).
1396 Nguyên văn: Lư
trưởng, giáp thủ chu niên đồ dạng.
1397 Đồn Nga Lạc: ở
gầnLam Sơn, thuộc vùng Bái Thượng ngày nay.
1398 Đà Sơn: tên sách, có
lẽ cũng gần Lam Sơn.
1399 Mường Chánh (nguyên
văn không có chữ "Mường"): huyện Lang Chánh sau này.
1400 Lư Sơn hay Lô Sơn:
theo Thanh Hóa tỉnh chí th́ Lư Sơn ở vùng giáp giới hai xă Trịnh
Điện và Hựu Thủy thuộc châu Quan Hóa. Theo Đồng Khánh dư địa chí th́
hai xă Trịnh Điện và Hựu Thủy thuộc tổng Hựu Thủy và động Lư Sơn là
một danh thắng của châu Quan Hóa.
1401 Mường Thôi (nguyên
văn không có chữ "Mường "): có lẽ là Man Xôi, ở phía tây bắc tỉnh
Thanh Hóa, giáp Lào.
1402 Vu Sơn: có lẽ là Lư
Sơn.
1403 Châu Ngọc Ma: thời
thuộc Minh là phủ Ngọc Ma, thời Lê thuộc Nghệ An, thời Nguyễn đổi
làm phủ Trấn Định, gồm các huyện Cam Môn, Cam Cát, Cam Linh.
1404 Thành Nghệ An: tại
núi Thành, xă Hưng Phú, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An ngày nay.
1405 Lộ văn Luật: người
huyện Thạch Thất, Hà Tây. Luật đầu hàng giặc, được giặc cho làm chỉ
huy quân ở Nghệ An.
1406 Vùng phía nam tỉnh
Hải Hưng ngày nay.
1407 Huyện Tân Minh sau
đổi là Tiên Minh, nay là huyện Tiên Lăng, Hải Pḥng.
1408 Thực ra các xứ đó
vẫn c̣n những cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ, đặc biệt cuộc đấu tranh của "
1409 Phật Tích và An Sầm:
là hai hang núi thuộc huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Núi Phật Tích:
c̣n gọi là núi Sài Sơn hay núi Thầy.
1410 Thương quan: là chức
quan trông coi kho tàng.
1411 Huyện Thủy Đường:
nay là huyện Thủy Nguyên, Hải Pḥng.
1412 Huyện Đan Ba: nay là
huyện Đinh Lập, tỉnh Lạng Sơn.
1413 An
Bang: là đất tỉnh Quảng Ninh ngày nay.
1414
Thành Xương Giang: ở đất xă Thọ Vương, nay thuộc thị xă Bắc Giang,
tỉnh Hà Bắc.
1415 Đồn
này ở ngă ba Tuần Vường tỉnh Nam Hà ngày nay.
1416 Kiến
Xương: là vùng đất các huyện Vũ Thư, Kiến Xương tỉnh Thái B́nh ngày
nay.
1417 Bến
Bổng: có lẽ nằm trên thượng lưu sông Chu.
1418
Mường Nanh: nay c̣n địa danh Mường Nang, tức là xă Thịnh Nang, huyện
Lang Chánh. Mường Nanh có lẽ là đất ấy.
1419 Thi
Lang: hay Bồ Thi Lang, là một địa điểm gần căn cứ của nghĩa quân lúc
ấy.
1420 Ba
Lẫm: tên sách, có lẽ là vùng Chiềng Lâm ở xă Điền Lư, thuộc huyện Bá
Thước, tỉnh Thanh Hóa.
1421 Quan
Du: sau đổi là châu Quan Hóa, nay là huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
1422 Sông
Đáy: tức sông Tiểu Đáy ở tỉnh Tuyên Quang, nay thuộc tỉnh Hà Tuyên.
1423
Dương Cung: tức là Lê Ngă, Lê Ngă nổi lên đánh phá giặc Minh, tin
truyền về triều đ́nh nhà Minh, vua Minh ra lệnh lùng bắt rất nghiêm
ngặt, bọn Lư Bân phải bày ra mưu này cho qua chuyện.
1424 Ư
nói mọi người đều cùng một duộc với Hoàng Phúc.
1425
Trống đăng văn: trống để ở điện đ́nh, ai có việc oan khuất th́ đánh
lên, tŕnh bày nỗi oan để được xét lại.
1426 Ải
Ḱnh Lộng: tức là Ải Cỗ Lũng sau này, thuộc huyện Cẩm Thủy tỉnh
Thanh Hóa.
1427
Nguyên là núi Ứng ải, tức đèo Ống ở xă Thiết Ông, trên tả ngạn sông
Mă.
1428 Đại
Việt thông sử chép là 5 vạn quân và 100 thớt voi.
1429 Sách
Thủy: bản dịch cũ cho là đất Hữu Thủy ở gần Lư Sơn.
1430 Sách
Khôi: tức là Khôi huyện, thuộc trấn Thiên Quan, ở giữa hai huyện Nho
Quan, tỉnh Ninh B́nh và huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa.
1431 "Tử
Địa": tức là "đất chết", chỉ hoàn cảnh hiểm nghèo.
1432 Sổ
tu tri: tức là sổ hộ tịch, ruộng đất, lương bổng của các nơi ở Giao
Chỉ.
1433 Lưu
quan: chỉ quan lại Trung Quốc do nhà Minh cử sang.
1434 Giặc
Hồ: chỉ người Thát Đát A Lỗ Thái.
1435 Sông
Du Mộc: ở huyện Đa Luận, tỉnh Sát Cáp Nhĩ.
1436 Đỉnh
Hồ: theo truyền thuyết Trung Quốc: Hoàng đế đúc vạc ở chân núi Kinh
Sơn, vạc đúc xong, liền cưỡi rồng bay đi. Chỗ ấy gọi là Đỉnh Hồ. Sau
dùng chữ Đỉnh Hồ để chỉ vua chết.
1437 Tứ
di: chỉ các nước xung quanh Trung Quốc hồi ấy.
1438 Đồn
Đa Căng: có lẽ là Bất Căng, thuộc xă Thọ Nguyên, huyện Thọ Xuân,
tỉnh Thanh Hóa ngày nay. Đồn này nằm trên hữu ngạn sông Chu.
1439 Lam
Sơn thực lục và Đại Việt thông sử chép là Nguyễn Hoa Anh.
1440 Bồ
Lạp: là tên núi, cũng gọi là Bồ Cứ, Bồ Đắng, là một ngọn núi ở xă
Châu Nga, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Nhân dân địa phương thường
gọi là Bù Đờn và phía đông bắc có một bản nhỏ gọi là Bản Liệp. Vùng
này nay thuộc xă Châu Nga, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An.
1441
Trang Trịnh Sơn: là Kẻ Trịnh, nay thuộc xă Thạch Ngàn, huyện Con
Cuông, cách thành Trà Lân (hay Trà Long) hơn 10 km.
1442 Châu
Trà Lân: hay Trà Long, là đất huyện Con Cuông, Tương Dương, tỉnh
Nghệ An ngày nay, đời Trần là đất Mật Châu, đời Nguyễn gọi là phủ
Tương Dương.
1443 Đỗ
Gia: nay là đất huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Gần xă Linh Cảm của
huyện này có làng Đỗ Xá, có lẽ là nơi đóng quân của Lê Liệt.
1444 Khả
Lưu: là tên một cửa ải xưa, ở phía bắc sông Lam, thuộc xă Vĩnh Sơn,
huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An.
1445 Bồ
Ải: Là một địa điểm ở về phía trên ải Khả Lưu, cách Khả Lưu không
xa. Hiện nay, ở xă Đức Sơn, huyện Anh Sơn,tỉnh Nghệ An có khe Ải đổ
ra sông Lam và ngọn núi thấp ở đây cũng có người gọi là Bù Ải...Có
lẽ đó là Bồ Ải xưa kia.
1446
Hương Đa Lôi: nay là Nam Kim, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
1447
Thành Diễn Châu: c̣n có tên là thành Trài, nay c̣n dấu vết ở xă Diễn
Hồng, Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, cách quốc lộ số 1 gần 400 mét về phía
đông và cách Cửa Vạn 2 km.
1448
Thành Tây Đô: nay ở vào khoảng giữa hai xă Vĩnh Tiến và Vĩnh Long,
huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
1449 Sông
Bố Chánh: tức là sông Gianh, tỉnh Quảng B́nh.
1450 Tân
B́nh: tên phủ thời thuộc Minh, gồm dất các huyện Quảnh Trạch, Bố
Trạch, Lệ Ninh, Tuyên Hóa, Bến Hải, tỉnh Quảng B́nh ngày nay.
1451
Thuận Hóa: tên phủ thời thuộc Minh gồm đất các huyện Triệu Hải,
Hương Điền, Hương Phú, Hương Hóa, Phú Lộc, tỉnh Quảng Trị và tỉnh
Thừa Thiên-Huế ngày nay.
1452 Đại
thiên hành hóa: nghĩa là thay trời tiến hành việc giao hóa.
1453
Thiên Quan: vùng đất huyện Nho Quan cũ, nay thuộc huyện Hoàng Long,
tỉnh Ninh B́nh.
1454 Gia
Hưng: gồm các huyện Thuận Châu, Mộc Châu, Yên Châu, Mai Sơn, Phù Yên
tỉnh Sơn La, các huyện Thanh Sơn, Tam Thanh tỉnh Phú Thọ và huyện
Mai Châu tỉnh Ḥa B́nh ngày nay.
1455 Quy
Hóa: thuộc Yên Bái, Lào Cai ngày nay.
1456 Tam
Đới: thuộc tỉnh Vĩnh Phú ngày nay.
1457
Nguyên văn là Khoái Giang, sửa lại theo Đại Việt thông sử và Cương
mục.
1458 Ninh
Kiều: là vùng Ninh Sơn, xă Ngọc Sơn, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây
ngày nay. Đây là một vị trí trọng yếu và hiểm trở nằm trên đường
thượng đạo từ Đông Quan vào Thiên Quan và Thanh Hóa.
1459 Ninh
Giang: là đoạn sông Đáy chảy qua vùng Hà Tây, Nam Hà rồi theo sông
Mỹ Đô chảy vào sông Hồng (đoạn Hoàng Giang).
1460 Chỉ
Đông Đô.
1461 Cầu
Xa Lộc: tục gọi là cầu Ṛng Rọc ở gần làng Tứ Xă, huyện Lâm Thao,
nay thuộc tỉnh Phú Thọ.
1462 Cầu
Nhân Mục: tức là Cống Mọc ở xă Nhân Chính, huyện Từ Liêm Hà Nội, cầu
bắc qua sông Tô Lịch, trên đường từ Đông Quan đến Ninh Kiều.
1463 Minh sử chép là Viên
Lượng.
1464 Thành Tam Giang: là
trị sở của phủ Tam Giang, nằm ở phía bắc ngă ba Hạc, có thể là thành
cổ Dục Mỹ, ở gần cầu Xa Lộc.
1465 Cầu Tây Dương: tức
cầu Giấy, bắc qua sông Tô Lịch, huyện Từ Liêm, Hà Nội ngày nay.
1466 Bến Cổ Sở: tức bến
Giá ở xă Yên Sở, huyện Hoài Đức, Hà Tây ngày nay.
1467 Cầu Yên Quyết: tức
là cống Cót ở Hạ Yên Quyết, gần Láng, Hà Nội ngày nay.
1468 Cầu Sa Đôi: cầu bắc
ngang sông Nhuệ c̣n gọi là cầu Đôi ở phía tây xă Đại Mỗ, huyện Từ
Liêm , Hà Nội.
1469 Cầu Thanh Oai: bắc
qua sông Đỗ Động ở xă B́nh Minh, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây ngày
nay.
1470 Cổ Lăm: tức tổng
Thắng Lăm, tên nôm là Sốm, nay gồm các xă Phú Lâm, Phú Cường, Văn
Khê, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây.
1471 Cầu Tam La:tức Ba
La, c̣n gọi là Ba La Bông Đỏ, sát thị xă Hà Đông, trên đường đi
Thanh Oai, tỉnh Hà Tây.
1472 Thanh Đàm: tức là
Thanh Tŕ, trị sở huyện này xưa ở phía đông nam Văn Điển, Hà Nội
ngày nay.
1473 Cao Bộ: tên nôm là
làng Bụa, thuộc xă Trung Ḥa, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây ngày nay.
1474 Sông Yên Duyệt: ở
làng Yên Duyệt, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây ngày nay.
1475 Tốt Động: tên nôm
gọi là làng Rér. Đây là vùng đất thấp, lầy lội. Cánh đồng Tốt Động
là đồng chiêm trũng, rất lầy lội.
1476 Chúc Động: cách Tốt
Động 6km về phía đông bắc và ở ngay phía tây Ninh Kiều. Cả hai con
đường từ Ninh Kiều đến Cao Bộ đều phải đi qua vùng Cbúc Động. Chúc
Động nay là Chúc Sơn, xă Ngọc Sơn, huyện Chương Mỹ, Hà Tây.
1477 Đoạn này Toàn thư
viết rất khó hiểu. Xin ghi lại đoạn nói về trận đánh này của Cương
mụd để tiện tham khảo: "Bắt được gián điệp của địch, ta biết Thông
đă tiến đóng ở Ninh Kiều, ngầm cho kỳ binh tiền nhanh đến phía sau
quân Triện, c̣n chính binh của Thông sẽ vượt sông tiến lên phía
trước. Chúng hẹn nhau hễ nghe tiếng súng pháo nổ, th́ các mũi quân
địch cùng lúc đánh khép lại. Hồi canh năm đêm ấy, bọn Lễ sai quân
bắn súng pháo ở nơi yếu hại để đánh lừa giặc. Giặc nghe súng nổ, đều
đỗ xô đi chiếm lấy chỗ thuận lợi. Chúng lùa quân đi tắt vào. Bấy giờ
trời mưa, đường lầy lội, chúng kéo đến Tốt Động, bị phục binh ta bốn
bề nổi dậy. Quân ta hợp sức lại, hăng hái chiến đấu, cả phá dược
quân giặc ". (CMCB 13, 28-29).
1478 Lũng Giang: tức là
sông Đáy, c̣n gọi là sông Đại Lũng.
1479 Chuông Quy Điền:
tương truyền được đúc từ đời nhà Lư, chuông để ở chùa Một Cột. Vạc
Phổ Minh: là chiếc vạc lớn ở chùa Phổ Minh gần thành phố Nam Định,
tỉnh Nam Hà. Chùa này làm vào năm Thiệu Long năm thứ 5 (1262).
1480 Lịch chính sóc:
chính sóc là ngày mồng một tháng giêng Âm lịch. Ở đây chỉ lịch tính
theo tuần trăng của nhà Minh.
1481 Tây Phù Liệt: thuộc
huyện Thanh Tŕ, Hà Nội ngày nay.
1482 Sông Lô: bây giờ là
sông Hồng. Đông Bộ Đầu: nay ở khoảng dốc Hàng Than, phía trên cầu
Long Biên, Hà Nội.
1483 Đông Phù Liệt: tên
xă, cũng thuộc huyện Thanh Tŕ, Hà Nội ngày nay.
1484 Bốn đạo: 1-Tây Đạo
gồm các trấn Tam Giang, Hưng Hóa, Tuyên Quang và Gia Hưng; 2-Đông
Đạo gồm các lộ Thượng Hồng, Hạ Hồng, Nam Sách Thượng, Nam Sách Hạ và
trấn An Bang; 3-Bắc Đạo gồm các lộ trấn Bắc Giang, Thái Nguyên;
4-Nam Đạo gồm các lộ Khoái Châu, Lư Nhân, Tân Hưng, Kiến Xương và
Thiên Trường.
1485 Núi Không Lộ: ở
huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Trên núi có chùa Lạc Lâm, xưa là nơi
hóa thân của nhà sư Không Lộ.
1486 Vũ Ninh: sau là
huyện Vơ Giảng, nay thuộc đất Quế Vơ, tỉnh Bắc Ninh.
1487 Trần Phong: người
huyện Chí Linh, nay thuộc tỉnh Hải Hưng, theo giặc MInh làm đến Đô
ty.
1488 Lương Nhữ Hốt: theo
giặc MInh làm đến Tham chính. Bọn Trần Phong, Nhữ Hốt sau được Lê
Lợi tha chết , nhưng rồi lại mưu phản, cuối cùng đều bị giết.
1489 Thành Điêu Diêu: ở
huyện Gia Lâm, Hà Nội.
1490 Thành Thị Cầu: nay
thuộc thị xă Bắc Ninh, tỉnh Hà Bắc.
1491 Thành Tam Giang: ở
huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.
1492 Thành Xương Giang:
nay là thị xă Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
1493 Thành Khâu Ôn: là
tỉnh lỵ Lạng Sơn ngày nay.
1494 Hoả thủ: như chức
đội trưởng sau này.
1495 Tướng Minh giữ thành
Nghệ An là Thái Phúc, giữ thành Diễn Châu là Tiết Tụ.
1496 Chiến bằng: là đài
cao bằng gỗ dùng để đánh thành. Xe phần ôn: là loại xe để đánh
thành, có 4 bánh, căng dây làm khung, che bằng da trâu, dươái có thể
nấp được mười người, sắt, lửa, gỗ, đá không thể phá được. Xe phi mă:
cũng là loại xe để đánh thành.
1497 Theo Bắc Ninh tỉnh
chí, th́ dinh Bồ Đề ở thôn Phú Hựu, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An,
tỉnh Bắc ninh, nay thuộc xă Phú Viên, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
1498 Thành Chí Linh: lúc
ấy quân Minh c̣n đóng giữ.
1499 Nguyên văn là "tự
nguyện đăng thành" (tự nguyện lên thành), chúng tôi ngờ có lầm lẫn
từ chữ "đăng tải" (khai báo) ra chữ "đăng thành" (lên thành).
1500 Cảo Động: tên xă,
tức là Nhật Tảo, hay Xuân Bảo ở phía tây Hồ Tây, Hà Nội.
1501 Sau là huyện Kim
Động, tỉnh Hưng Yên cũ nay thuộc huyện Kim Thi, tỉnh Hưng Yên.
1502 Chỉ Lê Lợi.
1503 Xem việc tháng 6,
năm BÍnh Ngọ BK 10, 19b.
1504 Hoàng Mai: nay thuộc
Hà Nội.
1505 Thao Tả truyện, Lỗ
Hoàn Công năm thứ 11 và 13, Khuất Hà đánh được quân nước Vân ở Bồ
Tao, cho ḿnh là giỏi. Sau đánh nước La, khinh nước La nhỏ bé, không
pḥng bị, bị nước La đánh cho thua, phải tự tử.
1506 Lam Ấp: theo cương
mục là Lam Sơn (CMCB12, 6b).
1507 Ải Lê Hoa: là một
địa điểm ở ven sông Lô chảy qua vùng biên giới tỉnh Hà Tuyên và tỉnh
Vân Nam Trung Quốc bây giờ.
1508 Tên hiệu của Trần
Ngỗi và Trần Quư Khoáng.
1509 Nguyên văn: "sổ bách
vạn" chổ này hẳn có nhầm lẫn. Có lẽ là "mấy trăm người".
1510 Tứ Hạo: bốn ông già
ở ẩn trên núi Thượng Sơn đầu đời Hán là Đồng Viên công, Ư Quư Ly, Hạ
Hoàng công và Dụng Lư tiên sinh.
1511 Tử Pḥng: tức là
Trương Lương, vốn là thần tử của nước Hàn, để trả thù cho vua Hàn bị
Hạng Vũ giết, đă theo giúp Lưu Bang. Khi Lưu Bang đă thống nhất được
Trung Quốc, Trương Lương bỏ đi ở ẩn.
1512 Nay là Mộc Châu,
tỉnh Sơn La.
1513 Túi kim ngư: túi cờ
h́nh con cá bằng vàng.
1514 Xa Lộc, Xa Khát, Xa
Bàn và Xa Điểm; đều là con Xa Tham (Theo CMCB 14, 15b).
1515 Quốc tinh: là họ
vua, ở đây là họ Lê.
1516 Ải Pha Lũy: tức là
cửa Nam Quan sau này, ngày nay là Hữu Nghị Quan.
1517 Thổ Khối: tên xă, ở
tả ngạn sông Hồng, gần xă Bát Tràng, nay thuộc huyện Gia Lâm Hà Nội.
1518 Nguyên văn: "Cùng
binh độc vũ".
1519 Lê Triện đă hy sinh
trong trận Cảo Động, huyện Từ Liêm, ngày 7 tháng 2 năm ấy, ở đây hẳn
có sự lầm lỗi.
1520 Đê Vạn Xuân: tức đê
Thanh Tŕ ngày nay.
1521 Nguyên văn: "Đại
giang", tức sông Nhị.
1522 Chi Lăng: là ải hiểm
trở nhất trên con đường từ Pha Lũy đến Đông Quan, cách Pha Lũy
khoảng 60 km, thuộc xă Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn ngày nay.
1523 Ải Lưu: (nguyên văn
thiếu chử Lưu) cũng là cửa ải trên đường từ Khâu Ôn đến Chi Lăng,
nằm ở khoảng Lạng Nắc, hoặc trên đó không xa lắm, vùng giáp giới hai
xă Nhân Lư và Sao Mai, huyện Chi Lăng ngày nay.
1524 Mă Yên: tên nôm là
núi Yên ngựa, một ḥn núi đá cao khoảng 40m so với mặt đất, chu vi
300m, nằm ở phía nam cánh đồng lầy lội, muốn qua phải bắc cầu mới đi
được.
1525 Đây là trận phục
ḱch lớn xảy ra ở Cần Trạm, nay là vùng Kép và một số xóm phía tây
nam xă Hương Sơn, huyện Lạng Giang, tỉnh Hà Bắc ngày nay.
1526 Trận ngày 28 tháng 9
(tức ngày 18 thánh 10) xảyra ở Phố cát là vùng đồi đất giữa Cần Trạm
và Xương Giang, khoảng xă Xương Lâm, huyện Lạng Giang, Hà Bắc ngày
nay. Trận này, Lư Khánh phải thắt cổ tự tử.
1527 Đoạn sông Thượng
chảy qua vùng Xương Giang. Khi ấy, quân thủy bộ ta lợi dụng đoạn
sông Thương này để bố trí bao vây địch ở mặt tây.
1528 Khu vực đóng quân
của địch ở phía bắc thành Xương Giang, đó là một vùng đồng ruộng và
xóm làng rộng lớn gồm xă Tân Dinh (thuộc huyện Lạng Giang, tỉnhHà
Bắc ngày nay) và xung quanh, cách Xương Giang 3 km.
1529 Ải Bàng Quan: hay
Nội Bàng, ở vùng Chũ, tỉnh Hà Bắc ngày nay.
1530 Trận này chỉ có một
tên chủ sự Phan Hậu trốn thoát về nước (Theo Hoàng Minh thực lục).
1531 Nghĩa là "ng̣i Nước
Lạnh".
1532 Lănh Câu và Đan Xá
là hai địa điểm gần của ải Lê Hoa.
1533 Tức là Liễu Thăng.
1534 Sửa lại thành Xương
Giang mới đúng.
1535 Niên Hiệu của Trần
Cảo, tức năm Bính Ngọ. 1426.
1536 Tức là Yên Phụ, Hà
Nội ngày nay.
1537 Chỉ lần xâm lược
nước ta vào năm 1407.
1538 Chữ (vũ) là do hai
chữ chỉ và qua hợp thành. "Chỉ qua": có nghĩa là "ngừng việc can
qua". Những bọn quan lại hiếu chiến cho rằng như thế là "bất vũ"
nghĩa là không anh hùng, không có uy vũ.
1539 Hương hộ: là những
hộ t́m kiếm hương liệu.
1540 Tức bài B́nh Ngô Đại
cáo do Nguyễn Trăi soạn. Khi dịch bài này, chúng tôi đă tham khảo
các bài dịch của Bùi Kỷ, Đào Duy Anh, Bùi Văn Nguyên, Vũ Khiêu.
1541 Do câu "điếu dân
phạt tội" ở Kinh Thư, nghĩa là thương xót nhân dân, đánh kẻ có tội.
1542 Lưu cung: vua Nam
Hán, sai con là Hoằng Thao đem quân sang xâm lược nước ta, bị Ngô
Quyền đánh bại
1543 Triệu Tiết: viên
tướng nhà Tống, sang xâm lược nước ta, bị Lư Thường Kiệt, đánh bại.
1544 Nguyên văn: Toa Đô
bị bắt ở cửa Hàm Tử. Ô Mă bị giết ở sông Bạch Đằng, chúng tôi sửa
một chút cho đúng sự thật lịch sử
1545 Dân đen, con đỏ: là
chỉ nhân dân nói chung.
1546 Muốn tiến về đông:
Nguyên văn là "dục đông", câu trong Hán thư. Khi Lưu Bang bị Hạn Vũ
bắt vào Tây Thục, bực dọc nói: "ta cũng muốn tiến về đông, sao chịu
ở măi chốn này". Câu này ư nói nghĩa quân chỉ lăm lăm muốn tiến về
Đông Đô (Hà Nội)
1547 Sử kư, Tín Lăng Quân
truyện: Tín Lăng Quân người nước Nguỵ nhge tiếng Hầu Doanh là một
hiền sĩ, đem xe đến đón, ḿnh ngồi phía hữu, để trống chỗ bên tả cho
Hầu Doanh. "Để dành phía tả" là có ư khao khát, tôn trọng người
hiền.
1548 Nguyên văn: "Yết can
vi kỳ", chữ trong Hán thư, ư nói cuộc khởi nghĩa có tính chất quần
chúng rộng răi.
1549 Manh lệ: manh chỉ
dân thường, nông dân; lệ là những người bị lệ thuộc, như nô tỳ, Mạnh
lệ là những người có thân phận hèn kém trong xă hội cũ.
1550 Nguyên văn: "Đầu lao
tướng sĩ". Xưa có viên tướng giỏi, được biếu một b́nh rượu ngon liền
đem rượu đổ xuống ḍng sông bảo quân sĩ cùng uống để tỏ ḷng đồng
cam cộng khổ từ trên xuống dưới.
1551 Mưu phạt tâm công:
đánh bằng mưu trí, đánh vào ḷng người.
1552 Tuyên Đức: là niên
hiệu của vua Tuyên Tông nhà Minh.
1553 Nguyên văn là "cùng
binh độc vũ".
1554 Thạnh, Thăng: là Mộc
Thạnh và Liễu Thăng.
1555 Bĩ rồi lại thái: qua
thời kỳ gian khổ, đến thời kỳ vui sướng, tươi sáng.
1556 Kiến Trung: là niên
hiệu của Thái Tông Trần Cảnh, Trần Cảnh lên ngôi năm Ất Dậu, 1225.
1557 Kiến Tân: Là niên
hiệu Thiếu Đế Trần An.
Trần An
bị phế năm Canh Thân. 1400.
1558 Chữ
Cảnh và chử An cùng có chử Hỏa ở dưới.
1559 Chỉ
nhà Tiền Lê do Lê Hoàn sáng lập.
1560 Đại
Lư: là tên một vương quốc trước đây ở Vân Nam, ở đây là chỉ vùng Vân
Nam, Trung Quốc.
1561 Tóc
dài, răng trắng: chỉ phong tục người Trung Quốc bấy giờ. Phong tục
của ta th́ tóc ngắn, nhuộm răng đen.
1562 Lưới
Thang: vua Thang nhà Thương thấy người đánh lưới chim bủa vây cả bốn
mặt, bèn cắt bỏ đi ba mặt, tỏ ḷng nhân đức.
1563 Họ
Hữu Miên trái mệnh, vua Thuấn cho múa mộc dưới thềm trong triều,
được 7 tuần th́ Hữu Miên quy phục.
1564 Tức
sách Việt giám thông khảo 26 quyển của Vũ Quỳnh, sách này chép từ
đời Hồng Bàng đến Mười hai sứ quân, làm phần Ngoại kỷ: từ Đinh Tiên
Hoàng đến khi Lê Lợi đuổi được giặc Minh làm phần Bản kỷ.
1565 Hỏa
thủ: chỉ huy, đội trưởng.
1566 Lũng
Nhai: tức Lũng Mi, tên nôm là làng Mé, thuộc xă Ngọc Phụng, huyện
Thường Xuân. Tại đây, vào ngày đầu tháng 2 năm Bính Thân 1416 có một
cuộc Hội thề lịch sử giữa Lê Lợi và 18 người đồng chí của ông. Những
người có công lao khó nhọc ở Lũng Nhai chỉ những người đă tham gia
khởi nghĩa buổi ban đầu.
1567 Bản
Chính Ḥa có ghi tên một người, nhưng ở bản chụp mà chúng tôi dịch,
chữ này bị mờ không đọc được. Các bản in khác chỉ có tên Lê Lễ mà
không có tên tên này. Theo CMCB 15, 3a th́ người đó là Lê nghiễn.
1568 Cha
đă chết gọi là "khảo', mẹ đă chết gọi là "tỷ".
1569 Thủ
tiễn: tên ném bằng tay, cũng gọi là phiêu.
1570 Sao
quân, sao đội: là người giữ việc biên chép trong 1 quân, 1 đội.
1571 Chỉ
việc không t́m được người họ Trần. Trong biểu cầu phong, Lê Lợi nói
là đă t́m khắp mọi nơi, nhưng không c̣n một người họ Trần nào để
lập.
1572
Nguyên văn là "định ngũ ngũ", hẳn là do khắc in sai.
1573
nguyên văn là "quan tỳ", sửa lại theo Minh sử.
1574 Vua
Minh trả lời là người con gái đă bị chết v́ bệnh đậu mùa.
1575 Ngôn
quan: Chỉ các quan giữ trách nhiệm khuyên can vua và đàn hặc các
quan.
1576
Tháng 2 này c̣n có việc bắt giết Trần Nguyên Hăn (xem CMCB 15, 20a).
1577 Năm
Thuận Thiên thứ 1, mùa hạ, tháng 4, có ghi sự kiện: "Sông Nhị nảy
vàng ṛng". Có lẽ ở đây nói tới số vàng đó.
1578 CMCB
15, 23 ghi rơ là mở khoa Minh kinh.
1579 Quy
chế đồng tiền, nguyên văn là "tiền pháp".
1580 Nguyên văn là "sao".
1581 Nguyên văn là
"tiền".
1582 Mao Toại: người đời
Chiền Quốc, gia khách của B́nh Nguyên Quân, ngày thường cũng như mọi
người, không lộ chút tài năng ǵ. Khi nước Ttriệu bị nước Tần đánh,
Mao Toại tự tiến cử ḿnh, xin cùng đi với B́nh Nguyên Quân sang cầu
cứu nước Sở. Kết quả là nhờ có Mao Toại thuyết phục được vau Sở,
nênlời giao ước "hợp tụng" để chống quân Tần được thực hiện.
1583 Nịnh Thích: Người
nước Vệ, nhà nghèo phải đi đẩy xe thuê. Một hôm, thấy Tề Hoàn Công
đi qua, Nịnh Thích gơ vào sừng trâu mà hát, Hoàn Công cho là lạ, đưa
về cho làm thượng khách, sau có nhiều công lao, được phong tới Tướng
quốc.
1584 Nguyên văn là
"thiếp" cũng như giấy chứng thực ngày nay.
1585 Nghĩa là tạm coi
công việc của nước An Nam.
1586 Theo CMCB 15, 28a,
th́ chỉ bắt được Nông Đắc Thái, c̣n Bế Khắc Thiệu bỏ chạy rồi chết.
1587 CMCB 15, 29a dẫn Hội
diễn của nhà Minh nói rằng: lệ cống gồm có các
1588 Cuối năm này có việc
giết Thái úy Phạm Văn Xảo, một khai quốc công thần rất có uy vọng.
1589 Châu Mường Lễ: trước
là châu Ninh Viền, sau đổi là châu Phục Lễ, là vùng đất tỉnh Lai
Châu ngày nay.
1590 Châu Phục Lễ: xem
chú thích trên.
1591 Về việc đánh châu
Phục Lễ, Cương mục chép vào tháng 12 năm Tân Hợi (1413) và tháng
giêng năm Nhâm Tư (1432), tháng 3 rút quân về, tháng 11, Đèo Cát Hăn
xin hàng (CMCB 15, 30). Đại Việt thông sử của Lê Quư Đôn cũng chép
như vậy. Điều đó phù hợp với bài thơ của Lê Lợi khắc ở Pú Huỗi vào
mùa đông năm Tân Hợi (1431) và bài thơ lúc trở về khắc ở Thác Bờ vào
tháng 3 năm Nhâm Tư (1432).
1592 Theo Lam Sơn thực
lục, lực lượng ban đầu có 35 quan vơ, một số quan văn, 200 thiết kỵ,
200 nghĩa sĩ, 14 thớt voi và số người tham gia, tất cả độ 2.000
người.
1593 Tức là đến khi Lê
Lợi mất.
1594 Tức bài Văn bia Vĩnh
Lăng, nói về sự nghiệp khởi binh đuổi giặc Minh, giành lại độc lập
của Lê Lợi. Bài văn này, Nguyễn Trăi soạn vào tháng 10 năm Quư Sửu
(1438) đặt ở Vĩnh Lăng, nơi chôn Lê Lợi.
1595 Cương mục, dẫn Hoàng
Việt dư địa chí, nói rằng điện này ở xă Lam Sơn,huyện Thuỵ Nguyên,
phủ Thiệu Hóa, nay là xă Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa
(CMCB 15, 33a).
[58a]
NHÂN TÔNG TUYÊN HOÀNG ĐẾ
Tên húy
là Bang Cơ, con thứ ba của Thái Tông, mẹ là Tuyên Từ hoàng thái hâu
Nguyễn thị, tên húy là Anh, người làng Bố Vệ, huyện Đông Sơn, Thanh
Hóa. Vua sinh năm Tân Dậu, Đại Bảo năm thứ 2 [1441], tháng 6, ngày
Giáp Tuất mồng 9. Năm thứ 3 [1442], tháng 6, ngày 6 được lập làm
hoàng thái tử; đến tháng 8, ngày 12 lên ngôi, đổi niên hiệu là Thái
Ḥa, lấy ngày sinh làm Hiến Thiên thánh tiết. Ở ngôi 17 năm, thọ 19
tuổi, táng ở Mục Lăng. Vua tuổi c̣n thơ ấu đă có thiên tư sáng suốt,
vẻ người tuấn tú đường hoàng, dáng điệu nghiêm trang, sùng đạo Nho
nghe can gián, thương người làm ruộng, yêu nuôi muôn dân, thực là
bậc vua giỏi, biết giữ cơ đồ, không may bị cướp ngôi giết hại,
Thương thay!
Quư Hợi,
Thái Hoà, năm thứ 1 [1443], (Minh Chính Thống năm thứ 8). Mùa xuân,
tháng giêng, ngày mồng 8, giờ Dậu, có sao sa ở phương nam. Bấy giờ
vua mới ba tuổi, nên Thái hậu buông rèm coi chính sự nắm quyền đoán
việc nước.
Tháng 2,
ngày mồng 2, xuống chiếu rằng:
"Mới rồi
trời hiện điềm tai biến như sau sa, động đất. Trẫm rất lo sợ, suy
nghĩ nguyên nhân tai biến, không biết bởi đâu. Có phải v́ trẫm mới
cầm quyền, [58b] chưa biết giảm nhẹ lao dịch thuế khóa, có điều
không lợi cho dân không? Hay là phụ quốc đại thần điều ḥa trái lẽ
nên khí âm dương không hài ḥa mà đến thế chăng? Hay là việc ngục
tụng không công bằng, hối lộ công khai, xử án c̣n nhiều oan uổng mà
đến nỗi thế chăng? Hay là chức thú lệnh chưa được người giỏi, làm
bừa trái phép, nhiễu hại dân chúng mà đến nỗi thế chăng? Hay là bọn
cung nữ oán hờn chưa thả chúng ra nên hại tới ḥa khí mà đến nỗi thế
chăng? Có phải là bọn gièm pha âm mưu xảo quyệt, để công thần chịu
oan khuất chưa được rửa oan mà đến nỗi thế chăng? Hay là v́ bày việc
thổ mộc, xây dựng cung điện chăng? Kẻ tiểu nhân được tiến dùng, c̣n
người quân tử phải lui ẩn chăng? Đường nói năng bịt kín mà ơn trên
bị che lấp chăng. Bọn phi tần lộng hành mà cửa sau bỏ ngỏ chăng.
Lệnh cho khắp quan lại, quân dân, đều phải hết ḷng bày tỏ những
điều có thể xoay được ḷng trời, dập hết tai biến, hăy thẳng thắn
nói ra, chớ nên ẩn dấu, để giúp trẫm sửa những điều thiếu sót".
[59a] Có
rồng đỏ vào cửa biển Đại Toàn1692 .
Tháng 3,
ngày 16, ban bố hai chữ húy. Tên vua là Cơ, tên húy của Hoàng thái
hậu là Anh, cùng miếu húy gồm 7 chữ.
Mùa hạ,
tháng 4, rồng hiện ở bến Hóa, huyện Đông Lại1693 .
Tháng 5,
động đất.
Ngày rằm,
có nguyệt thực.
Tháng 6,
lấy ngày sinh làm Hiến Thiên thánh tiết.
Mùa đông,
tháng 10, vua bỏ áo tang, mặc hoàng bào, ngự chính điện để coi chầu.
Các quan mặc thường phục theo thứ bậc của ḿnh, v́ các quan tâu xin
bỏ tang phục, mặc cát phục, căn cứ theo lời chiêm đoán các việc âm
dương tai dị của Thái sử viện.
[59b]
Tháng 11, nhà Minh sai chánh sứ Hành nhân ty hành nhân Tŕnh Cảnh
sang tế [Thái Tông].
Ngày 16,
sai bọn Ngự sử trung thừa là Hà Phủ, Hàn lâm viện tri chế cáo Nguyễn
Như Đổ, Ngự tiền học sinh cục trưởng Lương Như Hộc sang tạ ơn nhà
Minh sang tế.
Ngày 25,
sai Tham tri bạ tịch Tŕnh Dục, Nội mật viện chánh chưởng Tŕnh
Thanh, Hàn lâm viện trực học sĩ Nguyễn Khắc Hiếu sang nhà Minh tạ ơn
việc sách phong.
Giáp Tư,
[Thái Ḥa] năm thứ 2 [1444], (Minh Chính Thống năm thứ 9). Mùa xuân,
tháng giêng, tuyển tráng đinh bổ vào quân ngũ.
Thi chọn
sĩ nhân bổ làm thuộc lại các ty.
Làm sổ hộ
tịch.
[60a] Mùa
hạ, tháng 5, chúa Chiêm Thành là Bí Cai vào cướp thành châu Hóa,
cướp bắt nhân dân. Sai Nhập nội kiểm hiệu thái bảo Lê Bôi và Tổng
quản Lê Khả đem 10 vạn quân đi đánh.
Mùa thu,
tháng 7, bắt giam Thái phó Lê Liệt.
Mùa đông,
tháng 10, động đất, nhật thực.
Có nguyệt
thực.
Tháng 11,
sai sứ sang nhà Minh. Tả thị lang Đào Công Soạn, Ngự tiền chấn lôi
quân chỉ huy Lê Tạo nộp cống hằng năm. Đông đạo tham tri Nguyễn Lan
tâu việc địa phương Khâm Châu.
Ất Sửu,
[Thái Ḥa] năm thứ 3 [1445], (Minh Chính Thống năm thứ 10). Mùa
xuân, tháng giêng, sai các văn thần đốc suất quân lính các xứ trong
nước đào kênh ở lộ Thanh Hóa.
Mùa hạ,
tháng 4, Chiêm Thành vào cướp thành An Dung của châu Hóa. Tháng 5,
gặp nước lũ nên thua to.
[60b]
Tháng 6, phong hoàng đễ Tư Thành làm B́nh Nguyên Vương.
Ngày 25,
sai bọn nhập nội kiểm hiệu tư đồ b́nh chương sự Lê Thận, Nhập nội đô
đốc Lê Xí đi đánh Chiêm Thành.
Mùa đông,
tháng 10, v́ có tai dị, xuống chiếu rằng:
"Trẫm ở
ngôi cao mà chưa biết việc đời, cho nên liền mấy năm nay, tai dị
liên tiếp, sấm sét luôn luôn, mưa dầm quá độ, nước lớn ngập tràn, đê
điều bị vỡ, làm hỏng nhà cửa muôn dân, đầm hồ sụt lấp, dâu rau ngập
úa. Có phải v́ chính sự có thiếu sót mà hại đến ḥa khí vận âm dương
biến đổi? Muốn chấm dứt sự trừng phạt của trời cao, phải rộng ban
điều ân huệ cho kẻ dưới. Nay ban các điều về thuế, [61a] giảm tội
rộng răi theo thứ bậc khác nhau".
Tháng
này, lấy Lê Bá Nhai, con trai của Nhập nội thiếu phó tham dự triều
chính Lê Khắc Phục làm pḥ mă đô úy, gả cho hoàng nữ thứ hai là An
Nam công chúa.
Nhập nội
đô đốc Lê Xí có tội, vua định công khai xử theo luật pháp, nhưng v́
Xí là bề tôi cũ có công lao, đáng được hưởng luật bát nghị, nên chỉ
băi chức.
Ngày mồng
7, nước lũ tràn ngập vào trong thành, sâu đến 3 thước. Lúa má bị
ngập, mất tới một phần ba.
Tháng 12,
sai B́nh chương sự Lê Khả đem quân đi đánh Chiêm Thành.
Bính Dần,
[Thái Ḥa] năm thứ 4 [1446], (Minh Chính Thống năm thứ 11). Mùa
xuân, tháng giêng, đúng kỳ hội quân lớn, chọn người khoẻ mạnh đi
đánh Chiêm Thành. Sai dân phu vận chuyển lương thực tới chức ở huyện
Hà Hoa1694 .
Ngày 22,
sai bọn nhập [61b] nội đô đốc b́nh chương Lê Thụ, Lê Khả, Nhập nội
thiếu phó tham dự triều chính Lê Khắc Phục đem hơn 60 vạn quân đi
đánh Chiêm Thành. Vua thấy chúa Chiêm Thành là Bí Cai nhiều lần dốc
quân cả nước vào cướp, cho nên sai đi đánh.
Tháng 2,
ngày mồng 8, sai sứ nhà Minh: Hải Tây đạo tham tri bạ tịch Nguyễn
Thúc Huệ sang tâu việc địa phương Long Châu. Đồng tri Thẩm h́nh viện
sự Tŕnh Chân và Chuyển vận sứ huyện Thanh Oai Nguyễn Đ́nh Mỹ sang
tâu việc Chiêm Thành.
Ngày 23,
các quân của bọn Lê Thụ đến các xứ Ly Giang1695 , Đa Lang1696 , Cổ
Lũy1697 , mở thông đường thủy, dựnng đắp thành lũy để đánh nhau với
giặc, phá tan giặc, thừa thắng đánh thẳng đến cửa biển Thi Nại1698 .
Mùa hạ,
tháng 4, ngày 25, các quân của bọn Lê Thụ tiến công thành Chà
Bàn1699 phá tan quân giặc, [62a] bắt được chúa nó là Bí Cai và các
phi tần, bộ thuộc, ngựa voi vũ khí, cùng các hàng tướng rồi đem quân
về.
Cháu thúc
bá của vua Chiêm cũ Bố Đề là Ma Ha Quư Lai đă đầu hàng tứ trước, nay
sai bề tôi là bọn Chế Cữu, Ma Thúc, Bà Bị sang chầu, dâng biểu xưng
thần, xin cho lập làm vua.
Tháng 6,
đem chúa Chiêm Thành Bí Cai làm lễ dâng tù cáo thắng trận ở Thái
miếu. Đại xá thiên hạ. Giữ chúa Chiêm Thành Bí Cai và ba người phi
tần ở kinh sư. Sai sứ đi t́m những người Chiêm ở kinh thành từ trước
trao cho tả hữu của vua Chiêm và các hàng trong nước Chiêm cho về
nước.
Mùa thu,
tháng 9, ngày 19, sai Hải Tây tham tri bạ tịch Nguyễn Hoằng Nghị
Nhân và Chính sự viện
Đồng tham
nghị Trịnh Hoằng Nghị sang nhà Minh báo tin Chiêm Thành vào cướp năm
trước.
Đinh Măo,
[Thái Ḥa] năm thứ 5 [1447], (Minh Chính Thống năm thứ 12). Mùa thu,
tháng 7, xuống chiếu rằng:
"Nhận lỗi
trách ḿnh, duy bậc chí thành [62b] mới có thể làm được; trừ tai cứu
nạn, thực điều nhân chính phải đặt lên hàng đầu. Trẫm từ khi lên
ngôi đến nay, thiên tai xảy ra luôn, dân chúng rất đói kém. Mới rồi,
đă hạ lệnh cho các nha môn tŕnh bày những điều có thể làm lợi cho
quân dân để chọn lựa thi hành, nay lại thi hành, lệnh cho thải bớt
các cung nữ bị giam cấm. Các đạo làm bản tâu tŕnh bày những việc
đau khổ của dân trong hạt".
Tháng 9,
ngày 29, sai sứ sang nhà Minh: Ngự sử trung thừ a Hà Phủ làm chánh
sứ, Thẩm h́nh viện đồng tri Đinh Lan làm phó sứ sang nộp cống hàng
năm và tâu việc địa phương Khâm Châu. Điện trung thị ngự sử Tŕnh
Ngự làm phó sứ sang tâu việc địa phương Long Châu.
Mậu Th́n
[Thái Ḥa] năm thứ 6 [1448], (Minh Chính Thống năm thứ 13). Mùa
xuân, tháng giêng, lấy Đồng tri Đông đạo bạ tịch Lê Hy Cát làm
Thượng thư hữu ty lang trung; Tham tri Nam đạo bạ tịch Nội mật viện
phó [63a] sứ Hoàng Thanh làm Hán lâm viện thị giảng Trần Phong làm
Thị kinh diên.
Quản lĩnh
Nguyễn Tông Lỗi làm Trung Bắc Giang vệ đồng tri; Tam Đới lộ trấn phủ
sứ Lê A Hành làm Thái Nguyên thượng bạn kinh lược sứ.
Tháng 2,
lấy Lê Thọ Vực là con Thiếu bảo Lê Sao làm Cận thị tam cục chánh
chưởng.
Tư không
châu Phục Lễ Đèo Mạnh Vượng có tội, cho tự tử.
Sai nhập
nội tư mă Lê Ê đem 5.000 quân hộ tống người em thứ hai của Mạnh
Vượng, cho làm chiêu thảo sứ, tri châu Phục Lễ thay trông coi dân
chúng của Mạnh Vượng và tịch thu gia sản của Mạnh Vượng.
Mạnh
Vượng vốn tính hung bạo, ḷng người không theo, lại ngầm sai người
đánh thuốc độc giết hại bộ đảng của ḿnh, bộ đảng [63b] ai cũng thù
oán. Đến đây, nghe quan quân đến, họ tranh nhau giết hai đứa con của
hắn, bắt giam cả vợ cả, vợ lẽ, nô t́, lấy hết vàng bạc của cải của
hắn đem nộp tại cửa quân. Nhưng Lê Ê khéo biết an ủi vỗ về, không
mảy may chạm đến, t́nh h́nh lại yên ổn như cũ, người trong châu rất
vui ḷng.
Biên giới
miền đông ngoa truyền rằng nhà Minh sai sứ sang hội khám biên giới.
Vua sai Đông đạo tham tri Tŕnh Dục đi ḍ xét hư thực trở về tâu
báo.
Dục đến
biên giới không hề điều tra, chỉ tin nghe lời người đi đường đă về
tâu ngay là có quan hai ty khâm sai của phương Bắc và quan Tổng binh
trấn thủ Quảng Đông đem binh mă tới rất đông.
Vua sai
Tư khâu Lê Khắc Phục, Tả hữu nạp ngôn Nguyễn Mộng Tuân, Nguyễn Văn
Phú, hữu ty thị lang Đào Công Soạn, Trung thừa Hà Lật cùng bọn Tây
đạo tham tri, Đồng tri Nguyễn Thúc Huệ, Nguyễn Lan, Bùi Cầm Hổ,
Tŕnh Dục [64a], Thẩm h́nh viện phó sứ Trịnh Mân, Nội mật viện tham
tri Lê Văn đi hội khám. Lại sai hạ Nam Sách phủ đồng tri Lê Thiệt
đem hơn 1 vạn 2 ngh́n quân hợp đồng với các quan của trấn An Bang đề
pḥng biên giới. Ban tiền cho từng người theo thứ bậc khác nhau. lại
bắt các quan lộ, trấn, huyện và dân phu thuộc Đông đạo phải đóng góp
đầy đủ tiền gạo, trâu dê, gà vịt ngan ngỗng, rượu thịt các thứ để
đợi khao quân phương Bắc. Cả miền đông do vậy đều xao động. Đến lúc
tới biên giới, ở lại cả tuần, cả tháng, ḍ xét tin tức th́ im ắng
như tờ. Bọn họ liền đem tiền của mua hàng phương Bắc chở nặng mang
về, nói thác là quan khâm sai nhà Minh lại có khác không đến. Đài
quan1700 là bọn Hà Lật th́ vào cánh với nhau không nói một câu.
Triều đ́nh cũng không có ai hỏi đến tội đó.
Ngày Giáp
Tuất, vua ngự về Lam Kinh, Thái hậu và các vương đều đi theo. Sai
Đại tư đồ Lê Thận và Đô áp nha[64b] Lê Bí ở lại giữa Kinh sư.
Dân Thanh
Hóa thấy xa giá đến,trai gái đem nhau đến hát rí ren1701 ở hành
tại.Tục hát rí ren này, một bên con trai, một bên con gái dắt tay
nhau ca hát, có lúc tréo chân tréo cổ nhau gọi là cắm hoa, kết hoa,
trông rất là xấu. Đài quan Đồng Hanh Phát bẩm với Thái úy Khả rằng:
"Đấy là
thói dâm tục xấu,không để nhảm nhí trước xa giá".
Khả lập
tức sai cấm hẳn.
Ngày Nhâm
Ngọ, vua tới Lam Kinh,bái yết lăng miếu.
Tháng 3,
ngày mồng 1 ban yến cho các quan ở hành tại bên sông. Ban bạc cho
các quan theo hầu từ nhị phẩm trở lên theo thứ bậc khác nhau. C̣n
các quan từ tam phẩm trở xuống và các quan ở Lam Kinh cùng các loại
quân sĩ đi hộ giá th́ ban tiền theo thứ bậc khác nhau. Bấy giờ, vua
mới ngự đi lần đầu cho nên có việc ban tiền bạc đó.
Bồn Man
cho người sang cống sừng tê, vàng bạc và con voi ba ngà[65a]. Khi đi
qua Ngệ An, được lệnh để con voi ấy ở lại quân phủ1702 . Ban cho sứ
thần Bồn Man một bộ áo dài bằng đoạn màu hồng, 10 tấm lụa, 5 sọt đồ
sứ rồi cho về.
Các Thừa
Thiên làm xong, lộng lẫy hơn trước.
Đài quan
là bọn Hà Lật, Đồng Hanh Phát hặc tâu rằng:
"Án kiện
ứ đọng nhiều,việc này ở các quan có trách nhiệm, bọn thần không biết
được". bọn Thẩm h́nh lang trung phu Tŕnh Mân, Nguyễn Văn Kiệt, Lê
Bá Viễn đều cúi đầu tạ tội. Riêng Giám sát ngũ h́nh Tŕnh Duy Nhất
kiếm lời bào chữa măi không thôi.Vua không trả lời. Sai bọn Hà Lật
đến Ngũ hành viện điều tra, th́ từ năm Nhâm Tư1703 đến năm Đinh Măo
(1449-14?) c̣n đọng tới 125 án. Các đại
thần bà
nhau đem chia những án kiện đọng lại ấy cho quan năm đạo, đài quan
và ngũ h́nh cấp tốc xét xử, không được để ứ đọng lâu ngày có hại cho
dân. Hơn nữa, việc h́nh ngục qúa nhiều, h́nh quan sức [65b] không
làm xuể, xin xét giảm tội cho họ.
Biếm Lang
trung Nguyễn văn Kiệt, Đại phu Lê Bá Viễn mỗi người đều 1 tư, mỗi
người phải phạt 50 roi.
Mùa hạ,
tháng 4, cấm viên quan và quân dân không được chiếm ruộng công để
đào ao, làm vườn tược nhà cửa
Lấy cựu
Đô đốc Lê Xí làm Thiếu bảo tri quân dân sự, Đồng tri Lê Lư làm Tuyên
úy đại sứ chău Phục lễ.
Thái pó
Lê Văn Linh chết, thọ 72 tuổi, được truy tặng khai phủ, tên thụy là
Trung Hiến.
Văn Linh
là công thần khai quốc, là vị nguyên lăo của ba triều1704 tính thâm
trầm, có trí lược, rất am hiểu các mặt chính sự, lúc bàn bạc ở triều
đ́nh, có nhiều điều rất sáng suốt. Khi Lê Sát bị giết, ông nói thẳng
không a dua, đành chịu khiển trách, được công [66a] luận cho là
phải. Song ham mê tiền của, cho người làm quan để nhận hối lộ riêng.
Rốt cục, không một lời nào bàn tới chính sự của đất nuớc. Ông ta chỉ
tin thờ đạo Phật, đinh ninh dặn lại con ḿnh kính mời các bậc cao
tăng tụng kinh ba tuần chay, bảy tuần giới, đừng làm đám linh đ́nh
mà thôi.
Nam đạo
Hành khiển quan nội hầu trí sĩ Lê Soạn chết. Sọa tuy là bậc huân cựa
lăo thàn, nhưng bỉ ổi, tham lam,không có tài cán ǵ, người bấy giờ
đều khinh bỉ ông ta.
Bọn
Nguyễn Hữa Quang từ Chiêm Thành trở về. Sứ thần Chiêm Thành là bọn
Bân Đối Thêm, Chiêm Thấp mang quốc thư và lễ vật cống cùng đi theo
bọn Hữu Quang sang ta.
Ban yến ở
Sứ quan, sai Tư khấu Lê Khắc Phục chủ tŕ. Ban mũ đai, y phục cho
chúa cũ của Chiêm Thành là Bí Cái và cho y dự yến. Đến khi sứ Chiêm
về, ban cho chánh sứ, phó sứ mỗi người một chiếc áo, 3 tấm lụa,
thông sự và hành nhân mỗi người 2 tấm lụa:19 người đi theo cho chung
19 tấm luạ, nhân tiện sai mang luôn thư vua ban [66b] về nước.
Lấy hàn
lâm viện trực học sĩ Nguyễn Khắc Hiếu làm Thị giảng phụng thị kinh
diên; thẩm h́nh viện phó sứ là Đào Mạnh Cung làm tam Đới lộ tuyên
phủ sứ hành Tam Đới lộ sự; Nguyễn Tử Yến làm Hữu h́nh viện lang
trung; Giao Thủy Chuyển vận phó sứ Tưởng Thừa Hy làm Trung Đô phủ
Chiếu doăn; cựu Thị độc Nguyễn Thiên Tích làm Hàn lâm tri chế cáo.
Ra lệnh
chỉ cho Quản lĩnh ngự tiền vũ đội rằng:
"Bọn các
ngươi từ thời Thái Tổ đến nay giữ phậc túc trực đă lâu, không được
ngó tới cửa nhà. Nay thiên hạ vô sự, nên chia thành ba phiên thay
nhau túc trực để được về viếng thăm cha mẹ".
V́ các
đại thần xét thấy liền mấy năm hạn hán, sâu lúa, quan th́ túng, dân
th́ nghèo, mà số vệ sĩ tăng nhiều, lương cấp không đủ, nên có lệnh
này.
Lấy Tư
khấu Lê Khắc Phục làm Đề điệu Quốc tử giám; Tri phủ Nghệ An là
Nguyễn Hồi làm Hữu [67a] nạp ngôn, tri Nam đạo tham tri từ tụng sự;
Trung thư sảnh thuộc là Cao Mô làm Giám sát ngự sử.
Tháng ấy,
giảm bớt số tướng hiệu ở các vệ quân.
Các quân
ngự tiền mỗi quân nguyên trước có 8 viên, nay chỉ giữ lại 2 viên.
Năm quân Thiết đột, mỗi quân nguyên trước có 4 viên, nay chỉ giữ lại
2 viên.Trước đây, cấp lương hàng năm bằng tiền, sau bắt quân lính
phải nộp để thế tiền lương năm trước. Các đại thần bàn là quan nhiều
th́ hại dân, cho nên có lệnh này.
Ra lệnh
chỉ cho các quan văn vơ trong ngoài rằng:
"Nhà nước
đă có quy định lương bổng để giữ liêm khiết, lại có ban bố phép tắc
để theo đó mà làm. Nay bọn các ngươi không chịu giữ phép, khi làm
việc công th́ mượn tiếng việc công để lo chạy việc tư, khi xét kiện
tụng th́ lo nhận hối lộ mà bẻ cong phép nước, khiến những người đi
đường ai cũng than oán. Xé mối hệ hại này hẳn [67b] không phải là
việc nhỏ. Nay các ngươi phải gột rửa ḷng ḿnh, giữ thân liêm khiết,
gắng gỏi việc công, yêu thương quân nhân, khiến chúng dần dần được
yên nghiệp, th́ các ngươi cũng được yên nghiệp. Nếu vẫn mê muội
không chừa, bị người các giác, hoặc ḍ xét được thực trạng sẽ bị trị
nặng hơn luật thường 2 bậc. Quan trên và đồng liêu không biết khuyên
răn, th́ khi việc bị phát giác, cũng bị trị tội theo luật và cắt
phần lương bổng".
Thi và
Cận thị chi hậu cục. Kỳ thứ nhất thi ám tả cổ văn. Kỳ thứ hai thi
chế, cáo, biểu. Kỳ thứ ba thi thơ, phú. Cho đỗ bọn Nguyên Chương 23
người, bổ làm Nhập nội thị cục học sinh.
Giết Nam
đạo chủ bạ Đàm Thảo Lư. Thảo Lư ẩn lậu 4 quan 9 tiền thuế, xét tội
không đến nỗi chết. Nhưng bọn Thái úy Khả cho là Thảo Lư đă từng vu
hăm Nguyễn Thiên Tích, rất ghét Lư. V́ thế Lư bị giết.
Bọn Hà
Lật hặc tội Giám sát ngũ h́nh Tŕnh Duy Nhất không soát xét [68a] án
kiện, để đọng lại nhiều. Duy Nhất tuy có tạ tội nhưng trong ḷng
không phục, bèn tâu rằng:
"Nếu thần
được trao giữ chức đàn hặc th́ nhất định có thể chấn chỉnh kỷ cương
của triều đ́nh mà gạn đục khơi trong được. Nhưng bọn thần lại phải
giữ chức pháp quan, sợ rằng việc h́nh án xét nhanh th́ khinh xuất,
có thể dẫn tới oan uổng. V́ thế, thường phải để chậm mà suy nghĩ cho
chín, thẩm xét cho tường chứ không dám cố ư để đọng lại".
Rồi kể
hết các lầm lỗi của đài quan, cho là họ chỉ biết bới móc vết xấu của
người mà không biết sửa đổi lỗi lầm của ḿnh. Chống chế biện bác đến
7 lần. Vua cho là Duy Nhất chỉ trích ngôn quan giữa triều đ́nh, hạ
lệnh đánh 80 trượng, biếm chức 2 tư.
Mùa hạ,
tháng 6, thăng Phụng tuyên sứ Nguyễn Xa Lỗ, Nguyễn Xương làm Tham
tri từ tụng sự.
Tha cho
Lê Liệt khỏi lao hầm. V́ tám người cùng họ như Lê Khắc Phục và công
chúa Ngọc Lan [68b] làm đơn khẩn thiết van xin vua nới phép ban ơn,
nên có lệnh này.
Xuống
chiếu cho các quan văn vơ phải trai giới đến chùa Báo Ân ở cung Cảnh
Linh làm lễ Cầu mưa. Vua đích thân tới vái xin.
Sai Thái
úy Lê Khả đến xă Cổ Châu rước tượng Phật Pháp Vân1705 về chùa Báo
Thiên ở kinh thành. Xuống chiếu cho các nhà sư tụng kinh cầu đảo.
Vua và hoàng thái hậu cùng đến làm lễ. Ban cho các nhà sư 10 tấm
lĩnh và vóc, 20 quan tiền mới.
Ngày hôm
ấy, tha 24 tù nhân tội c̣n ngờ.
Xuống
chiếu cho các quan kinh diên, tham nghị, đài quan, hàn lâm, trung
thư tâu bày về duyên do dẫn tới hạn hán.
Đại thần
là bọn Lê Thụ cùng dâng sớ hặc tội ḿnh, xin vua miễn chức. Ra sắc
dụ không cho và xuống chiếu rằng:
"Vài năm
nay, tai dị liên tiếp xảy ra: lụt lội, hạn hán, sâu bệnh không năm
nào không có. Có phải v́ đạo giữ nước trị dân của trẫm trên không
thuận ḷng trời dưới chưa thỏa [69a] chí dân mà đến nỗi thế không?
Hay là các đại thần pḥ tá không được người xứng đáng, điều ḥa trái
phép, xếp đặt sai lẽ mà đến nỗi thế chăng? Hỡi các quan trong ngoài
cho tới các sĩ dân, các ngươi hăy v́ trẫm mạnh dạn nói ra, hăy chỉ
rơ những việc làm phương hại tới nhân dân và chính sự của trẫm và
các tể thần. Nếu có người hiền lương phương chính, cũng cho được tự
tiến cử. Khi tŕnh bày sự việc, cần phải đúng sự thực, không nên
viện dẫn suông lời văn cổ xưa để trả lời trẫm".
Mùa thu,
tháng 7, ba trấn Tuyên Quang, Quy Hóa, Gia Hưng, các lộ Đà Giang đói
to. Tri Tây đạo Nguyễn Phú tâu rằng:
"Các trấn
lộ Tuyên Quang, Quy Hóa, Gia Hưng ở miền núi rừng hẻo lánh, ruộng
đất sỏi đá xơ xác, lại thêm liền năm bị hạn hán, sâu bọ, dân chúng
rất đói. Xin lấy thóc kho công cho dân vay, may ra dân được hồi
sinh".
Bèn xuống
chiếu phát thóc các kho trong xứ cho dân vay, [69b] đợi khi được mùa
th́ trả lại cho nhà nước.
Sao Huỳnh
hoặc1706 xuất hiện vào khoảng sao Tâm, đến hơn 1 tuần1707 .
Châu Quỳ
Hợp dâng 2 con voi.
Ban cho y phục, lụa tấm,
đồ sứ... Trước kia, Quỳ Hợp vốn gọi là Tồn Bồn Man, phụ thuộc Ai
Lao. Từ khi Thái Tổ dựng nước mới sang tiến cống. Đến đây, lại dâng
voi, xuống chiếu đổi thành châu Quỳ Hợp.
Băi chức bọn đại phu của
hai viện thuộc ty Tường h́nh1708 là Lê Bá Viễn, Phạm Phúc.
Trước kia, Bá Viễn xét
kiện, có hỏi tới Ngự sử trung thừa Hà Lật. Bá Viễn vặn hỏi nhiều
lần, do vậy, Lật để ḷng căm giận. Đến đây, Lật góp nhặt những lời
bịa đặt của kẻ bị kiện, dâng sớ hặc tội bọn Bá Viễn, Phạm Phúc,
Nguyễn Doăn Trung xét ngục tụng nhiều lần buộc tội cho người quá ư
thảm khắc, xin thải ra nhận thức bên ngoài, không nên để ở pháp ty
nữa. Vua sai quan năm đạo xét hỏi việc ấy. Bọn Bá Viễn, Phạm Phúc
không giữ được b́nh tĩnh, [70a] dâng sớ kể tội của Lật, nói là Lật
đă từng là tội phạm, xin được đối lư với Lật. Vua giữ sớ lại không
giao xuống. Bọn Lật nghe thấy thế rất căm giận, tâu vua:
"Thần thấy từ Tam Đại đến
nay, chưa bao giờ có chuyện kẻ bị ngôn quan đàn hặc lại đi kiện lại
ngôn quan. Nay bọn Bá Viễn kiện thần, thế lá miệt thị tai mắt của bệ
hạ. Bọn thần v́ thế mà bị băi miễn, cố nhiên không đáng tiếc, chỉ sợ
rằng những người giữ chức này vế sau sẽ phải im miệng không dám nói
nữa thôi".
Bọn Thái úy Khả và Tư
khấu Khắc Phục nhân tâu là bọn Bá Viễn dám kiện lại đài quan, nên
băi chức. Vua nghe theo.
Xuống chiếu cho Lễ bộ
treo bảng cấm dân chúng mặc màu vàng, đi giày và dùng đồ chạm vẽ
h́nh lân phượng.
Lấy Tham tri Bắc đạo là
Nguyễn Tông Nhân làm tri Thẫm h́nh viện sự; Giáo thụ Nguyễn Quốc
[79b] Kiệt và Phù Thế Hào làm Ty h́nh đại phu; Ngự tiền học sinh Lê
Lâm làm Ngự sử đài chủ bạ.
Ra lệnh chỉ cấm con em
nhà thế gia và dân chúng không được nuôi những con vật làm tṛ như
gà chọi, khỉ làm tṛ, bồ câu thả, chim sơn hô1709 cá vàng1710 mà bỏ
cả nghề nghiệp.
Ra lệnh chỉ cấm quan lại
ở nội mật, tướng hiệu, quân nhân, sắc dịch ở quân ngự tiền không
được chơi bời đi lại với các quan văn vơ bên ngoài tiết lộ các việc
trong cung.
Tháng 8, cấm các đại
thần, các quan văn vơ, các mệnh phụ, nữ quan vợ cả vợ lẽ các sắc
dịch cùng đàn bá con gái trong nội điện không được ra vào các nhà
quyền thế, biếu xén nhờ vả lẫn nhau, dẫn đến làm hại cho chính sự.
Nếu họ hàng quen biết thăm viếng lẫn nhau, không có chuyện ǵ, th́
không phải theo luật này.
Giám sát ngự sử Cao Mô bị
miễn chức cho trở lại làm thuộc viên ở trung thư như cũ.
Mô giữ chức được vài
[71a] tháng, dâng sớ nói là bọn Quốc cữu Nguyễn Phụ Lộ không thể để
làm Tham tri từ tụng, trái ư chỉ của Thái hậu rồi thác cớ có bệnh,
xin được thôi chức, cho nên bị miễn.
Băi chức Bùi Th́ Hanh,
cho làm thái sử lệnh như cũ.
Th́ Hanh tâu bậy là đến
giờ Măo ngày 16 tháng ấy sẽ có nguyệt thực. Vua ra lệnh cho các quan
đến cả cửa Thừa Thiên để cứu trăng, nhưng không thấy nguyệt thực.
Giám sát ngự sử Đồng Hanh Phát hặc tội ấy. Th́ Hanh không tỏ vẻ lo
sợ, nói riêng với người nhà rằng:
"Chỉ đến phạt tiền là
cùng. Ngày xưa Mai trung thừa là tay già đời c̣n chẳng lay chuyển
nổi ta, bọn nhóc Hanh Phát th́ làm được ǵ?".
Hôm sau, Th́ Hanh thản
nhiên lên điện coi sổ sách như thường. Hanh Phát tâu vua:
"Thần làm chức ngôn
quan,điều hay dở của chính sự, việc dùng người đúng sai, đều phải
nói cho rơ xem có được hay không. V́ thế người xưa có câu: "Nói tới
xe ngự th́ Thiên tử phải đổi sắc mặc, nói tới miếu đường th́ Tể
tướng phải [71b] chờ xét tội". Nay Th́ Hanh không chịu tạ tội, cứ
điềm nhiên như không. Như vậy đâu chỉ là khinh thần, mà hẳn c̣n coi
thường phép nước. Ngày xưa Phó Dịch và Lư Thuần Phong1711 nhà Đường,
tinh thông lịch số, rất giỏi thiên văn, người bấy giờ đều cho là
không ai sánh kịp, nhưng họ cũng chỉ làm đến Thái sử lệnh mà thôi.
Nay Th́ Hanh tài nghệ c̣n thua kém bọn Thuần Phong tới trăm ngàn
lần, mà được lạm dự Môn hạ sảnh kiêm tri Tây đạo là tại làm sao ?
Huống chi, Th́ Hanh là đứa là đứa tiểu nhân gian tà về đời Thái Tổ,
dám nói càn chiết tự hai chữ "Thuận Thiên"1712 đă bị băi truất. Đến
triều Thái Tông lại cậy tà thuật, ngầm sai giết vượn lấy máu, để
trấn yểm tai biến của trời. Đến khi bệ hạ đang lúc có tang, bỗng gặp
thiên tai, Th́ Hanh bịa cớ âm dương xung khắc, nói láo là do có quốc
tang nên mới sinh ra, tâu xin rút ngắn ngày để tang để trừ bỏ tai
biến của trời. Xét các việc làm của hắn, thực là [72a] lừa dối cả.
Thần sợ thiên hạ đời sau đều bảo là dùng bọn âm dương1713 làm Tham
tri, bọn bói toán làm An phủ, bắt đầu từ bệ hạ, chứ từ xưa chưa từng
bao giờ có bao giờ".
Vua lập tức ra lệnh băi
chức Môn hạ hữu ty lang trung thiêm tri Tây đạo của Th́ Hanh. Quốc
Oai trung lộ An phủ sứ ty Bạch Khuê nghe thấy thế, cũng lo sợ, xin
từ chức.
Trước kia, Thái sử Th́
Hanh, Thái chúc Bạch Khuê đều cậy có pháp thuật, ra vào các nhà đại
thần đều gần gũi, cho là bọn họ có tài. V́ thế, Th́ Hanh xin làm Môn
hạ hữu ty lang trung thiêm tri Tây đạo, Bạch Khuê xin làm Quốc Oai
Trung lộ An Phủ sứ. Các đại thần ai cũng bảo đảm xin cho. Nhưng
những người hiền tài th́ đều cảm thấy xấu hổ đứng ngang hàng với bọn
họ. Có người đề chữ ở Cầu Kênh ngoài cửa Đông rằng:
"Trời đất tới vận bĩ, nảy
ṇi lộ an phủ1714 . Mặt trời mặt trăng [72b] khuyết, có đứa đạo tham
tri1715 , châm biếm chế giễu chúng đến như vậy. Tới đây, Th́ Hanh,
Bạch Khêu phải giáng truất một lúc, mọi người đều rất khoái chí.
Quốc sử đồng tu Nguyễn
Văn Tộ từ chức.
Có sâu cắn lúa.
Tổ chức thi hội cho sĩ
nhân trong nước, lấy đỗ 8 ngườii.
Đến khi thi đ́nh, vua
thân ra đề văn sách, hỏi về lễ nhạc, h́nh, chính. Cho Nguyễn Nghiêu
Tư đỗ trạng nguyên, Trịnh Thiết Trường đỗ bảng nhăn, Chu Thiêm Uy đỗ
thám hoa lang, bọn Nguyễn Mậu 12 người đỗ tiến sĩ, bọn Đoàn Nhân
Công 13 người phụ bảng.
(Nghiêu Tư người huyện Vũ
Ninh; Thiết Trường người huyện Yên Định: Thiêm Uy người huyện Tứ Kỳ.
Nghiêu Tư từng thông dâm với mẹ vợ, bấy giờ, có người ghi vào chuồng
lợn là "Phường trạng nguyên", có người hát ở đường cái rằng: "Trạng
nguyên trư1716 Nguyễn Nghiêu Trư" là chế giễu hành vi xấu xa đó).
Bấy giờ, Tư khấu Lê Khắc
Phục muốn cấm các khảo quan tư túi, tâu xin bắt họ phải uống máu ăn
thề. Các khảo quan phải thề bắt đầu từ đó. Nhưng thói tư túi vẫn
không thể nào hết được.
Có thí sinh làm bài chế
[73a] văn, đến hai câu đối nhau, đáng lẽ phải dùng chữ có vần trắc,
lại dùng ngay chữ "hoành" là thanh bằng. Quan sơ khảo phê là thất
luật không lấy. Quan phúc khảo lại chọn lấy, bảo là học tṛ hay chữ,
phê cho đứng đầu cả trường thi, nói bậy là chữ "hoành" người xưa đọc
theo thanh trắc, bị người đương thời diễu là "khảo quan ngu"1717 .
Bấy giờ khảo quan chỉ nghe lời Tả nạp ngôn Nguyễn Mộng Tuân, ỉm
chuyện ấy đi không nói ra. Giám khảo Đồng Hanh Phát v́ là học tṛ
Nguyễn Mộng Tuân nên biết mà không nói. Đồng khảo Nguyễn Thiên Tích
nổi giận sỉ nhục giữa điện đ́nh. Thiên T́ch căi lại không chịu, rồi
tăm tiếng thiên vị lại càng sôi động.
Sao Thổ phạm vào Thái âm.
Tháng 9, xuống chiếu sai
Thái úy Lê Khả đốc suất các cục Bách tác xây dựng miếu điện ở Lam
Kinh.
[73b] Lấy An phủ sứ
Thượng Hồng là Phan Nhân làm Đồng tri Thẫm h́nh viện sự; Trung thư
xá nhân Nguyễn Lăm làm Hoàng môn thị lang, Hàn lâm viện đăi chế
Hoàng Sằn Phu làm Tri chế cáo: Thính bát quan Nguyễn Văn Điển và Vũ
Kỳ làm Tả hữu h́nh viện đại phu; Thân tùy xá nhân Nguyễn Sĩ Hưng làm
Trúc một ty đô giám; Bắc đạo thuộc Tŕnh Đức Lương làm Thái Nguyên
trung bạn giáo thụ.
Lấy Lê Nho Tông, con Lê
Ngân, làm Đại đội trưởng Bảo ứng quân. Ngân v́ có công to khai quốc,
chết không đáng tội, con là Lê Tông Nho bị vùi dập trong quân ngũ đă
lâu, các đại thần thương xót, cho nên có lệnh này.
Lấy Tri chế cáo Đào Thiên
Phúc làm An phủ phó sứ lộ Kiến Hưng.
Mùa đông, tháng 10, lấy
Chuyển vận phó sứ huyện Cổ Hằng Tŕnh Cảnh và lộ giáo thụ Tŕnh Bàn
cùng [74a] làm Chính h́nh viện đại phu.
Người Chiêm Thành là Phan
Mỗ dẫn hơn 340 đàn ông đàn bà sang hàng, xuống chiếu chia cho ở các
đạo.
Tháng 11, đem chị cả của
vua là Vệ Quốc trưởng công chúa gả cho Lê Quát, con trai Thái úy Lê
Thụ. Lúc ấy công chúa mới có 10 tuổi, câm không nói được. Xuống
chiếu cho Tư khấu Trịnh Khắc Phục làm chủ việc hôn lễ.
Bấy giờ Lê Thụ sắm lễ
cưới, nhưng kẻ cầu cạnh ngoi lên, tranh nhau cúng của cải để mưu phú
quư, đến nỗi gấm thêu, lĩnh là, vóc lụa bán ở ngoài phố đều v́ vậy
mà hết nhẳn cả. Lê Thụ lại bắt quan lại các trấn, lộ, huyện phải sắm
đủ cả trâu, dê các thứ. Nhưng họ đều bắt quân lính và dân chúng đóng
góp để mong lấy ḷng Lê Thụ. Đài quan Hanh Phát tâu hặc. Lê Thụ trút
mũ tạ tội. Nhưng lệnh đă gửi đi khắp nơi, các quan vẫn cứ đưa lễ vật
tới mà Lê Thụ cũng không từ chối, Hanh [74b] Phát cũng không nói đến
nữa. Sau Hanh Phát lại mang lễ vật đến nhà Lê Thụ lạy tạ. Người thức
giă đều bàn chê.
Bọn Nông Thế Ôn ở châu
Bảo Lạc1718 , Dương Thắng Kim ở sách Thám Già, Nguyễn Châu Quốc ở
mường An Phú thuộc trấn Tuyên Quang có tội bị giết.
Trước đó, bọn Ôn, Kim cậy
đất hiểm, không chịu nộp phú dịch. Đến đây lại ngầm cùng với bọn
Châu Quốc đem quân chống mệnh. Phụ đạo mường An Phú là Nguyễn Doăn
Tô cáo giác chuyện đó. Sai
Tổng quản Lê Luân đem
quân bản trấn đánh bắt bọn chúng, bắt được bọn Ôn, Kim giải về chém
bêu đầu ngoài chợ kinh đô.
Tháng 12, lấy Ngự sử
trung thừa Hà Phủ làm Bắc đạo đồng tri phủ1719 , Lê B́nh làm Nghệ An
đồng tri phủ.
Nhập nội đô đốc tham dự
triều chính Đinh hầu Lê Chích chết.
Chích là công thần khôi
quốc cũ, thời Thái Tổ đă được tham dự triều chính, v́ có lỗi mất
[75a] chức. Đến chiều Thái Tông, được khôi phục làm Đồng tổng quản
châu Hóa, trấn giữ Thát Ải. Người Chiêm hai lần vây đánh thành,
Chích lấy ít đánh nhiều, nhiều lần đánh tan bọn chúng. Sau lại đi
đánh Chiêm Thành có công được thăng dần đến chức này. Đến đây chết,
được truy tặng Nhập nội tư không b́nh chương sự, tên thụy là Trinh
Vũ.
Lấy trạng nguyên Nguyễn
Nghiêu Tư và Tiến sĩ Trịnh Kiêm làm Hàn lâm trực học sĩ (v́ Kiên
nguyên đô là đô quan lục phẩm): bảng nhăn Trịnh Thiết Trường vá thám
hoa lang Chu Thiêm Uy làm Trung thư xá nhân; tiến sỉ Nguyễn Bá Kư
làm Hàn lâm tri chế cáo; Nguyễn Mậu và Dương Chấp Trung làm Khởi cư
xá nhân; Phạm Đức Khản, Nguyễn Đ́nh Tích, Nguyễn Di Quyết và Đặng
Tuyên làm Hàn lâm đăi chế; Bùi Phúc, Nguyễn Văn Chất, Phan Hoan,
Nguyễn Thúc Thông làm Quốc sử viện đồng tu sử; phụ bảng là bọn Đoàn
Nhân Công 13 người được sung làm ngự [75b] tiền học sinh.
Lấy An phủ phó sứ Thiên
Trường là Phan Phu Tiên làm Quốc tử giám bác sĩ; Chuyển vận phó sứ
huyện Phú Lương là Phạm Năng làm Trợ giáo, lộ giáo thụ Vũ Vĩnh Trinh
làm Quốc tử giám giáo thụ; Thính hậu quan Phan Tử Viết làm Quan sát
sứ.
Lấy những người ngự thí
thích hợp cách là bọn Đặng Duy Khiêm 33 người sung làm giám sinh
Quốc tử giám. Theo lệ thi hàng năm th́ học tṛ các lộ đến thi ở bản
đạo, chỉ những thí sinh đồ hợp cách đỗ hương cống mới được sung làm
giám sinh, c̣n quân dân đỗ hương cống th́ không được sung làm giám
sinh, vẫn chỉ là hương cống. Đến đây, Tư khấu Trịnh Khắc Phục mới
xin lấy quân dân đỗ hương cống là bọn Duy Khiêm sung làm giám sinh,
mà những sinh đồ đỗ hương cống lại không được vào Quốc tử giám. Dư
luận bấy giờ rất ngờ có ăn hối lộ trong chuyện đó.
Năm ấy, xử án bắt tử h́nh
42 [76a] người.
Kỷ Tỵ, [Thái Ḥa] năm thứ
7 [1449], (Minh Chính Thống năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, ban
yến cho các quan. Múa nhạc "B́nh Ngô phá trận".
Trước kia, Thái Tổ dùng
vơ công b́nh định thiên hạ. Thái Tông tưởng nhớ công lao tiền bối,
sáng tác điệu vũ "B́nh Ngô". Đến đây, vua nghĩ tới công sáng nghiệp
gian lao, không quên công đức tổ tiên, cho nên lại cho múa điệu ấy,
công hầu có người xúc động phát khóc.
Điện trung thị ngự sử hặc
tội Tham dự triều chính Lê Bí nghi thức trái lễ, Thiếu bảo Lê Sao
lấn vượt sai thứ bậc, Lễ bộ thượng thư Đào Công Soạn không chịu nêu
ra, mỗi người đều phải nộp tiền theo thứ bậc khác nhau.
Ra lệnh chỉ cho những
người dân biết chữ đến ngày 20 tháng này phải tới bản đạo để dự thi.
Người nào hợp cách th́ đưa đến Lễ bộ tập trung cho thi. Ai đỗ được
miễn tuyển bổ kỳ này.
Lệ cũ: Thi dân bằng ám
tả, viết chữ và làm toán để lấy người vào các [76b] cục. Đến đây,
các đại thần bàn cho thi ám tả và nghĩa của bản kinh1720 và Tứ thư
mỗi thứ một bài, cho đề thi trái với những điều đă học để người được
miễn tuyển bổ ít đi. V́ thế, chỉ có 85 người được hợp cách, vẫn cho
về làm dân và được miễn tuyển bổ kỳ này. Thi miễn tuyển bằng ám tả
và kinh nghĩa bắt đầu từ đấy. Sau đó, coi là lệ thường.
Tuyển tráng đinh bổ sung
quân ngũ, thải những người già.
Làm sổ hộ tịch.
Tháng 2, miếu điện ở Lam
Kinh làm xong. Sai Hàn lâm thị độc Hoàng Thanh thay Nguyễn Lăm làm
lễ tấu cáo. V́ Lăm trước đó có tội với Thái Tổ.
Tuyển tráng đinh. Cháu
nội của các quan từ lục phẩm trở lên, con trai các quan thất, bát
phẩm đều được miễn.
Lệ cũ: Quan lục phẩm chỉ
con được miễn tuyển, đến đây miễn cả cháu nội, c̣n quan thất bát
phẩm chỉ được miễn cho con, hoạn quan cũng được miễn một người thân
thích. [77a] Ban rộng ấm trạch bắt đầu từ đấy.
Lấy Chuyển vận phó sứ
huyện Tế Giang1721 là Lưu Thúc Khiêm làm Thị ngự sử, Ngự tiền học
sinh Nguyễn Cư đạo làm Giám sát ngự sử.
Ban cho Tổng quản cũ Lê
Bôi 20 quan tiền. Bôi là công thần khai quốc cũ, bị chứng trúng
phong đă lâu, ở rỗi đă 17năm. Đến đây, bệnh hơi bớt vào chầu, cho
nên được ban ơn riêng.
Sai Tư khấu Lê Khắc Phục
đem người các cục Bách tác, quân vệ Thiên Quan, Tứ sương và quân dân
trấn Thái Nguyên đào lại sông B́nh Lỗ1722 từ Lănh Canh (tên
châu)1723 , đến cầu Phù Lỗ1724 dài 2.5000 trượng thông với B́nh Than
để tiện việc đi lại trong trấn Thái Nguyên.
Tháng 3, người Chiêm
Thành là Quư Do bỏ tù chúa nó là Quư Lai, tự lập làm vua, sai bề tôi
là bọn Giáo Nhĩ Mỗ, Bàn Thoa [77b] sang dâng cống vật. Vua xem tờ
biểu, khước từ nói:
"Tôi giết vua, em giết
anh là tội đại ác xưa nay, trẫm không nhận đồ dâng".
Sai trả hết cả. Rồi sai
Đồng tri hữu tri sự Nguyễn Hữu Quang, Điện trung thị ngự sử Tŕnh
Ngự mang thư sang dụ rằng:
"Sự thực của các ngươi
như thế nào th́ phải sang tŕnh bày cho rơ".
Mùa hạ, tháng 4, khôi
phục tước Tự Hiệu hầu và chức. Nhập nội thị trung cho Thái tử thiếu
bảo Lê Lễ. Hôm ấy, Lễ chết.
Lễ suốt đời làm gia thần
cho Thái Tổ, rất được tin dùng, sớm tối hầu chầu, không lúc nào rời
bên cạnh, dốc ḷng trung trinh, có sức hơn người. Khi Thái Tổ khởi
nghĩa, vợ cả vợ lẽ bị hoạn nạn mà vua phá ṿng vây, thoát khỏi nguy
hiểm, phần nhiều là công của Lễ. Thái Tổ thường khen ông và từng
nói:
"Nếu dồn mọi công lao lại
th́ ngôi tể tướng chẳng ngươi c̣n ai? Trẫm có tiếc ǵ với [78a]
ngươi, chỉ v́ tài của ngươi không xứng mà thôi".
Đến khi sắp băng, khóc
bảo Lễ rằng:
"Nếu trẫm không c̣n th́
c̣n ai biết khanh nữa, sợ từ đây về sau bị giáng truất mà thôi!".
Sau bị Nguyễn Thị Lộ
gièm, phải giáng làm Thái tử thiếu bảo, đúng như Thái Tổ đă nói.
Đến đây, ốm nặng, được
khôi phục chức cũ. Ngày mồng 4 th́ chết, thọ 82 tuổi. Được truy tặng
Hương hầu, tên thụy là Trung Tiết.
Đồng tham nghị Chính sự
viện Cao Doăn Cung, Tŕnh Hoằng Nghị, Nguyễn Bá Thanh, Mai Tử Kiệt
cùng từ chức.
Đài quan Lưu Thúc Khiêm
và Nguyễn Cư Đạo hặc tội bọn Doăn Cung, Hoằng Nghị ở chức chính viện
đại thần mà chỉ ngồi làm v́, ăn hại, không giúp được ǵ, tuổi đă quá
70, mắt ḷa, tai điếc vẫn c̣n
tham lộc vị, không c̣n
biết liêm sĩ, làm hại phong hóa, đáng phải bắt về cả. Thế là bọn
Doăn Cung đều xin từ chức. Vua y cho.
Bọn Tả hữu nạp ngôn
Nguyễn Mộng Tuân, Nguyễn Truyền, Nguyễn Viết, [78b] và bọn Nhập thị
kinh diên Đào Công Soạn, Nguyễn Tử Tấn đều cùng xin trí sĩ, nhưng
c̣n tiếc lộc vị, chưa muốn về, thấy vua một lần không cho, chỉ lạy
tạ mà thôi. Sau lại rủ nhau làm lễ tạ ơn th́ chân tướng lộ rơ, người
đương thời cười chê.
Tháng ấy bị hạn. Vua thân
đến cung Cảnh Linh làm lễ cầu mưa.
Sai Than tri Bùi Cầm Hổ,
Lễ bộ lang trung Nguyễn Cảnh đi cầu đảo ở núi Tản Viên và Tam Đảo
đều không ứng nghiệm.
Ngày Quư Mùi, vua xuống
chiếu tự trách ḿnh. Tờ chiếu viết:
"Trẫm gặp phải gia biến,
bên trong th́ mẫu hậu coi chầu, bên ngoài th́ đại thần giúp việc, mà
liền năm đại hạn, lúa má mất mùa, dân chúng buồn than. Nghĩ kỹ tội
ấy, hẳn có nguyên do. Có phải do trẫm không biết dốc niềm thành kính
để được hưởng ḷng trời, không biết lo tṛn đạo hiếu để thờ phụng
tông miếu, không ban ân huệ cho khắp muôn dân nên đến nỗi thế [79a]
chăng? Có phải trẫm không biết sử dụng nhân tài, những kẻ được dùng
đều là loại hèn kém mà đến nỗi thế chăng? Có phải do nạn hối lộ công
khai, tệ phi tần lộng hành mà đến nỗi thế chăng? Hay là do trẫm
không dè dặt tiêu dùng, thường lạm tiêu bừa, để hại của dân mà đến
nỗi thế chăng? Hay là các đại thần giúp việc chưa trọn đạo điều ḥa
âm dương mà đến nỗi thế chăng? Hay là các tướng soái phiên thần
không biết yêu thương quân dân, quen thói đục khoét mà đến nỗi thế
chăng? Có phải v́ các thú lệnh không biết vỗ nuôi nhân dân, chỉ lo
ḅn vét mà đến nỗi thế chăng? Hay là quan coi h́nh ngục không giữ
công bằng, chỉ lo xử nặng, kẻ nào đút lót th́ tha, để oán khí bốc
lên mà đến nỗi thế chăng? Có phải các quan thừa hành chỉ chuộng hư
văn, để ân trạch của vua bị tắc lại ở trên, t́nh của kẻ dưới không
thấu lên trên được mà đến nỗi thế chăng? Hay là các nhà quyền quư
cậy thế ra oai để dân mọn [79b] bị hại mà đến nỗi thế chăng? Có phải
v́ chọn lựa người hiền, cất nhắc người sót chưa được thi hành, để
thói cầu cạnh chạy chọt ngày một tệ hại mà đến nỗi thế chăng? Hay là
do chủ tướng đảo lộn quân công, lấy không làm có, làm hại đạo công
mà đến nỗi thế chăng? Có phải v́ chưa thi hành đầy đủ nhân chính, để
dân chúng vẫn c̣n nhiều người thất nghiệp mà đến nỗi thế chăng? Hay
là do đầm cá hoang khô, ngạch thuế chưa giảm, dân phải nộp nhiều mà
đến nỗi thế chăng? Có phải v́ con cháu các bậc công thần cố cựu chưa
được bổ dùng hết để đền đáp công lao họ mà đến nỗi thế chăng? Tất cả
tội lỗi trên chồng chất lại, đă làm tổn thương ḥa khí, nếu không
xét lời dạy sửa lỗi lầm, làm tṛn đạo tu dưỡng ḿnh th́ làm sao trên
có thể lay chuyển được ḷng trời, dưới có thể cứu vớt được nạn
dân?".
Tờ chiếu ban xuống, đêm
hôm ấy có mưa.
Bắt đầu lập đàn thờ thần
Đô đại thành hoàng, đàn thờ thần Gió, Mây, Sấm, Mưa và đàn thờ ma
quỷ không ai tế tự để tứ thời cúng lễ.
Sai bọn Đồng tri Bắc đạo
Hà Phủ đưa người Minh [80a] là Lư Văn Xương về Quảng Tây.
Trước kia, thời Thái Tổ,
người Quảng Tây là Văn Xương đem gia thuộc và bộ đảng hơn trăm người
trốn sang quy phục nước ta, cho ở huyện Phục Ḥa, trấn Thái Nguyên,
đến đây đưa trả về nước.
Bọn Hà Phủ dâng sớ:
"Thần nghe: biết lỗi
không khó, sữa lỗi mới khó, nói điều thiện không khó, làm điều thiện
mới khó. Nay trời giáng tai họa hạn hán, trong tờ chiếu của bệ hạ có
điều nói là chằm cạn không có cá, dân phải nộp thuế nhiều, thần xin
giảm ngạch thuế đó để ban ân huệ thực". Vua nghe theo.
Tháng 5, cấp phu quét dọn
cho Văn miếu và nhà học của các lộ, trấn, mỗi nơi 20 người, mỗi Giáo
thụ được 2 người phu để làm thường bổng. Đó là theo lời của Khoái lộ
An phủ sứ Nguyễn Hữu Phu.
Sao Kim đi qua mặt trăng.
Lê Thụ và Lê Khả dâng sớ
nói:
"Ngày xưa, vào đời thịnh
trị, nếu gặp tai biến của trời th́ vua tự xét ḿnh lại, đại thần
nhận tội cùng ḷng kinh sợ để mong dẹp yên tai biến của trời. Kính
nghĩ khoảng năm Thuận Thiên thường được mùa luôn, cho đến các năm
Thiệu B́nh, Đại Bảo, điểm tốt có nhiều. Bệ hạ chưa tự ḿnh trông coi
chính sự, cũng không có lầm lỗi ǵ, thế mà lụt lội, hạn hán liên
tiếp xảy ra, tai dị luôn luôn xuất hiện. Hẳn là bọn thần không biết
thể ḷng thương yêu muôn dân, chăm sóc vạn vật của bệ hạ, điều ḥa
trái lẽ như lời chiếu đă nói. Cúi xin Thánh Từ1725 đ̣i bọn thần tới
Chính sự đường hỏi bọn thần về việc quân, việc nước, việc ǵ nên
làm, việc ǵ nên bỏ, cốt ở thực hành, không nên chỉ chuộng hư văn".
Hoàng thái hậu có ư chỉ trả lời rằng:
"Sách xưa có [81a] câu:
"Việc người tốt th́ thiên thời ḥa". Nay Quan gia1726 c̣n trẻ mà
thiên tai xảy ra luôn, trẫm rất lo sợ. Mối hại ngày nay có thể là do
gây bè cánh, tiến cử không công bằng, có thể v́ cậy thế công thần
nơi tiềm để1727 cho vợ con chạy chọt nhờ vả nơi quyền thế, có thể do
bọn gia nô làm hại dân lành, hay thậm thụt ở các nhà quyền thêé để
xin khỏi tội. Làm thế nào để trừ bỏ mối tệ hại đó cho vua tôi ta một
ḷng một dạ để trừ tai biến của trời, trên th́ có thể phù tŕ Quan
gia giữ vững cơ nghiệp của tông miếu, dưới th́ có thể giữ yên thiên
hạ, thỏa ḷng mong đợi của quân dân".
Mưa to.
Chém bọn thân tùy chánh
giám Lê Nhân Lập ở chợ Tây.
Nhân Lập là con của thiếu
úy lê Lan, cùng với người tronh kinh là bọn Nguyễn thọ Vực họp nhau
đánh bạc, trộm cướp, sợ bọn ấy tiết lộ ra, sai người đến tận nhà dụ
đến mà giết. Việc phát giác, bắt giam ngục rồi đều chém cả. Biếm Lan
[81b] 2 tư v́ không biết dạy con.
Đại xá. Trong lệnh ân xá
có điều khoản giảm tội cho tù nhân, tha thuế đầm hồ.
Thuyên chuyển các quan
văn vơ trong ngoài.
Lấy thẩm h́nh viện phó sứ
Tŕnh Chân làm Bắc giang thượng lộ An phủ sứ; Tŕnh Dục làm Lễ bộ
thượng thư; Bắc đạo đồng tri bạ tịch hà Phủ làm Đồng tri phủ Thanh
Hóa; bọn Quăn lĩnh Lê Kỳ làm Đồng tri của các vệ; tuyên phủ sứ
nguyễn Liêu làm Gia Hưng quan sát sứ tri quân dân sự; An Phủ sứ lộ
Lư Nhân là Đỗ Th́ Việp làm Thẩm h́nh viện phó sứ; Lễ bọ lang trung
Nguyễ Cảnh làm Chính sự viện đồng tri tham nghị chính sự; tiền hành
khiển Lê Thái làm Tả ty thị lang đồng tri Hải Tây đạo quân dân bạ
tịch, ban tước Đại liêu ba. Thái là cháu gọi Thái phó Lê Liệt bằng
cậu. Liệt bị tù, băi chức của thái [82a] đến khi Liệt được tha, lại
bổ dùng Thái.
Giáng Thẩm h́nh viện đồng
tri Phan Nhân làm An phủ phó sứ lộ Lư Nhân.
Đưa Ngự sử Lưu Thúc Khiêm
ra làm Chuyển vận phó sứ huyện Yên Lăng1728 ; Nguyễn Cư Đạo làm Quốc
tử giám trực giảng, v́ hai ông này hặc tội Doăn Cung va Hoằng Nghị.
Lấy Đông đạo đồng tri bạ
tịch Nguyễn Thúc Huệ làm Môn hạ hữu nạp ngôn, Thái sử lệnh Bùi Th́
Hanh làm Tham nghị chính sự.
Gíán quan Đồng Hanh Phát
hặc Thúc Huệ rằng:
"Chức vụ quan trọng nhất
của triều đ́nh chỉ có Tể tướng và Hành khiển thôi. Nay Thúc Huệ xuất
thân là tiểu lại, chuyên dùng chính lệnh hà khắc.Trước đă làm Tham
tri Bắc đạo 2 người chung nhau một chiếc quần. Đến khi vâng mệnh đi
sứ nước ngoài th́ gọi là đồ qủy, làm nhục cho nước đến thế, c̣n làm
ǵ?"
[82b] Lại hặc Th́ Hanh
rằng:
"Th́ Hanh dùng tà thuật
lừa dối vua,xui vua để tang ngắn ngày để bệ hạ thất hiếu với Tiên
đế. Vả lại, việc để tang ba năm, th́ Tiên đế đă thực hiện rồi.Thần
trước đă hặc Th́ Hanh phải băi chức Tham tri Tây đạo, thế mà nay lại
thăng tới chức Chính sự tham nghị! Vả "chính" có nghĩa là chính
đáng, nếu bản thân ḿnh không chính đáng th́ làm việc sao cho chính
đáng được? Thần nghe hào Lục tam trong quẻ Giải nói: 'Kẽ mang tội mà
ngồi xe, ắt sẽ dắt giặc tới" 1729 là chỉ bọn Thúc Huệ,Th́ Hanh đó
chăng?"
Thái hậu hỏi Tể tướng:
"Gián quan hặc như thế,
nên làm thế nào?"
Bọn Lê Khả tâu: "Dùng
nguời không nhất thiết phải cầu toàn. Bọn thần đă t́m hết những
người tại chức và thân thích cố cựu nhưng không được một ai. Bọn
thần thấy Thúc Huệ làm việc đều được cả. C̣n bọn mới lên th́ thần
thấy Thúc Huệ làm việc đều được cả. C̣n bọn mới lên th́ thần chưa
biết được ai hay ai dở, không dựa vào dâu mà cất nhắc được".
Thái hậu
bèn nghe theo.
[83a] Mùa
thu, tháng 7, đổi hai quân Hỏa đồng thành quân Thần lôi, Thần điện;
các quân Thiện trạo thành quân Hải hồng, Hải mă, Hải kinh, Hải thu,
quân Bát náo thành quân Hải cốt.
Đặt phối
sở của các châu xa ở hai trấn Tuyên Quang và Quy Hoá1730 , của ngoại
châu ở huyện Thái Đường, trấn An Bang1731 để dời những người phạm
tội của hai phủ thuộc đạo Hải Tây ra đó. C̣n tội nhân của các lộ th́
vẫn để nơi cũ.
Sứ thần
Chiêm Thành là bọn Bô Sa Phá Tham Tốt cùng đi với Nguyễn Hữu Quang
sang ta.
Vua sai
Tư khấu Lê Khắc Phục, Nạp ngôn Nguyễn Mộng Tuân vặn hỏi sứ Chiêm
Thành về tội giết vua. Sứ Chiêm Thành không trả lời được, chỉ lại tạ
mà thôi.
Sai
Thượng thư Tŕnh Dục, Hàn lâm trực học sĩ Trịnh Kiên đi sứ Chiêm
Thành, mang thư sang dụ và đ̣i lại người nước ta trước ở Chiêm
Thành.
Bức thư
đại ư là: "Đă có nước là có vua[83b] tôi. Đó là đạo cương thường.
Người Chiêm Thành các ngươi cớ sao lại vi phạm luân thường đến như
thế? trước kia, Vương Đề chết, các ngươi đă không chịu lập con của
Đề ma lập Bí Cai làm vua, rồi bọn ngươi lại không biết dẫn dắt vua
ḿnh đi theo chính đạo, kính thờ nước lớn, để đến nỗi bại vong. các
ngươi đă xin lập Qúy Lai làm vua, chưa quay xong gót đă lại phế đi
và lập Qúy Do. Các ngươi là bọn phản phúc bất trung, xem vua như con
cờ, thế là đạo ǵ vậy?".
Tháng 8,
Hoàng thái hậu viết chỉ dụ bọn đại thần rằng:
"Từ khi
quả nhân coi chính sự đến nay, thấy rơ ḷng trung quân ái quốc của
các đại thần đă hết sức pḥ tá giúp rập. Bên trong sửa sang trị
nước, bên ngoài đánh dẹp di địch, để giữ yên thiên hạ. Quả nhân sớm
khuya suy nghĩ có cách nào báo đền công lao ấy. Nhưng v́ tài hèn đức
bạc, thẹn ḿnh không được giỏi bằng các Thái hậu họ Mă, họ Đặng và
bà Tuyên Nhân1732 ngày xưa, để làm trọn đạo ưu đăi đại thần. Nay sẽ
[84a] sai triều sĩ hợp bàn những việc nên làm hiện nay, để thành
khuôn phép hay của một đời, cho không c̣n những tệ xấu nữa.
Các khanh
hăy cùng nhau thể theo ư ấy để trọn đạo làm tôi, bảo toàn tiết tháo
sau trước, đừng để chỉ riêng các ông Cao, Quỳ, Tắc, Tiết, Y, Phó,
Chu, Thiệu1733 đời xưa được ca ngợi mà thôi. Như thế, chẳng tốt đẹp
biết bao!".
Biếm Tư
mă Hóa Châu là Lê Định hai tư.
Bấy giờ
Hà Lật hặc tội Lê Định thả người Chiêm Thành đầu hàng và cưỡng bức
con gái nhà người làm vợ lẽ ḿnh, cho nên bị biếm.
Một hôm,
tan chầu, Thái úy Lê Khả thấy có cái lưới săn trước Vân Tập đường,
bèn gỡ đi và nói:
"Chớ để
vua trông thấy lưới này, sẽ gợi thói ham săn bắn sau này".
Lấy Trung
thừa Hà Lật làm Tây đạo Tham tri bạ tịch; Đài quan [chủ] bạ Lê Lâm
và Quốc tử giáo thụ Phạm Duy Ninh đều làm Giám sát ngự sử: Lấy Quốc
tử giám trực giảng Doăn Tử B́nh làm an phủ phó [84b]sứ; Nội mật viện
đồng tri Lê Niệm làm phó sứ; Ngự tiền học sinh Đặng Doăn Mỹ và các
giám sinh Nguyễn Cương Trung, Nguyễn Tự Đắc, Cao Văn Xỉ làm Chuyển
vận phó sứ các lộ. Giám sinh được bổ làm huyện quan bắt đầu từ Cương
Trung.
Lấy Trung
Bắc vệ đồng tri Lê Trạo làm Quỳ Châu kinh lược đại sứ, Lê Kỳ làm Bắc
Giang vệ đồng tri.
Lấy Quốc
Oai làm Trung lộ an phủ sứ1734 .
Vua Anh
Tông nhà Minh căm giận giặc phương Bắc là Dă Tiên (Dă Tiên là tên
hiệu của giặc)1735 vào cướp, theo lời bàn của Vương Chấn, một bề tôi
của vua, thân hành đi đánh. Ngày 17 tháng 7, ngự giá đi đến Đại
Đồng1736 rồi đem quân về. Ngày 16 tháng 8, ngự giá đi đến Thổ
Mộc1737 (tên đất) bị giặc phương Bắc bắt được. Ngày 17, tin Anh Tông
đi tuần phương Bắc (bị giặc bắt được) báo vềm kinh sư rất kinh hăi.
Ngày 18, Hoàng thái hậu sai em Anh Tông là [85a] Thành Vương Kỳ Ngục
quyền nắm việc nước. Ngày 20, Hoàng thái hậu bàn lập Hoàng trưởng tử
Kiến Nhu làm hoàng thái tử, bấy giờ mới 2 tuổi, vẫn sai Thành Vương
phụ chính.
Tháng 9,
ngày mồng 6, Thành Vương nhà Minh lên ngôi, tôn Anh Tông làm Thái
thượng hoàng ở xa, đổi niên hiệu năm sau thành Cảnh Thái năm thứ 1.
Mùa đông,
tháng 10, hạ lệnh các sắc dịch của các lộ đem nộp gạo chín cấp cho
quân dụng, sau lại băi bỏ lệnh này, v́ đă bàn định đánh Chiêm Thành
nhưng rồi lại thôi.
Lấy Quốc
Oai Hạ vệ thiếu úy Lê Lan làm Thiếu úy phủ Tân B́nh, Thuận Hóa, được
hơn 1 năm th́ chết.
Người
kinh thành đẻ con có hai đầu, cho là quái gỡ, bỏ cho chết.
[85b]
Tháng 11, sai các lộ, huyện làm sổ sách.
Bổ bọn
giám sinh Lô Thuần, Phạm Công Niêm 30 người làm thuộc lại các đạo.
Giám sinh được bổ làm thuộc lại bắt đầu từ đó.
Lê Quán
Chi, con trai Đại đô đốc Lê Khuyển đang đêm tụ tập đánh giết người ở
giữa chợ. Việc bị phát giác, Quán Chi phải hạ ngục, cung xưng dây
dưa tới hơn 10 người là con cái nội quan và các quan chức khác.
Án sắp
xong, Thái hậu thấy Khuyển là bậc đại thần, chỉ huy cấm binh, là chỗ
dựa của vua. Nếu giết con Khuyển, sợ Khuyển đau ḷng, liền làm trái
luật pháp, tha cho hắn, chỉ lấy tiền bồi thường trả cho người chết
thôi. Gián quan Lê Lâm ngậm miệng không dám nói, để đến nỗi trẻ con
ở chợ nắm tay mà nói: "Tiếc ta không được làm quan đài thôi!".
Người
Chiêm Thành trả lại 70 người của ta là bọn Tŕnh Nguyên Đĩnh. Lấy
Nguyên Đĩnh làm Chính sự viện đồng tham nghị.
[86a] Bổ
sung chương điền sản gồm 14 điều vào bộ h́nh luật. Trước kia, Thái
Tổ định thực hiện phép quân điền, cho nên lược bỏ chương điền sản.
Đến đây lại bổ sung vào.
Lấy An
phủ phó sứ lộ Nam Sách Thượng là Nguyễn Trực làm Hàn lâm viện thị
giảng; An Phủ sứ lộ Quy Hóa là Nguyễn Như Đổ và An phủ phó sứ lộ
Quốc Oai Hạ là Lương Như Hộc cùng làm Hàn lâm trực học sĩ; lộ giáo
thụ Tŕnh Bá Cung, Đào Phục Lễ cùng làm Giám sát ngự sử; Hàn lâm
viện trực học sĩ Nguyễn Nghiêu Tư làm An phủ sứ lộ Tân Hưng; Thượng
trung thư xá nhân Trịnh Thiết Trường làm An phủ sứ lộ Tân Hưng Hạ;
Quốc tử giám giáo thụ Nguyễn Nhữ Bật làm An phủ phó sứ lộ Kiến
Xương. Giáo thụ được bổ chức An phủ bắt đầu từ Nhữ Bật.
Lấy khởi
cư xá nhân Nguyễn Mậu làm [86b] Chuyển vận sứ huyện Lập Thạch; Dương
Chấp Trung làm Chuyển vận sứ huyện Thủy Đường; Ngự tiền học sinh
Nguyễn Đạt làm Chuyển vận sứ huyện Đại Man.
Lấy Lê
Thiếu Dĩnh làm Giáo thụ lộ Tam Đới. Trước đây, Thiếu Dĩnh làm thiêm
tri Thẩm h́nh viện, v́ can tội tham tang, bị băi chức về làm dân,
suốt đời không được bổ dụng. Đến đây lại được làm Giáo thụ.
Lấy Giáo
thụ Quốc tử giám Nguyễn Thiên Túng làm Tư nghiệp; Giáo thụ Nguyễn
Siêu là Trợ giáo; Lương Mộng Tinh và Vũ Vĩnh Trinh làm Trực giảng;
Tư h́nh viện đại phu Phù Thế Hào làm Chuyển vận phó sứ huyện Cổ Phí.
Chuyển
vận phó sứ huyện Văn Bàng là Lương Tông Kư ăn hối lộ, việc bị phát
giác. Án xử xong sắp đem chém, th́ Kư nhờ người xung quanh xin tha
chết. Thái úy Lê Khả nói:
"Phép
nước không thể tha được", lại nói: "Ăn trộm của một nhà c̣n không
thể tha thứ, huống hồ Kư kại ăn trộm [87a] cả một huyện!".
Lại giao
xuống cho xét, vẫn xử tội chết.
Canh Ngọ,
[Thái Ḥa] năm thứ 8 [1450], (Minh Cung Tông, Cảnh Thái năm thứ 1).
Mùa xuân, tháng 3, thả vợ con Lê Liệt ra khỏi ngục Thiên Lao.
Mùa thu,
tháng 7, nhà Minh sai Lư Thực làm chánh sứ đi cùng sứ giả của giặc
Bắc lên phương Bắc. Ngày 15, bọn Thực ra mắt Anh Tông, rỏ nước mắt
khóc, làm lễ lạy xong, thấy chỗ của Anh Tông lều bằng da, màn bằng
vải, trải chiếu xuống đất mà ngủ, bèn tâu rằng: "Nay bệ hạ ăn mặc
kham khổ quá". Rồi hết lời kể tội Vương Chấn, nói là v́ bệ hạ tin
yêu hắn quá, đến nỗi phải chịu tai họa khi tuần thú ra ngoài. Anh
Tông nói: "Trẫm nay có hối cũng không kịp nữa". Thực làm một bài thơ
tức sự rằng:
Trùng
chỉnh y quan bái thượng hoàng, Ngẫu văn thiên ngữ trọng thê lương.
Tinh chiên sung phúc phi thiên lộc. Thảo dă vị quân dị đế hương.
Thủy tín gian thần di quốc bính, Chung giao Hồ lỗ [87b] bạn thiên
thường. Chỉ kim thiên sứ thông ḥa hiếu, Thúy kiễu nam tuyền tỉnh
Kiến Chương. (Lạy sửa cân đai lạy thượng hoàng,
Chợt nghe
lời dạy nặng đau thương. Tanh hôi đầy bụng đâu thiên lộc1738 , Thảo
dă làm vua khác đế hương1739 . Mới biết gian thần xoay thế nước, Cho
loài Hồ lỗ chống cương thường. Sứ trời nay tới thông ḥa hảo, Xe
thúy về nam viếng Kiến Chương)1740 . Bấy giờ tù trưởng giặc Bắc là
Dă Tiên sai đầu mục dẫn 500 quân kỵ đưa Anh Tông về Yên Kinh. Các
quan đón ở cửa An Định. Anh Tông từ cửa Đông An đi vào. Vua Cảnh
Thái ra lạy đón, nhún nhường một hồi lâu, rồi đưa Anh Tông đến Nam
Cung. Các quan vào yết kiến rồi lui ra.
Mùa đông,
tháng 10, sai Tây đạo tham tri Hà Lật làm chánh sứ; Hàn lâm viện
trực học sĩ Nguyễn Như Đổ và Quốc tử giám trợ giáo Đồng Hanh Phát
làm phó sứ, sang nhà Minh nộp cống hàng năm.
Tân Mùi,
[Thái Ḥa] năm thứ 9 [1541], (Minh Cảnh Thái năm thứ 2). Mùa hạ,
tháng 4, v́ có tai dị, xuống chiếu rằng:
"Mấy năm
nay, hạn hán, sâu trùng liên tiếp xảy ra; tai dị luôn luôn xuất
hiện. Năm nay đương mùa xuân, lại có mưa đá. Có phải chính v́ sự
thiếu sót lầm lỗi chưa sửa được đến nỗi thế chăng? Hay là điều ḥa
trái lẽ, làm hại tới [88a] ḥa khí chăng? Có thể v́ h́nh ngục oan
khuất mà chưa được rửa oan chăng? Hay là thuế dịch vụ nặng nề, để
dân chúng ta oán chăng? Nghĩ rằng tai họa này, hẳn có nguyên do. Nếu
không ban ân huệ thực để an ủi ḷng người, th́ lấy ǵ để báo đáp
trời cao và chấm dứt tai biến? Trong những điều khoan tha có tha các
loại thuế, những kẻ trốn tránh th́ cho ra đ ầu thú, những án kiện bỏ
đọng th́ cho tâu tŕnh đầy đủ nguyên do".
Mùa thu,
tháng 7, ngày 26, giết Thái úy Lê Khả và con là Lê Quát, Tư khấu
Trịnh Khắc Phục và con là Pḥ mă đô úy Trịnh Bá Nhai.
Mùa đông,
tháng 10, nhà Minh sai chánh sứ là Hành nhân ty hành nhân Biên Vĩnh,
phó sứ là tiến sĩ Trịnh Huệ sang báo tin [Cảnh Thái ] lên ngôi.
Trước
đây, Minh Anh Tông đi đánh phương Bắc đă bị Dă Tiên bắt được, [88b]
em là Thành Vương Kỳ Ngục coi việc nước rồi tự lập làm vua, đổi niên
hiệu là Cảnh Thái, cho nên sai bọn Biên Vĩnh sang báo.
Ngày 18,
sai Đồng tri Đông đạo Tŕnh Chân, Trung thu hoàng môn thị lang
Nguyễn Đ́nh Mỹ, Thẫm h́nh viện đồng tri Phùng Văn Đạt sang nhà Minh
mừng vua Minh lên ngôi.
Nhâm
Thân, [Thái Ḥa] năm thứ 10 [1452], (Minh Cảnh Thái năm thứ 3). Mùa
hạ, tháng 4, bắt giam con trai Thái úy Lê Thụ là Lê Thị, v́ Thị làm
bùa chú yểm đất cát.
Mùa thu,
tháng 7, ngày mồng 3, v́ có tai dị, xuống chiếu rằng:
"Mấynăm
nay tai dị liên tiếp xảy ra, mùa màng liền năm mất mát. Muôn dân vạn
vật, không sao sống nổi. Trẫm rất lo sợ điều đó. Thực là tự trẫm
trên không biết thuận ḷng trời, dưới không biết kính giữ phép cũ
của tổ tông. Dùng quan không được người hiền, cai trị có nhiều thiếu
sót nên mới đến nỗi thế. Nay nghĩ cách chấm dứt tai biến, [89a] đem
lại thuận ḥa, không tuân theo phép cũ để bỏ hết tệ xấu có được
không? Những việc nay đáng phải làm là dùng người tài giỏi liêm
khiết, thải bỏ bọn tham nhũng, tiến hành thưởng phạt, miễn các loại
thuế, xét việc oan uổng, chiếu cố những người không vợ, góa chồng,
cô độc một ḿnh".
Mùa đông,
tháng 10, ngày 15, nhà Minh sai chánh sứ là H́nh bộ lang trung Trần
Kim, phó sứ là Hành nhân ty hành nhân Quách Trọng Nam sang báo tin
lập Hoàng thái tử và ban vóc lụa.
Ngày 23, sai sứ sang nhà
Minh. Chánh sứ Thẩm h́nh viện Phạm Du, phó sứ Hàn lâm viện trực học
sĩ Nguyễn Bá Kư và Lễ bộ viên ngoại lang Chu Xa sang mừng việc lập
Hoàng thái tử. Chánh sứ Chấn lôi quân chỉ huy Lê Thương, phó sứ thị
ngự sử Lê Chuyên sang tạ ơn ban vóc lụa.
[89b] Quư Dậu, [Thái Ḥa]
năm thứ 11 [1453], (Minh Cảnh Thái năm thứ 4). Mùa xuân, tháng 2,
ngày 21, đại xá.
Tổ chức thi hội cho sĩ
nhân trong nước. Cho bọn Vũ Bá Triệt đỗ tiến sĩ cập đệ.
Mùa đông, tháng 11, vua
sai bọn bồi tbần Nguyễn Nguyên Kiều, Nguyễn Đán, Trần Hoăn Huy sang
nhà Minh nộp cống hàng năm.
Ngày 21, vua bắt đầu đích
thân coi chính sự, đổi miếu hiệu, đại xá. Từ tháng giêng năm sau đổi
là Diên Ninh năm thứ 1.
Các điều lệnh ân xá có:
tăng chức 1 bậc cho các công thần Lê Lễ, Lê Bị, Lê Triện. Cấp một
trăm mẫu quan điền cho bọn Lê Sát, Lê Ngân, Lê Khả, Lê Khiêm, Trịnh
Khắc Phục, đồng thời cứu giúp cứu giúp những kẻ không vợ, góa chồng,
mồ côi, cô đơn và biểu dương những người chồng nghĩa khí, người vợ
trinh tiết.
Giáp Tuất, Diên Ninh năm
thứ 1 [1454], (Minh Cảnh Thái năm thứ 5). Mùa xuân, tháng giêng, đúc
tiền Diên Ninh.
Tuyển tráng đinh bổ sung
quân [90a] ngũ và thải người già.
Làm sổ hộ tịch.
Mùa hạ, tháng 5, rồng
vàng hiện dưới máng nước của một gia đ́nh ở cửa Tây.
Ở Nghệ An
lá tre úa vàng.
Ất Hợi,
[Diên Ninh] năm thứ 2 [1455], (Minh Cảnh Thái năm thứ 6). Sai Phan
Phu Tiên soạn bộ Đại Việt sử kư, từ thời Trần Thái Tông đến khi
người Minh về nước.
Mùa đông,
tháng 10, châu Ngọc Ma có con chuột to bằng con lợn.
Bính Tư,
[Diên Ninh] năm thứ 3 [1456], (Minh Cảnh Thái năm thứ 7). Mùa xuân,
tháng giêng, ngày mồng 3,ban đại yến cho các quan, Lạng Sơn Vương
Nghi Dân dự yến.
Tháng 2,
ngày mồng 4, Ngự sử trung thừa Phạm Du hặc tội Kim ngô vệ đồng tổng
tri Lê Quát không chịu giữ phép nước, vào kỳ hội quân năm nay đă sai
70 người lính [90b] làm thuyền riêng cho ḿnh, phí tổn 18 quan tiền
của quân đội, xin h́nh quan xét hỏi trị tội để răn đe kẻ khác.
Lê Quát
tâu rằng: "Thần vốn người Lam Ấp. Trước đây, từ Lam Kinh trở về,
thần có dùng chiếc thuyền riêng đă mục nát. Năm nay, thần sắp có
việc đi hộ giá, nên có sai quân lính sữa chữa lại chiếc thuyền ấy,
cỏn việc phí tổn tiền nong trong quân th́ thần không biết".
Du lại
tâu rằng: "Bọn thần lạm dự chức ngôn quan, không thể né sợ người
quyền thế, cũng không thể im lặng không nói, làm đúng như lời dụ của
bệ hạ. Nay thần hặc tội Lê Quát sai quân làm thuyền riêng cho ḿnh,
th́ bọn thần đă sai người trong đài đi xét thực sự, lại bắt tên hỏa
đầu ở quân ấy đến lấy cung, chúng có đều nói là bọn thần đem việc tư
ra đàn hặc, có phải bọn thần v́ chuyện ân oán mà nói đâu?".
Ngày mồng
5, ban cho bọn đầu mục Mường Bồn áo và lụa theo thứ bậc khác nhau.
V́ đầu mục Mường Bồn [91a] là Lang Tra hồi tháng giêng đem cống lễ
vật.
Ra lệnh
chỉ cho phụ đạo Lệnh Châu1741 Cầm Công làm Trấn viễn thượng tướng
quân. Sai Viên ngoại lang Tŕnh Dao đem chiếu chỉ đến dụ và ban
thưởng cho chiếc áo đoạn màu hồng dệt hoa kim tuyến, mũ cao sơn, đai
thếp bạc, yên ngựa, ghế dựa, án thư.
Ra lệnh
chỉ cho bọn Nhập nội tư đồ b́nh chương sự Lê Hiêu, Nhập nội đô đốc
b́nh chương sự Lê Lựu trông coi các việc giữ vững thành tŕ, ngày
đêm nghiêm ngặt, tuần pḥng trong ngoài theo đúng phép.
Ngày Đinh
Mùi mồng 8, vua ngự về Lam Kinh, ngày Quư Sửu tới Lam Kinh. Đêm ấy
mưa đá.
Ngày 15,
vua đích thân dẫn trăm quan bái yết Sơ lăng và ra lệnh chỉ cho quan
coi lăng ở Lam Sơn rằng:
"Mọi việc
ở đền thờ cần phải thành kính, tinh khiết như ngả cây, chặt che,
kiếm củi...
tế tẩm
miếu dùng 4 trâu, đánh trống đồng, [91b] quân lính reo ḥ hưởng ứng.
Về nhạc, vơ th́ múađiệu "B́nh Ngô phá trận", văn th́ múa điệu "Chư
hầu lai triều"1742 .
Đại tư đồ
Lê Bí đến tế miếu Chiêu Hiếu Vương và Trung Dũng Vương1743 , dùng 3
trâu.
thượng
thư lệnh Lê Khang đến tế miếu Hoằng Hựu Đại Vương1744 , dùng 3 trâu.
Nội mật
viện phó sứ Đỗ Th́ Việp chết.
Ngày 21,
ban yến cho các quan hộ giá, các quan nhận chức ở ngoài và các quan
trí sĩ ở hành điện Lam Kinh, thưởng tiền theo thứ bậc khác nhau.
Ngày hôm
sau, ra lệnh chỉ cho các đại thần bàn định đặt tên hiệu cho các miếu
điện ở sơn lăng Lam Sơn. Chánh điện gọi là điện Quang Đức, điện Sùng
Hiếu, hậu điện gọi là Diễn Khánh. Lại sai quân phủ Thanh Hóa làm tẩm
cung thờ Thái hoàng thái phi ở phía tây điện lăng Lam Sơn.
Ngày 30,
vua từ Tây Kinh1745 về đến kinh sư. Ngày hôm ấy, có khí xanh, vàng,
dỏ, trắng như là cầu vồng ôm lấy mặt trời.
[92a]
Tháng 3, ngày mồng 2, sai bọn Nhập nội đô đốc b́nh chương sự Lê Ê đi
công cán lên địa giớ trấn Thái Nguyên. Cùng đi có Nhập nội đại hành
khiển tri tam quán sự nhập thị kinh diên Đào Công Soạn, Tây đạo hành
khiển Nguyễn Hữu Quang, Bắc đạo hành khiển Lê Cảnh Huy, Thẩm h́nh
viện sứ Tŕnh Chân, Nội mật viện đồng tri Lê Hoài Chi. Khi lên đến
địa giới Thái Nguyên, quan tam ty [nhà Minh] không tới, lại trở về.
Bấy giờ,
Thái Nguyên giáp giới với châu1746 phủ Thái B́nh, tỉnh Quảng Tây,
Đầu mục trấn đó là Nông Kính và Đàm Khoan bắt giết người, cướp trâu
ḅ, gia súc lẫn của nhau rồi vượt sang chiếm đất ta, cho nên có lệnh
này.
Mùa hạ,
tháng 5, các quan trấn, lộ, phủ, huyện chầu mừng xong từ biệt trở
về, vua cho gọi vào bảo họ:
"Các
ngươi là quan tại nhiệm, khi trở về, phải bảo dân gắng sức làm
ruộng, xử án phải [92b] cho công bằng, nếu có trộm cướp, phải hết
ḷng lùng bắt, không được thờ ơ lười biếng".
Ngày mồng
8, bọn Tuyên úy Mường Mộc và Xa La, Kinh lược sứ châu Thuận Mỗi là
Đạo Xa, Tri châu Việt Châu là Đạo La, Quan sát sứ châu Ngọc Ma là
Cầm Kha sang dâng sản vật địa phương, đều được ban tiền theo thứ bậc
khác nhau.
Ngày 15,
ra lệnh chỉ cho các đại thần và các quan văn vơ trong ngoài:
"Là người
bề tôi, phải làm hết chức trách của ḿnh: Đại thần th́ giúp đỡ vua
điều ḥa âm dương, tiến cử hiền tài, gạt bỏ kẻ xấu, để lo trị nước
cho yên. Quan coi quân các vệ th́ phải yêu thương quân lính, luyện
tập vơ nghệ, không được sai lính làm việc riêng cho ḿnh, không được
ḅn vét nhiễu hại, bớt xén quân nhu để làm ơn riêng. Các quan hành
khiển năm đạo th́ phải hiểu rơ việc lợi việc hại, phân biệt kẻ dở
người hay. Những việc trị dân, hành chính, sổ sách, kiện tụng phải
xử trí cho thích đáng, không được theo [93a] ư riêng, bỏ lẽ công mà
hại tới đạo trị nước. Quan phong hiến th́ phải uốn nắn lỗi lầm, gạn
đục khơi trong, không được lấy ḷng riêng mà bàn việc, hay nhút nhát
lặng thinh. Nội mật viện th́ phải tuân theo điển chương pháp chế,
tâu bày tường tận rơ ràng, không được ỷ phép làm bậy, đ̣i hỏi nọ
kia. Quan xử án th́ phải điều tra minh bạch, xét rơ oan khiên cần
được thấu t́nh, không được nhận bậy lời gởi gắm và của hối lộ, để
việc chậm trễ, oan lạm. Các quan phủ, lộ, châu, huyện phải tuyên bố
đức ư của triều đ́nh, chăm sóc dân chúng trong hạt, xét kiện tụng,
thu thuế khóa, sai dịch vụ phải giữ liêm khiết, công bằng, không
được đem tiền của biếu xén, nịnh hót quan trên để ḥng được thăng
quan tiến chức. Quan các cục, các kho điện tiền, điện hậu th́ phải
kiểm tra nghiêm ngặt rồi thu nhận, không được bỏ việc công lao chạy
riêng, bớt xén đục khoét. Học quan th́ phải kính giữ học quy, dạy dỗ
học tṛ cho được thành tài, không được nhởn nhơ năm này tháng khác
[93b] bỏ bê học hành, c̣n các quan ở các ty, cục, thự, cũng phải
siêng năng với công việc của ḿnh, không được lười biếng cầu may.
Tất cả trăm quan các ngươi, đều phải tuân thủ và thi hành theo lệnh
chỉ này".
Ngày 21,
ra lệnh chỉ cho các quan điện tiền và tổng tri các phủ trấn nam đạo
rằng:
Kỳ hội
quân lần này, các tướng cắt cử quân lính vào sơn tràng đẵn gỗ, phải
chú ư đốc thúc chúng đẵn lấy gỗ theo đúng quy cách. C̣n th́ ở lại
địa phận của ḿnh để điểm danh, chỉnh đốn vũ khí, luyện tập vơ nghệ,
không được để quân lính rong chơi ngoài đường, không được bắt chúng
đóng góp, hay sai chúng làm việc riêng.
Ngày 22,
Nhập nội thiếu úy tham tri chính sử Lê Lăng dâng lễ vật xin cưới Đà
Quốc công chúa. Con trai của Lê Lăng là Lê Bộc làm Pḥ mă đô úy, lại
ban cho y phục tước hầu và ngựa trong tàu nhà vua.
Nước đầm
ở Lam Kinh sắc đỏ.
Ngày 23,
cấp [94a] tiền lương bổng hằng năm cho các thân vương, công chúa,
đại thần và các quan văn vơ theo thứ bậc khác nhau. Tây đạo đô đốc
Lê Lựu tâu rằng:
"Thần đă
thấy dân chúng khốn khổ quẫn bách, dẫu một đồng nhỏ nhoi cũng coi
bằng 10 đồng. Do vậy, thần xin không nhận tiền lương hàng năm. Bệ hạ
không coi thần là có tội, ban riêng cho thần 50 hộ, lại thêm tiền
lương bổng 1 năm, th́ thu nhập tất lại tăng rất nhiều. Này đương lúc
cấp tiền lương hàng năm cho các quan, thần xin được từ chối không
nhận.
Ngày 28,
có thánh chỉ cho xă chính xă Đào Xác, huyện Chí Linh, thuộc lộ Nam
Sách Thượng rằng:
"Vợ góa
của Nguyễn Văn Điều là tiết phụ, cho cấp bảng vàng treo ở cổng làng
để biểu dương và miễn phu dịch cho 11 người con và cháu để phụng
dưỡng".
Ngự sử
trung thừa Phạm Du, Phó trung thừa Tŕnh Văn Huy, Giám sát Tŕnh
Trạc, Bùi Hựu hặc tội viên quản lĩnh vệ Xa ky quân Nghĩa Vũ là
Nguyễn Nguyên Thông [94b] trong kỳ hội quân năm nay đă sai lính làm
việc riêng cho ḿnh, c̣n th́ cho về nhà rồi đ̣i tiền bỏ túi ḿnh,
xin trị tội theo pháp luật để răn đe kẻ khác.
Tháng 6,
tha Lê Thụ ra khỏi ngục.
Mùa đông,
tháng 10, ngày 25 sai các bồi thần Lê Văn Lăo, Nguyễn Đ́nh Mỹ,
Nguyễn Cư Đạo, Đặng Huệ Đạt (có sách chép là Liên), sang nhà Minh
nộp hằng năm và tạ ơn ban áo mũ.
Tháng 11,
có con hổ vào chùa Diên Hựu trong thành, sai quân ngự tiền cầm dao
bắt giết đi.
Đinh Sửu,
[Diên Ninh] năm thứ 4 [1457], (Mimh Thiên Thuận năm thứ 1). Mùa
xuân, tháng giêng, vua Cảnh Thái nhà Minh ốm, bọn bầy tôi Vũ Thanh
hầu Thạch Hanh, cùng với Chưởng binh đô
đốc
Trương Nghê (Nghê là con Trương Phụ), Tả đô ngự sử Dương [95a]
Thiên, Phó đô ngự sử Từ Hữu Trinh đón Thượng hoàng (tức là Anh Tông)
trở lại lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Thuận.
Tháng 2,
ngày mồng 1, nhà Minh phế vua Cảnh Thái là Thành Vương như cũ, cho
về ở Tây cung. Tháng ấy, ngày 19, Thành Vương mất. Ban lụa hồng cho
các phi tần như Đường Thị, bắt phải tự tử để chôn theo Thành Vương.
Mùa thu,
từ tháng 8 đến tháng 9, gió to.
Tháng 9,
ngày 26, nhà Minh sai chánh sứ là Thượng bảo tự khanh kiêm Hàn lâm
viện thị độc Hoàng Gián, phó sứ là Thái bộc tự thừa Trâu Doăn Long
sang báo tin Anh Tông trở lại ngôi, tin lập Hoàng thái tử và ban cho
vóc lụa.
Mùa đông,
tháng 10, ngày 14, vua sai chánh sứ là Nam đạo hành khiển tả nạp
ngôn tri [95b] quân dân bạ tịch Lê Hy Cát, các phó sứ là bọn Hàn lâm
viện thị giảng Trịnh Thiết Trường, Trung thư khởi cư xá nhân Nguyễn
Thiên Tích, Giám sát ngự sử Trần Xác sang nhà Minh mừng việc lên
ngôi và lập Hoàng thái tử, cùng tạ ơn ban vóc lụa.
(Lê Hy
Cát người Lam Sơn, huyện Lương Giang).
Mậu Dần,
[Diên Ninh] năm thứ 5 [1458], (Minh Thiên Thuận năm thứ 2).Thi hội
cho các sĩ nhân trong nước. Cho bọn Nguyễn Văn Nễ đỗ tiến sĩ xuất
thân.
Kỹ Măo,
[Diên Ninh] năm thứ 6 [1459], (Minh Thiên Thuận năm thứ 3). Mùa
đông, tháng 10, ngày mồng 3, Lạng Sơn Vương Nghi Dân đang đêm bắc
thang, chia làm ba đường, trèo thành cửa Đông, lẻn vào cung cấm. Vua
và Tuyên Từ hoàng thái hậu đều bị hại.
Trước
kia, Dương Thị Bí là mẹ Nghi Dân có tội với Thái Tông, nên Nghi Dân
không được lập, mới ngầm chức mưu gian, nḥm ngó ngôi báu, cùng
bọnđồ đảng Phạm Đồn, [96a] Phan Ban, Trân Lăng xướng xuất bọn vô lại
gồm hơn trăm đứa, lợi dụng đêm tối, bắc thang trèo thành, lẻn vào
cung cấm. Thế là vua bị hại. Hôm sau, Hoàng thái hậu cũng bị hại.
Nội nhân thị thái hậu phó chưởng Đào Biểu chết.
Bấy giờ,
Lê Đắc Ninh là Đô chỉ huy giữ cấm binh đương phiên trực, đă không
chịu dẫn quân ra trước ngăn giữ, lại đem giúp kẻ phản nghịch. Cho
nên Nghi Dân mới tiếm đoạt được ngôi báu, mà các quan văn vơ phải
nuốt hận ngậm đau, trăm họ bốn phương như mất cha mất mẹ.
Đến năm
Quang Thuận thứ 1, mùa đông, tháng 10, ngày 21, làm lễ chiêu hồn và
táng vua vào Mục Lăng ở Lam Sơn, miếu hiệu là Nhân Tông, dâng tôn
hiệu là Khâm Văn Nhân Hiếu Tuyên Minh Thông Duệ Tuyên Hoàng Đế.
Phan Phu
Tiên bàn: Nhân Tông lên nối ngôi vào tuổi ấu thơ, bên trong có mẫu
hậu buông rèm [96b] trông coi chính sự, bên ngoài các đại thần đồng
ḷng pḥ tá trị nước, cho nên trong khoảng 17 năm, thiên hạ thái
b́nh, an cư lạc nghiệp, xứng đáng là vua nhân từ. Đến lúc cuối đời
bị lũ vô lại Đồn, Ban xướng xuất, khiến Lệ Đức hầu Nghi Dân đang đêm
bắc thang trèo thành, lẻn vào cung cấm, vua và Tuyên Từ hoàng thái
hậu đều bị hại. Thương thay!.
Lại xét
bài Trung hưng kư năm Quang Thuận viết: Nhân Tông mới lên hai tuổi
đă sớm nối ngôi vua, Thái hậu Nguyễn Thị là gà mái gáy sớm, Đô đốc
Lê Khuyển như thỏ khôn giữ mệnh. Vua đàn bà mắt quáng buông rèm ngồi
chốn thâm khuê, bọn họ ngoại ḷng tham, khoác lác hoành hành khắp
cơi, kẻ thân yêu nắm quyền vị, nạn hối lộ được công khai. Việc văn
giáo lặng lẽ như băng hàn người hiền từ phải bó cánh. Bậc túc nho
như Lư Tử Tấn, Tŕnh Thuấn Du th́ đẩy vào chổ nhàn, phường dốt đặc
ồn [97a] ào như ong đàn nổi dậy, như chó chuột nhe răng. Tể thần như
Lê Sủng, Lê Sát th́ ngu si không phân biệt sáu loại súc vật, Chưởng
binh Lê Điên, Lê Luyện, th́ mù tịt, chẳng sao hiểu được bốn mùa một
năm. Bậc lương thần như Trịnh Khả, Khắc Phục th́ kèn cựa mà giết đi,
người tài sĩ như Nguyễn Mộng Tuân th́ đẩy vào ṿng tai họa. Oan uổng
không chỉ kêu xin, mọi việc thảy đều đổ nát. Văn giai như Công Soạn
tuổi gần tám mươi, tể thần như Lê Ê không biết một chữ. Bọn trẻ
không biết nghĩ, làm bậy ngông cuồng, người già
chẳng
chết đi, trở thành mối họa. Bán quan mua kiện, ưa giàu ghét nghèo.
Hiền tài là rường cột của triều đ́nh mà sạch không như quét đất. Văn
chương là khí vận của nhà nước mà im ắng tựa cỏ khô. Bọn xiểm nịnh
được tin dùng, kẻ đao bút được tiến cử. Hành khiển Nguyễn Hữu Quang,
Nội mật Lê Hoàn Chi, hoạn quan chừng năm sáu bọn mà không một người
đóng cửa cho nghiêm; cấm vệ Lê Đắc Ninh, chỉ huy Lê Hoằng [98b] Dục,
vệ sĩ đến tám chín lũ mà không một ai mang mộc che đỡ. Ḷng người
sôi động, đường sás xôn xao. Họ ngoại như Văn Lăo, Xương Lê, ḷng
như quỷ quái, vị không như Trần Lựu, Đỗ Tư ai chẳng cười chê? Cửa
ngơ th́ sơ sài, tay không cũng phá nổi. Thế là nó dẫn quân cú vọ cáo
cầy, ngầm nuôi mưu kế cướp ngôi phản nghịch. Bọn tặc thần Phạm Đồn,
Phan Ban, Trần Lăng, Ngô Trang và phương chó lợn hơn 300 đứa, nửa
đêm dám cả gan bắc thang trèo tường lẻn vào như là vào chỗ không
người. Vua và Hoàng thái hậu đều bị hại, thương thay!.
Ngày mồng
7, Lạng Sơn Vương Nghi Dân tự lập, lên ngôi Hoàng đế, đại xá, đổi
niên hiệu là Thiên Hương. (Từ mồng 3 [tháng 10] trở về trước là Diên
Ninh năm thứ 6, từ mồng 7 trở về sau là Thiên Hưng năm thứ 1 của
Nghi Dân). Ban ân rộng răi cho các quan văn vơ trong ngoài mỗi người
1 tư.
Bài văn
đại xá ngụy viết rằng: "Trẫm là con trưởng của Thái Tông Văn Hoàng
Đế, [98a] trước đây đă được giữ ngôi chính ở Đông cung1747 . Chẳng
may Tiên đế đi tuần miền đông, bỗng băng ở bên ngoài. Nguyễn Thái
hậu muốn giữ vững quyền vị, ngầm sai nội quan Tạ Thanh dựng Bang Cơ
làm vua, bắt trẩm làm phiên vương. Sau Tạ Thanh tiết lộ việc ấy, lây
đến cả Thái úy Trịnh Khả và Tư không Trịnh Khắc Phục, Thái hậu bắt
giết cả đi để diệt hết người nói ra. Cho nên từ đó đến giờ, hạn hán
sâu bệnh liên tiếp xảy ra, tai dị luôn luôn xuất hiện, đói kém tràn
lan, trăm họ cùng khốn. Diên Ninh1748 tự biết ḿnh không phải là con
của tiên đế, hơn nữa ḷng người ly tán, nên ngày mồng 3, tháng 10
năm nay, đă ra lệnh cho trẫm lên thay ngôi báu. Trẫm nhờ người trông
xuống, tổ tông phù hộ, cùng các vương, đại thần, các quan văn vơ
trong ngoài đồng ḷng suy tôn, xin trẫm nên nối đại thống, hai ba
lần khuyên mời, trẫm bất đắc dĩ đă lên ngôi vào ngày mồng 7, tháng
10 năm nay, [98b] đổi niên hiệu là thiên Hưng".
Tháng ấy,
Nghi Dân sai bọn Lê Cảnh Huy, Nguyễn Như Đỗ, Hoàng Thanh, Nguyễn
Nghiêu Tư sang nhà Minh nộp cống hằng năm và xin bỏ việc ṃ ngọc
trai.
Ngày 20,
lại sai bọn Trần Phong, Lương Như Hộc, Trần Bá Linh sang nhà Minh
cầu phong.
Xét bài
văn bia Mục lăng của Nguyễn Bá Kỳ viết:
"Vua 1749
thần sắc anh tuấn, dáng điệu đường hoàng. Mỗi khi tan chầu, tự đến
Kinh diên nghe giảng, mặt trời lặn mới thôi.
Khi đă tự
ḿnh trông coi chính sự th́ lễ tế thần linh, truy thờ tông miếu. Đối
với Thái hậu dốc ḷng hiếu thảo, đối với anh em trọn nghĩa yêu
thương. Hoà thuận với họ hàng, kính lễ với đại thần, tôn sùng đạo
Nho, xét những lời thiển cận, nhận những lời can trung, chăm nom
chính sự, thận trọng thưởng phạt, coi trọng nghề nông, chú ư nền
gốc, [99a] hết ḷng thương dân, không thíchxây dựng, không mê săn
bắn, không gần thanh sắc, không ham tiền của, hậu với người bạc với
ḿnh, trong ấm ngoài êm.
Vua răn
cấm tướng ngoài biên không được gây hấn khích. Đến khi Chiêm Thành
hai lần vào cướp châu Hóa th́ sai tướng đem quân đi đánh, bắt được
chúa nó là Bí Cai.
Nước lớn
sợ uy, nước nhỏ mến đức.Mọi điều chính sự đều theo điển chương phép
tắc cũ đă có sẳn, sai đ́nh thần nghị bàn cho thích đáng rồi sau mới
thi hành. Cho nên chính trị hay, giáo hóa tốt ban khắp ra bốn biển,
sinh linh mến đức, đời được thái b́nh. Ngày băng th́nh ĺnh, trăm họ
như mất cha mất mẹ.
Ôi tư
chất của vua như vậy mà gặp phải tai biến như vậy, th́ chẳng phải là
trời đất rộng lớn dường ấy mà loài người vẫn c̣n có chổ đáng tiếc đó
sau?".
1596 B́nh
Nguyên: tên châu đời Lư -Trần về sau, thời Lê, đổi thành châu Vị
Xuyên, là đất các huyện Vị Xuyên, Hoàng Su Ph́, Bắc Quang, tỉnh Hà
Tuyên ngày nay.
1597 Danh sơn: núi non
danh tiếng.
1598 Đại xuyên: sông lớn.
1599 Tức Tư Tề, con
trưởng của Lê Lợi, đă bị truất làm Quận Vương.
1600 Tiên đế: chỉ Lê Lợi.
1601 Ngôn quan: hay gián
quan, là các quan giữ chức trách can gián khuyên ngăn vua.
1602 Mường Việt: tức là
Việt Châu, nay là huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La.
1603 Mường Lự: tức là
động B́nh Lư nay thuộc tỉnh Lào Cai.
1604 Chùa Pháp Vân: theo
CMCB3 chùa này ở thôn Văn Giáp, huyện Thượng Phúc, nay là huyện
Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
1605 Cửa Việt:: nay là
Cửa Việt, tỉnh Quảng Trị.
1606 Nguyên văn "khiển
chi", chúng tôi ngờ chữ "khiển" vốn là chữ "hoàn" khắc lầm.
1607 Tức là người đầu mục
trông giữ voi.
1608 Tức
là Bồn Man.
1609
Hoành huynh: anh vua. Quốc cữu: cậu vua.
1610 Tức
hội Vu Lan Bồn của nhà Phật tổ chức vào ngày 15 tháng 7 âm lịch hằng
năm. Theo Phật thoại, mẹ của Mục Liên vào địa ngục, hễ ăn ǵ đều hóa
thành lửa. Phật liền dùng chiếc bồn lớn, đựng hàng trăm thức ăn để
cúng dường các Phật, giải thoát cho mẹ Mục Liên, Sau này, lễ Vu Lan
Bồn là để cúng thí bọn quỷ đói, giải thoát mọi khổ ải cho chúng
sinh.
1611Cỗ
Thái lao: lễ lớn, dùng đủ tam sinh (ba con vật tế) là: trâu, dê,
lợn.
1612B àn
nhà: tức là " vua" phiêm âm tiếng Lào "pha nhân".
1613 Áp
nha: người đứng đầu một nha.
1614
Nguyên văn là Hữu Đằng, nhầm chữ Cổ thành chữ Hữu. Cổ Đằng là tên
huyện, sau đổi là Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
1615 Xem
sự việc năm Thiệu B́nh thứ 2, tháng 3, ngày mồng 6.
1616
Mường Mộc: nay là thuộc huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
1617 Vùng
đất thượng lưu sông Mă, giáp đất Ai Lao.
1618 Sú
bộ của ta do Lê Vi dẫn đầu sang nhà Minh báo tin Lê Lợi mất.
1619
Nguyên văn là chữ 'bệ", "bệ vệ" th́ không có nghĩa, chắc là bản khắc
lầm.
1620
Thành Vương: là vua nhà Chu, Thái Giáp: là vua nhà Thương, được coi
là những vua giỏi thời cổ của Trung Quốc.
1621
Nguyên văn "thập tiệm". Nguỵ Trưng là hiền thần của Đường Thái Tông,
dâng sớ xin vua đề pḥng 10 điều lầm lỗi có thể thấm dần mà mắc
phải.
1622 Tên
hai vị thánh mà các thầy phù thủy hay niệm chú.
1623 Tự
điển: danh sách các vị thần được triều đ́nh chính thức phong tặng,
được hưởng cúng tế.
1624 Bồi
thần: vốn là chức quan đại phu của chư hầu xưng với thiên tử. Ở đây
Tông Trụ là quan đại phu triều Lê, đi cống nhà Minh, xưng với thiên
tử nhà Minh.
1625 Hồng
lô tự của nhà Minh.
1626 Long
Châu là tên huyện thuộc phủ Thái B́nh, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
1627
"Thuận thiên thửa vận" là "Theo trời nối vận". "Đại thiên hành hóa"
: là "Thay trời tiến hành giao hóa".
1628 Bộc
thân công nha: kẻ tôi tớ này kính bẩm công nha.
1629 Vùng
đất thượng lưu sông Mă, thuộc tỉnh Thanh Hóa và huyện Lan Ḥa.
1630 Thư
Kinh: Thiên Ích Tắc.
1631 La
La Tư Điện: là một vương quốc của người Lô Lô hồi đó. Địa bàn nước
này là vùng đất tỉnh Quư Châu, Trung Quốc.
1632
Mường Qua: theo lời chú Bản dịch cũ là nước Lăo Qua.
1633
Mường Tàm: tức Tàm Châu, vùng thượng lưu sông Mă nước Ai Qua.
1634
Nghĩa như "phê duyệt ngày nay.
1635 Sinh
trị: nghĩa là sinh đă biết mọi việc, không cần phải dạy bảo, từ này
chỉ dùng cho các bậc thánh nhân.
1636 Điểm
nhỡn: vẽ mắt tượng.
1637 Xử
giáo: xử thắt cổ cho chết.
1638 Bến
sông Hồng, ở phía đông thành Thăng Long.
1639
Mường Bồn: tức là Bồn Man.
1640 Dịch
theo nguyên văn. Bản dịch cũ chép là "Ruộng các xứ Chiêm Động và Cổ
Luỹ".
1641 Tức là Minh Anh
Tông.
1642 Cát phục: áo mặc lúc
có việc vui, trái với tang phục.
1643 Sông Đông Ngàn: khúc
sông Đuống chảy qua huyện Từ Sơn cũ nay thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh
Hà Bắc.
1644 Mỗi Châu: tức Mường
Muỗi, sau đổi là Thuận Châu. Thuận Châu đời Lê gồm các huyện Thuận
Châu, Mường La, Mai Sơn tỉnh Sơn La và huyện Tuần Giáo, tỉnh Lai
Châu ngày nay.
1645 Đao bút: chỉ bọn thư
lại chuyên nắm giấy tờ sồ sách.
1646 Tức Lê Đinh, ông tỗ
bốn đời của Thái Tông.
1647 Tức bà Nguyễn Thị
Quách, vợ của Lê Đinh.
1648 Tức Lê Khoáng, cha
Lê Lợi, ông nội của Thái Tông.
1649 Tức bà Trịnh Thị
Thương, vợ của Lê Khoáng.
1650 Tức Lê Lợi.
1651 Tức bà Phạm Thị
Trần, mẹ Thái Tông.
1652 Cung Từ Hoàng Thái
Hậu là bà Phạm Thị Trần, sinh ra Lê Thái Tông.
1653 Huyện Thủy Đường:
nay là huyện Thủy Nguyên; Hải Pḥng.
1654 Huyện Để Giang: nay
là huyện Sơn Dương, tỉnh Hà Tuyên.
1655 Tứf Hồ Quư Ly, Hồ
Quư Ly có nhiều thơ văn bằng chữ Nôm, nhưng hiện nay chưa t́m lại
được.
1656 Thánh tiết: ngày
sinh của vua.
1657 Chính đám: ngày mồng
một tết Âm lịch.
1658 Ngũ tự: theo Lễ
kinh, thiên Nguyệt lệnh, th́ Ngũ tự là năm lễ tế các thần Hộ (cửa),
Táo (bếp) Trung lựu (giữa nhà), Môn (cửa lớn), Hành (đường đi).
1659 Đại lộ: xe lớn,
tượng lộ: xe trang sức bằng ngà voi; mă lộ: xe ngựa.
1660 Cửu long dư: kiệu
chín rồng; thất long dư: kiệu bảy rồng.
1661 Bộ liễn: xe đi thong
thả, phi liễn: xe đi nhanh.
1662 Tinh kỳ, mao tiết:
là các loại cờ. Chương phiến: loại quạt lớn làm bằng lông chim.
1663 Nguyên văn là dâm
nhạc, đối lập với nhă nhạc, ở đây chỉ các làn điệu dân gian.
1664 Nguyên văn: " Quan
đồng quân quan lĩnh..." hẳn là in lầm, ở đây chúng tôi dựa vào bản
dịch cũ.
1665 Sửa lại theo bản
dịch củ.
1666 Nên sửa lại là Nam
Sách thượng vệ như ở dưới.
1667 Bùi Cầm Hổ trước làm
quan ngự sử, mâu thuẩn với Lê Sát, bị đổi ra làm An phủ sứ trấn Lạng
Sơn. Xem sự việc năm Thiệu B́nh thứ 1 (1434), tháng 9.
1668 Vùng huyện sông Mă,
tỉnh Sơn La ngày nay.
1669 CMCB17, 11a ghi
Lương Đăng được thăng Đô giám trung thừa.
1670 Quan tác: có nghĩa
là "làm mũ", cục quan tác có lẽ là cục thợ thủ công chuyên làm các
loại mũ dùng cho các quan thời đó.
1671 Nguyên văn: "Đường
thượng". Bản cũ dịch là "trên đường"; ở đây là "triều đường", là
điện của nhà vua khi ra coi chầu, đối lập với "đường thượng" là
"đường hạ" tức là dưới điệ, ngoài điện.
1672 Nguyên văn: "biên
khánh, biên chung", tức là bộ khánh, bộ chuông gồm 16 chiếc khánh từ
nhỏ đến lớn và 16 chiếc chuông tử nhỏ đến lớn cùng treo một giá ở
trên.
1673 Sênh, quản thược:
đều là các loại sáo. Chúc: làm bằng gỗ, h́nh vuông, cao 1 thước 3
tấc, giữa lồi lên như cái trống đánh. Ngữ: làm bằng gỗ, h́nh con hổ
nằm lưng có 27 răng cưa bằng đông, lấy gỗ cọ vào thành tiếng. Huân:
làm bằng đất nung h́nh như quả trứng, có lỗ để thổi. Tŕ: làm bằng
trúc, có lỗ để thổi.
1674 Phương hưởng: gồm 16
thỏi gang dài, từ nhỏ đến lớn cùng mắc nghiêng vào một giá, có hai
tầng, lấy dùi nhỏ bằng đồng để đánh. Không hầu: là thứ nhạc khí như
các đàn sắt nhưng nhỏ hơn. Quản dịch: là các loại sáo.
1675 Nguyên văn: "Ngũ
lộ", là 5 loại xe lớn là : Ngọc lộ (xe nạm ngọc), Kim lộ (xe trang
sức bằng vàng), Tượng lộ (xe trang sức bằng ngà voi), Cách lộ (xe
bọc da), Mộc lộ (xe đóng gỗ). Số lượng xe và quy cách xe của vua và
hoàng hậu, cung phi đều có quy chế sẳn. Các xe ấy đều gọi chung là
"lộ".
1676 Lễ bộ: nghĩa là nghi
trượng của thiên tử. Lỗ bộ ty là cơ quan của triều đ́nh chuyên trông
coi các nghi trượng của nhà vua.
1677 Người Kinh: ở đây
chỉ người Việt, tức là bắt người Minh phải theo phong tục nước Đại
Việt.
1678 Tức là bà Phạm Thị
Trần, mẹ sinh ra vua Thái Tông.
1679 Minh sử q.321, CMCB
17 ghi là Thang Nại.
1680 Đoàn sứ bộ Đại Việt
tố cáo thổ quân châu Tư Lang, phủ Thái B́nh, tỉnh Quảng Tây lấn cướp
đất biên giới cửa ta.
1681 Y: tức là Y Doăn,
hiền tướng của Thành Thang nhà Thương, có công giúp Thành Thang đánh
bại Hạ Kiệt, làm vua thiên hạ. Lă: tức là Lă Vọng, công thần nhà
Chu, giúp Văn Vương, Vũ Vương b́nh định thiên hạ, c̣n gọi là Lă
Thượng. Thái Công Vọng...Chu: tức Chu Công hay Chu Công Đán, con Chu
Văn Vương, làm tướng giúp Vũ Vương đánh bại Trụ, Vũ Vương chết, pḥ
tá vua nhỏ là Thành Vương. Thiệu: tức Thiệu Công Tích, con thứ của
Văn Thương, con cháu đời đời đều là đại thần phụ chính.
1682 Trần B́nh, Chu Bột,
Vương Lăng: là công thần của Hán Cao Tổ Lưu Bang. Hoắc Quang: tên tự
là Tử Mạnh, nhân di chiếu lập Hán Chiêu Đế mới có 8 tuổi lên ngôi,
Chiêu Đế chết, lại lập Tuyên Đế.. Gia Cát: chỉ Gia Cát Lượng, tướng
giỏi của Lưu Bị, lập nên nhà Thục. Kính Đức: tức Tŕ Kính Đức, tử
Nghi: tức Quách Tử Nghi. Kính Đức, Tử Nghi và Lư Thạnh đều là công
thần đời Đường.
1683 Lời thề của Hán Cao
Tổ khi phong công thần. Đại ư nói: Ta cùng các ngươi măi măi cùng
hưởng phúc lộc lâu dài truyền nối đến muôn đời con cháu, cho tới khi
sông Hoàng Hà chỉ c̣n như cái đai, núi Thái Sơn chỉ c̣n như ḥn đá
mài.
1684 Ngô thị: tức bà Ngô
thị Ngọc Dao, sinh ra hoàng tử Tư Thành, sau là vua Lê Thánh Tông.
1685 Tức Mường La, ở Sơn
La.
1686 Chùa này có tên là
Tư Quốc , tương truyền do nhà sư Pháp Loa đời Trần xây dựng. Chùa
làm ở núi Côn Sơn, thuộc Chí Linh, tỉnh Hải Hưng ngày nay.
1687 Trung sứ: - người
được vua sai đi ra ngoài dân thăm hỏi t́nh h́nh.
1688 Nguyễn Văn là Lệ Chi
Viên. Huyện Gia Định: sau là huyện Gia B́nh, nay là một phần của
huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc.
1689 Bài văn khắc rên bia
đá đặt ở Hựu Lăng, nơi an táng Lê Thái Tông.
1690 Tam Phật Tề: tên
Trung Quốc chỉ một vương quốc trung đại Palem bang ở Sumatra, người
ta cũng thường đồng nhất Tam phật Tề với vương quốc Srivijaya (Thất
Lợi Phật Thệ) được biết đến từ cuối thế kỷ VII ở vùng này.
1691 Măn Lạt Gia: tên
phiên âm của Malacca, một tiểu quốc Hồi giáo (Sultanat) do
Paramesvara lập nên vào đầu thế kỷ XV ở vùng cửa sông Malacca, bán
đảo Mă Lai. Nước này phát triển thịnh vượng trong thế kỷ XV, nhưng
đến năm 1526 th́ bị người Bồ Đào Nha diệt.
1692 Cửa biển Đại Toàn: Ở
vào đất Thái B́nh ngày nay, có lẽ là cửa Diêm Hộ bây giờ.
1693 Huyện Đông Lại: Sau
đổi là huyện Vĩnh Lại, là vùng đất gồm huyện Ninh Giang cũ, nay
thuộc huyện Ninh Thanh, tỉnh Hải Hưng và huyện Vĩnh Bảo, Hải Pḥng.
1694 Huyện Hà Hoa: sau
đổi ra huyện Kỳ Hoa, gồm đất hai huyện Kỳ Anh và Cẩm Xuyên, tỉnh Hà
Tĩnh hiện nay.
1695 Ly Giang: cũng gọi
là Lê Giang, tên huyện thời thuộc Minh và đời Lê, đến đầu đời Nguyễn
đổi thành Lễ Dương, nay là đất huyện Thăng B́nh, tỉnh Quảng Nam -Đà
Nẳng.
1696 Đa Lang: chưa rơ ở
đâu.
1697 Cổ Lũy: vùng đất
tỉnh Quảng Nghĩa cũ, nay thuộc tỉnh Quảng Ngăi.
1698 Thi Nại: tức cửa
biển Quy Nhơn, tỉnh B́nh Định.
1699 Chà Bàn: tức thành
Vijaya, kinh đô nước Chiêm Thành thời ấy, nay c̣n dấu vết ở tỉnh
B́nh Định.
1700 Đài quan: các quan ở
ngự sử đài chuyên việc xét hoặc lỗi lầm của các quan lại.
1701 Rí ren: nguyên văn
là chữ Nôm cũng có thể đọc là "lí len" là một h́nh thức múa hát dân
gian ở vùng Thanh Hóa thời đó.
1702 Quân phủ: trị sở của
quân đội một phủ. Phủ ở đây có nghĩa như "doanh".
1703 Nên sửa lại là Giáp
Tư.
1704 Ba triều: chỉ các
triều Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông.
1705 Pháp Vân: tên chùa,
tức chùa Dâu ở tỉnh Hà Bắc.
1706 Sao Tâm: chùm sao
trong 28 sao (Nhị thập bát tú) của thiên văn Trung Quốc tức 3 ngôi
sao S, A, T của cḥm Scorpiton.
1707 Tuần: 10 ngày.
1708 Dịch theo nguyên
văn. Bản dịch cũ ghi là : Băi chức hai viên đại phu của ty tường
h́nh.
1709 Sơn hô có lẽ là chim
sơn ca.
1710 Cá vàng: dịch ư,
nguyên văn là "văn ban ngư".
1711 Lư Thuần Phong: Thái
sử lệnh đời Đường Cao Tông, giỏi thiên văn lịch số là một nhà toán
học xuất sắc đă làm chú thích Thập bộ toán kinh. Phó Dịch: cũng là
Thái sử lệnh đời Đường.
1712 Thuận Thiên: là niên
hiệu của Lê Thái Tổ. Nghĩa chữ "thuận thiên" là thuận theo ḷng
trời.
1713 Nguyên văn "âm dương
nhân" chỉ những người theo thuyết âm dương để chiêm đoán mọi việc.
1714 Chỉ Bạch Khuê, được
làm An phủ sứ lộ Quốc Oai trung.
1715 Chỉ Bùi Th́ Hanh
được làm Thiêm tri Tây đạo.
1716 Trạng nguyên trư là
"trạng nguyên lợn".
1717 Nguyên văn "lỗ khảo
quan" tức khảo quan thô lỗ, ngu dốt.
1718 Bảo Lạc: tên châu
đời Lê, nay là đất huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng.
1719 Dịch theo nguyên
văn. Bản dịch cũ sửa là "Bắc đạo đồng tri".
1720 Bản kinh: nguyên văn
là "bản kinh", có thể là lầm từ "ngũ kinh".
1721 Tế Giang: sau đổi là
huyện Văn Giang, nay là một phần đất huyện Châu Phong, tỉnh Hải
Hưng.
1722 Sông B́nh Lỗ: tức
sông Cà Lồ, trong huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
1723 Lănh Canh: hay Lănh
Kinh, ở khoảng gần Đáp Cầu, tỉnh Hà Bắc.
1724 Cầu Phù Lỗ: tức cầu
qua sông Cà Lồ ở xă Phù Lỗ, huyện Kim Anh cũ, nay thuộc huyện Sóc
Sơn, Hà Nội.
1725 Thánh Từ: tức Thánh
Từ hoàng thái hậu. Vua c̣n nhỏ, thái hậu phải buông rèm coi chính
sự.
1726 Quan
gia: Lê Nhân Tông. Đời Trần có qui định gọi vua là quan gia. Đây
cũng theo lệ ấy.
1727 Công
thần nơi tiềm để: Công thần giúp vua từ khi chưa lên ngôi.
1728 Yên
Lăng: nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc.
1729 Hào
lục tam, quẻ Giải của Kinh Dịch.Nguyên Văn: "Phụ thả thừa, tri khấu
chí'.
1730 Phối
sở: nơi đày các tội nhân, tùy mức độ phạm tội, có thể đày ra châu xa
hoặc châu gần. Hồi ấy Tuyên Quang bao gồm cả phần đất tỉnh Hà Giang,
Tuyên Quang ngày nay; Quy Hóa bao gồm cả phần đất của tỉnh Yên Bái,
Lào Cai ngày nay.
1731 An
Bang: đất tỉnh Quảng Ninh hiện nay. An Bang không có huyện Thái
Đường. Có lẽ nhầm từ huyệnThủy Đường, tức huyện Thủy Nguyên, Hải
Pḥng hiện nay.
1732 Thái
hậu họ Mă: là hoàng hậu của Hán Minh Đế, tính cần kiệm, hay đọc
sách, bàn luận chính sự rất sáng suốt. Thượng Đế lên ngôi phong làm
Hoàng thái hậu. Thái hậu họ Đặng là hoàng hậu của Hán Ḥa Đế, Thượng
Đế c̣n bé lên ngôi, buôn g rèm coi chính sự. Thượn g Đế chết, lập An
Đế, vẫn trông coi chính sự, chọn dùng người giỏi. Bà Tuyên Nhân: bà
hoàng hậu của Tống Anh Tông. Triết Tông c̣n bé lên ngôi, bà buông
rèm coi chính sự 9 năm, được coi là Ngihiêu Thuấn trong giới phụ nữ.
1733 Cao:
là Cao Dao, danh thần của Ngu Thuấn Quỳ: là quan coi nhạc của Ngu
Thuấn. Tắc: quan coi việc làm ruộng của Thuấn. Tiết:: hiền thần của
vua Thuấn, thủy tổ nhà Thương. Y: tức Y Doăn. Phó: Tức Phó Duyệt.
Chu: Tức Chu Công Đán. Thiệu: tức Thiệu Công Thích.
1734 Dịch
theo nguyên văn. Chỗ này ngờ sai sót.. Bản dịch cũ chép: "Cho Quốc
Oai làm Trung lộ an phủ sứ" và ngờ in thiếu tên người nào đó.
1735 Dă
Tiên: quan Thái sư của bộ tộc Ngơa Lạt nước Mông Cổ.
1736 Đại
Đồng: là trị sở của phủ Đại Đồng, nay thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung
Quốc.
1737 Thổ
Mộc: tên đất, ở phía tây huyện Hoài Lai của Trung Quốc.
1738
Thiên lộc: lộc trời, thiên tử hưởng lộc trời. Câu này ư nói Anh Tông
phải ăn thứ tanh hôi không phải lộc trời.
1739 Đế
hương: quê hương vua. Câu này ư nói Anh Tông bị giam ở miền thảo dă,
không phải đất nước ḿnh.
1740 Kiến
Chương: vốn là tên cung điện của Hán Vũ Đế. Ở đây chỉ cung điện của
vua Minh.
1741 Dịch
theo nguyên văn. Cương mục sửa là châu Quy Hợp.
1742 "Chư
hầu lai triều" nghĩa là "chư hầu đến chầu".
1743
Chiêu Hiếu Vương là tước hiệu truy phong cho Lê Học, anh ruột Lê
Lợi. Trung Dũng Vương là tước hiệu truy phong cho Lê Thạch, con Lê
Lợi.
1744
Hoằng Hựu Đại Vương: tức Lê Trừ, anh thứ hai Lê Lợi.
1745 Tây
Kinh: tức Lam Kinh hay Lam Sơn.
1746 CMCB
18 chú là châu An B́nh giáp giới với châu Hạ Tư Lang, trấn Thái
Nguyên.
1747 Tức là ngôi thái tử.
1748 Tức Lê Nhân Tông
Bang Cơ.
1749 Tức Lê Nhân Tông.
Đại Việt Sử Kư Toàn Thư
Tham nghị thừa tuyên sứ
ty châu Hóa là Đặng Thiếp dâng sớ tŕnh bày 5 điều gây lợi:
1. Dựng đồn lũy ở cửa
biển Tư Dung1833 .
2. Lấp
cửa Eo1834 .
3. Đào
kênh sen1835 .
4. Băi bỏ
chức thuế sứ ở đầu nguồn.
5. Chiêu
mộ những kẻ lưu vong đến khai khẩn ruộng hoang ở châu Bố Chính.
Tháng 8,
Khâm sai quyền Lại khoa cấp sự trung Nghiên Nhân Thọ hặc tội tổng
binh trấn An Bang Lê Hối không biết trù liệu đánh giặc, Đốc tướng
Khuất Đả đuổi đánh giặc thất lợi đến nỗi bị thua. Lệnh cho Nhân Thọ
tiến hành điều tra và bắt hai người về kinh.
Xuống
chiếu giảm tô ruộng và thuế nhân đinh có mức độ khác nhau, v́ Hộ bộ
tâu là lúa má sút kém và mất mùa.
Hạ lệnh
cho quan thừa tuyên Nghệ An lấy tiền công đong thóc chở về kinh. Bấy
giờ giá gạo ở kinh đô rất đắt, ở Nghệ An có rẻ hơn, nên sai mua vào.
Lấy Thân
vệ tổng tri Nguyễn Động làm An Bang trấn thủ [40a] phó tổng binh
kiêm thừa tuyên sứ ty thừa tuyên sứ. Lấy Hàn lâm viện thị độc học sĩ
quyền Ngự sử đài phó đô ngự sử Đào Tuấn làm Thái học tự khanh quyền
An Bang đẳng xứ tán trị thừa tuyên sứ ty tham chính trị bản vệ quân
sự.
Đông quân
phủ quyền đô đốc Trịnh Công Lộ từ trấn An Bang trở về, dâng sớ tŕnh
bày 4 điều nên làm:
1- Lập
đồn lũy Vạn Ninh1836 , Tân Yên1837 để chống giặc ngoài.
2- Chọn
đặt hương trưởng làm giáp thủ để trông coi lẫn nhau.
3- Chọn
người có tài năng văn, vơ làm quan trấn thủ.
4- Lấy
các đường quan ải, không cho đến chặt cây cối hay mở đường đi lại
làm mất thế hiểm trở.
Sắc cho
Hộ bộ khai mương, đắp đập, không được để đồng ruộng úng ngập hay khô
cạn.
Sai Hộ bộ
gửi công văn cho rthừa tuyên các xứ xét xem có ty Khuyến nông và hà
đê xứ nào để lúa má úng ngập và c̣n ruộng [40b] bỏ hoang th́ tâu
lên.
Ngày 15,
dựng lan can bằng đá ở điện Kính Thiên và xây điện nhỏ ở sân Giảng
Vơ.
Ngày 16,
đem việc khắc ấn "Hoàng Đế thụ mệnh chi bảo"1838 tâu cáo ở Thái
miếu. Ngày hôm ấy mưa gió to.
Dụ cho Đô
đốc đồng tri Nguyễn Đức Trung tạm làm Trấn thủ An Bang. Sai bọn Tổng
binh Nguyễn văn Đàm đi An Bang đánh giặc, dưới quyền chỉ huy của
Nguyễn Đức Trung.
Định biên
chế quân ngũ1839 . Mỗi vệ 5 sở, 20 đội; mỗi đội 20 người theo lệ
mới.
Ra sắc
chỉ rằng: Khi có lệhn ban ơn th́: Quan (văn)1840 nhất phẩm được dùng
chế; quan vơ nhất phẩm, quan văn tam phẩm được dùng cóa; quan vơ
tam; tứ phẩm, quan văn tứ, ngũ phẩm dùng sắc, c̣n th́ đều cấp giấy
khám hợp cả.
Lễ bộ thị
lang Lương Như Hộc và Nguyễn Đ́nh Mỹ cho là thời tiết thuận ḥa, mùa
màng bội thu, dân chúng yên vui, muôn vật dồi dào, dâng biểu xin vua
tiến tôn phong hiệu.
Tháng 9,
lúa chín sớm.
Có sâu
cắn lúa.
Khâm sai
quyền Lại khoa đô cấp [41a] sự trung Nghiên Thân Thọ bắt giải bọn
Khuất Đả, Nguyễn Báo, Lê Hối về kinh sư v́ đánh giặc bị thua.
Thuyền đi
biển của nước Xiêm La đến trang Vân Đồn dâng biểu văn khắc trên là
vàng và dâng sản vật địa phương, vua khước từ không nhận.
Sắc dụ
quan trấn thủ và phó tổng binh các vệ ở các xứ An Bang, Lạng Sơn,
Tuyên Quang rằng:
"Các
ngươi chức vụ đứng đầu một phương1841 khống chế cả cơi biên thùy,
phải pḥng bị điều bất trắc, để ngăn ngừa giặc ngoại xâm. Cần phải
khuyên bảo các tướng hiệu răn đe quân lính, không được quen thói cũ,
bỏ trốn về nhà, để trống vị trí pḥng thủ, kẻ nào trái lệnh th́ trị
tội nặng hơn luật thường".
Phạt đánh
trượng Điện tiền kinh lịch Cao Bá Tường và đày ra châu ngoài, v́ bọn
quan kiểm điểm Lê Thọ Vực, Lê Bô, Phạm Văn Hiến coi giữ quân lính,
bắt làm việc riêng và thả về để lấy tiền mà Bá tường không biết nêu
ra để hặc tội.
Sai đạo
sĩ cúng trừ sâu lúa.
Sai các
Thượng thư Lại bộ và Lễ bộ [41b] là bọn Nguyễn Như Đổ đi tế các thần
để trừ sâu lúa.
Ngày 20,
băo. Các phủ ven biển là Nam Sách, Giáp Sơn, Thái B́nh, Kiến
Xương1842 nước biển lên to, đê ngăn bị vỡ, lúa má bị ngập, dân ven
biển chết đói nhiều. Các huyện ở đầu nguồn và ven biển, thuộc Nghệ
An cũng bị thủy tai.
Có sắc
rằng: "Các trấn phủ, Phó tổng binh kiêm Thừa tuyên sứ chỉ xuất thân
từ con đường vơ nghệ, không hiểu văn học mà kiêm giữ hai chức, sợ
ảnh hưởng tới việc quân. Nay Phó tổng binh nên thôi kiêm chức Thừa
tuyên sứ. C̣n chức Thừa tuyên th́ chọn quan văn học. Các chức Tham
chính, Tham
nghị nên
bớt đi một viên. Khi biên cương có việc th́ tổng binh và thừa tuyên
đều được tham gia bàn bạc".
Đó là
theo lời tâu của Trấn điện tướng quân Lê Văn.
Mùa đông,
tháng 10, Hô Lung nước Ai Lao xin quy phục nước ta, vua khước từ.
Diễn tập
vơ nghệ, định lệ thưởng phạt theo thứ bậc khác nhau.
Dời quân
doanh của trấn thủ An Bang [42a] đến Bài Lẫm.
Thừa
tuyên sứ Thanh Hóa dâng một giỏ kén dại đă thành tơ. Vua khước từ.
Ra sắc
chỉ cho các nha môn chọn các lại viên xuất thân nho học để bổ các
chức, đều cho quan phụ trách công bằng xem xét mà tiến cử. Các huyện
có khuyết chức chính quan nếu không có người khoa mục th́ cho lấy
người thi đỗ tam quan mà tuyên bổ.
Thổ quan
châu An B́nh nhà Minh là Lư Lân đem hơn 8 ngh́n quân và 300 con ngựa
xâm lấn châu Hạ Lang1843 . Lân đánh thua rút về bản châu, chia quân
giữ địa giới. Quan trấn thủ1844 là bọn Đào Viện, Lê Bá Đạt xin gửi
thư cho Lân hỏi lư do gây việc binh đao. Vua y cho.
Ngày 16,
đại thần và các quan dâng biểu xin vua thêm tôn hiệu. Vua phê rằng:
"Trẫm
chưa dám nói đến danh hiệu Hoàng đế. Đối với các khanh, trẫm xưng là
Hoàng thượng, đối với Thái miếu, trẫm xưng là Tự hoàng, như thế cũng
đủ khác với danh hiệu của các thân vương rồi. Những lời ấy, các
khanh nên nghĩ lại. Sau này vài năm nữa, [42b] nếu thấy trên th́
trời thuận, dưới th́ dân yên, mưa gió điều ḥa, nước lớn thân thiện,
nước nhỏ sợ uy, mới có thể bàn đến tôn hiệu. Các khanh nghĩ kỹ lại
xem".
Ngày 19,
đại thần và các quan văn vơ lại dâng, biểu xin thêm tôn hiệu. Tờ
biểu viết: Bệ hạ đă lên ngôi chí tôn, nên xưng là Hoàng đế. Vua
không nghe.
Sứ thần
nước Trảo Oa là bọn Na Bôi sang ra mắt.
Mùa đông,
tháng 11, ngày mồng 5, lúc tan chầu, vua hỏi đại thần và trăm quan
rằng:
"Đô đốc
Khuất Đả trước đây tuy trái quân luật H́nh bộ đương xét hỏi, trẫm
muốn gọi cho làm Tổng binh để trấn thủ Bắc B́nh có được không?".
Thái bảo
Nguyễn Lỗi nói:
"Cho sống
hay bắt chết, ban chức hay băi miễn là quyền của đức vua, bọn bề tôi
không dám bàn đến. Song Khuất Đả phụng mệnh đánh giặc không nên
công, Lục khoa hặc tâu lên, H́nh bộ đương xét hỏi. Hăy đợi xong án,
nếu ông ta không có tội th́ dùng được".
Chỉ riêng
H́nh bộ thượng thư Lê Bá Trù [43a] tâu rằng:
"Khuất Đả
tuy có tội, nhưng nay quyền nghi mà dùng th́ có hại ǵ?".
Vua theo
lời của Lỗi, lệnh ấy bèn thôi
Ra sắc
chỉ rằng: Ngày tể thần xử án, phải có quan Đại lư tự cho người tù
kêu oan để tiện việc bẻ bác.
Lấy lại
khoa cấp sự trung Ninh Thao kiêm chức rèn dạy cho em công thần và
cận thị học sĩ.
Sai bọn
giám quan Trần Xác hỏi Chưởng chiếu ngục đô chỉ huy sứ Nguyễn Phục
về tội không xét xử nhanh chóng để án bị ứ đọng nhiều. Phục dâng lời
tŕnh bày rằng:
"Nếu có
để ứ đọng th́ chỉ có hai án kiện của Lê Văn Thao và Văn Phong mà
thôim c̣n đều th́ mới đưa tới, chưa quá hạn xét xử". Vua bỏ không
hỏi.
Ngày 13,
triệu quan các nha môn đă đỗ tiến sĩ là bọn Lê B́nh Tuấn và đồng bí
thư giám Lương Thế Vinh 30 người và Phục Nghi đường, vua ra đầu bài
cho thi.
Triệu Lại
bộ thượng thư Nguyễn Như Đổ cho phực chức.
Trước đó,
[43b] Như Đổ v́ việc biên chép người được thuyên bổ không rơ ràng,
vệ Cẩm Y bắt hỏi,bị mất chức, đến đây lại cho phục chức.
H́nh bộ
thượng thư Trần Phong xét hỏi việc của Tổng binh Bắc B́nh Lê Hối. Án
xong, định xét xử theo quân lệnh, v́ thấy Hối có công, xin cho theo
luật bát nghị1845 .
Đỗ ngự sử
Trần Xác nói:
"Hối đă
giao cho pháp ty xét hỏi, nên theo luật bát nghị. Chỉ có tội đại ác,
phản nghịch mới không được nghị xét thôi, chưa bao giờ thấy phạm
pháp mà không nghị xét cả".
Vua dụ
Xác rằng: "Quân pháp chỉ có một chứ không có hai, lời Xác nói thế là
đă tách làm hai đấy, hoàn toàn không phải là bàn về quân pháp, chỉ
là lời du thuyết1846 mà thôi, nên trị hắn về tội du thuyết".
Không bao
lâu, vua lại dụ Xác rằng:
"Ta vu oan nhà ngươi là
kẻ du thuyết, đó là ta lỡ lời. Ngươi có mưu kế ǵ hay, cứ vào nói
với ta, để như cơn mưa ngọt khi đại hạn, như con thuyền lúc cần qua
sông1847 . Hăy kính nhớ lấy".
Dụ Trần Phong rằng:
"Trẫm nghe, nước mà không
có thưởng [44a] phạt th́ dẫu Đường Ngu1848 cũng không thể trị được
thiên hạ. Nay ta kư thác trách nhiệm nặng nề cho nhà ngươi, ngươi
cốt giữ lấy 4 chữ "cần, thành, đôn, ư"1849 mà thôi, chả lẽ ngươi lại
không gắng gỏi đọc sách để sáng tỏ đạo giữ ḿnh hay sao?".
Sai kiểm xét hộ khẩu của
người Chiêm đă quy thuận và ước thúc ngăn cấm các hạng nô tỳ công và
tư.
Sai bọn Đông quân quyền
hữu đô đốc Trịnh Công Lộ đốc thúc quân Ngũ phủ xây Hoàng thành, v́
Hoàng thành thất hẹp.
Giáng chức bọn Thừa tuyên
sứ các xứ Bắc đạo Lê Công Khác, mỗi người một bậc v́ trong sứ có
nhiều sâu cắn lúa mà không biết tâu lên trước, chỉ ngồi nh́n tai họa
của dân.
Nhắc lại lệnh cho con
cháu các công thần trở lại họ của ông cha.
Đăi chế Dương Như Châu v́
học nghiệp không tiến bộ phải ra làm Hồng lô tự thừa.
Tháng 12, ngày Giáp Ngọ,
làm lễ tế mùa đông, vua xưng là "hiếu tôn đức hoàng". Danh hiệu"Quốc
hoàng" có từ đây.
[ 44b ] Lấy hành Bắc quân
đô đốc thiêm sự Lê Giải làm Điện tiền ty đô kiểm điểm; Binh bộ
thượng thư Lê Bá Trù làm Tả kiểm điểm.
Trả lại chức cho Tây quan
tả đô đốc Lê Thiệt.
Trước đây, Thiệt phạm
tang trái luật phải băi chức. Đến đây, vua cho là Thiệt có tài, có
thể dùng được, sai trả lại chế mệnh đă bị tịch thu khi trước. Ban
lại chiếu thư chế sắc bắt đầu từ Thiệt.
Lệnh cho Bí thư sảnh làm
ngọc tịch1850 .
Ban lệnh cấp chế cáo cho
bọn Đô kiểm điểm Lê Giải, trong lệnh đều ghi là" Hoàng thượng chế
cáo chi mệnh".
Vua xưng là" Hoàng thượng
bắt đầu từ đây".
Sai triều thần tiến cử
chức quan huyện cương trực biết trị kẻ gian tà, mỗi người một cử
viên.
Lại bộ thượng thư Nguyễn
Như Đổ đưa 8 người thế gia thân quen là bọn Nguyễn Thế Mỹ ra để vua
chọn. Vua cho rằng họ là bọn mới lên, tài năng b́nh thường. Hôm sau
lại sai cử 10 người đang giữ các chức trách trong kinh. Thái bảo Lê
Niệm cử [ 45a ] Lương Thế Vinh, Đô đốc Trịnh Văn Sái cử Hộ khoa cấp
sự trung Đặng Thục Giáo, thượng thư Trần Pḥng cử Thượng bảo tự
khanh Dương Tông Hải, đều là những người ḿnh biết. Vua xem tờ tâu,
phần nhiều là những người có chức, bèn loại bỏ họ tên của bọn Lương
Thế Vinh, chỉ để lại Giáo thụ Nguyễn Nhân Tuỳ, Huyện quan Đinh Bô
Cương trong diện xét chọn và phê rằng:
" Lục bộ, Lục khoa và Ngự
sử đài mà tiến cử bậy th́ chịu tội giáng hay băi chức. Néu tiến cử
được người giỏi th́ nhất định sẽ được trọng thưởng".
Sai nội quan đưa cho đ́nh
thần xem, không ai không kinh hăi v́ vua xét người rất sáng suốt.
Dời H́nh bộ và Đại Lư tự
ra ngoài thành.
Tổng binh Lạng Sơn là Lê
Luyện tâu rằng: Được tin Tổng binh Quảng Tây nhà Minh điều động 13
vạn binh mă, đóng tại châu Ngô, châu Tầm, nói phao là sửa sang cầu
đường bắc qua khe suối dọc ven biển để tiến đánh giặc Man ở Liêm
Châu và Tri huyện Bằng Tường tỉnh Quảng Tây [ 45b ] Lư Quảng Ninh
nói dối là c̣n bận pḥng bị ở cửa Nam Giao, chưa rồi để điều binh đi
đánh giặc Man.
Vua sai triều thần họp
bàn. Bọn Thái bảo Nguyễn Lỗi đều nói:
" Nên giữ kỹ của cải, mặc
họ muốn làm ǵ th́ làm, có sao đâu!"
Thi khoa Hành từ. Điểm
gọi các quan vào thi, tất cả là 30 người.
Bấy giờ, Khâm h́nh viện
lang trung Vũ Hữu, Viên ngoại lang Nguyễn Đ́nh Khoa 5 người đều cáo
ốm không vào thi. Vua lấy làm lạ, hỏi ra mới biết họ chỉ thích hối
lộ. Nhân thế, vua dụ các quan trong triều rằng:
" Việc h́nh án phức tạp
khó khăn, có ba điều vất vả: Một là suốt ngày cặm cụi vất vả, khổ
sở. Hai là xử án không đúng, chịu tội làm sai. Ba là án tụng chất
đống, khó ḷng xét xử tường tận. Có ba điều vất vả ấy dẫu người
không bệnh cũng đến phát ốm, huống chi là có bệnh".
Đó là nói giễu Vũ Hữu.
Cho Lang trung Nguyễn
Tường, Lê Đ́nh Tuấn, Tri [ 46a ] huyện Nguyễn Nhân Thiếp, Đào Thuấn
Cử, Viên ngoại lang Phạm Như Lan, Tấu sứ Trần Qúy Huyên đều được vào
đọc sách tại Bí thư giám, v́ thi đỗ khoa Hoành từ.
Triệu các quan dự thi là
bọn Phạm Nại 20 người vào Phụng Nghi đường. Vua tự ra đầu bài cho họ
thi.
Ngày mồng 9, vua sai Lại
bộ thượng thư Nguyễn Như Đỗ chọn lấy những người nhân hậu, khoan
thứ, sáng suốt, công bằng ở các nha môn trong ngoài, để thay bọn
H́nh bộ lang trung, Viên ngoại Phạm
Nại, Đàm Văn Thông. Bấy
giờ, h́nh án có nhiều vụ xử oan, thuờng có đơn kêu lên triều đ́nh.
Vua chán ghét bọn đó, cho nên có lệnh này.
Ra lệnh ngừng việc xây
cung thành, v́ có nhiều tờ tâu gửi lên, nói là mất mùa, giá gạo cao
vọt, cho nên hoăn lại.
Miễn cho quân lính vùng
ven biển không phải dự kỳ tập luyện lớn sang năm, v́ hồi tháng 8,
tháng 9 có băo lớn, nước dâng cao, nhà cửa của dân chúng ven biển bị
nước cuốn đi nhiều.
Thưởng 10 quan tiền cho
quan Bí thư giám [46b] và quở trách bọn Lương Thế Vinh, Đỗ Hân học
hành không tiến bộ.
Lấy bọn Quốc tử giám thụ
Nguyễn Nhân Tùy, Huyện thừa Đinh Bô Cương, Giám bạ Đào Nhân Tùy, Tri
huyện Lê Bá Tu, Minh h́nh tri viên ngoại lang Đào Lang Chủng làm
giám sát ngự sử các xứ Hải Tây, Hải Đông, Hải Bắc, Hải Nam.
Sai Giám sát Đinh Nhân
Phủ và Thiều Duy Tinh chia nhau đi ba đạo Hải Đông, Hải Tây, Hải Nam
khám xét bờ đê ven biển, bắt thừa ty các xứ ấy phải bồi đắp lại.
Ngày 20, lấy Đào Thuấn Cử
làm Hàn lâm viện đăi chế cho vào đọc sách tại Bí thư giám.
Ấn báu đúc xong, sai Thái
sư Đinh Liệt tấu cáo Thái miếu.
Nam đạo giám sát ngự sử
Tŕnh Bá Tu dâng sớ nói rất kỹ về sai lầm thiếu sót của chính sự
đương thời, trái với ư vua, phải ra làm Tri châu châu Lộng Nguyên,
phủ Bắc B́nh.
Vua cho là Lương Như Hộc
tiến cử Trần Quư Huyên không phải là người giỏi, [47a] xuống chiếu
giam Như Hộc vào ngục và thu lại văn bằng của Quư Huyên.
Mở rộng kênh Sen ở Thuận
Hóa và các kênh ở Thanh Hóa, Nghệ An.
Năm này xử tù tử tội
trong nước gồm 323 người.
Mậu Tư, [Quang Thuận] năm
thứ 9 [1468], (Minh Thành Hóa năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, ra
sắc chỉ rằng:
Những quan viên nhậm chức
nơi nước độc chốn biên cương xa xôi, người nào biết cách nuôi vỗ
dân, đốc thúc không phiền nhiễu dân mà vẫn thu đủ thuế, đủ hạn 6 năm
th́ cho chuyển về nơi đất lành. Nếu ai kiếm cớ đau ốm né tránh, nộp
thuế thiếu nhiều th́ phải bổ đi miền biên cương xa, đủ 6 năm nữa mới
được quyết định lại.
Tháng 3, ra sắc chỉ cho
các nha môn rằng: Nếu là bản tâu về việc công th́ được dùng con dấu
của nha môn ḿnh, nếu bản tâu của quan viên quân sắc nào không có
con dấu th́ đều cho Thông chính sứ ty xét đóng dấu kiềm vào chổ hai
tờ giấy đóng liền nhau.
Dụ Đô chỉ huy Nguyễn Phục
rằng:
"Ngươi khi trước c̣n làm
gia thần, giám nói phao là ta đáng làm Thiên tử. Ngươi là Thiên đế
hay sao? Là quỷ thần hay sao? [47b] Sao ngươi biết trước được việc
đó? Hơn nữa, ngươi làm quan phụ đạo, lại toàn làm những việc mạo
hiểm cầu may. Thế là ngươi không giết ta mà ta cũng chẳng việc ǵ
phải đáp ngươi. Nhưng ta có 6 điều không phụ ngươi, mà ngươi phụ ta
có đến 11 điều. Ngươi là gian thần, ta là tặc thần đó!".
Mùa hạ, tháng 4, hạn hán.
Có sắc dụ các công, hầu,
bá, quan viên và trăm họ gồm 9 điều.
Lấy Bùi Bạch Lương và
Phan Phổ làm Hoàng thái tử thị giảng.
Tháng 6, ra sắc chỉ cho
Lễ bộ bàn định quy cách giấy tờ trong dân gian để ban hành trong cả
nước.
Định nghi chú lễ cầu mưa,
cầu nắng.
Mùa thu, tháng 7, dụ Lại
bộ thượng thư Nguyễn Như Đổ rằng:
Khoảng năm Thái Ḥa, cả
một H́nh bộ chỉ có hai viên đại phu, xét án kiện trong nước, nhiều
vụ để ứ đọng. Năm trước, ta đặt một h́nh [ty]1851 3 hoặc 4 viên, tại
sao nay lại chỉ đặt mỗi h́nh [ty] 2 viên thôi? Lại bộ các ngươi rỗi
trong hay ngoài triều, ai là người vừa cứng cỏi, vừa mềm dẻo, có tài
xử án xét kiện th́ đặt mỗi h́nh ty lấy 3 viên ngoại.
Tháng 3, các quan theo
hầu vua về Lam Kinh.
Vua cùng Hoàng thái tử và
Kỳ quận công Lê Niệm, cùng các quan theo hầu là bọn Lê Hoằng Dục, Đỗ
Nhuận, Quách Đ́nh Bảo, vua tôi cùng nhau xướng họa, sáng tác Ánh hoa
hiếu trị thi tập, có nhiều câu sang sảng như vàng gieo.
Ngày 13, dụ bọn Lại bộ
thượng thư Nguyễn Như Đỗ rằng:
"Bọn ngươi cố xin lấy
giáo thụ làm quan huyện, thế là kế gian đă nảy sinh đó. Giáo thụ
phải giữ chức lâu năm để đào tạo nhân tài cho có hiệu quả, thế mà
dám xin đổi làm chức khác, tội ấy không nhỏ".
Tháng 9, ra sắc chỉ rằng:
từ nay về sau, kẻ nào có đơn kêu ca oan uổng mà nha môn ấy xét ra
không có oan uổng ǵ th́ phải đánh 80 trượng, phạt 5 quan tiền.
Dụ bọn Nguyễn Như Đổ
rằng:
"Ta xem Trần Phong ngoài
mặt th́ kêu căng, trong bụng th́ xu nịnh, nói năng khinh suất. Đến
như xiểm nịnh [48b] kẻ quyền quư th́ lật đật như con lanh già giẫm
yếm xéo đuôi; liếm trôn trĩ của Đức Trung, hút mủ nhọt cho Nguyễn
Yên, đó là kế sở trường để nên quan to của Phong đấy".
Trước đó, Trần Phong ban
sớm th́ theo đuôi mọi người hặc tội Nguyễn Đức Trung, đến đêm lại
tới nhà Đức Trung để tạ lỗi của ḿnh. Đức Trung là cha của Trường
Lạc Hoàng hậu, c̣n Yên là cậu của Hoàng hậu. Phong xin làm thông gia
với Yên, lạy ở ngoài sân suốt ngày, Yên mới gả cho.
Dụ hộ Bộ thượng thư
Nguyễn Cư Đạo rằng:
"Ta khi c̣n ít tuổi làm
bạn với ngươi, khi lên ngôi báu th́ ngươi làm quan Kinh diên. Về mặt
thần hạ, ngươi với ta là người tri kỷ, là bạn học thức. Về mặt vua
tôi, ngươi với ta là duyên cá nước, là hội gió mây.Ngươi hăy hết
ḷng hợp sức, gắng gỏi lo báo đền ơn nước, chí công [49a] vô tư, để
cho dứt hẳn tệ hối lộ. Được như thế, th́ ta được tiếng là bậc vua
hiểu người, ngươi được tiếng là bề tôi tận trung, cha mẹ vinh hiển,
danh tiếng vẻ vang, sáng ngời trong sử sách, như thế chẳng đáng vui
sao? Nếu không được như vậy, th́ ta là ông vua không biết người, mà
ngươi là bề tôi để làm ǵ, trong hai điều ấy, ngươi chọn đằng nào
th́ chọn".
Mùa đông, tháng 10, ngày
28, vua dụ các quan trong triều rằng:
"Ta xem Trần Phong xin
cho Lê Bô phạm pháp bị tội ḱnh1852 được chuộc tội, như thế là người
giàu có nhiều của hối lộ th́ được miễn tội, c̣n người nghèo th́ vô
cớ mà bị trị tội, là cả gan vi phạm phép tắc của tổ tông lập ra để
trừng trị kẻ ngoan cố không biết răn chừa. Vả lại, cho chuộc tội
ḱnh là ơn riêng của triều đ́nh thương người có tài, thế mà [Phong]
dám làm uy làm phúc để hại nước. Đại lư tự phải chiếu luật để trị
tội".
Lấy Phạm Phổ làm Chỉ huy.
Phổ đổ tiến sĩ khoa Quư Mùi, ba lần dâng sớ nguyện sung làm chức
quan vơ. Vua khen là Phổ có chí, có thể làm nên việc, cho nên bổ
ngay không phải qua chức nhỏ.
[49b]
Tháng 11, sai sứ sang nhà Minh. Bọn Dương Văn Đán, Phạm Giám, Hoàng
Nhân đi nộp cống hằng năm.
Tạ Chủng
tâu việc các châu Vĩnh An1853 Vạn Ninh bị cướp bóc.
Sắc dụ
bọn Ngự sử Trần Xác, Nguyễn Văn Chất rằng:
"Tờ tâu
của các ngươi nói rằng bọn nội thần Nguyễn Thư, Chu Đức Đại, Dương
Minh Phong, Ngô Át, Phan Tông Tŕnh đều là kẻ hầu cận, quen thói ăn
hối lộ, pháp ty giữ công bằng, tội đáng phải xử tử. Sao lại tha tội
cho Nguyễn Thư mà không tha cho Phan Tông Trinh? Làm thế là bất tín
với thiên hạ. Ta biết Nguyễn Thư1854 ăn hối lộ, chết là đáng rồi,
nhưng nay ta không giết là có ư c̣n nhờ hắn ngày sau sửa lỗi để c̣n
sai khiến thôi. C̣n như Phan Tông Trinh làm con nuôi của viên nội
quan Hiền. Hiền chết, xác c̣n hôi hổi đă thông dâm với vợ Hiền, cướp
lấy làm vợ lẽ của ḿnh; năm trước nó lại thông dâm với cung nữ là
Nguyễn Mai, cả hai tội đều nặng, giết là đáng rồi".
[50a] Kỷ
Sửu, [Quang Thuận] năm thứ 10 [1469], (Minh thành Hóa năm thứ 5).
Mùa xuân, tháng 2 nhuận, cấm thiên hạ chứa đồ binh khí trong nhà.
Vua dụ các quan văn vơ rằng:
"Trẫm giữ
cơ nghiệp lớn tới nay đă được nhiều năm, trong nước yên lặng, binh
khí không phải dùng đến, nên xuống chiếu cho trong nước không được
chứa chất đồ binh khí trong nhà, dụ rơ để cấm".
Ra sắc
chỉ rằng ai bắt được giặc biển th́ được thăng thưởng.
Ra sắc
chỉ rằng quan viên có tội, nếu đă già th́ bắt về làm dân, theo lời
tâu của H́nh bộ thượng thư Trần Phong.
Tổ chức
thi hội cho sĩ nhân trong nước, lấy đỗ 20 người.
Ngày 26,
vua ngự ở cửa Kính Thiên, thân hành ra đề văn sách, hỏi vềđạo trị
nước để lấy hiền sĩ.
Sai Thái
bảo b́nh chương quân quốc trọng sự kiêm Đề điệu Quốc tử giám Lê Niệm
và nguyên Lại bộ thượng thư Nguyễn Như Đổ làm đề điệu; Đại lư tự
khanh quyền H́nh bộ hữu thị lang Dương Chấp Trung làm giám thí; Hàn
lâm viện thừa chỉ Nguyễn Trực, Hàn lâm viện đại học sĩ thự viện sự
kiêm Quang [50b] lộc tự khanh đồng tri kinh diên sự Vũ Vĩnh Ninh;
Hàn lâm viện trực học sĩ Nguyễn Đức Trinh, Quách Đ́nh Bảo làm độc
quyền.
Cho bọn
Phạm Bá đỗ tiến sĩ xuất thân theo thứ bậc khác nhau.
Ra sắc
chỉ rằng các quan tước công, hầu, bá th́ cấp chế mệnh; các quan văn,
vơ nhị phẩm cấp báo mệnh; tam phẩm đến ngũ phẩm cấp sắc mệnh bằng
giấy long tiên; lục, thất phẩm cấp sắc mệnh bằng giấy hắc lạn; bát,
cửu phẩm cấp khám hợp1855 .
Tháng 3,
vua ngự ra B́nh Than, rồi đi đánh Bồn Man.
Người
Chiêm Thành đi thuyền vượt biển tới cướp phá, quấy nhiễu châu Hóa.
Cấm ngục
quan không được bắt quân lính góp tiền. Trước đó ngục quan thường
bắt quân lính góp tiền mua thịt rượu, mượn cớ là để tế ngục chủ,
nhân thế mà chè chén làm hao tốn tiền của quân lính. Đến đây ra lệnh
cấm.
Mùa hạ,
tháng 4, ra sắc chỉ rằng các vệ, ty Thần vũ, Du nô, Thần tư, Vũ lâm,
Thiên uy mỗi khi đến phiên túc trực th́ thay nhau mà chuyên tập vơ
nghệ, [51a] c̣n như các vệ Ngũ uy1856 và các sở súng nỏ ở vệ ngoài
th́ đều phải ngừng các việc tạp sai, giành ra số người canh giữ các
nơi, c̣n th́ đều chuyên tập luyện vơ nghệ. Đến khi hết ban th́ tiến
hành khảo duyệt, theo lệ mà thưởng phạt.
Quy định
bản đồ của phủ, châu, huyện, xă, trang, sách thuộc 12 thừa tuyên:
Thanh Hóa
4 phủ, 16 huyện, 4 châu. Nghệ An 9 phủ, 27 huyện, 2 châu. Thuận Hóa
2 phủ, 7 huyện, 4 châu. Hải Dương1857 4 phủ, 18 huyện. Sơn Nam1858
11 phủ, 42 huyện. Sơn Tây1859 6 phủ, 24 huyện. Kinh Bắc1860 4 phủ,
16 huyện. An Bang 1 phủ, 3 huyện, 3 châu. Tuyên Quang 1 phủ, 2
huyện, 5 châu. Hưng Hóa 3 phủ, 4 huyện, 17 châu. Lạng Sơn 1 huyện, 7
châu. Ninh Sóc1861 1 phủ, 7 huyện. Phủ Phụng Thiên1862 2 huyện.
Ngày 9,
trị tội viên Chỉ huy sứ Phan Sư Kinh, v́ tờ tâu của Sư Kinh rối rắm,
lằng nhằng, [51b] có ư ngạo mạn, lừa dối.
Cấm làm
bán thứ nón sắc trắng như phấn.
Tháng 5,
Phổ cùng vợ đến nhà Huy nhân1863 là Đồng Đào, vừa lúc Đồng Đào đă
vào cung rồi. Phổ cùng vợ cúi rạp xuống đất lạy người chồng của Đồng
Đào là Vũ Lân, nhờ Đồng Đào đưa con gái ḿnh vào trong cung để lo
củng cố quyền vị. Vua dụ các quan trong triều rằng:
"Phạm Phổ
là đứa tặc thần của nhà nước thôi"
V́ thế
Phổ bị băi chức.
Ngày 12,
xướng danh các tiến sĩ là bọn Phạm Bá. Vua ban ân mệnh, cho mũ, đai,
y phục và ban yến ở Lễ bộ.
Mùa thu,
tháng7, ngày 14, vua dụ Lại bộ thượng thư Nguyễn Như Đổ rằng:
"Ngươi
nhiều lần xin bảo lĩnh cho Lê Bốc làm Tổng tri, nhưng Bốc lại có
bệnh trúng phong, chậm chạp, yếu đuối, không kham nổi việc, ngươi
thực là tên gian lại".
Tháng9,
cấm dùng tiền giả để đổi làm tiền thế.
Mùa đông,
tháng 11, ngày 16, đại xá. Đổi [52a] niên hiệu, lấy năm sau làm Hồng
Đức năm thứ 1.
Ngày 18,
sắc dụ quan viên văn vơ và dân chúng cả nước rằng:
"Trẫm
nghĩ, người ta sở dĩ khác giống cầm thú là v́ có lễ làm khuôn phép
giữ ǵn. Nếu không có lễ th́ t́nh dục bừa băi, phóng đăng xằng bậy,
không ǵ không làm. Từ nay về sau, các sắc quan lại, ai được thăng
chức hay bổ dụng, th́ Lại bộ phải sức giấy cho phủ, huyện, xă, bắt
xă trưởng phải làm tờ đoan khai là tên ấy đă đủ tuổi quy định, giá
thú làm theo hôn lễ th́ mới tâu cho lên để thăng bổ như lệ, Nếu để
cho kẻ xấu lạm dự vào hàng quan chức, th́ viên đó bị thích chữ đi
đày".
Tháng 12,
ra sắc chỉ cho quan phủ huyện phải thân hành xem xét ruộng nương
trong hạt ḿnh.
Cấm cợ
búa trong dân gian bán nón thuỷ ma và nón sơn đỏ. Vua dụ quan viên
và trăm họ cả nước rằng:
"Những
thứ áo giáp, mũ trụ là để cho khí thế quân đội trang ngghiêm, như
[52b] thứ nón tuỷ ma và nón sơn đỏ là của thân quân vẫn đội để túc
vệ. Nay chợ búa dân gian có nhiều người bán, nên cấm hẳn đi".
Lấy Lê
Cảnh Diệu làm Hộ bộ thượng thư; Lê Quốc Trunh làm Phó tổng binh trấn
thủ Nghệ An; Thân Nhân Trung làm Hàn lâm viện thị độc; Đàm Tông Lễ
làm Hàn lâm viện hiệu lư; Đinh Thức Thông làm Hàn lâm viện trực học
sĩ.
Canh Dần,
Hồng Đức năm thứ 1 [1470] ( Minh Thành Hoá năm thú 6), Mùa xuân,
tháng giêng cấm làm giả nón da.
Chọn các
vủ sĩ vệ Kim ngô đi bắt giặc biển.
Ra sắc
chỉ rằng: Con để tang cha mẹ, vợ để tang chồng phải theo quy chế
chung là 3 năm, không được theo ư riêng tự tiện làm trái lễ, phạm
pháp. Con để tang cha mẹ và vợ cả, vợ lẽ có chửa th́ bắt tội đi đày.
Vợ để tang chồng mà dâm loạn bừa băi, hoặc chưa hết tang đă bỏ áo
trở, mặc áo thường, hoặc nhận lễ hỏi của nguời khác, hay đi lấy
chồng khác [53a] đều phải tội chết cả. Nếu đương có tang, ra ngoài
thấy đám tṛ vui mà cứ mê mải xem không tránh, th́ xử tội đi đày.
Nếu kẻ nào tham của, hiếu sắc mà lấy vợ cả vợ lẽ của kẻ đại ác phản
nghịch, cùng là người Man thông dâm với vợ cả vợ lẽ của anh em đă
chết rồi, cùng những kẻ làm quan lại mà nhận hối lộ th́ tùy tộ nặng
nhẹ mà xử tội.
Tháng 2,
tuyển đinh tráng bổ sung quân ngũ.
Ra sắc
chỉ rằng: Người lậu sổ hộ tịch 10 tuổi trở lên mà khoẻ mạnh th́ bắt
xung quân. Trong một hộ có 3 đinh là cha con anh em với nhau th́
không ở trong sổ xung quân.
Định lệnh
tuyển chọn người khoẻ mạnh bổ sung thay thế( quân lính già yếu) đó
là theo lời tâu của Phó tổng binh Trấn thủ Thanh Hoá kiêm thừa Tuyên
xứ ty các xứ Thanh Hoa Nguyễn Đức Trung.
Có sắc dụ
kể tội gian thần Nguyễn Phục gồm 12 điều. Lúc ấy Nguyễn Phục là Cẩm
y vệ đô chỉ huy sứ.
Vua ngự
về Tây Kinh. Vua nói:
" Năm
trước ta đến Phúc Quang đường1864 th́ ruộng nương Động Bàng ít nước
không thể cấy luá được. Năm nay nước nhiều, luá chiêm [53b] mênh
mông bát ngát".
Rồi vịnh
luôn bài thơ tứ tuyệt rằng:
Vạn
khoảnh thanh thanh nhị hạ điền, Tề dân đương vĩ thực vi tiên. Thôn
đầu tam lưỡng nông phu đáo, Giai vị kim niên thắng tích niên. ( Đồng
chiêm muôn khoảnh luá xanh tươi, Dân chính coi ăn chính ấy trời. Đầu
xóm nông phu dặm kẻ đến, Nói năm nay vượt mọi năm rồi). Bấy giờ là
lúc vua đến bái yết Phúc Quang đường ở xă Động Bàng.
Tháng 3,
định lệnh về việc cấp thiếp cho người nhà bếp [trong cung] và các
nhà thế gia cùng lệnh về việ công đồng mua vật phẩm, đó là theo lời
tâu của Quyền Tri phủ Phụng Thiên Nguyễn Tông Tây.
Cấm người
không phải là sư săi không được caọ đầu.
Mùa hạ,
tháng 4, vua thân hành soạn bài Đạo Am thiên tự, đại ư là:
Đạo trời
mạnh chí cương, đạo đất thuận vô lường, làm vua đủ trí dũng, cho
nước được phồn xương; chọn lấy người đôi lứa, tốt ngang họ Nhâm
Khương1865 .
Tha tộ
cho Thủy quân vệ chỉ huy sứ Đào Bảo. Vua bảo triều thần rằng: Đào
Bảo nguyên trước là người Ngô, sau khi thành bị hạ, làm gia nô cho
Lê Sát, đến khi nhà Lê Sát bị tịch thu, cho làm nô ở phủ B́nh
Nguyên1866 . Nay hắn làm trái sắc chỉ, cố ư vi phạm quân [54a] lệnh,
tội đáng phải chết. Song Đào Bảo đă từng làm tôi tớ cho ta ở phiên
để, nên đặc cách tha cho tội chết, đồ làm binh cày ruộng.
Tháng 5,
vua dụ các quan trong triều rằng:
"Có hai
việc của kẻ tiểu nhân th́ Nguyễn Đ́nh Mỹ đă làm cả rồi. Để củng cố
quyền vị th́ hắn tâu rằng các tướng sĩ thích làm việc thổ mộc. Để
bán chác lời nói thẳng th́ hắn tâu rằng đ́nh thần mang ḷng đố kỵ,
và xin mỗi tháng ba lần tâu việc. Trước kia Đ́nh Mỹ đă từng bị trẫm
thử, thế mà nay vẫn làm quan to đến tam phẩm và triều đ́nh vẫn c̣n
sùng tín hắn. Nên để cho kẻ tiểu nhân Đ́nh Mỹ xuống chức tứ phẩm, để
tỏ ư của triều đ́nh ngăn chặn lời nói gièm, ghét bỏ kẻ gian nịnh,
ngơ hầu ngày sau có kẻ nào như Đ́nh Mỹ c̣n nghĩ đến việc làm sửa
ḷng thay dạ mà tiến tới chỗ không c̣n lỗi lầm nữa chăng?".
Mùa thu,
tháng 7, ngày mồng 3, hoàng tử nhà Minh là Hữu Đường sinh (tức là
vua Hiếu Tông nhà Minh).
Tháng 8,
quốc vương Chiêm Thành Bàn [54b] La Trà Toàn thân hành đem hơn 10
vạn quân thuỷ bộ cùng voi ngựa đánh úp châu Hoá. Tướng trấn giữ biên
thuỳ ở châu Hoá là bọn Phạm Văn Hiển đánh không nổi, phải dồn cả dân
vào thành, rồi cho chạy thư cáo cấp.
Tháng 9,
ra lệnh rằng: Hạng hoàng đinh 12 tuổi đă phải chọn sung xuân, đổi
thành 15 tuổi trở lên, khai là con trai hạng lớn, đó là theo lời tâu
của Nguyễn Nhật Thăng.
Có sắc
chỉ rằng: Con cháu các viên quan tuổi c̣n ít nhung vóc người to lớn
mà c̣n lẩn tránh không chịu ra tŕnh th́ bản thân phải sung quân ở
bản phủ, người cha th́ phải băi chức.
Sắc dụ
Thừa tuyên sứ phủ Thiên Trường rằng:
Dẹp loạn
th́ trước hết phải dùng vơ, quân mạnh vốn là ở đủ lương ăn. Lệnh tới
nơi, bọn ngươi phải trưng thu ở các hạng quân sắc, lại viên, sinh đồ
mỗi người 15 ống gạo, hạng hoàng đ́nh và người già mỗi người 12 ống,
bắt người bị trưng thu lại phải đồ lên thành gạo chín, không được để
chậm ngoài giờ, đem nộp lên sứ ty. Quan hạt đó đựng làm nhà kho,
kiểm nghiệm thu [55a] vào rồi làm bản tâu lên. Kẻ nào trốn chạy th́
xử tội chém đầu.
Mùa đông,
tháng 10, sai sứ sang nhà Minh: Nguyễn Đ́nh Mỹ tâu việc Chiêm Thành
quấy nhiễu biên giới, Quách Đ́nh Bảo tâu việc bị ṃ trộm trân châu
và việc địa phương bị lấn cướp.
Tháng 11,
hiệu định 52 điều lệnh về việc hành binh.
Đinh lệnh
xa giá đi đâu, cấm nói phao trả giá.
Ngày mồng
6, vua xuống chiếu thâ hành đi đánh Chiêm Thành.
Trước đó,
người Chiêm Thành ở Thi Nại1867 Bàn La Trà Duyệt là con người vú
nuôi, giết chúa hắn là Bí Điền mà cướp lấy nước, rồi truyền cho
người em là Trà Toàn. Trà Toàn là đứa hung bạo làm càn, dối thần
ngược dân, người Chiêm mưu phản, Toàn cũng không nghĩ chi đến, lại
c̣n ngạo mạn kiêu căng, không sửa lễ tiến cống, lăng nhục sứ thần
của triều đ́nh, quấy nhiễu dân biên giới. Lứa gạt người Minh để xin
viện trợ mà sang ăn cướp.
Vua bèn
gọi 26 vạn tinh binh, xuống chiếu thân trinh. Tờ chiếu viết:
"Xưa đức
Thái [55b] Tổ Cao Hoàng Đế ta dẹp yên loạn lạc gây dựng nước nhà.
Thái Tông Văn Hoàng Đế kính trời chăm dân kế chí nối nghiệp, kính
nước lớn, thương nước nhỏ. Bên trong th́ sửa sang, bên ngoài th́
đánh dẹp. Cho nên, đến những kẻ mặc xiêm cỏ, búi tóc dùi cũng trèo
núi vượt biển mà sang chầu, muôn nơi đều mến đức, tám cơi cũng phục
uy.
Bọn Chiêm
Thành ngu xuẩn kia, thập tḥ trong hang thỏ, như loài ong độc, được
nuôi rồi đốt lại, như giống cầm thú, ăn no lại quên ơn; là kẻ vô đạo
lừng khừng, là hạng tiểu trí lẩn quẩn. Thái nhơ nhuốc sờ sờ, quên
thân ḿnh không đất ở, ḷng gian ác chất chứa, vạch liều kế bắn trời
cao. Đức Tiên hoàng ta liền nổi cơn thịnh nộ, tính đến mưu xa, nhưng
v́ ba năm lặng tiến bát âm1868 mà công ơn lớn chưa hoàn thành được.
Khi Nhân
Miếu1869 lên ngôi cả, th́ giống ṇi chúng đă rất đông. Nương chốn Cổ
Lũy như hang cầy, cậy thành Chà Bàn như tổ kiến. Điên cuồng mất trí,
nó xưng bừa là cha chú, gọi đức vua ta là cháu con; mất đức ra oai,
ác chất chồng, giấu sao cho nổi? Những lời lăng nhục không thể nêu
tường.
Chúng tụ
tập bầy đoàn, [56a] dám giở thói như chó kia cắn trộm, chúng lừa khi
sơ hở, ngầm xua quân như lũ quạ tụm bầy. Định cướp Hóa Châu, giết
quân đồn thú. Kể tầy trời tội ác, chỉ hơn tháng sẽ dẹp yên. Kế đă
chẳng thành, mưu kia càng vụng. Chết đă sắp tới, toi mạng hẳn rồi.
Đă mù chẳng thấy ǵ, c̣n mở mồm nói láo. Kế đă cùng nên ḷi quẫn,
sắp làm phản phải thẹn thùng.
Rồi như
loài cáo xiểm nịnh với Yên Kinh1870 ton hót để gièm pha người khác,
định như giống tằm ăn lấn ra Tượng quận1871 , tính toan đâm trước
mặt sau lưng. Mong cột đồng dựng ở Hoành Sơn1872 , để quân Hán xuống
đến Bặc Đạo1873 . Rêu rao tố bậy, gièm nhảm chẳng chừa. Lại vu cáo
ta điều động binh sĩ muôn người, sắp thôn tính cơi bờ triều Bắc1874
lại bảo ta như hai mặt trời cùng mọc, tự tôn là Hoàng đế nước Nam,
bảo là ta cướp mất lễ cống ngọc vàng, bảo là ta tranh mất giống voi
cái trắng1875 .
Coi khinh
dân ta hơn là cỏ rác, nảy sinh dă tâm sâu độc hại người; tưởng chiếm
nước ta [56b] dễ tự chơi cờ, xương Bồng Nga c̣n ḥng đến nhặt1876 .
Cứ coi mọi hành vi, lời lẽ của nó, đều là muốn đạp đổ tông miếu ḍng
giống nhà ta. Mưu kế sâu như vậy, tội ác nào không làm. Khiến nhà
Minh ngờ vực, gửi sắc thư hỏi mấy năm liền, v́ lũ giặc hung hăng, xe
đổ cứ lần theo vết củ. Gông đóng ngập tai cũng đáng, lo đến cháy dạ
chẳng sai. Thế nguy như quạ đậu tổ cao, lại dám khinh thường triều
sứ,nh́n hẹp tựa ếch ngồi đáy giếng, cả gan chế nhạo sắc thư.
Ngày một
quá, tháng một hơn, kẻ no xướng lũ kia họa. Cùng một duộc gây họa
loạn, coi bạo ngược chẳng hề ǵ. Ngập ngụa tanh loài chó lợn, cướp
ngôi giết vua, đuổi con cháu Bồ Đề1877 ra ngoài cơi. Nhảm tin phật
quỷ dựng pháp chùa, bịa điều họa phúc, cho ḍng giống Trà Toàn được
sinh sôi. Cấm mổ thịt làm khốn khó dân trời, cấm nấu rượu, việc tế
thần phải bỏ. Con trai, con gái thảy đều lo vất vả chầu hầu, kẻ góa,
con côi, chịu măi cảnh thiêu người, cắt mũi.
Dân Chiêm
Thành th́ nặng thuế thảm h́nh, người Thi Nại th́ quan cao tước
trọng. [57a] Đàn ông, đàn bà của ta nó bắt làm nô lệ, tù tội trốn
tránh của ta nó hết thảy bao dung. Dân lưu vong1878 phải chụm chân
mà chịu oan, suốt cả nước muốn kêu trời nhưng không lối. Đứa ngủ
trọ, nhà sắp bị đốt 1879 ,
càng giở
tṛ gian, mạo xưng phong hóa; kẻ làm ác, trời không cho yên, vẫn
thói hung tàn mà làm chính sự.
Tiểu nhân
lên ngôi báu, nước lớn thành kẻ thù. Trong ḷng vẫn ḍm ngó trẫm,
ngoài mặt cống hiến giả vờ. Ví phỏng cáo kêu nơi đế lư 1880 th́ mới
cam ḷng, nào ngờ kiến họp đất Thần Châu1881 để ḥng thỏa chí. Ta
buông lỏng, nó kéo đàn đến cướp, ta giương cung, lại đuôi vẫy xin
tha. Thực là kẻ thù của tông miếu xă tắc, là tai họa của sinh dân
muôn đời. Nó nghĩ là roi dẫu dài không quất đến bụng ngựa1882 , gió
cuối cơn không cuốn nổi lông hồng. Mang dă tâm gây loạn làm càn,
thực phải tội đáng phải giết, đáng phải trị.
Bậc hào
kiệt nghe tin mà nghiến răng tức giận, người trung nghĩa thấy thế mà
trong dạ đau thương. Nó đảo lộn hết lẽ thủy chung, trí cỏn con mà
đ̣i mưu lớn. Ta điển chương phép tắc c̣n đó, gây phản nghịch luật
pháp không tha. Không ra oai th́ nó không chừa, trừ tàn bạo mưu di
cũng trị.
[57b]
Trẫm thể ḷng thượng đế, nối chí vua cha. Giết kẻ thù chín đời theo
nghĩa Xuân Thu1883 , định mưu kế vạn toàn cho yêu đất nước. Cứu muôn
dân thoát khỏi ṿng điêu đứng, dẹp nước loạn đă trái đạo lâu năm.
Đánh phản nghịch, cứu sinh dân, thánh triết phải tỏ bày uy vũ; trồng
mầm nhân, nhổ cội ác, đất trời cũng lấy đó làm ḷng.
Bởi v́
Di, Địch xưa là mối lo cho nước, cho nên thánh vương khi trước, cung
nỏ phải ra oai. Cửu Lê loạn đức, hoàng đế phải dùng binh1884 , Tam
Miêu bất kính, Đại Vũ gọi quân sĩ1885 . Tuy dụng binh là điều thánh
nhân cựa chẳng đă, nhưng lập pháp cốt để bọn ngoan ngu phải hay.
Sương mù sao che nổi ánh mặt trời, giường ḿnh há để kẻ ngoài nằm
ngáy.
Ta đă
chọn hàng loạt tướng tài, đă mộ vô vàn quân giỏi. Tỳ hổ vạn người,
thuyền ghe ngàn dặm. Binh sĩ trăm lần dũng cảm, người người chỉ một
quyết tâm. Ai cũng nắm tay đua nhau lên trước, tuân lệnh đợi lúc ra
tay. [58a] Nguyện xin đắp cồn chôn xác giặc, mong cho sử sách măi
ghi công. Ra quân có danh nghĩa, phạm tội quyết không tha.
Trẫm chỉ
huy cờ vơ, hiệu lệnh binh thần. Kính đem mệnh lệnh của trời, làm
việc đánh giết kẻ ác. Bóng cờ rợp đồng nội, như mây cuốn như gió
bay; lưỡi búa loáng trên không, tựa nắng chang, tựa sao chói. Dễ
dàng như bóc mo nang, thuận lợi như bẻ cành mục. Giặc tận mắt nh́n,
sấm sét gấp bung tai nào kịp, quân đi trên chiếu1886 , lửa bừng bừng
vèo cháy mảy lông. Công một buổi sẽ hoàn thành, hận trăm đời sẽ rửa
sạch. Lại v́ dân trừ loài sâu độc, chẳng để giặc cho con cháu đời
sau. Khinh Vũ Đế1887 nhàm vơ không thôi, khen Văn Vương mở mang bờ
cơi1888 .
Ôi! giặc
cùng mổ dê không máu1889 ; nên học xưa tháng 6 ra quân1890 , Cơi Nam
thấy lợn lấm bùn1880 chẳng đợi 7 tuần phục1881 . Bá cáo trong nước,
cho mọi người nghe".
Hôm ấy,
sai Thái sư Lân quận công Chinh lỗ tướng [58b] quân Đinh Liệt, Thái
bảo Kỳ quận công Chinh lỗ tướng quân Lê Niệm đem thủy quân 3 phủ vệ
Đông, Nam, Bắc đi trước. Ban hành 24 điều lệnh đánh Chiêm Thành trao
cho các quân doanh và các vệ ty Cẩm y, Kim ngô, Thần vũ, Điện tiền.
Ngày Tân
Tỵ, mồng 7, vua tấu cáo ở Thái miếu rằng: "Thần là kẻ ít tuổi bất
tài, vào nối nghiệp lớn, chỉ mong yên dân giữ nước đâu dám dùng nhảm
việc binh. Chỉ v́ giặc Chiêm Thành ngu xuẩn, nó điên cuồng nḥm ngó
nước ta. Không sợ trời tạm bợ cho qua; với nước ta, nó gây thù địch.
Trước th́ đánh cướp châu Hóa để ḥng chiếm đoạt đất đai, sau lại
sang báo nhà Minh, âm mưu diệt hết tông miếu. Là phường cha chó, mẹ
lợn nhuốc nhơ; làm việc cướp, giết vua bạo nghịch. Để vỗ cho Thi Nại
béo no; nó dao thớt cắt xẻo Tượng Quận, Chức ác ngập trời, làm hại
khắp cơi.
Thần đă
bàn bạc nơi miếu đường, lại lắng hỏi ở ḷng dân. Mọi người đều cho
rằng nó là loài rắn độc hung tàn, là mối lo cho sinh linh trong cơi.
[59a] Phải kíp đem quân hỏi tội, treo thủ cấp nó bên đường. Thần bất
đắc dĩ, theo nguyện vọng của mọi người, đem đại quân đi hỏi tội.
Giáp binh rầm rập kéo ra ngoài cơi, uy quyền mảy may không mượn tay
ai.
Ngày Canh
Th́n mồng 6 tháng này, lệnh sai Chinh lỗ tướng quân Lân quận công
Đinh Liệt, Phó tướng Kỳ quận công Lê Niệm đem 10 vạn thủy quân đi
trước.
Ngày 16
Canh Dần, thần đốc xuất 15 vạn thủy quân tiếp sau. Tiến sâu vào đất
giặc, không bỏ lỡ thời cơ. Trên là nối chí căm thù của tổ tông ông
cha, dưới lo cứu nguy cho muôn vàn lưu dân điêu đứng, tính mưu kế
cho con cháu, diệt kẻ thù của tổ tông.
Cúi mong anh linh của các
thánh ở trên trời phù hộ cho, để trong khi dàn quân bày trận được
biển lặng gió im. Quân ta trổ oai phong hùm gấu, xác giặc chất thành
đống ḱnh nghê1893 . Khí yêu ma quét sạch, chốn thanh miếu1894 cáo
thành. Thu công b́nh định được mau; nhờ [59b] ở thánh thần giúp đỡ.
Thần kính dâng bản tâu lên".
Ngày 16, vua thân hành
dẫn quân đại quân tiến tiếp sau. Sai bọn Tả đô đốc Lê Huy Cát, Hữu
đô đốc Lê Cảnh Huy ở lại kinh giữ nước.
Ngày hôm ấy, ngự giá khởi
hành, trời mưa nhỏ, gió bấc. Tư thiên giám Tạ Khắc Hải tâu rằng:
"Mưa là mưa nhuần quân,
gió từ phương bắc là gió ḥa". Cho nên khi thuyền đi vua đi, có câu
thơ rằng:
Bách vạn sư đồ viễn khai
hành, Xao bồng vũ tác nhuận quân thanh. (Trăm vạn quân đi đánh cơi
xa, Mui thuyền mưu đội thấm quân ta)1895 . Đó là ghi sự thực.
Sai Lại bộ thượng thư
Nguyễn Như Đổ tế đền Đinh Tiên Hoàng. Dọc đường, hễ qua đền thờ thần
nào đều sai quan tới dâng lễ tế, để cầu cho quân đi thắng trận.
Ngày 25 đêm ấy, Đỗ Nhuận
hầu tước mặt vua. Nhân nói đến hai chữ "Đạo lư", vua bảo rằng:
"Đạo là việc đương nhiên,
rơ ràng dễ hiểu, lư là cớ dĩ nhiên, mầu nhiệm khó thấy. Ta từng làm
bài thơ về hai chữ ấy, lâu ngày mới xong".
Nhuận thưa [60a] rằng:
"Lư học của đức vua rất
sáng tỏ uyên bác; trong chỗ hỗn nhiên mà phân biệt rất rơ ràng, rất
tinh vi hàm súc, thể hiện ra ở lời thơ, không phải người học vấn tầm
thường có thể mong mà theo kịp được".
Vua lại nói về thiên văn
học, chỉ ra rằng sự vận hành của Nhị thập bát tú1896 và Ngũ tinh1897
đều có xâm phạm tới nhau. Nếu sao nọ phạm vào sao nào đó th́ ứng với
một việc nào đó".
Xem thế, có thể thấy được
đôi nét về tầm học rộng hiểu sâu của vua.
Vua xem địa đồ nước
chiêm, đổi lại tên sông tên núi.
Tháng 12, ngày mồng 3,đại
giá xuất phát từ Thiết Sơn1898 , thưởng tiền cho bọn Án sát sứ Đinh
Thúc Thông, Nguyễn Tài theo thứ bậc khác nhau. Vua ban sắc dụ khen
rằng:
"Việc được thua của sáu
quân là trách nhiệm của tướng quân, mà cơ lợi hại trong một dinh
trách nhiệm thuộc về án sát. Bọn Thái sư Đinh Liệt nắm quân không có
kỷ luật, nhu nhơ như tṛ trẻ con, các ngươi biết làm sớ ngỏ tâu lên,
ta khen bọn các ngươi, thưởng cho tiền công, hăy đến mà nhận [60b]
lấy".
Ngày mồng 7, thổ quan phủ
Ngọc Ma là Cầm Lệ đến chầu, tiến cống sản vật, đó là bắt chước lễ
ngày xưa, vua đi tuần đến núi lớn ở địa phương th́ chư hầu đến chầu.
Bọn Án sát sứ Đinh Thúc
Thông, Phạm Vĩnh Dụ, Bùi Thúc Sử, Nguyễn Tài tâu bàn càn bậy. Vua
cho gọi đến hành tại hỏi về tội hủ nho làm hỏng việc, bắt bỏ mũ
xuống đái vào mũ để làm nhục.
Vua dụ bọn Chinh lỗ tướng
quân Đinh Liệt và Lê Niệm rằng:
"Vua mới ra quân mà lắm
chuyện như tṛ trẻ con, có một vụ cháy mà bị chết, bị thương tới gần
30 người. Cứ ư ta xét th́ thực là kém quá. Cho đem sắc đến cáo dụ,
ngươi hăy nghĩ xem".
Ngày 18, thủy quân vào
đến đất Chiêm Thành.
Định lệ khảo khóa quan
lại nơi cai quản.
Trưởng quan các nha môn
trong ngoài khi khảo khóa các quan viên trong phạm vi cai quản th́
phải xét kỹ thành tích trong công việc mà viên đó đă làm. Nếu quả là
có ḷng chăm nom yêu thương, được nhân dân yêu mến, và trong nơi cai
quản ít kẻ trốn tránh, th́ mới là xứng chức. Nếu vơ vét, quấy nhiễu,
gây tệ riêng tư [61a] và trong nơi cai quản có nhiều người trốn
tránh th́ là không xứng chức.
Tân Măo, [Hồng Đức] năm
thứ 2 [1471], (Minh thành Hóa năm thứ 7). Mùa xuân, tháng giêng,
ngày mồng 2, vua cho là khi đại quân sắp vào đất giặc, quân lính
càng cần phải luyện tập. Do đó, xuống chiếu cho quân Thuận Hóa ra
biển tập thủy chiến.
Vua nghĩ núi sông nước
Chiêm có chỗ chưa biết rơ ràng, liền sai thổ tù ở Thuận Hóa là
Nguyễn Vũ vẽ h́nh thế hiểm dị của nước Chiêm để dâng lên.
Ngày mồng 6, viên Chỉ huy
Cang Viễn bắt sống Bồng Nga Sa là viên lại giữ cửa quan Cụ Đê nước
Chiêm đem nộp.
Phiên tù ở Sa Bôi là Cầm
tích, phiên tù ở Thuận B́nh1899 là Đạo Nhị, đến chầu và dâng sản vật
địa phương. Sứ thần ước Ai Lao, trấn thủ Quan B́nh là bọn đầu mục
Lang Lệ đều đem sản vật địa phương đến hiến.
Vua thân hành soạn ra
B́nh Chiêm sách, ban cho các doanh. Trong B́nh Chiêm sách, nói có 10
lẽ tất thắng, có 3 việc đáng lo. Vua sợ rằng tướng sĩ chưa [61b]
hiểu, sai Chỉ huy Nguyễn Thế Mỹ dịch ra quốc ngữ để nhắc lại.
Sai Giám sát ngự sử Lê Bá
Di phát thóc kho Thuận Hóa làm gạo cả vỏ1900 chuyên chở tới hành
tại.
Tháng 2, ngày mồng 5, Trà
Toàn sai em là Thi Nại1901 và 6 viên đại thần đem 5.000 quân và voi,
ngầm đến sát dinh vua.
Ngày mồng 6, vua bí mật
sai bọn Tả du kích tướng quân Lê Hy Cát, Hoàng Nhân Thiêm và bọn
Tiền phong tướng quân Lê Thế, Trịnh Văn Sái đem hơn 500 chiếc
thuyền, 3 vạn tinh binh, ban đêm ra cửa Áp1902 và cửa Toạ1903 vượt
biển gấp, bí mật tiến vào cửa biển Sa Kỳ1904 dựng lũy đắp thành để
ngăn chặn lối về của giặc. Người Chiêm Thành không biết ǵ về việc
này.
Ngày mồng 7, vua tự ḿnh
dẫn hơn 1.000 chiếc thuyền, hơn 70 vạn1905 tinh binh ra hai cửa biển
Tân Áp và Cựu Tọa dựng cờ thiên tử, đánh trống ḥ reo mà tiến.
Trước đó, vua đă bí mật
sai bộ binh tướng quân Nguyễn [62a] Đức Trung dẫn bộ binh ngầm đi
đường chân núi. Tướng giặc trông thấy ngự doanh th́ tan vỡ, giày xéo
lẫn nhau chạy về Chà Bàn. Chạy đến núi Mộ Nô1906 , bỗng thấy quân
của bọn Hy Cát đă chặn đường về, giặc cuống cuồng sợ hăi, chạy rẽ
ngang trèo qua chân núi cao, xác người, ngựa và đồ quân tư đầy núi
đầy đường. Bọn Lê Niệm, Ngô Hồng tung quân ra đánh, chém được 1 viên
đại tướng giặc, c̣n th́ đều sợ hăi tan chạy cả.
Bấy giờ, vua đến Mễ
Cần1907 , tung binh tiến đánh, chém được hơn 300 thủ cấp, bắt sống
hơn 60 tên. Trà Toàn nghe tin em ḿnh thua chạy, rất sợ hăi, sai
người thân tín mang biểu tới xin hàng. Vua cũng sai sứ đi lại không
ngớt.
Ngày 27, vua tự ḿnh đem
đại quân đánh phá thành Thi Nại, chém được hơn 100 thủ cấp.
Ngày 28, vua tiến vây
thành Chà Bàn.
Ngày 29, đến sát chân
thành vây thành mấy ṿng.
Ngày mồng 1 tháng 3 hạ
được [62b] thành Chà Bàn, bắt sống hơn 3 vạn người, chém hơn 4 vạn
thủ cấp, bắt sống Trà Toàn rồi đem quân về.
Trước đó, các doanh đă
làm xong phi kiều1908 , Trà Toàn hằng ngày đem lễ vật đến xin hàng.
Vua cho gọi bọn Lê Quyết Trung đến bảo rằng:
Giặc đă tan ră chí chiến
đấu; kỳ hạn đánh thành đă tới. Trà Toàn nay ở trong thành này, chỉ
một trận là ta có thể nhổ được. Ta định phát pháo hiệu, nhưng sợ
chúng biết, chi bằng mật ước các doanh cùng một lúc tiến đánh.
Lại dụ khắp cả tướng sĩ
phải gấp rút bắc thang lên thànhl. Được một lát, vua trông thấy ở
đằng xa, quân lính doanh Tiền khu đă trèo lên tường con trên thành
liền bắn ba phát súng để hưởng ứng, lại sai nội thần đem quân Thần
vũ phá cửa đông mà vào.
Sai đồng thái giám Nguyễn
Đảm dụ các tướng sĩ ở các doanh rằng:
Tất cả kho tàng, của cải
trong thành đều phải niêm phong giữ kín, không được đốt cháy, Trà
Toàn nước Chiêm phải bắt sống đưa về viên môn, không được giết chết.
Vua sai chỉ huy Ngô [63a]
Nhạn dẫn tên giặc đầu hàng là Bô Sản Ha Ma đến. Lại sai trưng bày
những thứ giặc dùng làm lễ vật đem đến xin hàng mà ở nước ta không
có, sai viên quan đô úy Đỗ Hoàn chỉ tên từng thứ một. Có cái hộp
bạc, h́nh như thanh kiếm, vua hỏi vật ǵ. Hoàn trả lời rằng đó là đồ
của nước Chiêm từ xưa, người làm quốc vương phải có vật đó để truyền
cho con cháu. Ha Ma là bác ruột Trà Toàn.
Quân Thuận Hóa bắt sống
được Trà Toàn dẫn đến trước mặt vua. Trà Toàn cúi đầu quỳ xuống. Vua
hỏi qua người phiên dịch rằng:
"Ngươi là chúa nước Chiêm
phải không?".
Toàn trả lời: "Vâng".
Vua hỏi: "Có biết ta là
vua không?".
Toàn trả lời: "Tôi nh́n
thấy phong thái, đă biết là thánh thượng rồi".
Vua hỏi: "Ngươi có mấy
con rồi".
Trả lời: "Tôi có hơn 10
đứa con".
Đỗ Hoàn nói: "Hắn đă kêu
van xin làm thần tử, xin bệ hạ tha cho khỏi chết".
Vua nói với Toàn:
Trong đám gươm giáo, ta
sợ ngươi bị hại, nay may mà c̣n sống đến đây, ta thực yên ḷng".
Bèn sai đưa Trà Toàn ra
ngoài ty Trấn điện [63b] làm nhà nhỏ cho ở đấy. Các quan dẫn Toàn ra
hơi gấp. Vua bảo:
"Đưa đi thong thả thôi,
người ta là vua của một nước, sao lại bức nhau đến như vậy?".
Ngày mồng 2, vua thấy đă
phá được thành Chà Bàn, liền xuống chiếu đem quân về.
Vua thấy thuyền Trà Toàn
đi chật hẹp, không chức được hết vợ cả, vợ lẽ hắn, sai cho chọn hai
người cùng đi. C̣n những người khác, khi về đến kinh sư, sẽ trả lại
cả. Vợ của Trà Toàn là con gái Bí Cai, cùng với cháu gái đều là vợ
của Bàn La Trà Duyệt là anh Toàn. Thế mà Trà Toàn thông dâm cả.
Sau khi Trà Toàn bị bắt,
tướng của hắn là Bô Tŕ Tŕ chạy đến Phiên Lung1909 , chiếm cứ đất
ấy, xưng là chúc Chiêm Thành, Tŕ Tŕ lấy được 1 phần 5 đất của nước
Chiêm, sai sứ sang xưng thần, nộp cống, được phong làm vương. Vua
lại phong vương cho cả Hoa Anh và Nam Bàn1910 gồm 3 nước để dễ ràng
buộc.
Ngày mồng 7, lấy người
Chiêm đầu hàng là Ba Thái làm Đồng tri châu Thái Chiêm, Ba Thủy làm
Thiêm tri châu. Vua dụ [64a] họ rằng:
"Hai châu Thái Chiêm và
Cổ Luỹ trước là đất của ta, đời gần đây bị mất về nước Chiêm, nay
lấy lại được hết, đặc cách sai bọn các ngươi trấn giữ. Có kẻ nào
không chịu theo, cho giết trước rồi tâu sau".
Ngày 11, lấy Đổ Tử Quư
làm Đồng tri châu tri Thái Chiêm quân dân sự, Lễ _ Đà làm cố Lũy
châu tri châu tri quân dân. Người Chiêm nào dám chống lại hay làm
loạn th́ cho giết rồi tâu sau.
Ai Lao sai sứ sang chầu.
Trước đó, Ai Lao đă sai sứ sang chầu ở kinh sư, gặp khi đại giá khởi
hành, bèn từ kinh sư đi tới hành điện ở cửa Tư Dung. Đến khi đại giá
khải hoàn mới được vào chầu.
Thổ quan phủ Trấn Ninh là
Cầm Công sai đầu mục sang triều cống.
Thổ quan châu Thuận B́nh
là bọn Đạo Nhị tới chầu.
Bấy giờ đại giá về tới
Thuận Hóa, tri châu là Đạo Nhị và em là Đạo Đồng cùng hơn 100 bộ
đảng đem 5 con voi đến cống.
Tri châu động Du Phác là
Đạo Lự [64b] cũng đem ngà voi và thổ sản đến cống.
V́ vua đă dẹp được Chiêm
Thành, uy thanh chấn động khắp chốn, cho nên các nước phiên thuộc ở
phía tây đều lật đật kẻ trước người sau tranh nhau đến cống.
Vua sai Đỗ Hoàn, chỉ vào
Lê Thọ Vực mà bảo Trà Toàn rằng:
"Đây là Điện tiền đô đốc;
khi phá thành Chà Bàn, trèo lên đánh thành trước tiên là người này
đây!".Trà Toàn nh́n Thọ Vực một hồi lâu.
Trả lại lương kho cho
quân doanh Thuận Hóa.
Bấy giờ số lương của
Nguyễ Văn Chất chở đến đều là gạo đun chín. Vua hỏi Chất:
"Gạo nấu chín có thể để
tới 10 năm không?".
Văn Chất trả lời:"Khoảng
năm Thái Ḥa, số gạo nấu chín khi đi đánh Chiêm Thành măi đến khi đi
đánh Bồn Man, trải qua 26 năm vẫn c̣n ăn được".
Vua nói: "Hạng tốt th́
mới được thế, chả lẽ lại không có mốc, mục hay sao? Đại khái để lâu
vừa th́ 10 năm vẫn tốt nguyên".
Ngày 15, vua đă dẹp đươc
Chiêm Thành, bắt sống Trà Toàn, bèn tự ḿnh viết bài chiếu báo tin
thắng trận, sai quan mang về kinh sư bố cáo thiên hạ biết.
[65a] Mùa hạ, tháng 4,
vua dừng lại ở Nghệ An.
Ngày mồng 8, vua đến sông
Phi Lai1911 . Vua thấy Hoàng thái hậu ngồi thuyền, có thái tử theo
hầu, vội đi thuyền nhẹ đến, thay áo, lên thuyền rồi về hành điện ở
Thiên Phái. Chúa Chiêm Trà Toàn v́ lo lắng thành bệnh, đến đây th́
chết. Sai chém lấy đầu Toàn, đốt xác ném xuống sông, chở đầu hắn đi,
lại cắm lá cờ trắng ở đầu thuyền, đề mấy chữ rằng: "Đầu của tên đầu
sỏ tội ác Trà Toàn nước Chiêm Thành" để cho thiên hạ đều biết.
Ngày 11, đại giá về hành
điện ở Thổ Ngơa, vua ngự trênt thuyền Thiên thu1912 , sau đó vua đi
trước về bến Nhị Hà, Hoàng thái tử theo hầu, các thuyên hộ tống chỉ
có mấy chiếc. Vua dừng thuyền hồi lâu, bắn 6 phát súng, đợi thuyền
Thiên thu tới, vua mới về cung.
Ngày 22, dâng tù ở Thái
miếu. Đem thủ cấp của chúa Chiêm Thành là Trà Toàn và tai giặc bắt
được tấu cáo ở Lam Kinh.
[65b] Tháng 5, ngày mồng
1, làm lễ mừng thắng trận. Các quan là bọn Lê Niệm dâng biểu mừng
thắng trận.
Tháng 6, lấy đất Chiêm
thành đặt làm thừa tuyên Quảng nam và vệ Thăng Hoa.
Đặc chức Án sát sứ ở 12
thừa tuyên và đặt 3 ty ở Quảng Nam.
Mùa thu, tháng 7, định lệ
ban xuống thể thức bản đồ, văn khế. Ngày thi hành bắt đầu từ mồng 10
tháng giêng năm nay. Sau ngày ấy mà ai chưa tuân theo th́ cho là
không hợp lệ, đó là theo lời tâu của hộ bộ thượng thư kiêm thái tử
thái bảo Lê Cảnh Huy.
Ban bố thể thức văn khế
đă được chuẩn y.
Ngày mồng 10, sai Thái
bảo hộ bộ thượng thư kiêm thái tử thái bảo Lê Cảnh Huy mang kim sách
lập hoàng tử thứ 5 là Tân làm Kiến Vương.
Tháng 8, định chức trách
của quan Đề h́nh1913 .
Các Đề h́nh ngự sử khi
đứng trong ban triều tham phải như Ngự sử của các đạo. C̣n việc soát
xét h́nh bộ và Đại lư tự, việc kiểm tra h́nh án của Ngũ h́nh [66a]
là theo quy định của các năm Thuận Thiên và Đại Bảo, không phải là
mới đặt. Từ H́nh bộ thượng thư trở xuống, tới Đại lư tự và các ngục
quan, người nào tha tội hay buộc tội cho người không đúng luật pháp
th́ phải tâu hặc. Người có tội oan uổng cũng phải xét lại và minh
oan cho họ. Vệ Cẩm y xét kiện và ty Điện tiền xét án, nếu có trường
hợp nào oan khuất, thê thảm th́ phải tâu lên, hằng ngày phải thân
hành tới xét hỏi.
Thánh 9, ra sắc chỉ rằng:
Những người nguyên nô tỳ
của nhà nước, những quan lại ngụy, thổ quan chống đối mà ra thành
đầu hàng, những kẻ cha là ngyời Ngô mẹ là người Việt, bọn gian ác
phản nghịch, và người Ai Lao, Cẩu Hiểm, Chiêm Thành hết thảy là nô
tỳ của nhà nước, đă bổ đi làm các loại công việc mà phải tội, con
cái c̣n bé thay đổi họ tên làm dân thường và lấy vợ lấy chồng ở các
huyện xă khác, th́ con trai, con gái, cháu ruột, cháu gọi bằng chú
bác của bọn ấy, họ tên là ǵ, chính bản thân phải tới Châu Lâm viện
để duyệt tuyển.
Ngày 26, hiệu định Hoàng
triều quan chế 1914 . Vua dụ các quan viên văn vơ và [66b] trăm họ
rằng:
"Đất đai bờ cơi ngày nay
so với trước kia khác nhau nhiều lắm, không thể không thân hành nắm
quyền chế tác, làm trọn đạo biến thông".
Ở trong, quân vệ đông đúc
th́ năm phủ chia nhau nắm giữ, việc công bề bộn th́ sáu bộ bàn nhau
mà làm. cấm binh coi giữ ba ty1915 để làm vuốt nanh, tim óc. Sáu
khoa để xét bác trăm ty, sáu tự để thừa hành mọi việc. Thông chính
ty sứ ty để tuyên đức hóa của vua và đề bạt nguyện vọng của dân. Ngự
sử án để hặc tâu các quan làm bậy, soi xét ẩn khuất cho dân.
Bên ngoài th́ mười ba
thừa ty cùng tổng binh coi giữ địa phương, đô ty thủ ngự th́ chống
giữ các nơi xung yếu, phủ, châu, huyện là để gần dân; bảo, sở, quan
là để chống giặc; tất cả đều liên quan với nhau, ràng buộc lẫn nhau.
Do đó, gọi lính, lấy
quân, là việc của đốc phủ mà Binh bộ phải nắm chung; chi ra, thu vào
là chức của Hộ bộ mà Hộ khoa phải giúp đỡ. Lại bộ thăng bổ lầm người
th́ Lại khoa được phép [67a] bác bỏ. Lễ bộ nghi chế không hợp lệ th́
Lễ khoa có quyền hặc tâu. h́nh khoa xem xét công việc xử án của H́nh
bộ phải trái như thế nào; Công khoa kiểm điểm quá tŕnh làm việc của
Công bộ siêng năng hay lười biếng.
Đến như việc xét duyệt sổ
sách quân nhu hàng đống, hay phân biệt chọn lựa tướng súy, thiên tỳ,
trong các quân của thủ phủ th́ các quan kinh lịch, thủ lĩnh đều được
phép tra xét, đàn hặc cả. Quy chế trước kia, đặt quan phần nhiều lấy
quan to, tước cao. Chế độ ngày nay, đặt quan đều là lương ít trật
thấp. Số quan đặt ra so với trước tăng rất nhiều, nhưng tiền lương
chi tiêu so với xưa cũng thế. Đă không có người nào ăn hại, mà trách
nhiệm lại có nơi quy kết, khiến cho quan to, quan nhỏ đều ràng buộc
với nhau; chức trọng chức khinh cùng kiểm chế lẫn nhau. Uy quyền
không bị lợi dụngm thế nước vậy là khó lay. H́nh thành thói quen giữ
đạo lư, theo pháp luật mà dứt bỏ tội lỗi khinh nhân nghĩa, phạm ngục
h́nh. Để hoàn thành chí hướng của đức thánh tổ thần tông ta, và giữ
măi b́nh yên thịnh trị tới vô cùng, chứ không phải là ta cố ra vẻ
thông minh biến đổi phép cũ mà buộc miệng thiên hạ [67b] đâu! Kể từ
nay, kẻ nào là con cháu ta, phải biết rằng ban hành quy chế này là
điều bất đắc dĩ, một khi phép tắc đă định ra, phải kính cẩn duy tŕ
và thực hiện, không được cậy ḿnh là thông minh, rồi đem so với
triều trước mà sửa đổi lại, làm đảo lộn mọi điển chương chế độ, để
mắc tội bất hiếu. Kẻ nào là bề tôi cũng
kính cẩn giữ phép thường,
măi măi giúp đỡ vua các ngươi, để kế tục công liệt của người xưa, để
vĩnh viễn không c̣n lầm lỗi. Kẻ nào dám dẫn bừa quy chế cũ mà bàn
càn một quan nào, thay đổi một chức nào, chính là kẻ bề tôi gian
nghịch, làm loạn phép nước, phải xử tử vứt xác ra chợ không thương
xót; c̣n gia thuộc nó phải đày đi nơi xa để tỏ rơ tội kẻ làm tôi bất
trung; ngơ hầu muôn đời sau này hiểu được ư nghĩa sâu xa của việc
sáng lập điển chương chế độ".
Quan chế này bắt đầu bằng
các tước của tông phái nhà vua. Thân vương th́ hoàng tử được phong,
lấy tên phủ làm hiệu (như phủ Kiến Hưng gọi là Kiến Hưng Vương). Tự
thân vương1916 th́ con cả của thân vương được phong, lấy tên huyện
làm hiệu [68a] (như huyện Hải Lăng th́ gọi là Hải Lăng Vương...).
Tước công th́ các con của hoàng thái tử và thân vương được phong,
lấy mỹ tự làm tên hiệu như Triệu Khang công...). Tước hầu th́ con
trưởng của tự thân vương hay thân công được phong, lấy mỹ tự làm tên
hiệu (như Vĩnh Kiến hầu...). Tước bá th́ hoàng thái tôn, các con của
tự thân vương, tự thân công, con trưởng của thân công chúa, được
phong, lấy mỹ tự làm tên hiệu (như Tĩnh Cung bá...). Tước tử th́ xem
như chánh nhất phẩm, các con thứ của thân công chúa, con trưởng tước
hầu, tước bá được phong lấy mỹ tự làm tên hiệu (như Kiến Xương
tử...). Tước nam th́ xem như tông nhất phẩm, con trưởng của thân
công chúa được truy tặng, các con thứ của tước hầu, tước bá được
phong, lấy mỹ tự làm tên hiệu (như Quảng trạch nam...). Song lệ của
tông phái nhà vua có 8 bậc1917 từ Tá quốc sứ đế Tự ân sứ. Thứ đến
các tước của công thần. Nếu không phải là người có uy đức lớn, công
lao to với nước từ trước, th́ không được lạm phong. Như quốc ông,
quận công th́ lấy phủ, huyện làm tên hiệu, [68b] chỉ dùng một chữ,
tước hầu, bá, th́ lấy xă làm tên hiệu, dùng cả hai chữ.
Về cấp bậc của người có
công lao th́ bên văn từ Thượng trụ quốc đến Tu thận thiếu doăn gồm 5
phẩm, đều có chánh, ṭng. Bên vơ từ Thượng trụ quốc đến Thiết kỵ úy
gồm 5 phẩm cũng có chánh, ṭng. Tản quan bên văn, từ chánh nhất
phẩm, sơ thụ Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, cho đến chánh cửu
phẩm sơ thụ Tướng sĩthứ lang, gồm 9 phẩm, đều có chánh, ṭng. Tản
quan bên vơ từ chánh nhất phẩm sơ thụ Đặc tiến phụ quốc thượng tướng
quân đến ṭnh luịc phẩm, sơ thụ Quả cảm tướng quân gồm 6 phẩm, đều
có chánh ṭng. Nội quan tản từ Thị trung lệnh chánh tam phẩm đến Phó
lịch sứ ṭng cửu phẩm gồm 7 bậc, cũng có chánh, phó. Về thông tư1918
thỉ thượng trật 24 tư đến hạ liệt 1 tư gồm 19 bậc. về công thần được
vinh phong [69a] th́ từ chữ "suy trung" đến chữ "tuyên lực", gồm 24
chữ. Đại để các quan văn vơ có công th́ ban đầu được phong từ 2 chữ
đến 8 chữ. Người nào đáng được phong chữ nào th́ tới lúc đó sẽ đặc
xét gia phong.
Lại lấy các chức Thái sư,
Thái úy, Thái phó, Thái bảo, Thiếu sư, Thiếu úy, Thiếu phó, thiếu
bảo làm hạng đại thần trọng chức. Lấy Lại, hộ, lễ, Binh, H́nh, Công
làm sáu bộ. Ngoài sáu bộ lại có 6 khoa. Đại lư, Thái thường, Quang
lộc, Thái bộc, Hồng lô, Thượng bảo là 6 tự.
Lại đặt Giám sát ngự sử
13 đạo, Đô đốc phủ năm phủ quân. Kim ngô, Cẩm y, gọi là hai vệ;
tiền, hậu, tả, hữu vệ gọi là bốn vệ Hiệu lực; tiền, hậu, tả, hữu vệ
gọi là bốn vệ Thần vũ. Vũ lâm, Tuyên trung, thiên uy, thủy quân,
Thần sách, Ứng thiên gọi là 6 vệ Điện tiền. Các trấn bên ngoài cùng
đặt phủ vệ, đô ty. Các xứ sông, biển cũng đặt [69b] tuần kiểm, giang
quan. Các nha môn coi việc ở các thừa, ty, phủ, huyện, châu bên
ngoài không chỗ nào không đặt quan để cai trị.
Ngày 21, sai sứ sang
Minh: Bọn Bùi Viết Lương, Nguyễn Lăm, lê Nhân đi tuế cống. Bọn
Nguyễn Đức Trinh, Phạm Mục tâu việc Chiêm Thành quấy nhiễu biên
giới.
Định lệ thuế băi dâu,
tính theo mẫu thuộc các hạng nhất nh́ ba mà nộp tiền.
Ra sắc chỉ rằng:
"Các chức quan văn, vơ
trong kinh (trung quan cũng thế), người nào mới được bổ thí chức1919
th́ Lại bộ tâu lên để ban cấp cho giấy khám hợp, chu mũ, đai và cấp
cho một phần ba tiền lương, con cháu vẫn như dân thường. Sau ba năm
mà xứng chức và không phạm lỗi ǵ th́ được thăng cấp cho thực
thụ1920 . Người nào không xứng chức th́ đuổi về làm các hạng quân
sắc cũ. Nếu là người có tài năng lỗi lạc được bổ dụng theo đặc ân,
th́ không phải theo lệ này. Người vị nhập lưu1921 dẫu được thực thụ
cũng chỉ cấp giấy khám hợp, [70a] không có cấp sắc mệnh. Từ nay về
sau, khi có sắc chỉ hay các thể lệ lớn nhỏ, th́ bộ, sứ ty và các nha
môn phủ, huyện, châu đều phải viết ra bảng treo dán lên để dân chúng
theo đó mà thi hành.
Tháng 9 nhuận, định chế
độ y phục và bổ tử1922 của các vua quan. Vua dụ rằng:
"Triều đ́nh là nơi lễ
nhạc, y phục là vẻ điểm tô, danh phận đă rạch ṛi, không nên lấn
lướt. Cho nên vua Thuấn xem người xưa mà dùng năm sắc vào triều
phục, vua Vũ hay dùng y phục xấu nhưng triều phục lại rấy hay. Vua
Thuấn vua Vũ đều là thánh nhân, c̣n không coi y phục là tiểu tiết mà
phải để tâm tới. Những người làm vua làm tôi đời sau lại không kính
cẩn lo việc ấy hay sao?
Nhà nước ta vỗ yên khắp
cơi, theo lể văn xưa. Triều phục người trên kẻ dưới, quan văn thêu
chim, quan vơ vẽ thú, từ xưa đă có chế độ rồi. Nghi thức kẻ quư
người hèn, không được tiếm vượt, trước đây cũng đă ngăn cấm, cớ sao
các quan không chịu phân biệt, coi [7ab] chế độ của nhà nước là mớ
hư văn? Dân chúng th́ phạm pháp, đem tơ gai dệt kim tuyến may áo
thường. Quan viên và dân chúng các ngươi phải nghe lời trẫm, triều
phục các quan văn vơ thế nào, trước ngực sau lưng thêu ǵ, phải theo
đúng quy chế đă ban hành. Trong hạn năm ngày, người nào không theo
đúng quy chế sẽ phải giáng cấp, trị tội.
Đặt nữ đinh khiệng kiệu.
Mùa đông, tháng 10, ban
ra bản vẽ các kiểu bổ tử, đều là các loài cầm thú. Công, hầu, bá và
pḥ mă đều vẽ một loại con; các quan văn vơ: phẩm chánh vẽ 1 loại
con, phẩm ṭng vẽ 2 loại con, ngự sử1923 và đường thượng quan 1924
vẽ 1 loại con, phân ty vẽ 2 con. C̣n như các h́nh mây, nước, sông,
núi, cây, hoa th́ nhiều hay ít, phức tạp hay đơn giản đều thêu vẽ
tùy ư, không phải câu nệ; các kiểu màu xanh, vàng, đỏ, trắng, biếc,
lục, cho được tự chọn mà thêu, cũng không cần phải cứ là kim tuyến,
c̣n như thêu h́nh mây, núi, sông, nước cầm thú mà dùng kim tuyến
cũng cho.
Đổi lại phủ, huyện, châu.
Cấm bản tâu không được
nói mập mờ.
[71a] Tháng 11, sắc dụ
các quan thừa tuyên, phủ, huyện ở Sơn Nam rằng:
"Bọn các ngươi giữ trọng
trách ở một phương, thân yêu dân là trách nhiệm. [Thế mà] không biết
thể theo ḷng nhân của triều đ́nh yêu nuôi dân chúng, chỉ chăm làm
những việc nhỏ mọn như roi vọt, sổ sách. Nay sứ ty và phủ huyện các
ngươi phải mau mau đi xem xét những nơi núi chằm bờ biển trong hạt,
chỗ nào h́nh thế có thể khơi đắp ng̣i cừ đê đập để làm ruộng, chỗ
nào có hùm ṣi làm hại, cường hào thao túng, phong tục kiêu bạc,
sinh dân đau khổ..., tóm lại, mọi việc lợi nên làm, mọi mối hại nên
bỏ, trong hạn trăm ngày, phải lần lược tŕnh tâu cẩn thận. Nếu chây
lười để quá hạn, ta sẽ sai vệ sĩ vệ Cẩm y đi điều tra, nếu thấy vẫn
c̣n việc lợi nên làm, mối hại nên bỏ mà các ngươi chưa nói tới th́
quan phủ, huyện phải băi chức, sung quân ở Quảng Nam, quan thừa ty
bị giáng chức".
Ra sắc chỉ rằng: Nếu ông
cha phải tội mất chức, th́ con cháu phải sung làm lính ở phủ đó.
Ra sắc chỉ rằng: Những
ngày sóc, vọng1925 và đại lễ mà các quan văn vơ không mặc triều phục
[71b] chỉ mặc áo thường trốn tránh ngoài cửa, khi điểm danh không
có, th́ phải sung quân.
Cấm để chậm kỳ khảo khóa.
Vua dụ rằng:
"Phép khảo khóa cốt để
phân biệt người hay kẻ dở, nâng cao hiệu quả trị nước. Đời Đường
Ngu, ba năm một kỳ xét công để thăng giáng. Nhà Thành Chu ba năm một
lần xét công để định thưởng phạt. Nay nha môn trong ngoài các ngươi,
người nào nhậm chức đă đủ 3 năm, phải báo ngay lên quan trên không
được để chậm. Nếu quá một trăm ngày mà không kê danh sách gởi đi,
th́ tính số người chậm mỗi người phải phạt 1 quan tiền, kẻ nào theo
t́nh riêng mà dung túng đều phải trị tội cả".
Tháng ấy, vua ra sắc lệnh
về việc khớp lại binh phù1926 khi tuyên gọi Tổng binh và dụ các quan
tổng binh các vệ rằng:
"Bọn các ngươi theo quy
chế và giữ trọng trách cầm quân, được kư thác phên giậu biên thùy,
nếu triều đ́nh có những việc quan trọng như tuyên triệu, bắt hỏi ra
quân, ắt phải ban cho sắc thư và nội phù. [Khi ấy các ngươi] phải
cận thận khớp phù, nếu quả không sai mới được theo mệnh lệnh. Nếu
chỉ có sắc thư mà không có nội phù, hoặc chỉ có nộp phù mà không có
sắc thư, [72a] cả đến những văn thư đ̣i gửi, điều động của các nha
môn từ công hầu trở xuống đều là gian trá cả, các ngươi phải giữ
ngay lại, làm bản tâu cho chạy trạm tŕnh lên. Người nào tự tiện rời
bỏ nhiệm sở, tội nặng th́ xử tử, tội nhẹ th́ xử đi đày".
Ngày mồng 8, lại đi đánh
Chiêm Thành. Bắt được chúa nó là Trà Toại và bè lũ đem về kinh.
Năm ấy, lấy Đỗ Nhuận,
Quách Đ́nh Bảo làm Đông các hiệu thư, Ngô Sĩ Liên làm Sử quan tu
soạn.
Lấy Thái bảo Kiến Dương
bá Lê Cảnh Huy trông coi sáu khoaj.
Nhâm Th́n, [Hồng Đức] năm
thứ 3 [1472], (Minh Thành Hóa năm thứ 8). Mùa xuân, tháng giêng, ra
sắc chỉ rằng: Nếu có bản tâu dán kín th́ cho người tâu kư rơ tên vào
bản tâu.
Tháng 3, hạ lệnh rằng,
lại viên các nha môn nếu thi đỗ khoa thi hương th́ được bổ lên chính
quan.
Gác cửa Tây bị cháy.
Thi hội chọn sĩ nhân
trong nước. Lấy đỗ bọn Lê Tuấn Ngạn 26 người.
Phép thi: Kỳ thứ nhất ra
8 đề về Tứ thư, người thi tự [72b] chọn lấy 4 đề, làm 4 bài văn,
Luận ngữ 4 đề, Mạnh Tử 4 đề 1927 . Ngũ kinh: mỗi kinh 3 đề, người
thi tự chọn 1 đề mà làm. Duy kinh Xuân thu th́ 2 đế gộp làm 1 mà
làm. Kỳ thứ hai thi chế, chiếu, biểu; mổi loại 3 đề. Kỳ thứ ba, thơ,
phú, mỗi loại 2 đề; phú dùng thể Lư Bạch. Kỳ thứ tư, 1 bài văn sách,
hỏi về chỗ dị đồng trong nghĩa lư của kinh truyện, điều hay dở trong
chính sự của các đời.
Mùa hạ, tháng 4, ngày
mồng 7, vua ngự ra biên, tự ḿnh ra đề văn sách hỏi về đế vương trị
thiên hạ.
Vua sai Thái bảo Binh bộ
thượng thư kiêm thái tử thái bảo Kiến Dương bá Lê Cảnh Huy và Thông
chương đại phu tả xuân phường tả thứ tử kiêm Lại bộ thượng thư Trần
Xác làm hai viên đề hiệu; 2 viên (không chép tên) làm giám thí; bọn
Đinh Thúc Thông, Quách Đ́nh Bảo 5 viên làm độc quyển.
Cho bọn Vụ Kiệt, Nguyễn
Toàn [73a] An, Vương Khắc Thuật đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ; bọn
Vũ Đức Khang 7 người đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân; bọn Chử Phong
16 người đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
Định lệ tư cánh của tiến
sĩ: Đệ nhất giáp, người đỗ thứ nhất cho chánh lục phẩm, 8 tự; người
đỗ thứ nh́ cho ṭng lục phẫm, 7 tư; người đỗ thứ ba cho chánh thất
phẫm, 6 tư, đều được ban chữ "Tiến sĩ cập đệ". Đệ nhị giáp, cho ṭng
thất phẩm 5 tư; được ban chữ "Tiến sĩ xuất thân". Đệ tam giáp cho
chánh bát phẩm, 5 tư; được ban chữ "Đồng tiến sĩ xuất thân". Nếu vào
Hàn lâm viện th́ được gia 1 cấp; nếu bổ làm Giám sát ngự sử hay Tri
huyện th́ giữ nguyên phẩm cũ mà bổ.
Tháng 5, ra sắc chỉ rằng
những điển lại nào thanh liêm, cần mẫn th́ được thăng bổ chức phó
nhị.
Tháng 6, lấy Nguyễn Mậu
làm Ngự sử đài đô ngự sử tru từ tụng.
Mùa thu, tháng 8, định lệ
tế Đinh1928 . Hằng năm các phủ làm lễ tế vào các ngày đinh thượng
tuần của hai tháng trọng1929 mùa xuân và mùa thu.
[73b] Ra sắc chỉ cho các
quan thừa ty sứ ty và các quan phủ, huyện các xứ thừa tuyên đắp đê,
làm đường.
Tháng 9, ra sắc chỉ răn
bảo các quan Đô đốc năm phủ và Thượng thư sáu bộ rằng: Sau buổi
chầu, đều phải đến nha môn của ḿnh, coi xét hết thảy việc công; các
liêu thuôc dưới quyền phải đến đủ để hầu bẩm trưởng quan, không được
tự tiện bỏ về. Nếu cấp dưới đến chậm hay vắng thiếu th́ trưởng quan
phải nêu tên tâu lên.
Ra sắc chỉ cho Thái bộc
tự khanh xét họ tên của bọn người Chiêm, người Man. Họ của người
Chiêm th́ mới cũ theo đúng quy chế, họ của người Man th́ dồn lại làm
một; nếu tên trùng lặp th́ chỉ để ba chữ thôi như là Tô Môn - Tô Sa
Môn, Sa Qua - Sa Oa Qua...
Mùa đông, tháng 10, định
triều nghi hộ vệ. Các tướng sĩ hằng ngày vào chầu, phải đứng sắp
hàng trước ở hai bên đông tây ngoài cửa Đoan Môn; những ngày sóc,
vọng phải đến đợi ở ngoài cửa Văn Minh Sùng Vũ, sau ba hồi trống th́
tiến vào Đan Tŕ dàn bày nghi trượng, [74a] ban thú chỉnh tề. Người
nào dám cố ư vi phạm, làm mất hàng ngũ, sau ba hồi trống vẫn chưa
chỉnh tề th́ các vệ Cẫm y và Kim ngô bắt giữ xin trị tội.
Đặt mức sào, thước. Hạ
lệnh rằng ruộng đất mỗi mẫu 10 sào, mỗi sào 16 thước 5 tấc.
Cấm quan viên và dân
chúng không được lén lút chứa giấu người Chiêm Thành.
Tháng 11, ban hành 19
điều lệnh đi đánh người Man.
Lấy Đào Cử Làm Hàn lâm
tri chế cáo.
Tháng 12, sắc dụ bọn Thái
bảo Kiến Dương bá Lê Cảnh Huy rằng:
"Nhận được tờ tâu của
trấn An Bang nói là người Minh sai quân lính đi theo quan hội khám
của Quảng Tây sao đông thế. Người phải hỏa tốc sai người đi thăm ḍ
t́nh h́nh. Nếu thấy sự thế khác nhiều th́ phải lập tức gửi công văn
cho các xứ tập hợp binh mă pḥng giữ".
Ra sắc chỉ cho các quan
văn vơ rằng: Kể từ nay, khi vào chầu nếu gặp ngày mưa th́ mang bổ tử
đi, đi hia giày, mặc áo vải, áo gai cũng cho tùy [74b] nghi. C̣n khi
trời tạnh hắng, đường khô ráo th́ phục sức phải theo lệ cũ.
Lấy Đào Tuấn làm Binh bộ
thượng thư, Phạm Nhân Khiêm làm Công khoa cấp sự trung, Vương Sư Bá
làm tử giám giáo thụ.
1750 Sao Xuy Vưu: tục gọi
là sao Cờ, giống như Sao Chổi, có đuôi cong như lá cờ (chú của CMCB
19, 2A).
1751 Tức phủ đệ của Gia
Vương, tước hiệu của Thánh Tông lúc ấy.
1752 Chỉ việc phế Nghi
Dân, rước Thánh Tông lên ngôi.
1753 Bọn Lê Bí, Lê Ê, Lê
Thụ bàn mưu giết hại Nghi Dân bị bại lộ, tất cả đều bị chém.
1754 Triệu Thuẫn là khách
khanh nước Tần đời Xuân Thu ở Trung Quốc. Vua nước Tần là Linh Công
định hại Thuẫn, Thuẫn bỏ trốn. Sau Triệu Xuyên giết Linh Công, đón
Thuẫn về phục chức. Tuy Thuẫn không giết vua, nhưng sử quan nước Tần
viên chép là Thuẫn giết vua, v́ cho Thuẫn cùng một chí với Xuyên.
1755 Nguyên bản in là
Dương nhưng hẳn là có lầm từ chữ Mục. Toàn thư BK 12, 59a và 96b đều
chép là Mục Lăng.
1756 Nguyên văn là Dương
Lăng, sửa là Mục Lăng. Toàn thư BK12, 98b cũng chép là Nguyễn Bá Kỳ
soạn bài văn bia ở Mục Lăng.
1757 Tức họ Lư Cầm, tù
trưởng Bồn Man.
1758 Phong hiến: là chức
ngự sử giữ việc đàn hặc.
1759 Lễ bái bài: tức là
lễ bái vọng vào các dịp sinh nhật vua hoặc ngày chính đán.
1760 Viện nhi: người hầu
hạ và sai phái trong các viện.
1761 Đại bô: tiệc cho
thần dân vào các dịp lễ lớn
1762 Ngô: danh từ để chỉ
người Trung Quốc hồi ấy.
1763 Chỉ cuộc kháng chiến
chống Minh thắng lợi lập ra nhà Lê.
1764 Vi phi: làmnhững
điều phi pháp.
1765 Nguyên văn là "bảo
kết:", nghĩa là bảo đảm, cam kết.
1766 Khổng Tử nói: "Tăng
Văn Trọng chẳng phải là kẻ trộm cướp ngôi vị đó ư? Biết Liễu Hạ Huệ
là người hiền mà không cho cùng làm quan với ḿnh" (Xem Luận ngữ,
thiên Vệ Linh Công).
1767 Nên sửa lại là tháng
11 như bản dịch cũ có lẽ đúng hơn.
1768 Lê Niệm là con Lê
Lâm, cháu Lê Lai, Lê Lâm đi đánh Ai Lao, bị chông sắt mà chết.
1769 Tức là vào hàng tế
thần tham dự triều chính.
1770 Như Hối: tức Đỗ Như
Hối, Huyền Linh: là Pḥng Huyền Linh, đều là bề tôi giỏi của Đường
Thái Tông.
1771 Đái Trụ: là người
minh mẫn, cư8ng trực, rất giỏi xử việc rối rắm phức tạp làm đến Kiểm
hiệu Lại bộ thượng thư cho Đường Thai Tông.
1772 Ngạn Bắc: tức là Ôn
Ngạn Bác,giỏi việc tâu bày, làm Thượng thư hữu bộ xạ đời Đường Thái
Tông.
1773 Đổng Tuyên: là quan
lệnh ở Lạc Dương, tính cứng cỏi, thẳng thắn, khi xử vụ án giết người
đầu bếp của Hồ Dương công chúa,Hán Vũ Đế bắt tuyên phải lạy tạ công
chúa, tuyên chống hai tay xuống đất, nhất định kh6ng chịu lạy.
1774 Tô Uy: là trọng thần
của nhà Tùy mất, Uy sống tùy thời, triều này lên cũng xin thờ phụng
và đều được trọng dụng. Đến khi Đường Thái Tông đương nước, Uy xin
yết kiến, không được Thái Tông chấp nhận
1775 Họ Thạch: là Thạch
Thủ Tín, họ Cao: là Cao Hoài Đức, hai công thần nhà Tống đều cố nắm
binh quyền không chịu bỏ. Trong một bữa tiệc, Tống Thái Tổ bảo hai
người nên bỏ binh quyền mà vui thú với con hát, gái múa cho thỏa
thích.
1776 Họ Pḥng, họ Đỗ: tức
Pḥng Huyền Linh và Đỗ Như Hối đời Đường Thái Tông.
1777 Họ Vương họ Ngụy:
tức Vương Khêu và Ngụy Trưng đời Đường Thái Tông đều nổi tiếng về
thẳng thắn can ngăn vua.
1778 Chức này sau đổi
thành tri huyện.
1779Chỉ 10 vị học tṛ nổi
tiếng của Khổng Tử được thờ ở Văn miếu. Đầu tiên th́ có: Nhan Uyên,
Mẫu Tử khiên, Nhiệm Bá Ngưu, Trọng Cung, Tể Ngă, Tử Cống, Nhiễm Hữu,
Quư Lộ, Tử Dụ, Tử Hạ. Sau Nhan Uyên được thăng phối, lấy Tăng Từ
thêm vào. Khi Tăng Tử được thăng phối, lại lấy Tử Trương thêm vào.
1780 Sáu viện là Nghi lễ
viện , Tư h́nh viện, Khâm h́nh viện, c̣n 3 viện nữa chưa rơ ( chú
của CMCB 19, 31B ).
1781 Nguyên văn "Cương
trường nhiễu chỉ phu" lấy ư từ hai câu thơ: "Hà ư bách luyện kim,
hóa tác nhiễu chỉ phu "(ngờ đâu loại kim cứng trăm lần tôi lại hoá
thành chất mềm ṿng vào ngón tay được) của Lưu Công. Câu này dịch ư.
1782 Phàn Cơ: là bà phi
của Sở Trang Vương. Trang Vương hay đi săn, Phàn Cơ can không được,
bèn nhất định không ăn thịt những con vật Trang Vương săn được.
1783 Trưởng tôn hoàng
hậu: là bà hậu của Đường Thái Tông, tính khiêm nhường kiệm ước, làm
gương cho phi tần trong cung, có tài văn học, thường bàn việc với
Thái Tông.
1784 Đuờng Thái Tông muốn
lập Tần Vương Trị làm thái tử. Một hôm, sau khi tan chầu, chỉ c̣n
Trưởng Tôn Vô Kỵ và Pḥng Huyền Linh ngồi lại. Thái Tông nói với hai
người: "Ta có hai con và một em, không biết lập ai, ḷng ta buồn
lắm", rồi nằm lăn ra sập, lấy con dao tự dí vào cổ. Bọn Vô Kỵ sợ hăi
chạy tới ôm lấy Thái Tông, giằng láy con dao đưa cho Tần Vương và
hỏi Thái Tông muốn lập ai. Thái Tông nói: Muốn lập Tần Vương. Bọn Vô
Kỵ nói: "Chúng tôi xin vâng mệnh, ai bàn cách khác th́ chém. Thái
Tông quay sang bảo Tần Vương: "Cậu đă bằng ḷng lập con rồi đấy,
phải tạ cậu đi".
1785 Vệ Quán: là bề tôi
của Tần Vũ Đế, biết Huệ Đế tư chất kém không làm vua được, nhưng
chưa dám nói với Vũ Đế. Sau nhân khi dự yến, giả say, vỗ vào sập của
Vũ Đế ngồi mà nói: "Chổ ngồi này thực đáng tiếc".
1786 Tiết Cư Châu: là
thiện sĩ người nước Tống thời Chiến Quốc.
1787 Thơ dịch của bản cũ,
có sửa một đôi chữ.
1788 "Trung hư": có nghĩa
là trống giữa.
1789 Thường sơn xà: rắn
Thường sơn.
1790 Măn thiên tinh: sao
đầy trời.
1791 Nhạn
hàng: chim nhạn bay sóng hàng.
1792 Liên
châu: chuỗi hạt châu.
1793 Ngư
đội: đàn cá.
1794 Tam
tài hành: trời, đất, người là tam tài.
1795 Thất
môn: bảy cửa.
1796 Yển
nguyệt: trăng khuyết.
1797
Trước đă ân xá các thuế đinh, điền. Nay cần chi tiêu lại bắt dân
phải nộp trả lại.
1798 Chỉ
thời kỳ thuộc Minh.
1799
Tường tự: đều là nhà hương học đời xưa của Trung Quốc. Nhà Thương
gọi là tự, nhà Chu gọi là tường.
1800 Đăng
khoa lục: sách ghi chép tên những người thi đỗ, cùng quê quán và thứ
bậc của họ.
1801 Đề
danh bị: bia đá khắc tên tuỗi, quê quán các vị tiến sĩ.
1802 Năm
phủ (Ngũ phủ): gồm Trung quân phủ, Đông quân phủ, Tây quân phủ, Nam
quân phủ, Bắc quân phủ.
1803 Sáu
bộ (Lục bộ): gồm Lại bộ, Hộ bộ, Lễ bộ, H́nh bộ, Binh bộ, Công bộ.
1804 Sáu
tự (Lục tự): gồm Đại Lư, Thái thường, Quang Lộc, Thái bộc, Hồng lô,
Thượng bảo.
1805 Khúc
sông Đáy chảy qua huyện Ư Yên, tỉnh Nam Hà ngày nay.
1806
Nguyên văn là "lương cân", một loại mũ tết bằng lông đuôi ngựa.
1807 Trấn
sóc: có nghĩa là trấn giữ phương Bắc. Đây là vệ quân đóng giử ở biên
giới phía bắc.
1808 Bác
N ẫm, Vĩnh Bồng: đều nằm trên biên giới phía Bắc.
1809
Nguyên văn là "Cần Chính đường", sửa lại cho phù hợp với đoạn trên.
1810
Trúng trường: là những người đỗ từ 1 đến 3 kỳ trong kỳ thi hội (nếu
đủ 4 kỳ th́ mới được thi đ́nh).
1811 Tam
xá sinh là sinh viên ba xá: thượng xá, trung xá, hạ xá.
1812 Lỗ
Giang: khúc sông Hồng chảy qua huyện Lư Nhân, tỉnh Nam Hà.
1813 Ninh
Sóc: tên một thừa tuyên thời Lê trong khoảng 1469 - 1490 sau đổi lại
là Thái Nguyên.
1814 Sông
Vi: tức sông Ông Vi, tại huyện Vũ Tiên, nay là huyện Vũ Thư, tỉnh
Thái B́nh.
1815
Thường sơn: tức là trận đồ Thường Sơn xà (rắn núi Thường Sơn).
1816 Đạo
Đồng: tức là phu đạo Cầm Đồng ở Thuận Châu.
1817
Việt: tức là Mường Việt, sau đổi thành Yên Châu. Mỗi: tức Mường
Muỗi, c̣n gọi là Thuận Châu.
1818 Ngũ
kinh bác sĩ: chức học quan, chuyên nghiên cứu về năm bộ sách kinh
điển của nho gia (Kinh thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Xuân
Thu), để dạy học tṛ ở Quốc tử giám.
1819 Tô
Vấn Đáp Lạt:: hay Tô Môn Đáp Lạt, tức Sumatra, nay thuộc nước
In-đô-nê-xi-a.
1820 Phủ
Bắc B́nh: sau đổi là phủ Cao B́nh, là đất tỉnh Cao Bằng ngày nay
(trừ huyện Bảo Lộc). Phủ Thông Hóa: phần đất tỉnh Bắc Cạn cũ.
1821 Âm
Động: thuộc phủ Trấn An, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
1822 Tức
bố chính ty Quảng Tây thời Minh.
1823 Phủ
An Tây: thời Lê gồm đất tỉnh Lai Châu ngày nay và một số đất đă mất
vào Trung Quốc.
1824 Toả
Thoát: Theo CMCB 2, 24a, sau là ải Quả Khoái, ở huyện Quảng Uyên,
tỉnh Cao Bằng. Huyện Quảng Uyên nay là huyện Quang Ḥa.
1825 Cửu
khanh: chín chức quan của nhà Chu: Chủng tể, Tư đồ, Tăng bá, Tư mă,
Tư khấu, Tư không, Thiếu tư, Thiếu phó, Thiếu bảo. Tam công: Thái
sư, Thái phó, Thái bảo. Ngũ thần: năm người bề tôi của vua Thuấn
xưa: Vũ, Tắc, Tiết, Cao Dao, Bá Ích. Thập loạn: mười bề tôi dẹp loạn
trị nước của Chu Vũ Vương là Chu Công Đán, Thiệu Công Thích. Thái
Công Vọng, Tất Công, Ninh Công, Thái Điền, Hoàng Yên, Tản Nghi Sinh,
Nam Cung Quát và Ấp Khương.
1826 Hán
Cao Tổ họ Lưu (Lưu Bang).
1827
Đường Cao Tổ họ Lư (Lư Uyên).
1828 Khoa
lệnh: điều luật về h́nh pháp.
1829
Cương mục chép là: "Đế dĩ Thiên Nam Hoàng Đế chi bảo Đẳng tự, thị tế
thần": Nghĩa là vua đưa các chữ "Thiên Nam Hoàng Đế chi bảo" để tế
thần bàn bạc (CMCB 21, 9B)...
1830 Văn
hiến thông khảo, 348 quyền, Mă Đoan Lâm đời Nguyễn soạn là bộ sách
chép điển chương, chế độ của nhiều triều đại ở Trung Quốc.
1831 Thực
lục: một thể loại sử thời trước, chuyên ghi chép công việc của vua.
1832
Đường Thái Tông giết Kiến Thành và Nguyên Cát ở cửa Nguyên Cát ở cửa
Huyền Vũ,Pḥng Huyền Linh chỉ chép mập mờ là sự kiện ngày mồng 4
tháng 6 thôi Thái Tông xem thực lục, bắt phải chép lại cho rơ ràng.
1833 Cửa
Tư Dung: sau là cửa Tư Hiền ở huyện Phú Lộc, nay thuộc tỉnh Thừa
Thiên - Huế.
1834 Cửa
Eo: Sau là cửa Thuận An, huyện Phú Vang, ngày nay thuộc tỉnh Thừa
Thiên - Huế.
1835 Kênh
Sen: tức là Liên Cừ hay Liên Cảng ở huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng B́nh.
1836 Vạn
Ninh: tên châu thời Lê, nay là đất huyện Hải Ninh, tỉnh Quảng Ninh.
1837 Tân
Yên: tên châu thời Lê, nay là đất huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.
1838
Nghĩa là "ấn hoàng để nhận mệnh".
1839
Nguyên văn: "Tạo quân quán".
1840
Nguyên văn thiếu chữ "văn" (quan văn), chúng tôi theo mạ ch văn thêm
vào.
1841
Nguyên văn là "chức vị tây phương", chưa rơ nghĩa, tạm dịch như
trên.
1842 Nam
Sách: tên phủ, thuộc trấn Hải Dương, nay là vùng đất gồm các huyện
Nam Thanh, Chí Linh thuộc Hải Hưng và tiên Lăng thuộc Hải Pḥng.
1843 Hạ
Lang: sau là huyện Hạ Lang, thuộc tỉnh Cao Bằng ngày nay.
1844
Nguyên văn là "thổ thử trấn thủ". Bản dịch cũ theo CMCB 21, 3a sửa
là "Thái Nguyên trấn thủ".
1845 Bát
Nghị: nghị xét tội trạng của 8 người đáng được miễn giảm, gồm: thân
thích, cố cựu, hiền thần, người tài cán, bậc sang trọng, kẻ siêng
năng, tân khách. Xét theo luật bát nghị tức là đưa vào diện "chiếu
cố" mà xét..
1846 Du
thuyết: dùng tài ăn nói để biện bác, mê hoặc người nghe.
1847
Nguyên văn: "Cam lâm tuế hạn, chu tiếp, tế xuyên", lấy điển trong
Kinh thư, vua Thương bảo Phó Duyệt: "Ta sai ngươi làm mưa ngọt khi
nắng hạn, làm mái chèo lúc qua sông".
1848 Tức
là vua Nghiêu, nhân ban đầu được phong ở đất Đường nên gọi là Đường
Ngu.
1849
"Cần": là siêng năng, "thành" là chắc chắn, "đôn" là thành thực, "ư"
là tốt đẹp.
1850 Ngọc
tịch: là sổ hộ khẩu của họ nhà vua
1851
Nguyên văn không có chữ "ty", căn cứ vào mạch văn và tham khảo cương
mục thêm vào.
1852
Ḱnh: là tội phải thích chữ vào trán.
1853 Vĩnh
An: tên châu, là vùng đất sát biên giới của tỉnh Quảng Ninh.
1854Nguyên văn là "Nguyễn Vũ": nhưng căn cứ vào đoạn trên th́ phải
là Nguyễn Thư CMCB 21, 14a cũng chữa là Nguyễn Thư.
1855 Long
tiên: giấy vàng vẨy ngân nhũ và vẽ rồng. Hắc lạn: giấy vàng quanh
ŕa vẽ mực đen. Khám hợp: giấy trắng viết chữ mực (chú của CMCB, 21,
15B)
1856 Các
vệ Ngũ uy là 5 vệ: Phấn uy, Chấn uy, Hùng uy, Lôi uy, Tuyên uy.
1857
Trước là Nam Sách.
1858
Trước là Thiên Trường.
1859 Trước là Quốc Oai..
1860 Trước là Bắc Giang.
1861 Trước là Thái
Nguyên.
1862 Trước là phủ Trung
Đô.
1863 Huy nhân: là tên
quan hàm của mệnh phụ trong cung, trật ṭng tam phẩm.
1864 Phúc Quang đường:
Tại xă Động Bàng huyện Yên Định, nay thuộc tỉnh Thanh Hoá, do Lê
Thánh Tông dựng vào năm Quang Thuận, tức là điện để Hoàng thái hậu
thay áo( CMCB 21, 27b)
1865 Nhâm: tức là Thái
Nhâm là mẹ của Chu Văn Vương, Khương: tức Khương Hậu là vợ của Chu
Tuyên Vương được các nhà nho coi là phụ nữ mẫu mực, hiền và có đức.
Ở đây theo bản dịch cũ.
1866 Phủ B́nh Nguyên: là
phủ đệ của B́nh Nguyên Vương. B́nh Nguyên Vương tức là Lê Thánh Tông
khi c̣n là phiên vương..
1867 Thi Nại: ở Quy Nhơn,
tỉnh B́nh Định ngày nay.
1868 Tức là thời gian 3
năm để tang Lê Thái Tông, bỏ hẳn mọi tṛ vui âm nhạc, múa hát.
1869 Tức Lê Nhân Tông,
nối ngôi Lê Thái Tông, sau bị Nghi Dân giết.
1870 Yên Kinh: chỉ kinh
đô nhà Minh thời đó. Trà Toàn sai sứ sang Yên Kinh xiểm nịnh vua
Minh, gièm pha Đại Việt.
1871 Ở đây nói Chiêm
Thành định lấn ra vùng đất Quảng B́nh, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế
ngày nay.
1872 Ư nói Chiêm Thành
muốn dựng mốc biên giới ở Hoành Sơn, tức phía Bắc tỉnh Quảng B́nh
ngày nay.
1873 Bặc Đạo: là tên
huyện, ở phía tây namTrung Quốc. Hán Vũ Đế sai Đường Mông đào núi,
đến Nam Trung đặt huyện Bặc Đạo. Cây này ư nói Trà Toàn lấn chiếm,
buộc quân ta phải đánh lại.
1874 Sứ Chiêm Thành tâu
với vua Minh là vua Lê tự xưng là Hoàng đế, ngang với Thiên tử nhà
Minh, chuẩn bị binh mă để tiến công nhà Minh.
1875 Nhà Minh đ̣i Chiêm
Thành cống voi cái trắng, ChiêmThành bảo là ta tranh mất..
1876 Chế Bồng Nga: là vua
Chiêm, xâm lược Đại Việt, bị chết tại trận, không mang được xác về.
1877 Vua cũ Chiêm Thành:
Thành cho là ta ở xa, ta đă yếu, không đánh tới đuợc.
1878 Nguyên văn "lưu
dân", ở đây chỉ người Việt ở vùng đất mới là châu Thuận, châu Hóa để
khai phá, sinh sống.
1879 Câu này lấy điển ở
hào: Cửa tam,quê Lữ trong Kinh dịch. Ư nói kẻ trú ngụ mà lấn quyền
tất bị đốt nhà mà bản thân bị hại. V́ Trà Duyệt là người ở Thi Nại
nên nói là "đứa ngủ trọ".
1880 Cáo kêu nơi đế lư:
nghĩ a là đế đô thành nơi hoang tàn. Câu này ư nói phải đánh tan
kinh đô nước Chiêm th́ mới cam ḷng.
1881 Thần Châu: chỉ đất
nước nói chung. Câu này ư nói: Giặc họp quân vào cướp nước ta.
1882 Ư hai câu này là:
Chiêm Thành cho là ta ở xa, ta đă yếu, không đánh tới được.
1883 Tề Tương công diệt
nước Kỷ, trả thù cho ông tổ 9 đời của ḿnh là Tể Ai công, được sách
Xuân Thu khen ngợi.
1884 Cửu Lê: tên tộc
người cổ ở phía đông Trung Quốc có tù trưởng là Xuy Vưu.
1885 Tam Miêu: tên tộc
người cổ ở phía nam Trung Quốc. Đại Vũ: là ông vua đầu tiên của nhà
Hạ. Nguyên văn: "Đại Vũ thệ chúng", tức là làm lễ tuyên thệ khi bắt
đầu ra quân.
1886 Ư nói thuận lợi,
không gặp trở ngại ǵ.
1887 Hán Vũ Đế nổi tiếng
"cùng binh độc vũ", hiếu chiến tham công.
1888 Chu Văn Vương: ông
vua khai sáng nhà Chu ở Trung Quốc, có nhiều vũ công.
1889 Lấy ư của hào Thượng
lục, quẻ Quy muội Kinh Dịch, những kẻ cô độc không ai theo, như
người mổ thịt dê không có máu.
1890 Rợ Hiểm Doăn xâm
lược, Chu tuyên vương phải đem quân đi đánh vàolúc tháng 6, trời
đang nắng gắt. ư nói phải mau chóng kịp thời hành quân.
1891 Lấy ư của hào Thượng
cửu, quẻ Khuê trong Kinh Dịch. Nguyên văn: "Kiến thỉ phụ đồ" (thấy
lợn đội bùn) chỉ bọn giặc Chiêm Thành hôi tanh, bẩn thỉu.
1892 Vua Thuấn chinh phục
nước Tam Miêu, chưa tới 7 tuần, nước này tới quy phục.
1893 Ngày xưa, sau trận
đánh, người ta thu xác chết của quân thù thành từng đống lớn, lấp
đất lên, gọi là "Kinh nghê quán" hay "Kinh nghê kinh quán".
1894 Tức là Thái miếu.
"Thanh" có nghĩa là trong sạch, tôn nghiêm.
1895 Theo bản dịch cũ.
1896 Nhị thập bát tú: 28
cḥm sao. Thiên văn học cổ Trung Quốc chia sao trên trời thành 28
cḥm gọi là "tú"; 4 phương, mỗi phương có 7 cḥm: "Phương Đông có
các cḥm: "Dốc, Cương, Chi, Pḥng, Tâm, Vĩ, Cơ; Phương Bắc: Đẩu,
Ngưu, Nữ, Hư, Nguy,Thất, Bích; Phương Tây: Khuê, Lâu, Vị, Măo, Tát,
Chủy, Sâm; Phương Nam: Tinh, Quỷ, Liễu, Tinh,Trương, Dực, Chẩn.
1897 Ngũ tinh: là năm
hành tinh: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
1898 Thiết Sơn: theo
Cương mục, núi này ở huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An (CMCB 21, 40).
1899 Sa Bôi và Thuận B́nh
là hai châu thuộc nguồn Cam Lộ, nay là tỉnh Quảng Trị.
1900 Gạo cả vỏ: tức là
thóc đem luộc chín, làm lương ăn cho quân.
1901 Thi Nại: vốn là tên
đất. Có thể tên em Trà Toàn cũng trùng với tên này, hoặc được phong
ở đó.
1902 Cửa Áp: tức là cửa
Tân Áp, sau là cửa Đại Áp ở huyện Tam Kỳ, nay thuộc tỉnh Quảng Nam -
Đà Nẵng.
1903 Cửa Toạ: tức là cửa
Cựu Toạ, sau là cửa Tiểu Áp, cách cửa Tân Áp (tức Đại Áp) hơn 7 dặm
(Chú của CMCB 22, 3).
1904 Sa Kỳ: là một cửa
biển ở huyện B́nh Sơn, tỉnh Quảng Ngăi.
1905 Dịch theo nguyên
văn, con số này có lẽ chưa chính xác.
1906 Núi Mộ Nô: ở phía
tây cửa biển Sa Kỳ (Chú của CMCB22, 3).
1907 Mễ Cần: chưa rơ ở
đâu, bản dịch cũ có ghi là Thái Cần và chú là huyện B́nh Sơn, Quảng
Ngăi.
1908 Phi kiều: một loại
chiến cụ đánh thành ngày xưa, làm bằng gỗ hoặc tre, dùng để bắc lên
thành cho quân sĩ vào.
1909
Phiên Lung: là Phan Rang, nay thuộc tỉnh Thuận Hải.
1910 Nam
Bàn: theo Cương mục sau là đất của Thủy xă, Hỏa Xá, nay là vùng đất
thuộc tỉnh Gia Lai- Công Tum và Đắc Lắc. C̣n Hoa Anh có lẽ là vùng
đất thuộc tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh Hoà ngày nay.
1911 Sông
Phi Lai: sông ở xă Phi Lai, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
1912
Thuyền Thiên thu: là thuyền của Hoàng thái hậu.
1913 Đề
h́nh: là chu91c quan soát xét việc xử án có đúng hay sai.
1914
Hoàng triều quan chế: nghĩa là quan chế của triều vua đang trị v́
(đây là triều Lê).
1915 Ba
ty: tức là Điện tiền, Hiệu lực, Thần vơ, là tổ chức quân sự.
1916 Tự
thân vương: con cả của thân vương được tập ấm tước của người cha.
1917 Theo
Cương mục, th́ 8 bậc đó là: Tá quốc sứ, Phụng quốc sứ, Dực quốc sứ,
Lương quốc sứ, Sùng ân sứ, Dụ ân sứ, Mậu ân sứ, Tư ân sứ (CMCB 22,
14a).
1918 Tư:
Cũng là đơn vị phẩm trật, mỗi phẩm thường gồm nhiều tư.
1919 Thí
chức: là chức vụ khong chính thức. Đối lập với "thực chức" là chức
vụ chính thức.
1920 Thực
thụ: là được nhận chức chính thức.
1921
Nguyên văn "vị nhập lưu" là những người chưa được liệt vào bậc nào
chín bậc quan tước (cửu phẩm) của nhà nước.
1922 Bổ
tử: những h́nh cầm thú thêu vẽ tên triều phục của các quan phía
trước ngực và sau lưng theo phẩm cấp của từng người.
1923 Nguyên văn là "phong
hiến". Chỉ những quan ở Ngự sử đài.
1924 Đườn g thượng quan:
hay đường quan là quan chức cao cấp của triều đ́nh.
1925 Sóc: là ngày mồng 1,
vọng là ngày 15 hàng tháng (Âm lịch).
1926 Binh phù: hay nội
phù là vật làm tin, có hai phần rời có thể khớp với nhau. Khi vua
trao lệnh cho tướng sái, ngoài sắc lệnh, c̣n có binh phù.Vua giữ một
nửa phù để trong cung, viên quan sai đi giữ một nửa. Mỗi khi sai
gọi, hay làm việc ǵ đều phải khớp lại làm tin.
1927 Dịch theo nguyên
văn. Đoạn này nên sắp xếp như sau: Kỳ thứ nhất ra 8 đề về Tứ thư:
Luận ngữ 4 đề, Mạnh Tử 4 đề; người thi tự chọn lấy 4 đề, làm bài
văn.
1928 Tế Đinh: tức là lễ
tế Văn miếu. V́ quy định tế Văn miếu vào các ngày đinh, nên gọi là
tế Đinh.
1929 Tháng trọng: là
tháng thứ hai của mỗi mùa, hai tháng trọng của mùa xuân và mùa thu
là tháng 2 và tháng 8.
Quyển XII
[1a]
Kỷ Nhà Lê
Thánh
Tông Thuần Hoàng Đế
Tên húy
là Tư Thành, lại húy là Hạo, là con thứ tư của Thái Tông. Ở ngôi 38
năm, thọ 56 tuổi, băng táng ở Chiêu Lăng.
Vua sáng
lập chế độ, văn vật khả quan, mở mang đất đai, cơi bờ khá rộng, thực
là bậc vua anh hùng tài lược, dẫu Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường
cũng không thể hơn được. Nhưng công tŕnh thổ mộc vượt quá quy mô
xưa, t́nh nghĩa anh em thiếu hẳn ḷng nhân ái. Đó là chỗ kém vậy.
Mẹ vua là
Quang Thục Hoàng thái hậu Ngô thị, người làng Động Bàng, huyện Yên
Định, phủ Thanh Hóa. Trước kia, khi c̣n là Tiệp dư, Thái hậu đi cầu
tự, mơ thấy thượng đế ban cho một tiên đồng, thế rồi có thai. (Tục
truyền rằng Thái hậu khi sắp ở cữ, nhân thử thả chợp mắt, mơ thấy
ḿnh đến chỗ Thượng đế, Thượng đế sai một tiên đồng xuống làm con
Thái hậu, tiên đồng chần chừ măi không chịu đi, thượng đế giận, lấy
cái hốt ngọc đánh vào trán chảy máu ra, sau tỉnh dậy, rồi sinh ra
vua, trên trán vẫn c̣n dấu vết lờ mờ [1b] như thấy trong giấc mơ,
măi đến khi chết, vết ấy vẫn không mất).
Năm Nhâm
Tuất, Đại Bảo thứ 3 (1442), tháng 7, ngày 20, sinh ra vua.
Vua sinh
ra thiên tư tuyệt đẹp, thần sắc khác thường, vẻ người tuấn tú, nhân
hậu, rạng rỡ, nghiêm trang, thực là bậc thông minh xứng đáng làm
vua, bậc trí dũng đủ để giữ nước. Năm Thái Ḥa thứ 3, được phong làm
B́nh Nguyên Vương, vâng mệnh làm phiên vuơng vào ở kinh sư, hằng
ngày cùng học ở Kinh diên với các vương khác. Bấy giờ, quan ở Kinh
diên là bọn Trần Phong thấy vua dáng điệu đường hoàng, thông minh
hơn hẳn người khác, trong bụng cho là bậc khác thường. Vua lại càng
sống kín đáo, không lộ vẻ anh minh ra ngoài, chỉ vui với sách vở cổ
kim, nghĩa lư thánh hiền. Bẩm sinh ra đă biết, mà sớm khuya không
lúc nào rời sách vở, tài năng lỗi lạc trời cho, mà chế tác lại càng
đặc biệt lưu tâm, [2a] ưa điều thiện, thích người hiền, chăm chắm
không hề biết mỏi, Tuyên từ thái hậu yêu vua như con ḿnh đẻ ra,
Nhân Tông coi vua là người em hiếm có. Đến khoảng năm Diên Ninh,
Nghi Dân tiếm ngôi, đổi phong vua là Gia Vương và xây phủ đệ ở bên
hữu nội điện cho vua ở. Không bao lâu, các đại thần là bọn Nguyễn
Xí, Đinh Liệt cùng nhau đem cấm binh đánh bọn Đồn, Ban, rồi phế Nghi
Dân, đón vua lên ngôi. Bấy giờ vua 18 tuổi, vào nối đại thống, tự
xưng là thiên Nam động chủ, miếu hiệu là Thánh Tông.
Canh
Th́n, [Quang Thuần] năm thứ 1 [1460], (tháng 6 trở về trước, Nghi
Dan tiếm xưng là Thiên Hưng năm thứ 2, Minh Thiên Thuận nam thứ 4).
Mùa xuân, tháng 2, Nghi Dân bàn đặt phủ huyện.
Có sao
Chổi hiện ra ở vùng sao Dực.
Mùa hạ,
tháng năm, sao Xuy Vưu1750 như lá cờ trắng tỏa sáng ngang trời, từ
đông sang tây.
[2b]
Tháng 6, ngày mồng 6, các đại thần là bọn Nguyễn Xí, Đinh Liệt xướng
nghĩa diệt bọn phản nghịch Đồn, Ban. Giáng Nghi Dân xuống trước hầu.
Đón Gia Vương lên ngôi Hoàng đế.
Khi ấy,
Nghi Dân cướp ngôi mới được 8 tháng, tin dùng bọn gian nịnh, giết
hại bề tôi cũ, pháp chế của tổ tông đổi thay hết thảy, người oán
trời giận.
Bấy giờ
các huân hựu đại thần là Khai phủ nghi đồng tam ty nhập nội kiểm
hiệu thái phó b́nh chương quân quốc trọng sự Á quận hầu Nguyễn Xí,
Đinh Liệt, Nhập nội kiểm hiệu b́nh chương quân quốc trọng sự Á
thượng hầu Lê Lăng, tư mă tham dự triều chính Đ́nh thượng hầu Lê
Niệm, Tổng tri ngự tiền hậu quân Á hầu Lê Nhân Thuận, Tổng tri ngự
tiền trung quân Quan nội hầu Lê Nhân Khoái, tổng tri ngự tiền thiện
trạo doanh quân Quan phục hầu Trịnh Văn Sái, Thiêm tri Bắc đạo quân
dân bạ tịch Trịnh Đạc, Điện tiền ty đô chỉ huy Nguyễn Đức Trung,
thiết đột tả quân đại đội trưởng Nguyễn Yên. Nhập nội đại hành khiển
Lê Vĩnh Trường, Điện tiền [3a] ty chỉ huy Lê Yên, Lê Giải, cùng bàn
với nhau:
"Nay Lạng
Sơn Vương Nghi Dân rất là vô đạo, đem bọn vô lại Phạm Đồn, Phan Ban,
lợi dụng ban đêm, bắc thang trèo thành vào trong cung cấm giết vua
và Quốc mẫu hoàng thái hậu, tội ác không ǵ lớn bằng. Bọn chúng ta
là bề tôi huân cựu, mắt thấy việc đó, đáng lẽ phải chết cho xă tắc,
mà lại ở dưới kẻ bội nghịch, đứng trong triều của kẻ cướp ngôi giết
vua, là tội nhân của muôn đời, c̣n mặt mũi nào trông thấy tiên đế
dưới suối vàng nữa?".
Sau buổi
chầu, mọi người đều vào ngồi ở Nghị sự đường ngoài cửa Sùng Vũ. Bọn
Nguyễn Xí xướng nghĩa giết chết hai tên phản nghịch đầu sỏ là Đồn,
Ban trước Nghị sự đường, rôi sai đóng các cửa thành, mỗi người đem
cấm binh đi dẹp nội loạn, giết hết bè đảng phản nghịch là bọn Trần
Lăng hơn trăm tên. Giết xong bọn phản nghịch, các đại thần cùng bàn
với nhau rằng:
"Ngôi
trời khó khăn, thần khí rất trọng, nếu không phải [3b] là bậc đại
đức, th́ sao có thể kham nổi. Nay Gia Vương thiên tư sáng suốt, hùng
tài đại lược, hơn hẳn mọi người, các vương không ai so được, ḷng
người đều theo, đă biết ư trời đă quyết".
Ngay ngày
hôm ấy đem xe kiệu đến đón vua ở Gia Để1751 (có sách chép là Tây
Để). Quyết định giáng Nghi Dân làm Lệ Đức hầu.
(Xét: Có
sách nói là sau khi giết bọn phản nghịch Trần Lăng, Lê Lăng lấy lụa
đưa cho Nghi Dân, bắt phải tự tử. Giết Nghi Dân xong, liền đi đón
Cung Vương Khắc Xương. Cung Vương cố t́nh từ chối, mới đón vua ở Tây
Để về lên ngôi. Sau vua nghe lời gièm, Cung Vương phải chết).
Ngày mồng
8, vua lên ngôi ở điện Tường Quang, đổi niên hiệu là Quang Thuận năm
thứ 1, đạixá thiên hạ.
Truy tặng
Nội quan Đào Biểu tước 1 tư và ban cho 5 mẫu ruộng công để thờ cúng.
Trả lại vợ con, điền sản để nêu gương tử tiết.
Định tội
của Lê Đắc Ninh, v́ Đắc Ninh giữ cấm binh không biết bảo vệ xă tắc,
lại đem giúp kẻ phản nghịch, làm vậy là để răn đe kẻ bất trung.
Vua lên
ngôi xong, liền làm lễ phát tang cho Nhân Tông và Thái hậu.
Ngày Tân
Mùi, làm lễ cáo miếu, rước bài vị Nhân Tông vào Thái miếu.
Ngày Quư
Dậu [4a] rước kim sách dâng tôn hiệu cho Nhân Tông là Khâm Văn Nhân
Hiếu Tuyên Minh Hoàng Đế, miếu hiệu là Nhân Tông, dâng tên thụy cho
Nguyễn thái hậu là Tuyên Từ Nhân Ư Chiêu Túc Hoàng thái hậu.
Đêm hôm
ấy, trời mưa to. Từ mùa xuân đến đây không mưa. Sau khi rước bài vị
Nhân Tông lên thờ ở Thái miếu, trời mới mưa.
Mùa thu,
tháng 7, lấy ngày sinh làm Sùng Thiên thánh tiết.
Ra sắc
chỉ cho các quan ở nội mật, đàn bà ở nội mật và các cung tỳ, nội
nhân rằng: Từ nay về sau, nếu thấy chiếu chỉ và các việc cung th́
không được lén lút tiết lộ ra trước cho người ngoài và con thân
thích.
Ra sắc
chỉ cho các vệ quân năm đạo, các phủ trấn, các tổng quản và tổng tri
rằng:
Có quốc
gia là phải có vơ bị. Nay phải tuân theo trận đồ nhà nước đă ban,
trong địa phận của vệ ḿnh, phải chỉnh đốn đội ngũ, dạy cho quân
lính phép đi, đứng, đâm, đánh, hiểu được hiểu lệnh, tiếng chuông,
tiếng trống khiến cho binh lính tập quen cung tên, [4b] không quên
vơ bị.
Tháng 8,
ra lệnh yết bảng cho những người nguyên là họ Trần phải kiêng húy
đổi thành họ Tŕnh.
Ra lệnh
cho các sắc quân, dân ở các phủ, lộ, trấn, châu, huyện, động, sách,
trang rằng:
"Người
nào có nhiều thóc t́nh nguyện dâng lên, th́ tới tŕnh báo với các
quan sở tại làm danh sách tâu tŕnh lên, tùy theo số thóc dâng nhiều
hay ít mà trao cho quan tước: từ 200 hộc th́ cho chức quan nhàn tản
chánh thất phẩm, 150 hộc th́ cho chức quan nhàn tản ṭng thất phẩm,
100 hộc th́ cho cho chức quan nhàn tản ṭng bát phẩm, con cái họ đều
được miễn tuyển, nếu là 60 hộc th́ thưởng 1 tư, chỉ được miễn bản
thân thôi.
Tháng 9,
ngày 21, sai bồi thần là bọn Đinh Lan, Nguyễn Phục, Nguyễn Phục,
Nguyễn Đức Du sang nhà Minh tâu việc.
Mùa đông,
tháng 10, ngày mồng 1, sai bồi thần là bọn Nguyễn Nhật Thăng, Phan
Duy Tŕnh, Nguyễn Tự sang nhà Minh cầu phong.
Tâu tŕnh
những người có công hồi tháng 61752 .
Tổng đốc
Nguyễn Xí, Đông đốc [5a] Đinh Liệt tâu tŕnh tên họ các quan trong
các phiên, các quan ngự doanh và những người trước sau xướng nghĩa
chém bọn nghịch thần Đồn, Ban:
- Xướng
nghĩa trước và hạ thủ đầu tiên là Lê Nhân Thuận, đă chém giặc Lăng.
- Xướng
nghĩa là bọn Trịnh Đạc, Nguyễn Đức Trung, Lê Nhân Quư đế Lê Lật gồm
49 người.
- Lại tâu
tŕnh thêm bọn Nguyễn Trợ, Nguyễn Ngô, Lê Sư Lộ... gồm 6 người.
Phong
công thần Nguyễn Xí làm Quỳ quận công, Đinh Liệt làm Lân quận công;
Thái bảo Lỗ Sơn hầu Lê Niệm làm Thái phó; Kỳ quận công Lê Thọ Vực
làm Tả đô đốc tham nghị triều chính chưởng Điện tiền ty; Nguyễn Lỗi
làm Đại đô đốc chưởng h́nh bộ (Lỗi là con của Nhữ Lăm); Lê Khang làm
Văn Chấn hầu.
Ra sắc
chỉ cho các quan trong ngoài rằng: Viên nào con đáng được tập ấm mà
không có con trai [5b] th́ cho nuôi con người thân thích cùng họ,
chỉ được 1 người tập ấm.
Ngày 11,
ban biển ngạch cho người hiếu đễ là Nguyễn Liêm ở xă Mụ Xá, huyện
Ứng Thiên, tha phú dịch cho bản thân. Sai quan huyện sở tại làm cổng
lầu để treo bằng vàng.
Ra sắc
chỉ cho quan các phủ, lộ, trấn, châu, huyện rằng: Ai ở cơi biên giới
th́ phải giữ quan ải cẩn thận, không được thông đồng với người nước
ngoài.
Cấp ruộng
thế nghiệp cho 30 viên công thần, số mẫu có thứ bậc khác nhau: Lê
Lăng 300 mẫu, Lê Niệm 200 mẫu, Lê Nhân Thuận 130 mẫu, Lê Thọ Vực, Lê
Sư Hồi, Lê Nhân Khoái 150 mẫu, từ Trịnh Văn Sái trở xuống, đều được
cấp ruộng theo thứ bậc khác nhau.
Sắc cho
bọn tể thần Lê Xí tâu thăng các quan công thần tại chức hay đă chết,
được ban quốc tính hay không được ban, cùng số con trai của họ chưa
được thăng bổ. Loại được ban quốc tính th́ từ bọn Lê Quán Chi con
trai của Thái phó [6a] Lê Liệt, Lê Văn Lăo con trai của Lê Bí trở
xuống đến Lê Kư
con trai của Lê Luyện.
Loại chưa được ban quốc tính th́ từ Nguyễn Sư Hồi con trai của
Nguyễn Xí, đến Lê Lộng con trai của Lê Đa Mỹ. Loại đă chết, được ban
quốc tính th́ từ Lê Muộn con trai Lê Vấn, Lê Dư con trai Lê Bôi, cho
đến Lê Văn Lương con trai Lê Nhữ Soạn, chưa được ban quốc tính th́
từ Lê Văn Thiết con trai Lê Chuẩn, đến Lê Văn Lâm con trai Lê Thiết.
Đến khi bọn Xí dâng tờ
tâu lên, vua dụ rằng:
"Đă xem hết tờ tâu, trong
ấy có xin cho bọn Lê Ê, Lê Thụ, Đỗ Bí, Lê Ngang theo như lệ công
thần đă mất, nhưng câu ấy c̣n có thể bẻ lại được, là v́ khoảng năm
Diên Ninh, Đỗ Bí, Lê Ê ở chức cao nhất vào hàng tể thần; Lê Ngang,
Lê Thụ tay cầm cấm quân, giữ việc an nguy, đáng lẽ phải dẹp yên giặc
loạn, chuyển nguy thành an mới phải, thế mà chỉ biết sắp gà vào
trong nồi mà để [6b] cá ḱnh lọt ra ngoài lưới. Đến sau mưu việc
không kín, đến nỗi phải phơi thây ở bên đường1753 . Đó lại thêm một
tội khác trong các tội của bọn Bí, Ngang, có khác ǵ tội giết vua
của Triệu Thuẫn ngày xưa1754 , sau được để cùng với những công thần
đă mất?".
Ngày 24, làm lễ chiêu
hồn, chôn Nhân Tông ở bên hữu Vĩnh Lăng gọi là Mục Lăng1755 .
Lại sai Trung thư sảnh
thủ Trung thư lệnh tri tam quán sự nhưng tri học sinh ngự tiền nhị
cục khinh xa úy Nguyễn Trực và Trung thư sảnh Trung thư lệnh thị
lang nhập thị kinh diên kiêm quản cận thị chi hậu các cục thượng kỵ
đô úy Nguyễn Bá Kư cùng soạn bài văn bia ở Mục Lăng1756 .
Ngày 27, ra sắc chỉ cho
h́nh quan rằng: Từ nay về sau, xét việc kiện tụng, phải mỗi tháng ba
lần tŕnh lên để quyết định, coi đó là địn chế lâu dài.
Tháng 12, sai Thái phó Lê
Liệt, Thái phó Lê Lựu, thái bảo Lê Lăng dẫn các quân chia đường đi
đánh họ Cầm1757 .
Tuyển đinh tráng có tên
trong sổ bổ vào [7a] quân ngũ.
Làm sổ hộ tịch.
Lấy Nguyễn Như Đỗ làm Lại
bộ thượng thư.
Sắc cho Trung thư sảnh
Trung thư lệnh thị lang nhập thị kinh điên kiêm quản cận thị chi hậu
các cục thượng kỵ đô úy Nguyễn Bá Kỳ, Hoàng môn thị lang kiêm Quốc
sử viện đồng tu quốc sử Hoàng Sằn Phu hiệu định miếu húy và ngự
danh.
Tân Tỵ, [Quang Thuận] năm
thứ 2 [1461], (Minh Thiên Thuận năm thứ 5). Mùa xuân, tháng giêng,
ban miếu húy và ngự danh. Miếu có 9 chữ: Hiển Tổ là Đinh, Hiển Từ là
Quách, Tuyên Tổ là Khoáng, Trinh Từ là Thương, Thái Tổ là Lợi, Cung
Từ là Trần, Nhân Tông là Long, Tuyên Từ là Anh, Nhân Tông là Cơ, ngự
danh của kim thượng húy là Thành, Quang Thục hoàng thái hậu, húy là
Giao.
Tháng 2, vua ngự về Tây
Kinh bái yết sơn lăng.
Tháng 3, ngày 11, ban
đêm, sét đánh ở cửa điện Thừa Thiên.
Ngày 19, vua [7b] và các
quan bỏ áo triều làm lễ tạ ở điện Thừa Thiên.
Ra sắc chỉ cho các quan
phủ, huyện, lộ, trấn, xă rằng:
Từ nay về sau, trong việc
làm ruộng, phải khuyến khích quân dân đều chăm nghề nghiệp sinh
nhai, để đủ ăn mặc, không được bỏ gốc theo ngọn, hoặc kiếm chuyện
buôn bán, làm tṛ du thủ du thục. Người nào có ruộng đất mà không
chăm cày cấy, th́ quan cai trị bắt tŕnh trị tội.
Mùa thu, tháng 7, ngày
11, động đất.
Ra sắc chỉ cho các xứ,
phủ, lộ rằng: Chùa quán nào không có ngạch cũ th́ không được tự tiện
làm mới.
Cấm không được xưng hô
lộn bậy trên dưới.
Sắc dụ quan Lại bộ là
Nguyễn Như Đỗ và Nguyễn Thiện rằng:
"Năm ngoái các ngươi nhận
lời thỉnh thác của Đỗ Bất Một, tâu xin cho hắn làm Tổng tri vệ Bắc
B́nh, rồi lời bàn tán trong triều ầm ỷ, các ngươi lại tâu xin cho
Bất Một lấy làm hàm Tổng binh vệ về nghỉ, như vậy thực là gian ngoan
quá lắm".
Tháng 8, ngày mồng 1,
Hoàng trưởng tử Trang sinh (sau này là [8a] Hiến Tông). Bà mẹ là con
gái thứ hai của Nguyễn Đức Trung, năm trước tuyển vào làm Sung nghi
ở cung Vĩnh Ninh, sau này được tôn làm Trường Lạc hoàng thái hậu.
Mùa đông, tháng 10, ngày
21, có sắcdụ Thái bảo Lê Lăng.
Trước đó, vua đă sai
Chánh chưởng Nguyễn Lỗi đem bạc lạng đến thưởng cho Lê Lăng và dụ
rằng: "Ngươi nên thận trọng từ đầu đến cuối, phải thanh liêm công
bằng".
Đến đây lại dụ rằng:
"Tính khí của ngươi cứng
rắn quá, ngoài mặt th́ nghiêm khắc mà trong ḷng th́ yếu mềm. V́
thế, người nào ḿnh không bằng ḷng th́ đẩy xuống đất đen, người nào
chiều ư ḿnh th́ nâng niu trên gối, mọi người không ưa chẳng v́ thế
ư?".
Vua dụ bảo Đô ngự sử đài
là bọn Ngô Sĩ Liên và Nghiên Nhân Thọ rằng:
"Ta mới coi chính sự, sửa
mới đức độ, tuân theo điển cũ của thánh tổ thần tông, nên mới tế
giao vào đầu mùa xuân. Các ngươi lại bảo tổ tông tế giao cũng không
đáng theo!. [8b] Các ngươi bảo nước ta đời xưa là hàng phiên bang,
thế là các ngươi theo đạo chết, mang ḷng không vua. Vả lại, khi Lệ
Đức hầu cướp ngôi, Ngô Sĩ Liên chẳng v́ hắn trổ tài phong hiến1758
đó sao? Ưu đăi trọng lắm! Nhân Thọ không v́ hắn trù hoạch nơi màn
trướng đó ư? Ngôi chức cao lắm! Nay Lệ Đức hầu mất nước về tay ta,
các ngươi không biết v́ ăn lộc mà chết theo hắn lại đi thờ ta. Nếu
không nói ra, trong ḷng các ngươi không tự hổ thẹn mà chết ư? Thực
là bọn gian thần bán nước!".
Tháng 11, đại xá thiên
hạ, v́ tháng 8 mới rồi sinh Thái tử.
Mùa đông, tháng 12, ban
các điều đại cáo, từ phủ đến các châu, huyện, trang, mỗi nơi 1 bản.
Cấm các thuộc lại không được bóc trộm những điệp sớ dán kín, không
được chia nhau cầm giữ mang về nhà,hoặc cho người ngoài truyền nhau
sao chép.
Lấy Lê Lộng làm Đô đốc
b́nh chương sự; Lê Chấp Trung làm Đô đốc, Trịnh Văn Sái làm Đô đốc
tham dự triều chính chưởng [9a] điện tiền ty; Vũ Lăm làm Hàn lâm
viện trực họa sĩ; Hàn lâm viện học sĩ Nguyễn Đ́nh Mỹ làm quyền Lễ
nghi viện thượng thư.
Nhâm Ngọ, [Quang Thuận]
năm thứ 3 [1462], (Minh Thiên Thuận năm thứ 6). Mùa xuân, tháng
giêng, hiệu định nghi chú lễ dâng biểu và lễ bái bài1759 , theo lời
tâu của quyền Lễ nghi viện thượng thư Nguyễn Đ́nh Mỹ.
Đổi viện nhi1758 thành
ứng sai.
Tháng 2, tăng 2 lần số
tiền đại bô1761 .
Ngày 11, nhà Minh sai
chánh sứ là Hành nhân ty hành nhân Lưu Trật sang tế Nhân Tông.
Ra lệnh chỉ cho các quan
văn vơ biết: Các nhà quân, dân ở các lộ, huyện, phủ Trung Đô, nhà
nào có nô tỳ là người Ngô1762 , không được cho ra ngoài thông đồng
với sứ nhà Minh.
Nghiêm cấm việc loại bỏ
tiền đồng.
Tháng 3, tha tội chết cho
Nguyễn Sư Hồi.
Vua dụ các quan trong
triều rằng:
"Sư Hồi v́ có công trung
hưng cùng với cha là Xí có [9b] công lao lớn trong buổi khai
quốc1763 , nên tha tội chết. C̣n bọn Trịnh Lư th́ triều thần các
ngươi cùng bàn xử".
Sắc dụ Tả đô đốc Lê Thọ
Vực rằng:
"Bài thơ yêu ma đó chưa
chắc là do Sư Hồi làm, trong chỗ c̣n ngờ cũng có thể vu oan được.
Những câu về Lê Niệm, Nguyễn Lỗi, Trịnh Văn Sái th́ có ngờ cho nó
c̣n được, chứ Thọ Vực th́ chỉ nói là hung bạo, thực ra chưa đến mức
phản nghịch th́ sao lại đổ cho Sư Hồi làm? Nếu nó đáng chết nữa, th́
cũng là trời hại nó, sao nhà ngươi lại manh tâm báo thù nó?".
Bấy giờ Sư Hồi muốn hại
bọn Lê Niệm, làm một bài thơ vứt ra đường, khiến người lưu truyền
đến tai vua. Bài thơ viết:
Nhân hữu nhị tâm vưu khả
nghi, Tự lai chung cánh hiếu vi phi. Thổ biên hữu hoặc chân dung
bạo, Thủy tại tây bàng xă tắc nguy. (Người có hai ḷng rất đáng
nghi, Giống chữ "lai" đó thích vi phi1764 . Bên "thổ" có "hoặc" thực
hung bạo, "Thủy" sát bên "tây" xă tắc nguy). (Người có hai ḷng là
chữ Niệm tức là Lê Niệm. Giống chữ lai là chữ lỗi, tức là Nguyễn
Lỗi. Bên chữ Thổ có chữ hoặc là chữ Vực tức Lê Thọ Vực. Bộ Thủy ở
cạnh chữ tây là chữ Sái tức Trịnh Văn Sái).
Sư Hồi làm bài thơ này
chưa kịp lưu truyền th́ t́nh gian bị bại lộ. Cả bọn đều xin trị tội
Sư Hồi, nên vua có dụ này để răn bọn Thọ Vực.
Mùa hạ, tháng 4, định lệ
bảo kết1765 trong thi hương.
Ra lệnh chỉ cho các thí
sinh trong nước, không cứ là dân hay lính, hạn tới thượng tuần năm
nay đến nhà giám hay đạo sở tại khai tên và căn cước đợi thi hương.
Ai đỗ th́ gửi danh sách lên Lễ nghi viện để đến trung tuần tháng
giêng năm sau thi hội. Cho quan sở tại và xă trưởng xă ḿnh làm giấy
bảo đảm rằng người ấy thực là có đức hạnh th́ mới được vào danh sách
dự thi. Kẻ nào vào loại bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, loạn luân,
điêu toa... th́ dẫu học giỏi, văn thơ hay, cũng không cho vào thi.
Phép thi như sau:
- Thí sinh phải nộp căn
cước, khai rơ phủ, huyện, xă, tuổi tác cùng là chuyên học kinh nào,
lư lịch ông cho ra sao, không được gian dối, giả mạo.
- [10b] Nhà phường chèo,
con hát và những kẻ phản nghịch, ngụy quan có tiếng xấu, th́ bản
thân và con cháu đều không được dự thi. Nếu mang sách hay mượn người
làm hộ bài th́ bị trị tội theo luật.
- Phép thi hương trước
hết thi ám tả để loại bớt.
- Đề mục thi: Kỳ thứ nhất
th́ Tứ thư, kinh nghĩa gồm 5 bài. Kỳ thứ hai thi chiếu, chế, biểu
dùng cổ thế hay tứ lục. Kỳ thứ ba thi thơ, dùng Đường luật, phú dùng
cổ thế hay Ly Tao, văn tuyển, từ 300 chữ trở lên. Kỳ thứ tư thi một
bài văn sách, đầu đề hỏi về kinh, sử hay việc đương thời, hạn 1.000
chữ.
- Chữ húy của quốc triều,
nếu hai chữ liền nhau th́ đều không được dùng, nếu rời ra chữ một
th́ cũng cho dùng thay chữ khác, khuyên ở bên ngoài...
Lấy Hoàng Thanh làm Môn
hạ sảnh hữu ty lang trung tham tri Hải Tây đạo quân dân bạ tịch ky
đô úy.
Bấy giờ nhân có tai biến
về mưa đá và sấm gió, xuống chiếu cầu lời nói thắng. Thanh bèn dâng
sớ [11a] tŕnh bày 7 việc:
1- Thuận âm dương để đón
khí ḥa.
2- Gần Kinh diên để tôn
chánh học.
3- Chọn con nối để vững
gốc nước.
4- Tiết kiệm của dùng để
thi cho kinh phí.
5- Thận trọng chức thú
lệnh để chăn dân.
6- Thường xuyên huấn
luyện để nghiêm vơ bị.
7- Đặt đồn điền để chứa
lương cho biên giới.
Vua tiếp nhận cả.
Tháng 5, ra sắc chỉ cho
các quan ở 5 đạo: Tan buổi chầu, đến giờ Mùi phải ở đạo ḿnh để coi
việc, nếu thiếu vắng ở nha môn th́ xử giáng hoặc băi chức.
Tháng 6, sắc dụ bọn Thái
bảo Nguyễn Xí rằng:
"Các ngươi vốn là quan vơ
làm trấn phủ. Nghĩa chữ "trấn phủ", bọn vũ phu các ngươi có biết
được không? Đến như Tăng Văn Trọng c̣n bị Khổng Tử chê là "trộm cắp
ngôi vị"1766 , huống chi các ngươi là bọn bịt đường của bậc hiền
tài, khơi nguồn cho kẻ cầu may!".
Mùa thu, tháng 8, giết
Thái úy Lê Lăng v́ Lăng ngầm mưu làm phản.
Tháng 9, nhà Minh sai
chánh [11b] sứ là Hàn lâm viện thị độc học sĩ Tiền Phổ, Phó sứ là Lễ
khoa cấp sự trung Vương Dự mang sắc phong vua làm An Nam Quốc Vương.
Sai Tư lễ giám thái giám Sài Thăng, Chỉ huy thiêm sự Trương Tuấn,
Phụng ngự Trương Vinh sang thu mua hương liệu.
Mùa đông, tháng 10, ngày
mồng 6, sứ thần nhà Minh là bọn Tiền Phổ trú ở sứ quán. Khi về, vua
sai đem lễ vật đến, bọn Phổ cố từ chối không nhận.
Ra sắc chỉ cho cả nước
rằng:
Kể từ nay, các quan viên
văn vơ làm việc đến 65 tuổi muốn nghỉ việc, các lại điển, giám sinh,
nho sinh, sinh đồ tuổi từ 60 trở lên muốn về làm dân, th́ đều cho
người đó nộp đơn ở Lại bộ rồi xếp loại tâu lên để thi hành.
Ra lệnh cho các nha môn
trong ngoài cả nước rằng: ở các bản tâu đề th́ chính viên quan nha
môn đó phải kư tên không được nhờ lại dịch kư tên hộ.
Tháng 121767 , sai sứ
sang nhà Minh: Lê Công Lộ [12a] tạ ơn việc phúng tế, Trần Bàn sang
tâu việc Bùi Hựu tạ ơn sách phong.
Tháng 12, sai bồi thần là
bọn Lê Văn Hiển, Hoàng Văn Ngọ, Tạ Tử Điền sang tuế cống nhà Minh và
xin ban mũ áo.
Ngày mồng 4, lập Hoàng
trưởng tử Tranh làm Hoàng thái tử. Đại xá thiên hạ.
Năm ấy thăng Thái phó
Nguyễn Xí làm Nhập nội hữu tướng quốc.
Quư Mùi, [Quang Thuận]
năm thứ 4 [1463], (Minh Thiên Thuận năm thứ 7). Mùa xuân, tháng
giêng, miễn kỳ hội duyệt các quân v́ năm trước có đại xá.
Bắt đầu định lệ ba năm
một lần thi hội.
Tháng2, tổ chức thi hội
cho các sĩ nhân trong nước. Bấy giờ người dự thi có tới 4.400 người,
lấy đỗ 44 người.
Ngày 16, thi điện cho các
tiến sĩ.
Sai Nhập nội kiểm hiệu tư
đồ b́nh chương sự Nguyễn Lỗi và Nhập nội đô đốc đồng b́nh chương sự
tri Đông đạo chư vệ quân dân Quốc tử giám tế tửu Lê Niệm làm đề
điệu. Chính sự viện [12b] tham nghị chính sự Nguyễn Phục làm giám
thí, Môn hạ sảnh ty tả gián nghị đại phu tri Bắc đạo quân dân bạ
tịch kiêm Hàn lâm viện thừa chỉ học sĩ Nguyễn Như Đổ; Hàn lâm viện
thừa chỉ học sĩ tri Đông đạo quân dân Nguyễn Vĩnh Tích; Quốc tử giám
tế tửu Nguyễn Bá Kư làm độc quyền.
Vua ra hiên, thân hành ra
đề văn sách hỏi về đạ xuất thân theo thứ bậc khác nhau.
Xuống chỉ rằng làm lễ cầu
mưa th́ dùng tiền thuế.
Ban biển ngạch cho người
phụ nữ trinh tiết là Nguyễn Thị Bồ ở xă Đại Hữu Lệ, huyện Thanh Tŕ
để nêu khen với xóm làng, cho một người con hay cháu được miễn phu
dịch để nuôi nấng.
Ngày 22, truyền loa xướng
danh các tiến sĩ là bọn Lương Thế Vinh và ban ân mệnh cho từng
người. Sai các quan Lễ bộ đem bảng vàng treo ngoài cửa Đông Hoa cho
các sĩ nhân biết.
Tháng 3, ngày mồng 3,
Hoàng Thanh chết, thọ 53 tuổi.
[13a] Thanh tên tự là
Trực Khanh. Bấy giờ Lương Như Hộc người Hồng Châu có bài tán đề vào
bức chân dung của Thanh rằng:
Thiếu kết tri ư Thái Tổ,
Trưởng tín nhiệm ư Thánh Tông. Thể cụ nhi dụng chu, Tử hiếu nhi trần
trung, Tứ triều lịch sự, Nhất tiết thủy chung. (Hồi trẻ được Thái Tổ
biết, Trưởng thành được Thánh Tông tin. Thể toàn mà dụng đủ, Con
hiếu lại tôi trung. Trải thờ bốn đời, Trước sau một tiết). Ra lệnh
chỉ rằng: các việc kiện tụng tranh nhau đă xét xử đúng lẽ rồi th́
không được cưỡng tranh nữa.
Mùa hạ, tháng 4, cấm nội
quan và con gái trong cung không được kết bạn với người ngoài, không
được trao đổi tṛ chuyện và đùa bỡn với nhau.
Tháng 5, cấm cưỡng tranh
ruộng đất khi đuối lư đem bán cho nhà thế gia.
Ra sắc chỉ rằng: Kẻ nào
dùng gươm, nón trái quy định để vào trong Hoàng thành đều bị xử tử.
Mùa thu, tháng 7, hạn.
Vua lánh chính điện, giảm món ăn, triệt bỏ đồ nhạc.
Động đất.
Mùa đông, tháng 10, sắc
dụ các quan trong triều rằng:
"Mới rồi Nguyễn Phục thấy
mùa xuân đại hạn 3 tháng, cho là nhất định sẽ có chuyện ǵ, khuyên
trẫm b́nh tĩnh để chờ xem biến cố, sẳn sàng vũ khí để pḥng thân.
Trẫm khôn nghe [13b] quả nhiên vô sự. Thánh nhân xưa quan sát thiên
văn để xét sự đổi thay của thời tiết, xem xét nhân văn để giáo hóa
thiên hạ, không thể không cảnh giác đề pḥng, nhưng sao lại nên chứa
chất ngờ vực để cho hỏng việc?".
Tháng 12, dụ bọn Thái phó
Nguyễn Xí rằng:
"Tông miếu xă tắc an hay
nguy là ở mấy người các khanh thôi. Các khanh nên nghĩ cho kỹ, tính
cho chín, tâu việc trị nước cho trẫm biết. Trẩm sẽ cố gắng quyết
đoán ở bên trong, các khanh sẽ thừa hành ở bên ngoài".
Ra sắc chỉ rằng:
" Những người bói toán,
đạo thích ở trong nước từ nay về sau không được tṛ chuyện trao đổi
với người trong cung và hậu đ́nh".
Sắc dụ cho bọn Lại bộ
thượng thư Nguyễn Như Đổ, H́nh bộ thượng thư Trần Phong, Binh bộ
thượng thư Nguyễn Vĩnh Tích, Hộ bộ thượng thư Nguyễn Cư Pháp, Binh
bộ thượng thư Nguyễn Đ́nh Mỹ rằng:
"Ta nghe Tư Mă Quang có
nói: "Người quân tử là cội gốc để tiến lên trị b́nh, kẽ tiểu nhân là
thềm bậc để đi đến họa loạn". Ta và các ngươi đă thề với trời đất
dùng ngươi quân tử, bỏ kẽ tiểu [14a] nhân, ngày đêm chăm chắm không
lơi, các ngươi chớ có quên đấy!".
Lại dụ các quan tể thần
và kinh diên rằng:
"Nay bọn Lê Cảnh Huy,
Nguyễn Như Đổ, Phạm Du, khi bàn luận ở triều đ́nh, hay lúc quyết
định việc chính trị đều chỉ a dua lấy ḷng hoặc ngậm miệng không
nói, th́ dù có lỗi nhỏ mà khép vào pháp luật cũng đáng; c̣n như bọn
Nguyễn Mậu, Nguyễn Vĩnh Tích, Nguyễn Trạc, Nguễn Trạc biết lo vua
yêu nước, gặp việc nói hết, th́ dù có lầm lỗi mà được khoan thứ cũng
là phải. Mới rồi, Nguyễn Mậu nói việc không mà không bị buộc tội, đó
là trẫm báo đền cái đức hay nói của Nguyễn Mậu".
Sắc dụ Lễ bộ tả thị lang
Lương Như Hộc rằng:
"Mới rồi, Nguyễn Vĩnh
Trinh không học thể thơ quốc ngữ, làm thơ không đúng phép. Ta tưởng
là ngươi biết, nên mới hỏi thử ngươi, nhưng ngươi cũng không biết
nốt. Vả ta xem Hồng Châu quốc ngữ thi tập của ngươi c̣n nhiều chỗ
thất luật, ta chắc là ngươi chưa biết nên mới nói ra. Vũ Lăm
thường[14b] không muốn ta nói cho ngươi biết đâu".
Sắc dụ Đô đốc Nguyễn Sư
Hồi rằng:
"Dương Quốc Minh bảo là
Ngô Tây lấy 30 lạng bạc trao cho Nguyễn Hồ đến đút lọt bọn ngươi.
Ngươi sai vợ lẽ ngươi nhận lấy. Vả khi trước nó đút lót cho cha
ngươi là Xí 50 lạng, nay chuyển sang đút lót cho ngươi, tất cả là 80
lạng, hiện c̣n ở nhà ngươi, ngươi lại không biết hay sao? Nay đặc
sai Tư lễ giám Nguyễn Áng đem sắc chỉ tới bảo ngươi và đ̣i lấy số 80
lạng đút lót ấy mang về. Ngươi có tội mà không ngại sửa bỏ tội lỗi
th́ sau này chắc chắn không bị tai họa".
Lại dụ Nguyễn Sư Hồi
rằng:
"Ta thể theo ḷng người
lên nhận ngôi báu, vẵn nhờ các bậc huân hiền đ̣ng ḷng giúp đỡ, đến
nay đă 4 năm rồi. Cha con ngươi, đầy nhà lớp lớp ngọc khuê giải ấn
có thể gọi là thịnh lắm rồi. Ta vẫn tin ngươi. Dẫu có hư đó, cũng
không hề suy giảm. Sau khi được thư ấy, hẳn ngươi có chổ không yên
ḷng. Ngươi há không nên nghĩ cho kỹ để làm kế giữ ḿnh ư?".
Bấy giờ [15a] bắt được
trên nóc nhà có thư nặc danh, nói Sư Hồi sắp làm phản, cho nên vua
dụ Hồi.
Dụ Thái bảo Lê Niệm rằng:
"Ngày xưa, Thái Tổ ta
khai sáng cơ nghiệp lớn, cha ngươi rong ruổi từ đông sang tây, nhiều
lần v́ nước quên ḿnh1768 . Đến khi Thái Tông nối chí kế nghiệp, nhớ
tới công của cha ngươi, nhưng ngươi đang c̣n nhỏ, chưa làm quan
được. Nhân Tông trao cho ngươi nơi Hựu phủ1769 , ra coi giữ phiên
trấn lớn. Đến khi tai biến xảy ra sắt nách, ngươi hết ḷng mưu việc
khôi phục, gươm sắt vung lên là kẻ gian tà phải nộp đầu, ngôi tôn về
chính vị mà tông miếu xă tắc vững yên. Tuy nhiên, khanh đă lập nên
công lao không ǵ lớn hơn, cũng nên giữ măi sự nghiệp không ai sánh
kịp. Trên th́ cơ đồ của tổ tông ta càng thêm huy hoàng, dưới th́
công đức của cha con ngươi ngày một rạng rỡ, há chẳng vui sao!".
Giáp Thân [Quang Thuận]
năm thứ 5 [1464], (Minh Thiên Thuận năm thứ 8). Mùa xuân, tháng
giêng, ngày 17, vua Anh Tông nhà Minh băng. Ngày 22, [15b] Thái tử
Kiến Nhu lên ngôi, đổi niên hiệu là Thành Hóa. Đó là Hiến Tông.
Định lễ tế âm hồn, gồm
con vật cúng và rượu.
Tháng 2, vua ngự về Tây
Kinh bái yết sơn lăng.
Sắc dụ chưởng H́nh bộ Lê
Cảnh Huy rằng:
"Ngươi nhiều lần giữ chức
then máy của triều đ́nh, công tích đáng ghi, đă hết ḷng can ngăn
nói thẳng, chỉ ra lỗi lầm của trẫm, dẫu nửa được nữa hỏng,nhưng
phương cứu tệ, giúp đời xuất phát từ ḷng trung quân ái quốc, đă
liền ḍng liền trang rồi. Từ nay về sau, ngươi hăy xét kỹ những việc
oan uổng, dẹp bớt những kẻ giang ngoan, bàn luận ở triều đ́nh cho
trắng đen sáng tỏ, phải đối chiếu với nghĩa lư, chớ có làm điều khôi
hài. Trao cho chức lớn, kư thác việc nặng, trẫm chỉ c̣n trông đợi ở
một khanh thôi".
Mùa hạ, tháng 6, ban cho
các quan văn vơ trong ngoài môn một quả ấn.Ra lệnh chỉ cho các phủ,
lộ, trấn, châu, huyện, xă:Từ nay về sau,không được tự thiến càn bậy.
Mùa thu, tháng 7, ban cho
Anh Vũ, con Nguyễn Đ́nh Mỹ. Vua dụ rằng:
"Đồ dùng th́ chuộng thứ
mới, dùng người th́ nên dùng người cũ. Nho thần tuổi già như bọn các
ngươi c̣n mấy nguời đâu, mà ngươi đâu, mà ngươi phạm tội cũng là sau
vụ phạm tội của Ngô Sĩ Liên và Nguyễn Thiện thôi. Pháp ty giữ công
bằng, theo luật, phải giáng băi, nhưng ta th́ tiếc tài ngươi, sai
đổi thành lệnh biếm chức. Pháp luật là phép công của nhà nước, ta
cùng các ngươi đều phải theo,ngươi nên nhớ lấy".
Tháng 8, có thánh chỉ
rằng: kẽ nào phạm tội ṃ trộm ngọc trai và đúc trộm tiền đồng, th́
chia ra loại thủ phạm và ṭng phạm mà xử tội khác nhau.
Sắc dụ H́nh bộ tả thị
lang Nguyễn Mậu rằng:
"Ngươi chăm lo việc nước,
điều ǵ hay th́ quy về cho vua, không kém ǵ Như Hối, Huyền Linh1770
. Đến như Đái Trụ xử việc phức tạp khó khăn1771 , Ngạn Bác tâu bày
rơ ràng, tường tận 1772 , so với hai người đó cũng có khá hơn một
chút. Lâm bầy tôi như vậy thực đáng khen ngợi lắm, nên ban cho bạc
lạng. Khi nào
bạc ban đến nơi, ngươi
càng nên măi giũa thêm ḷng son vốn có mong cho ta [16b] tới cơi trị
b́nh. Ta có lỗi lầm ǵ hăy thẳng thắn chỉ ra, hăy cứng như Đổng
Tuyên 1773 , chớ như Tô Uy 1774 quen thói giâu giếm".
Mùa đông, tháng 10, nhà
Minh sai chánh sứ là Thượng bảo tự khanh Tô Lâng Tín, phó sứ là bọn
Hành nhân ty hành nhân Thiệu Chấn sang báo việ Hiến Tông lên ngôi và
ban cho mũ áo, vóc lụa cùng sắc dụ.
Tháng 11, sai sứ sang nhà
Minh: Phạm Bá Khuê dâng hương; Lê Hữu Trực, Dương Tông Hải, Phạm
Khánh Dung mừng lên ngôi.
Lê Tông Vinh, Phạm Cừ,
Trần Văn Chân tạ ơn ban vóc lụa.
Tháng 12, cấm các quan
nhậm chức bên ngoài vô cớ về kinh đệ tŕnh bản tâu.
Có thánh chỉ rằng những
tội nào c̣n ngờ th́ xử giảm mức.
Sắc dụ đại thần và các
quan rằng:
" Xưa Thái Tổ ta dăi gió
dầm mưa để b́nh định thiên hạ, bấy giờ các bề tôi có công ra sức
giúp dân, cùng chịu gian lao khổ ải, t́nh nhgĩa đều vẹn toàn. V́
thế, đặc ân ban quốc tính để tỏ ḷng yêu qúi khác thường. Nhưng con
cháu các ngươi truyền nối lâu dài[17a] e rằng họ cũ của tổ tiên,
trái với đạo dạy người ta hiếu thảo. Từ nay về sau, công thần được
đặc ân ban quốc tính th́ chỉ một đời người ấy thôi, c̣n con cháu th́
đều theo họ cũ".
Thái úy Nguyễn Xí ốm. Vua
dụ rằng:
" Ngày xưa trẫm làm phiên
vương, nhởn nhơ chốn cửa son, không có ư lên ngôi báu. V́ bọn khanh
đồng ḷng suy tôn, diệt bọn phản nghịch, đưa trẫm lên ngôi báu, đến
nay đă năm 5. Thú vui con hát, vũ nữ th́ khanh không bằng ḷng họ
Thạch họ Cao nhà Tống1775 , mà lo lắng đến héo ruột khô tim th́
khanh hơn hẳn họ Pḥng, họ Đỗ đời Đường1776 . Công lao đó trẫm chưa
báo đền, bệnh khanh sao đă trẫm trọng thế? Nếu khanh nghĩ đến nước,
th́ cơm cháo phải cố mà ăn, nếu khanh lo cho trẫm th́ thuốc thang
phải cố mà uống. Đối với Sư Hồi, khanh chẳng phải là thân phụ đó
sao? Hăy nên dốc ḷng hết ḷng thành kính của ḿnh. Người xưa cúng
trời tế quỷ để trừ tai ách, khanh thử nghĩ xem!".
Dụ Thiêm [17b] đô ngự sử
Nguyễn Thiện rằng:
"Khoảng năm Thái Ḥa,
Diên Ninh, trên th́ Tể tướng, dưới đến trăm quan, tranh nhau ḅn
lợi, hối lộ bừa băi. Ngươi bảo Nguyễn Đ́nh Mỹ là kẻ tiểu nhân, không
thể tin dùng. Ta lên ngôi báu đến nay đă năm năm, Đinh Mỹ bôn tẩu
phục vụ rất chăm, dốc ḷng hết sức, trước th́ xiềm nịnh là thế, sau
lại lương thiện là thế, thực có ǵ là hại đâu? Hồi Lệ Đức hầu ưa
thích của quư vật lạ, Nguyễn Như Đổ và Trần Phong đi sứ sang Bắc mua
sắm kể hàng ngàn, xoay xở đủ trăm cách. C̣n như ḷng trung của hai
người đó th́ ai biết? Ngươi hăy nghĩ cách học tập họ".
Lại dụ Nguyễn Thiện rằng:
"Ngươi làm bề tôi của ta,
hết ḷng trung thành lo việc nước, kính cẩn chăm nom chức nhiệm,
nhiều lần dâng lời hay. Trẫm có lúc dùng quyền oai, ngươi chưa thấy
bao giờ chịu nhục bớt. Tuy công việc chưa có ǵ nổi bật, kẻ xấu chưa
đàn hặc hết được, nhưng đại khái cũng đáng khen thưởng. Đặc sai tư
lễ giám đem [18a] sắc đến dụ ban thưởng cho bạc lạng. Ngươi hăy cố
gắng hơn nữa".
Sắc dụ Binh bộ thượng thư
Nguyễn Vĩnh Tích rằng:
"Nay Dương Quốc Minh nói
năm xưa có đem 34 lạng bạc đến đút lót cho mẹ ngươi, dẫu không chứng
cớ, nhưng chả lẽ lại nói vu? Tuy có dụ này, nhưng ta cũng che giấu
cho để ngươi tự sửa lổi"?.
Lại dụ rằng: "Xem sớ của
ngươi tâu bày, rất là thiết thực, xác đáng, dù họ Vương, họ Ngụy đời
Đường1777 cũng khônghơn được. Đáng ban cho 10 lạng bạc để đáp lại
ḷng trung thành của ngươi. Vả lại, lời bàn của ngươi rất hợp với ư
của tiên nho, trẫm đă khen ngợi và tiếp thu cả".
Ất Dậu, [Quang Thuận] năm
thứ 6 [1465], (Minh Hiến Tông Kiến Nhu Thành Hóa năm thứ 1). Mùa
xuân, tháng giêng, sắc dụ Đô đốc Nguyễn Sư Hồi rằng:
"Án lớn xảy ra luôn, bắt
nhiều con em nhà quyền quư, sao ngươi không nghhĩ kỹ điều đó? Chúng
nó nói dến cả Cung Vương và Lê Niệm, nhưng cẩn thận, chớ nói cho họ
biết".
Ra lệnh chỉ cho các quan
nắm việc kiện tụng rằng:
[18b] "Nên xét định ngay
các đại phu ở Ngũ h́nh viện, người nào xử kiện không có oan uổng th́
ghi thành một hạng, người nào b́nh thường ghi thành một hạng, người
nào hèn kém th́ ghi thành một hạng, tâu tŕnh lên. Hạng không có oan
uổng th́ khen thưởng, hạng b́nh thường thi giữ lại làm việc, hạng
hèn kém th́ bổ chức Chuyển vận1778 ".
Định lệ tế Văn miếu ở các
trấn, lộ vào hai ngaỳ đinh của mùa xuân và múa thu. Chỉ tế mười vị
hiền triết thôi1779 đó là theo lời tâu của Nguyễn Đ́nh Mỹ.
Tháng 2, sắc cho Tả đô
đốc Lê Thọ Vực tuyển chọn đinh tráng. Vua dụ rằng:
"Ngươi là bề tôi giỏi
việc dẹp loạn nên mới đặc biệt sai người làm việc tuyển đinh tráng,
chả lẽ người không hết ḷng thành, bỏ t́nh riêng để không phụ uỷ
thác của ta hay sao?"
Tháng 3, ngày 16, có
nguyệt thực toàn phần.
Đặt sáu viện1780 , lấy
quân lính thân tín làm quân tả hữư Vũ lâm.
Xây điện Kính Thiên.
Mùa hạ, tháng 4, vua ngự
ra Xương Giang, thưởng cho các quan theo hầu mỗi người 1 tư.
Định lệnh đ̣i các quan
nhậm chức bên ngoài bị kiện.
Nhập nội đại hành khiển
bả bộc xạ tham tri chính sự chưởng Nội mật viện sự [ 19a] Lê Cảnh
Huy tâu rằng:
"Khi xét những việc kiện
tụng liên can quan nhậm chức ở bên ngoài, nếu nhẹ th́ cứ cho nha môn
đó lấy cung rơ ràng gửi về nộp. Nếu can việc nặng th́ tâu lên rồi
mới cho đ̣i tới đối chất."
Định lệnh các quan được
sai đi làm việc khi về phục mệnh: Kể từ nay, quan các nha môn được
sai đi làm việc ǵ, là xong, về kinh phải đệ tŕnh ngay bản tâu đến
Thông chính sứ ty rồi đến chực ở ngoài cửa Đông Hoa để đợi gọi vào
hỏi, khi nhận được chỉ mới được về nhà.
Tháng 5, ra lệnh cho Lễ
bộ yết bản khuyên giữ phong hoá.
Mùa thu, tháng 7, làm sổ
hộ tịch. Phép làm: Đều lấy 6 năm làm mức. Đến kỳ, quan các phủ,
huyện, châu, gọi các xă quan lê, mỗi người đem sổ hộ khẩu của xă
ḿnh đến kinh đối chiếu mà viết.
Bắt đầu đặt ngạch nữ đinh
khiêng kiệu.
Tháng 8, sai Hoàng thái
tử vào học. Vua làm thơ đưa cho như sau:
Chí thân hạp bất tận
thành ái, Tiện bế cương trường nhiễu chỉ phu. Sở quốc Phàn Cơ quang
[ 19b ] phụ đức, Trưởng tôn hoàng hậu hữư gia mưu. Đầu sàng trùng sử
Tần vương hận, Dương túy thời tri Vệ Quán ưu. Chúng khẩu hưu hưu
thông nhĩ quát, Hà tằng nhất kiến Tiết Cư Châu. ( Thân yêu há chẳng
hết ḷng này, Xiểm nịnh làm cho dạ đổi thay1781 . Nước Sở Phàn Cơ
nêu đức tốt1782 . Trưởng Tôn hoàng hậu có mưu hay1783 . Tần Vương
hận chuyện lăn ra sập1784 . Vệ quán lo âu khéo giả say1785 , Trăm
miệng ồn ào tai phải điếc, Cư Châu1786 đâu thấy được người ngay1787
). Bây giờ Hoàng thái hậu là người nhân huệ có thừa mà không đủ quả
quyết, răn dạy con cháu chưa bao giờ đổi sắc mặt, có khi đánh bằng
roi vọt, nhưng chỉ một lát lại thương xót. Vua sợ Tranh dần dà trở
nên phóng túng kiêu ngạo, nên làm bài thơ này đưa cho.
Đổi Đô sảnh đường thành
Khâm h́nh thượng thư, Tri từ tụng sự thành Tả hữu thị lang. Trung
thư khoa đổi thành Lại khoa, Hải khoa đổi thành Hộ khoa, Đông khoa
đổi thành Lễ khoa, Nam khoa đổi thành Binh khoa, Tây khoa đổi thành
H́nh khoa, Bắc khoa đổi thành Công Khoa, Biên Khoa đổi thành Thượng
bảo tự, Hành Khiển các đạo đổi thành Tuyên chính sứ ty.
Dựng điện Cẩn Đức.
Tháng 9, ra sắc chỉ rằng:
người nào cố ư giết voi nhà nước [20a] th́ xử tội có mức độ khác
nhau.
Đổi Trần Phong ra làm
Tuyên chính sứ Tây đạo.
Vua dụ các quan trong
triều rằng:
"Trần Cẩn là em Trần
Phong. Cẩn có tội. Trẫm hỏi Phong về hành vi ngày thường của Cẩn th́
Phong nhân thế bới móc hết cái xấu của Cẩn ra, định làm hại Cẩn. Cái
t́nh anh em cơ hồ sụp đổ rồi;
nhân luân bại hoại không
ǵ tệ bằng thế. Nếu Phong biết sửa chữa lầm lỗi một ḷng trung hiếu,
th́ ta cũng kiễng chân mà chờ đợi kết quả sửa đổi sau này của hắn".
Có thánh chỉ dụ các quan
trấn, huyện lựa chọn duyên lại trong nha môn của ḿnh xem người nào
tài giỏi, liêm khiết, quen thạo công việc cho tâu lên đặt mỗi nha
một người thường xuyên để tiện làm việc.
Bấy giờ, Hàn lâm viện đại
học sĩ quyền Ngự sử đại phu Trần Bàn tâu rằng:
"Triều đ́nh đặt quan,
phân chức cốt là v́ dân, dân chúng thưa kiện phiền toái, sổ sách
giấy tờ gấp vội, quan không thể soi xét xử lư hết được, lại giao cho
lại cho kiểm xét giấy tờ. [20b] Cho nên tâu rằng: "Quan không có lại
th́ không đi được, lại không có quan th́ không đứng được" là bởi để
cùng nhau làm việc vậy. Nay thần trộm lo rằng, các nha môn sổ sách
giấy tờ gấp vội, khó ḷng tránh khỏi tội lỗi. Cúi xin định lệ ban
xuống cho các huyện, lộ, mỗi nơi đặt một người duyên lại thường
xuyên, am hiểu sổ sách giấy tờ, giỏi viết chữ, làm tính để giữ công
văn giấy tờ. Như thế th́ sổ sách giấy tờ không c̣n lo chậm đọng nữa,
mà dân cũng khổ v́ nạn ở lại hầu kiện lâu ngày".
Vua y cho, nên định lệ
này.
Mùa đông, tháng 10, cấm
bọn con hát không được giễu cợt cha mẹ và quan trưởng.
Vua sai sứ sang nhà Minh:
Đào Tuấn, Đào Chính Kỷ, Lê Đích nộp cống hằng năm; Nguyễn Sĩ Hưng
tâu việc châu Bảo Lạc bị bắt người cướp của.
Tháng 11, đại xá, v́ hai
điện Kính Thiên và Cẩn Đức mới làm xong.
Quốc tử giám tế tửu kiêm
Văn minh điện đại học sĩ Nguyễn Bá Kỳ chết.
Trước đó, Bá Kỳ cho rằng
vua làm [21a] văn không chú ư tới kinh, sử, dâng sớ khuyên căn. Vua
dụ rằng:
"Trẫm vừa xem hết tờ sớ,
ngươi bảo là trẫm không chú ư kinh, sử, lại chuộng lối học phù hoa,
vô dụng, chỉ ngụ ư ở ngoài mây khói. Nếu ta ưa chuộng văn hoa, không
lấy gốc kinh, sử, th́ c̣n sách nào nữa? Ta tự xét ḿnh, xét lời
ngươi nói, th́ trong bốn chữ "phù hoa vô dụng" kia, thực đă gồm cả
ḷng trung rồi, thế mà ta lại làm văn mà biện lại, th́ ta thực có
lỗi. Lúc ấy, ngươi đă kịp thời can ngăn, chẳng v́ thế mà giữ ư".
Đến đây chết, vua sai Tư
lễ giám quan Phạm Hổ đem sắc đến dụ rằng:
"Ngươi thờ vua trung
thành, giữ ḿnh chính trực, sớm tối ở bên ta, nay đă được 6 năm, lúc
thoi thóp rồi mà ḷng trung vẫn măi chưa thôi!".
Ban hành phép duyệt tập
trận đồ thủy bộ.
Về thủy trận th́ có những
đồ pháp như: Trung hư1788 , Thường sơn xà1789 , Măn thiên tinh1790 ,
Nhạn hàng1791 , Liên châu1792 , Ngư đội1793 , Tam tài hành1794 ,
Thất môn1795 , Yển [21b] nguyệt1796 .
Về bộ trận th́ có những
đồ pháp như: Trương cơ, Tương kích, Kỳ binh. Lại ban 31 điều quân
lệnh về thủy trận, 22 điều về tượng trận, 27 điều về mă trận, 42
điều về kinh vệ bộ trận.
Vua lại dụ các Tổng quản,
Tổng tri các vệ quân năm đạo và quân các phủ trấn rằng:
"Hễ có quốc gia là phải
có vơ bị. Những lúc rỗi việc làm ruộng, phải ngừng những việc không
cần kíp, cứ ngày rằm hằng tháng, th́ vào phiên để điểm mục, liệu cắt
quân nhân vào những việc như giữ cửa nhà, điếm canh, kiếm cỏ lợp
nhà, nuôi voi... C̣n th́ trước đó một, hai ngày, phải theo các trận
đồ nhà nước ban xuống, ở ngay địa phận của vệ ḿnh đóng, tiến hành
chỉnh đốn đội ngũ, dạy quân lính những phép ngồi, đứng, tiến, lui,
tập nghe những tiếng hiệu lệnh chiêng trống, cho quân lính quen với
cung tên, không quên việc vơ bị. Đến ngày thứ tư trở đi, mới sai làm
[2a] tạp dịch. Nếu quan nào không biết để tâm răn dạy, rèn tập quân
lính, dám sai chúng làm các việc tạp nhiễu th́ cứ xử biếm chức hoặc
băi chức".
Bính Tuất, [Quang Thuận]
năm thứ 7 [1466], (Minh Thành Hóa năm thứ 2). Mùa xuân, tháng giêng,
truy đ̣i tiền thuế1797 .
Tháng 2, ngày mồng 8, ra
sắc chỉ đạo cho các nha môn rằng:
Quan viên nào có tội, th́
cho quan quân quản lĩnh viên đó truy đ̣i sắc mệnh cấp cho khi trước,
thu về bản khoa để lưu giữ.
Lê Nhân Khoái tâu rằng:
"Tất cả các trường hợp bị giáng chức, nếu băi chức đến các tội đi
đày, tử h́nh th́ phải thu lại hết sắc mệnh đă cấp trừ trước". Vua y
theo.
Đặt các chức Tham chính,
Tham nghị, Chủ sự, Thôi quan ở Tuyên chính sứ ty.
Lấy Phạm Văn Hiền làm
Khâm h́nh viện thượng thư; Nguyễn Th́ Đật làm Tuyên chính sứ của
Tuyên chính sứ ty Thuận Hóa; Nguyễn Văn Chất là Tham chính của Tuyên
chính sứ Nghệ An; Lê Nhân Khoái là Tư binh viện nhập nội thiếu bảo
[22b] thượng thư.
Tuyên chính sứ Tây đạo
Trần Phong tâu rằng:
"Những văn tự cầm bán
ruộng đất từ đời Trần, Hồ đến đời Ngô1798 th́ đều không được chuộc
lại. Nếu từ năm Thuận Thiên thứ 1 đến nay th́ cho chuộc".
Vua y theo.
Tổ chức thi hội cho các
thí sinh trong cả nước. Lấy đỗ 27 người.
Tháng 3, ngày 12, vua ngự
ra điện Kính Thiên, thân hành ra đề bài văn sách hỏi các đế vương
trị thiên hạ.
Sai Sùng tiến nhập nội tả
đô đốc kiêm thái tử thiếu bảo Lê Cảnh Huy và quyền Chính sự viện
thượng thư kiêm Cẩn Đức điện đại học sĩ thái tử tân khách Nguyễn Như
Đổ làm đề điệu, Hàn Lâm viện đại học sĩ quyền ngự sử đài đô ngự sử
đại phu Trần Bàn làm giám thí. Hàn lâm viện thừa chỉ Nguyễn Trực,
Hàn lâm viện thừa chỉ quyền Hộ bộ hữu thị lang kiêm Cẩn Đức điện đại
học sĩ nhập thị kinh diên tả xuân phường thái tử tả dụ đức Nguyễn Cư
[23a] Đạo, Hàn lâm viện học sĩ hành Hải Tây đạo Tuyên chính sứ ty
tham tri kiêm bí thư giám học sĩ Vũ Vĩnh Trinh làm độc quyển.
Lấy bọn Dương Như Châu 8
người đỗ tiến sĩ; bọn Nguyễn Nhân Thiếp 19 người đỗ đồng tiến sĩ.
Quy chế 3 năm một lần thi hội là bắt đầu từ khoa này.
Ngày 26, xướng danh bọn
tiến sĩ Dương Như Châu. Vua ban ân mệnh. Lễ bộ đem bảng vàng yết ở
ngoài cửa Đông Hoa.
Tập thủy trận ở Giao
Thủy.
Tháng 3 nhuận, ngày mùng
3, ban cho bọn tiến sĩ Dương Như Châu vinh quy.
Xét: Bài Tiến sĩ đề danh
bi kư của Đàm Văn Lễ ghi:
"Nhân tài có quan hệ rất
lớn đối với nước nhà. Từ đời Đường Ngu, Tam đại đến Hán, Đường,
Tống, lập ra tường tự, học hiệu1799 mà nhân tài được đào tạo, ban
hành phép thi cử mà nhân tài được sử dụng. Tuy hiệu quả trị nước có
thuần, có tạp [23b] nhưng chưa bao giờ không coi việc chọn người tài
giỏi đâu.
Lê Thái Tổ b́nh định
thiên hạ nuôi dạy anh tài, hỏi t́m rộng răi th́ cầu người ẩn dật,
thu chọn quy mô th́ thi khảo học tṛ, tuy chưa đặt khoa thi tiến sĩ
mà khí mạch văn học đă đủ. Thái Tông dựng nền móng, từ năm Nhâm Tuất
mở khoa thi mà nhân tài quần tụ.Nhân Tông kế tiếp mở ba khoa thi mà
nhân văn càng thêm rực rỡ. Đền Thánh Tông trung hưng năm Quư Mùi th́
số người lấy đỗ nhiều hơn cả so với trước.
Song từ khoa Nhâm Tuất
đến khoa Quư Mùi, khi th́ 6 năm một khoa, lúc lại 5 năm một khoa,
c̣n 3 năm một khoa th́ năm Bính Tuất này mới bắt đầu. Những người
thi đỗ, đều xứng đáng là nhân tài cả. Sau này, chế độ ngày càng
tường tận, văn học ngày càng đầy đủ hơn. Thi hội có đăng khoa
lục1800 đă đủ nêu sự thịnh trị của đời nay, có đề danh bị1801 lại đủ
làm gương khuyến khích cho hậu thế".
[24a] Mùa hạ, tháng 4,
cấm các quan chuyên đổi đi nơi khác không được dỡ lấy các thứ đồ
dùng ở công sở.
Bắt đầu đặt năm phủ 1802
sáu bộ 1803 . Đổi đặt sáu viện thành sáu tự 1804 ,đổi Khâm h́nh viện
thành H́nh bộ, đều đặt chức Thượng thư ở các Lại, Hộ, Lễ, Binh,
H́nh, Công.
Tháng 5, Thái bộc tự
thiếu khanh hành Thượng bảo tự thiếu khanh Lê Đ́nh Tuấn tâu rằng:
"Vào tháng 5, tháng 6,
đương mùa làm ruộng, những quân nhân ứng dịch ở thường ban th́ cho ở
lại túc trực và làm các việc giữ cửa, coi nhà, canh điếm, lợp nhà,
cắt cỏ, nuôi voi, c̣n các sắc quân ở các sảnh, viện và những thợ ở
cục Bách tác th́ giữ lại một nữa làm việc, c̣n th́ cho về làm
ruộng".
Vua y theo.
Ban cho tả đô đốc Lê Thọ
Vực 20 lạng bạc.
Vua dụ rằng:
"Ngươi làm bề tôi cho ta
đă 7 năm rồi, chỉ biết nêu rơ những việc làm trong chức trách của
ḿnh mà chưa bao giờ nói đến những điều không đúng trong các việc
của ta. Nhân nhận được tờ tâu này của ngươi, ta rất khen ngợi, đặc
cách ban cho ngươi [24b] 20 lạng bạc để c̣n mong đợi về sau nữa, chứ
có phải v́ việc nhỏ này mà thưởng đâu"..
Bây giờ, Thọ Vực tâu:
1. Các quan viên văn vơ
nếu bất thần cho triệu vào th́ đều truyền cho trung quan dẫn vào.Nếu
b́nh thường ra vào cửa cấm, như các chức học sĩ của sáu khoa th́ cứ
cho vào.
2. Các nơi có dâng voi,
ngựa hoặc những thứ khác th́ đêu dẫn vào ngoài cửa Đoan Minh để vua
xem bản tâu rồi đợi xin lệnh chỉ.
Vua hạ lệnh ban bố ngay
hai điều đó và đặc cách ban thưởng cho.
Khảo thi chức huấn đạo ở
các phủ.
Ra sắc chỉ rằng: Nếu
khuyết viên huấn đạo nào th́ sai quan sở tại chọn giám sinh các
đường và lại viên các nha môn, người nào thi hội trúng các kỳ đệ
nhất, đệ nhị, đệ tam, lại có hạnh kiểm, học vấn, từ 35 tuổi trở lên,
theo như lệ năm trước, khảo thi 4 kỳ đều đỗ th́ mới cho làm.
Tháng 6, quy định màu sắc
y phục của các quan văn vơ: Từ nhất phẩm đến tam phẩm mặc áo màu
hồng; tứ, ngũ phẩm mặc áo màu lục, c̣n th́ đều mặc áo màu xanh.
[25a] Đặt 13 đạo thừa
tuyên: Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc
Oai, Bắc Giang, An Bang, Hưng Hóa, Tuyên Quang,Thái Nguyên, Lạng Sơn
và phủ Trung Đô.
Đổ lộ thành phủ, đổi trấn
thành châu, đổi an phủ sứ các lộ Tri phủ, Trấn phủ thành Đồng tri
phủ, Chuyển vận thành Tri huyện, Tuần sát thành Huyện thừa, Xă quan
thành Xă trưởng.
Ban cấp ấn Tri phủ, thôi
cấp ấn An phủ cho các lộ.
Định lại rơ lệnh kiêng
chữ húy.
Mùa thu, tháng 7, đổi
chức Ngũ chánh, Ngũ trưởng thành Tổng kỳ, Phó ngũ trưởng thành Tiểu
tổng kỳ. Đổi đội sử thành qun lại. Đổi các tượng nhân ở Công bộ
thành phó ngũ trưởng.
Định thể thúc các bản
tâu, bản đề: Các bản tŕnh bày về phụng mệnh thánh chỉ, hoặc t́nh
h́nh thi hành của các nha môn th́ gọi là bản đề; c̣n tất cả những
bản tâu bày các việc công tư nào đáng phải tâu bày của quan lại các
nha môn và dân chúng th́ gọi là bản tâu.
[25b] Lấy Thiêm đô ngự sử
Nguyễn Thiện làm Thanh Hoa tuyên phủ phó sứ. Bài dụ viết:
" Ngươi trước làm gián
quan bàn luận thẳng thắn, thiết thực. Nay vỗ yên trăm họ, nga8n giữ
một phương, phải làm theo phép nước, lo cho dân, bớt nóng nảy, nén
dục vọng. Ngươi hăy kiên tŕ gắng gỏi, đừng để thẹn với chức trách
của ḿnh".
Bọn Trung thư lệnh bí thư
giám học sinh Lương Như Hộc vâng mệnh nghị thảo rằng:"Những bản viết
của các nha môn, nếu gặp khi chánh quan khuyết hoặc đi việc quan
vắng, th́ quan tá thay giữ ấ tính của nha môn ấy kư tên ở dưới chổ
đề năm tháng".
Tháng 8, Bùi Lựu tâu
rằng:
"Quan các nha môn đổi đi
nhậm chức nơi khác, các việc kiện tụng và giấy tờ đương xét chưa kịp
bàn giao, đợi đến hôm khác lại trở về bàn giao, vừa phiền người đón
tiếp, vừa chậm việc xét kiện. Cúi xin hễ khi quan viên đổi đi nới
khác, cho họ khai những giấy tờ và các việc kiện tụng cùng các loại
công việc khác trong chức trách của ḿnh; trao cho viên duyện giữ
việc này nhận[26a] giữ, đợi thấy quan mới đến sẽ giao lại để thi
hành".
Vua y theo.
Tháng9, ra sắc chỉ rằng:
Quân Vũ lâm phạm tội phải về làm dân, không được trở về hạng con
quan.
Mùa đông, tháng 10, ban
ấn chỉ cho các bộ.
Đổi Tả h́nh thành Thanh
h́nh ty lang trung đại phu, Hữu h́nh thành Thận h́nh ty lang trung
đại phu, Tư h́nh thành Minh tường h́nh. Thôi không đặt chức quan
thẩm h́nh, đều đặt chức Lang trung. Đặt các thuộc viên ở Y ty và
Huấn khoa.
Dụ Thiêm đô ngự Đào Tuấn
rằng:
"Khoảng Thái Hoà, Diên
Ninh, chức Ngự sử không ở ngoại thích th́ ở quyền thần, v́ thế công
luận lộn bậy, không phân biệt đâu là ngựa đâu là hươu, tệ hại cho
việc không lúc nào trầm trọng hơn thế".
Lại dụ rằng: "Đào Tuấn
trái bỏ phép nước, tự ư làm càn, nay giữ chức Ngự sử lại nói năng
khinh xuất, rơ là loài hoạt lại".
Đinh Hợi, [Quang Thuận]
năm thứ 8 [1467], (Minh Thành Hóa năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng,
vua ngự về Tây Kinh, khi trở về, tập trận ở sông Thiên Phái 1805 .
[26b] Đại xá. Từ mùa
thuđến mùa đông, trời đă lâu không mưa.
Xét bài văn đại xá nói:
Vua dụ cho các công hầu, quan viên văn vơ và trăm họ rằng:
"Trẫm là kẻ không có đức,
làm chủ muôn dân. Muốn cho mọi người đề giàu đủ, yên vui để tiến tới
thịnh trị. Năm ngoái, từ mùa thu đến mùađông, trời măi không mưa,
người mất hy vọng được mùa, dân lo khó khăn đói kém. Trẫm là cha mẹ
dân, chỉ biết đau xót trong ḷng. Nếu không ban ơn rộng khoan tha
th́ sao thấy huệ thực tới dân được?".
Cấm dệt mũ mát 1806 v́
người ta hay cắt trộm lông đuôi ngựa công, tư để làm.
Ra sắc chỉ rằng: Quan
triều tham đeo thẻ bài đi theo hầu th́ nên ghi chữ "hỗ ṭng" vào thẻ
bài.
Cấm dùng diêm tiêu làm
tṛ chơi đốt pháo bông, đó là theo lời tâu của Hộ bộ thượng thư Trần
Phong.
Xuống sắc chỉ cho vệ Trấn
sóc 1807 rằng: Kể từ nay, kỳ đại duyệt binh sắp xong, th́ ba bộ ty
Đô, Thừa, Hiến sở tại, mỗi ty cử hai người lên bản vệ giữ lệnh, báo
cáo và các tướng hiệu, kỳ quân ở các sở kinh lược sứ Bác Nẫm, Vĩnh
Bồng 1808 cũng đều đến cả bản vệ để tập trận.
Ngày mồng 10, sai Đô đốc
5 phủ là bọn Trịnh Văn Sá, Lê Hy Cát cùng Binh bộ [27a] thượng thư
Nguyễn Vĩnh Tích duyệt tuyển các Đại, Tiểu tổng kỳ của các vệ trong
5 phủ để sung làm quân của 5 vệ Điện tiền.
Lễ khoa cấp sự trung Nhữ
Văn Lan tâu rằng: Tiểu tổng kỳ th́ phải 9 năm trở lên mới được thực
thụ. Vua y theo.
Ngày 12, bắt đầu định lễ
bao phong các thần vào dịp tế xuân; không dùng cổ chay, dùng lụa để
tế, theo phong tục nước ḿnh thôi.
Ngày 16, làm lễ Khánh thọ
ở điện Cần Chính.
Trước đây, cứ đến đầu mùa
xuân th́ làm lễ bao phong các thần ở Thái miếu, xong rồi th́ làm lễ
Khánh thọ. Đến đây, mới làm lễ Khánh thọ ở điện Cần Chính 1809 . Sau
đó làm lệ thường.
Ngày 18, lấy con cháu các
quan viên trước đă sung làm quân ở vệ Kim ngô, người nào thi đỗ th́
sung làm giám sinh Quốc tử giám, nếu thi hội trúng trường 1810 th́
sung làm tam xá sinh 1811 . Người nào đỗ thi hương và có tư chất tốt
th́ cho làm giám quan kể ra, tâu xin cho ở lại học tập. Bắt Giám sát
ngự sử Quản Công Thiêm v́ Lương Thế [27b] Vinh hặc tội ông này dung
túng kẻ đưa hối lộ là Hán Tông Nghiệp.
Ngày 27, vua bắt đầu đến
Lam Kinh bái yết lăng Lam Kinh.
Ngày 29, ngự giá đóng tại
hành điện An Bạc. Ban phép tập trận đồ.
Tháng 2, ngày Đinh Dậu
mồng 1, có nhật thực.
Làm lễ tế Văn miếu.
Ngày Giáp Th́n mồng 8,
vua thấy trời đă lâu không mưa, tâu cáo để cầu. Lại sai bọn thái bảo
Nguyễn Lôi làm lễ cầu đảo ở các đền Chí Linh, Hoằng Hựu.
Sai Hộ bộ thượng thư Trần
Phong cùng bọn quan Tuyên chính Phan Sư Tông đi khám đất công ở
hương Lam Sơn và thôn Dâm để cấp cho các công thần từ nhất phẩm đến
lục, thất phẩm theo thứ bậc khác nhau. Lại dụ các quan và bô lăo
rằng:
Lam Kinh là đất căn bản
nơi quê vua, không ví như các nơi kinh sư khác được. Mới rồi bọn thế
gia hay làm trái phép, coi thường pháp luật, chiếm đoạt đất đai làm
của riêng, công chúa không có lấy [28a] tấc đất cắm dùi. Muốn dùng
pháp luật mà buộc tội, sao bằng lấy lễ nghĩa báo trước, sao cho họ
vua ngày một đông đúc cũng có chỗ mà nương thân. Nay định rơ giới
hạn, kẻ nào c̣n dám vi phạm, th́ phải trị tội theo pháp luật.
Ngày Ất Tỵ, mồng 9, sai
Hành tổng binh Khuất Đà đem quân đi đánh Ai Lao.
Trước đây Ai Lao chiếm
động Cư Lộng, lấn cướp ngoài biên. Tới đây, quan giữ biên giới đem
việc ấy tâu lên. Vua sai Khuất Đả đem hơn 1.000 quân đi đánh. Lấy
Đồng tổng binh vệ Định huân là Nguyễn Động làm phó và Nghiên Nhân
Thọ làm Tán lư quân vụ, họp với quân đồn thú trấn Gia Hưng mà đánh.
Vua bảo Nhân Thọ rằng: "Ngươi và Khuất Đả được phép tự tiện làm
việc". Nhân Thọ tới chỗ lưu thủ Đông Kinh là Thái bảo Lê Niệm xin
viện binh ở Vũ khố mà đi.
Dụ cho quan lưu thủ là Lê
Niệm phát 50 quan tiền kho nhà nước, sai Tế sinh đường mua thuốc,
sai người chữa chạy [28b] cho những người mắc bệnh dịch ở các phủ
Quốc Oai, Tam Đới và dụ rằng:
"Từ nay về sau, phủ nào
có bệnh dịch th́ cho phép các quan địa phương đó dùng tiền thuế mua
thuốc chữa cho dân".
Ngày 15, xa giá đế hành
điện Phi Lai. Bấy giờ sứ thần nước Chiêm là Thẩm Phác Lặc Sa sang
tiến cống, vừa đến nơi, nên cho triều kiến tại hành điện.
Ngày 16, quan trấn phủ An
Bang tâu việc thuyền chở lương của người Minh bị giạt đến xứ ấy. Vua
bảo Thái sư Đinh Liệt và Thái bảo Nguyễn Lỗi rằng:
"Mới rồi, trẫm bảo bắt
giữ người chở lương của nước Minh là v́ có thể họ bày ra kế ǵ đó để
lừa ta. Ta muốn ngăn ngừa mưu kế củ họ. Đó là việc quyền nghi nhất
thời, chứ không phải đạo thường làm đâu".
Bọn Lỗi tâu:
"Nếu họ liều lĩnh gây
chuyện bất ngờ khác mà đặt ra kế ấy, ta bắt họ th́ họ sẽ có cớ để
nói được, chi bằng thả cho về. Nếu không thế, e rằng sẽ xảy ra hấn
khích nơi biên giới".
Vua nói:
"Các khanh nói tuy phải,
[29a] nhưng lỡ kẻ gian phản phúc th́ sao?".
Đô ngự sử Nguyễn Cư Đạo
nói:
"Lời bàn của các quan tuy
có dị đồng mà quyết định như thế nào là ở nhà vua thôi".
Rốt cuộc giữ người Minh
không cho về.
Ngày 20, diễn tập trận đồ
trung hư ở Lỗ Giang 1812 .
Vua ngự đến trị sở của
thừa tuyên Thiên Trường, hỏi quan Thừa tuyên là bọn Phạm Du về những
khó khăn của dân và ban tiền cho bọn Du và Tri phủ Nguyễn Tự theo
thứ bậc khác nhau.
Sai Quyền tổng tr vệ Ninh
Sóc 1813 là Đào Viện là Đốc tướng thay Khuất Đả đi đánh Ai Lao. Bọn
Đả đến th́ Ai Lao đă chạy trốn trước rồi. Bọn Đả phi báo rằng Ai Lao
xin trả lại đất chiếm, vậy xin đem quân về. Vua bảo Khuất Đả để Đào
Viện thay coi quân và ban cho 10 quan tiền.
Tháng ấy, ngày 23, tập đồ
trận tam tài và thất môn ở sông Vi1814 . Bọn Tây quân Đô đốc Lê
Thiệt trái lệnh, bị trói đưa đến cửa doanh, rồi sau lại được tha.
[29b] Băi quan chức của
bọn Trấn điện phó tướng quân Lê Hán Đ́nh.
Trước kia, Hán Đ́nh làm
Chuyển vận, khi tại chức tham ô, sợ dân kiện, tâu xin nghỉ dưỡng
bệnh. Chỉ huy sứ Đào Bảo tiến cử Hán Đ́nh lên triều đ́nh, nói chuyện
vận Hán Đ́nh và Thái chúc thừa Nguyễn Đức vốn giỏi binh pháp. Bọn
Hán Đ́nh dâng các trận đồ: 1) Trung hư; 2) Măn thiên tinh, 3) Thường
sơn xà... Vua khen ngợi, phong hai người làm Trấn điện phó tướng
quân, sai quân 5 phủ tập theo trận đồ, hai ba lần đều không được.
Vua sai hai người ra dạy cũng không được. Vua nổi giận sai bắt đánh
trượng rồi băi chức đuổi về bản quán.
Ngày 26, tập trận đồ ngư
đội, nhận hàng ở sông An Cha, tập trận đồ Thường sơn 1815 ở ngă ba
sông Bạch Hạc.
Ngày 29, đại giá về kinh
sư.
Tháng 3, Lại bộ tâu về
việc khảo thi các cận thị học sinh để bổ làm giám sinh các huyện,
khảo thi Quốc tử giám [30a] giám sinh và lại viên các nha môn bổ làm
giáo chức các phủ. Vua y theol.
Dinh thiện viên ngoại
lang Hoàng Văn Biền bị bỏ ngục và phạt 50 quan tiền. Công bộ hữu thị
lang Trịnh Công Đán bị phạt 30 quan tiền v́ bỏ phơi mưa nắng những
gỗ, lạt của công.
Sai các ty tàm tang đào
hồ ở đ́nh Giảng Vơ.
Ra lệnh t́m kiếm những di
cảo thơ văn của cố Hàn lâm thừa chỉ học sĩ Nguyễn Trăi.
Sai Lễ bộ thượng thư Lê
Hoằng Dục đăi yến sử thần Chiêm Thành ở quán Bắc Sứ. Sai nội quan
hỏi sứ thần nước Chiêm về lễ thờ nước lớn. Sứ Chiêm trả lời:
"Nước Chiêm tôi đối với
thánh triều như là con cái cậy nhờ bố mẹ, dạy bảo thế nào th́ xin
theo thế. Nhưng thiên tử có lệnh truyền ngoài vật tiến cống theo lệ
đă định, lại phải cống thiếc nữa. Đó là lệ mới, không dám tự tiện
trả lời. Cúi xin sai sứ sang hỏi chúa nước tôi để vẻ vang cho nước
dưới". Vua không nghe.
Thu lại quân quyền Tây
quân đô đốc Lê [30b] Thiệt, v́ con Thiệt là Bá Đạt đang giữa ban
ngày phóng ngựa ra phố, dung túng gia nô đánh người.
Lấy Hộ bộ thượng thư kiêm
cung sư phủ thái tử tân khách Trần Phong làm H́nh bộ thượng thư kiêm
thái tử tân khách; Lại bộ thượng thư Phạm Văn Hiển làm Trung quân
phủ đô đốc đồng tri; Lễ bộ thượng thư kiêm thái thường tự khanh Lê
Hoằng Dục làm tây quân phủ đô đốc đồng tri; Công bộ thượng thư Bùi
Quát làm Đông quan phủ Đô đốc thiêm sự; H́nh bộ thượng thư Phạm Công
Nghị làm Lễ bộ thượng thư; Ngự sử đài phó đô đốc ngự sử kiêm Cần
Chính điện phụng thị kinh diên Nguyễn Cư Đạo làm ngự sử đài đô ngự
sử quyền Hộ bộ thượng thư tri kinh diên sự; Thiên Trường thừa tuyên
sứ Phạm Du làm Tuyên uư đại sứ quyền Công bộ thượng thư; Ngự sử đài
phó đô Ngự sử Trần Xác làm cung sư phủ [31a] thái tử tân khách kiêm
ngự sử đài đô ngự sử; Hàn lâm viện đại học sĩ quyền Lại bộ tả thị
lang kiêmBí thư giám học sĩ Nguyẽn Đ́nh mylàm Cung sư phủ đại học sỹ
quyền Hộ bộ tảthị lan Hàn lâm viện đại học sĩ quyền Binh bộ tả thị
lang; Kiêm Bí thư giám học sỹ Trần Bàn làm cung sư phủ tân khách
quyền Lại bộ tả thị lang; Thái bộc tự khanh hành Thông chính ty
thông chính sứ Lê Trung làm Thứa đức ty thứa đức đại sứ quyền Hộ bộ
hữu thị lang; Quang lộc tự hanh kiêm bí thư giám học sĩ Vũ Vĩnh
Trinh làm Han
lâm viện đại học sĩ quyền
Lễ bộ hữu thị lang kiêm Quang lộc tự khanh bí thư giám học sĩ tri
kinh diên sự; đại lư tự khanh Nguyễn Ninh làm Thiêm sự hành Đại lư
tự khanh; Hữu dụ đức quyền Lại bộ hữu thị lang Phan Duy Trinh làm
[31b] Tuyên uy sứ quyền Thiên Trường xứ thứa tuyên sứ; Hưng Hóa thứa
tuyên sứ tham nghị Nguyễn Đức Du làm Ngự sử đài thiêm đô ngự sử; Tri
phủ Quy Hóa Nguyễn Thúc Thông làm Hưng Hóa thừa tuyên sứ tham nghị.
Tổng quản Khuất Đả cùng
Thông chính ty tả thừa Nghiên Nhân Thọ chiêu dụ được bọn giặc Ai Lao
là Đạo Đồng1816 ra hàng rồi đem quân về.
Trước đó, quan quân đến
Mộc Châu phủ Gia Hưng, lấy 300 thổ binh đến thẳng sách Câu Lộngở Mă
Giang đóng quân nửa tháng. Khuất Đả chia sai Tổng tri vệ Gia Hưng Lê
Miễn đem quân vệ ḿnh đến Khâu Chúc, hợp với thổ quân của hai châu
Việt và Mỗi 1817 , nói phao lên là đánh quân giặc quấy nhiễu, nhưng
thực ra là ngăn chăn đường hiểm yếu. Bọn giặc nghe tin vỡ chạy.
Khuất Đả sai người lấy lẽ họa phúc lợi hại dụ bảo. Bọn Đạo Đồng đến
cửa doanh đầu hàng. Khuất Đả bèn sai kinh lược Mộc Châu là người Man
họ Xa sửa lại cửa ải củ, [32a] cùng với thổ quan là phụ đạo Cầm La
đốc suất thổ binh canh giữ. Bọn Đả đem quân trở về.
Trong chiến dịch này, cả
đi lẫn về chỉ có 18 ngày, hành quân tới đâu, hàng ngũ nghiêm chỉnh,
đến gà chó cũng không bị kinh động. Ngày dâng tù, vua muốn đưa bọn
giặc trở về xứ sở của chúng giết đi để răn đe kẻ khác. Bọn Thái bảo
Đinh Liệt thưa rằng:
"Đạo đồng nếu quả thực
ḷng hàng phục th́ tha tội chết cho hắn để khuyên dụ kẻ sau. Nếu do
bị săn đuổi bức bách quá mà ra hàng để mong khỏi chết th́ giết đi là
phải".
Vua không nghe. Đến đây,
sai người lấy gạo ấy cấp cho số người trong thuyền đó, mỗi người một
hộc, bắt sung vào ty Đồn điền. [32b] Số gạo c̣n lại, sai Tứ thành
binh mă chở lên các xứ Tuyên Quang, Quy Hóa, Đà Giang, cấp cho những
quân nhân về hội quân mà túng đói.
Lấy Ngự sử đài thiêm đô
ngự sử Dương Tông Hải làm Đô cấp sự trung quyền Thượng bảo tự khanh.
Hàn lâm viện trực học sĩ
quyền Công khoa cấp sự trung Lương Thế Vinh hặc tội Trấn điện tướng
quân Bùi Huấn. Tờ tâu đại khái nói:
Luân thường lớn của con
người có 5 điều trong đó. Nay Huấn đương lúc c̣n tang vợ mà đi lấy
con gái của người về hàng bạn hữu, hơn nữa trước đây đă lấy con gái
của người ấy làm vợ cả rồi. Tệ bạc trong ân ái vợ chồng, khinh miệt
đạo cương thường đến thế. Việc này quan hệ tới phong hóa, làm rối
loạn nhân luân, xin giao cho pháp ty trị tội. Vua y theo.
Bắt đầu đặt Ngũ kinh bác
sĩ 1818 . Bấy giờ các giám sinh học Kinh Thi, Kinh Thư th́ nhiều,
học Lễ Kư, Chu Dịch, Xuân Thu th́ ít, cho nên đặt chức Ngũ kinh bác
sĩ, mỗi người chuyên nghiên cứu một kinh để dạy học tṛ.
[33a] Vũ lâm vệ chỉ huy
sứ Lê Tông Vĩnh khai man tập ấm để được bổ làm quan. Tông Vĩnh vốn
người Gia Viễn, con trai Nguyễn Cố, được Tổng quản Lê Nguyên nuôi
làm con ḿnh, nhờ tập ấm được bổ làm Quyền cấp sự trung, bị Lương
Thế Vinh hặc tội, vua cắt chức.
Thuyền buôn nước Tô Vấn
Đáp Lạt 1819 dâng phẩm vật.
Xuống chiếu giam Đạo Đồng
ở ngục ngự tiền.
Trước đây, người nước
Minh là bọn Lư Mậu Thực 29 tên có hai chiếc thuyền chở 205 hộc gạo
đưa đến Bá chính ty Quảng Đông bị trôi giạt tới An Bang. Tuần ty bắt
được giải tới hành tại. Đô ngự sử Nguyễn Cư Đạo tâu nên thả chúng về
nước.
Giảm bớt số quan châu,
huyện thuộc hai phủ Bắc B́nh, Thông Hóa1820 mỗi phủ, châu, huyện một
viên.
Sai Bắc đạo Giám sát ngự
sử Phan Tông Tiến đến phủ Bắc B́nh xét hỏi bọn quan trấn thủ Lê Lục,
Nguyễn Lượng và bắt giải về kinh.
Bấy giờ người Thổ phủ
Trấn An nước Minh là Sầm Tổ Đức đem hơn 1.000 tên quân đến đóng ở Âm
Động1821 nói phao là đi bắt tên giặc Sầm Vọng đương chạy trốn, rồi
đến cướp bắt người và trâu ḅ, gia súc ở vùng biên giới Nà Man, châu
Thông Nông, trấn Bắc Ninh đem đi, sau lại chiếm giữ ngườii lái thổ
châu Bảo Lạc.
Tổ Đức có tờ tâu rằng:
các thôn Man Ly, Man Nhung vốn trước [33b] giả dối quy phụ Trấn An,
rồi cướp bắt người và sức vật, cúi xin thánh thượng gia ơn sai phái
đại quân đi đánh các thôn Man Nhungvà Man Ly, và xin trừng trị hai
châu Thông Nông, Bảo Lạc, đuổi bọn phạm nhân Sầm Vọng về yên nghiệp.
Triều đ́nh cho rằng những lời của Tổ Đức đều là gian trá. Vua đặc
sai trung thư làm tờ tư thẳng cho Bá chính ty1822 đ̣i trả lại người
và súc vật bị cướp và sai Tông Tiến đi khám xét, bắt bọn Nguyễn
Lượng đem về kinh v́ tội coi giữ không nghiêm cẩn, để cho người
ngoài đến cướp biên giới.
Hiệu úy Hoàng Liễn đem
thổ binh phủ An Tây1823 đánh nhau với người Ai Lao ở Khâu Lạo, làm
tử thương đếnn hơn 3.000 người, thu được nhiều tai giặc.
Đ̣i lại những người Minh
trên thuyền buôn của nước Tô Vấn Đáp Lạt đưa trả về bản quốc.
Mùa hạ, đầu tháng 4, hạ
lệnh cho quan Lại bộ rằng: Các chức quan văn vơ, người nào chân
trắng mới bổ và những người bị giáng chức hay đă nghĩ việc, đều cho
[34a] làm bằng ban cấp cho.
Châu Thuận Mỗi, phủ Gia
Hưng đem nộp vợ con gia thuộc Cầm Đồng và tai của bọn Ai Lao bắt
được đưa về kinh sư.
Ban cấp bản in sách Ngũ
kinh của nhà nước cho Quốc tử giám, theo lời tâu của Bí thư giám học
sĩ Vũ Vĩnh Trinh.
Sai quyền Thượng bảo tự
khanh Dương Tông Hải và Thông chính ty tả thừa Nghiên Nhân Thọ dạy
các quân Kiêu dũng, Binh mă đọc sách.
Bọn Đô cấp sự trung Trịnh
Thiết Trường hặc tội bọn H́nh bộ Đỗ Tông Nam làm quan ăn hối lộ, Lại
bộ Nguyễn Như Đổ tiến cử người xấu, cả hai đều xin giao cho pháp ty
theo luật trị tội. Vua y theo.
Lấy Nguyễn Phục làm Tham
nghị thừa tuyên Thanh Hóa. Vua dụ Phục rằng:
"Năm trước sai người đi
sứ phương Bắc, được khỏe mạnh mà về; năm nay cho gọi, ngươi lại dâng
lời hay thực rất đáng khen. Nay sai Giám thừa Nguyễn Lỗi đem bạc
lạng ban thưởng để biểu dương ḷng trung thành củaa ngươi [34b] và
tỏ hết sự chí t́nh của ta, hăy nhận lấy".
Tháng 5, ngày mồng 1, Tri
châu Đào Phục Lễ ở phủ Bắc B́nh tâu rằng:
Thổ quan phủ Trấn An nhà
Minh sai Tông Thiệu xâm lấn ải Tỏa Thoát1820 , cướp lấy ruộng của xứ
ấy và cướp đoạt trâu ḅ súc vật. Vua giao xuống cho triều thần bàn
kế pḥng giữ. Bọn thái sư Đinh Liệt đều cho là nên giữ kỹ bờ cơi,
không nên gây hấn khích nơi biên giới, nếu thấy nó đến, chỉ chống
giữ thôi.
Lễ bộ thượng thư Phạm
Công Nghị tâu rằng:
"Đời xưa khi dựng nước,
nhân tên nước mà đặt tên họ (tính), nhân chia đất mà ban tên họ
(thị). Như ông Tiết khi được phong ở đất Thương, được ban họ Tử (Tử
thị), ông Tắc khi được phong ở đất Thai, được ban họ, để lập tông
phái. Từ đó về sau, các đời đều có tên họ, như Ngu Thuấn là họ Diêu
(Diêu tính), Hạ Vũ họ Tự (Tự tính), Chu Văn họ Cơ (Cơ tính); mà Cửu
khanh, Tam công, Ngũ thần, Thập loạn1825 đều có công lao với nước,
nhưng chưa từng [35a] thấy ai được ban họ (nhà vua) cả. Đến Hán Cao
Tổ cho là Lâu Kính có công dâng kế sách dựng đô thành bèn ban cho họ
Lưu1826 , Đường Cao Tổ khen Thế Tích có khí tiết bề tôi trong sạch
nên ban cho họ Lư1827 . Đó đều là phương sách chế ngự hào kiệt mà
thôi. Nhưng nguồn vừa khơi ra mà ḍng đă thành vẩn đục. Người làm
tôi th́ cũng cho thế là vinh hạnh, mà không hiểu rằng họ hàng phải
có phả hệ, tuyệt đối không thể lẫn lộn được. Cái sai của việc ban
tên họ có quan hệ rất lớn. V́ người làm tôi mà cùng họ với vua th́
bất kính, người làm con mà quên mất gốc th́ bất hiếu. Làm sao có kẻ
bất kính bất hiếu mà làm nên việc được? Nên sửa bỏ lệ ấy đi. Tất cả
bề tôi đă được ban cho họ nhà vua đều cho đổi lại theo họ cũ của ông
cha để cho tông phái nhà vua được phân minh, cội gốc các họ được rơ
ràng".
Vua y theo.
Phó tổng binh trấn thủ
Tuyên Quang Lê Quỹ tâu rằng:
"Xă Mông Đương trong trấn
bị người Xá đến đốt phá nhà cửa, giết và bắt người".
[35b] Xuống chiếu cho
triều thần bàn. Tể thần là bọn Đinh Liệt nói:
"Bọn man di cơi biên
cương xa xăm đánh lộn lẫn nhau, đó là tục của chúng tôi, chỉ việc
giữ hồi kỹ bờ cơi của ta, không để xảy ra hấn khích ở biên giới là
được".
Ngày 19, sét đánh vào
điếm canh trên thành của vệ Giám môn.
Ngày Giáp Tuất mồng 10,
sai quân ngũ phủ làm kiểu mẫu đồ chiến khí, rồi lại đổi làm kiểu
khác, quân nhân có người than oán. Quân nhân vệ Uy lôi là Văn Lư
dâng sớ đại ư nói:
"Thần trộm thấy hồi tháng
giêng năm nay bệ hạ đă ban ra kiểu mới, sai các quân chế tạo chiến
khí, nay lại đổi làm kiểu khác, như thế là chính lệnh bất thường".
Vua sai Lại bộ dụ Lư
rằng:
"Chiến khí vẫn cùng một
kiểu, ngươi nói thế là nói càn".
Thị lang Lương Nhữ Hộc
nói riêng với Lư rằng:
"Ngươi không phải lấy là
chức phận được nói, sao giám bàn bậy việc nước"?.
Lư Trả lời:
"Nước lấy dân làm gốc, mà
binh là để bảo vệ dân. Nay hiệu [36b] lệnh bất tín, quân dân buồn
rầu than oán, ông là cận thần lại im lặng không nói, tôi thấy mà nói
th́ cũng là yêu vua thôi".
Bọn Như Hộc nín lặng.
Ngày Đinh Sửu 13, Lại bộ
thượng thư Nguyễn Như Đổ tâu rằng:
Những người thi hội đỗ kỳ
thi thứ hai và kỳ thi thứ ba, sung bổ lại viên các nha môn, nay thi
đỗ giáo chức, nên bổ vào các chức kinh lịch.
Vua y tờ tâu.
Ngày Mậu Dần 14, lấy Hàn
lâm viện thị độc học sĩ hành Lại khoa đô cấp sự trung Trịnh Thiết
Trường làm Hàn lâm thị giảng học sĩ quyền Công bộ hữu thị lang,
quyền Quốc Oai đẳng xứ tán trị thừa tuyên sứ ty tham chính Dương
Chấp Trung làm Đại lư tư khanh quyền H́nh bộ tả thị lang, Hàn lâm
thị độc học sĩ thự viện sự kiêm Binh khoa đô cấp sự trung Phạm Cư
làm Thái bộc khanh quyền Lạng Sơn đẳng xứ tán trị thừa tuyên tham
chính.
[36b] Ngày 20, ban nội
yến cho các đại thần và quan có chức sự ở điện Cần Chính.
Sắc dụ các quan trấn thủ,
phó tổng binh và thổ quan các xứ Lạng Sơn, An Giang, Bắc B́nh rằng:
"Quan coi giữ bờ cơi của
triều đ́nh, cố nhiên phải giữ đất yên dân, đánh ngăn giặc ngoài là
chức phận của ḿnh. Mới rồi, người ngoài xâm nhập bờ cơi, bắt người
cướp của, nhiều lần thấy chạy tâu, mà kết quả đánh giữ ra sao th́ im
không thấy báo ǵ. Nay nếu cứ khép vào luật pháp mà trị tội tất cả e
rằng sẽ không hết được. Bọn các ngươi phải dốc ḷng hết sức, là
chuộc lại lỗi trước".
Lại ban khoa lệnh 1828 11
điều.
Lấy Nghiên Nhân Thọ làm
Thượng bảo tự khanh quyền lại khoa đô cấp sự trung.
Cho Quyền tham chính xứ
Lạng Sơn là Nguyễn Kha nghỉ việc.
Ra sắc chỉ rằng: Từ nay
về sau, người nhận chức ở tại nơi biên giới xa phải đủ 9 năm mới
được đổi về các huyện dưới kinh.
Tháng 6, ngày mồng 1, lấy
Đại lư tự khanh Lê Bá Đạt [37a] làm Chiêu thảo đại sứ hành Bắc B́nh
phủ tri phủ thiêm tri Bắc B́nh vệ.
Ra lệnh cho 12 thừa tuyên
điều tra h́nh thế sông, núi, sự tích xưa nay của các nơi trong hạt
ḿnh, vẽ thành bản đồ ghi chú rơ ràng rồi về Hộ bộ để làm bản đồ địa
lư.
Khảo thi và sa thải bọn
Đông cung thị giảng là Vũ Nguyên Tiềm và Tạ Bửu ở Phụng Nghi đường.
Bấy giờ Nguyên Tiềm cùng
Bưu hầu Đông cung học. Vua ngự đến Đông cung, hỏi chữ nghĩa hôm
trước thế nào, Thái tử đem những lời Nguyên Tiềm đă dạy để trả lời.
Vua bèn sai ra ba đề chế, chiếu, biểu bắt bọn Tiềm và Bưu thi ở
Phụng Nghi đường. Bọn Tiềm đều quên lối làm, cả ba bài đều không
thành văn lư. Vua xem xong, phê rằng: "Đáng tởm" và quở trách Lại bộ
thượng thư Nguyễn Như Đổ, Đông cung quan Trần Phong và Đô ngự sử đài
Trần Xác về tội bảo cử bậy.
Sai Đô đốc thiêm sự Khuất
Đả đem 500 quân ngũ phủ đến [37b] bảo Khả Lặc trấn An Bang đuổi đánh
giặc cỏ nhưng không kịp lại trở về.
Sai Quyền lại khoa đô cấp
sự trung Nghiên Nhân Thọ và Đông đạo giám sát Thiều Duy Tinh đến bảo
Khả Lặc, trấn An Bang, xét hỏi việc tướng súy chần chừ và bị thua
như thế nào.
Băi quan chức của Tây
quân đô đốc Lê Thiệt v́ quân lính và chỉ huy của Thiệt sai đi tuần
tiễu biên giới đă dọa nạt lấy bạc của người châu Thoát, việc bị phát
giác, nên Thiệt phải băi chức.
Cho Binh bộ thượng thư
Nguyễn Vĩnh Tích chơi không v́ Vĩnh Tích năm trước đi nhận bạc đút
lót của người, nay ủy cho trọng trách Binh tào, lại xin bậy bổng lộc
cho một viên Tổng tri, cho nên thu lại thẻ bài vẫn đeo và cho ở
không.
Sai lục bộ, lục tư, lục
khoa lựa chọn lại viên của ḿnh, người nào biết chữ, có hạnh kiểm,
mỗi bộ, tự, khoa lấy 2 người để bổ sung việc đi thăm hỏi, điều tra
nỗi đau khổ của dân và điều hay dở của chính sự.
Lấy Lê Bá Trù làm Binh bộ
thượng thư.
Đày Phó tổng binh trấn
[38a] thủ Bắc B́nh là Lê Lục và Đồng tổng tri Nguyễn Lượng ra châu
xa, v́ tội giữ trấn ḿnh mà để cho giặc cướp đốt quan ải. Việc bị
phát giác, bị đày, nhưng được miễn làm khổ sai.
Hạ lệnh rằng thóc chứa ở
các kho trong kinh ngoài trấn, quan địa phương phải bắt người coi
kho thường xuyên xem xét, không được để mưa thấm ướt, hao tổn lương
thực.
Hạ lệnh rằng các quan
chức tá nhị châu, phủ, huyện khi coi việc ở công đường không được
cùng ngồi ở chiếu chính với chánh quan.
Tháng 12, vua đưa ấn
"Thiên Nam Hoàng Đế cho bảo"1829 cho các tế thần xem để cùng bàn.
Quyền Hộ bộ thượng thư
Nguyễn Cư Đạo nói: Ấn của Hoàng Đế là ấn truyền quốc, nhưng hai chữ
"Thiên Nam" h́nh như hơi mới lạ, không bằng dùng các chữ "Thuận
thiên thừa vận chi bảo" rất hàm súc, rất có ư nghĩa.
Vua lại dụ các quan rằng:
"Mới rồi, ấn truyền quốc
đă sai quan bí thư là bọn Lương Như Hộc xét trong sách Văn hiến
thông khảo1830 để đúc, gọi [38b] là Hoàng Đế thụ mệnh chi bảo", các
quan tể thần bàn thế nào, hăy làm bản tâu lên".
Vua muốn xem quốc sử, sai
nội quan tới hàn lâm viện dụ riêng sử quan Lê Nghĩa rằng:
"Trứơc kia, Pḥng Huyền
Linh làm sử quan, Đường Thái Tông muốn xem Thực lục1831 , Huyền Linh
không cho xem. Nay ngươi với Huyền Linh th́ ai hơn?".
Nghĩa trả lời: "Sự kiện ở
cửa Huyền Vũ1832 , Huyền Linh lại không thẳng thắn ghi lại, Đường
Thái Tông phải bảo ghi rồi sau mới ghi, như thế e rằng cũng chưa
phải là hiền thần".
Nội quan nói: "Vua muốn
xem ghi chép hằng ngày từ năm Quang Thuận thứ 1 đến năm thứ 8".
Nghĩa trả lời: "Vua mà
xem quốc sử, hẳn không phải là việc hay. Những việc làm của Đường
Thái Tông và Pḥng Huyền Linh đă bị đời sau chê bai đấy!".
Nội quan nói: "Vua bảo là
xem những ghi chép hằng ngày để biết trước có lỗi ǵ c̣n có thể sửa
được".
Nghĩa nói: "Chỉ cần bệ hạ
gắng làm điều hay thôi, việc ǵ phải xem quốc sử".
Nội quan dụ bảo nhiều
lần, Nghĩa nói:
"Thành chúa nếu biết sửa
bỏ lỗi lầm th́ đó là phúc lớn vô hạn của xă tắc, [39a] thế dẫu không
khuyên can mà cũng không là khuyên can".
Rồi dâng những ghi chép
hằng ngày lên. Vua xem xong trả lại cho Sử Viện.
Bàn (đặt) vệ quân ở trấn
An Bang, v́ đất ấy rất độc lại là cơi biên giời xa xôi, đường sá
nhiều trở ngại, ứng viện không kịp.
Giặc cỏ đánh bảo Khả Lặc,
trấn An Bang.
Sai Tây quân đô đốc phả
thiêm sự Khuất Đả đem 1.000 quân Ngũ phủ, và sai quân nhân hai ty
Thân quân, Điện tiền và hai ty Hiệu úy đi đánh.
Triệu Thái sư Đinh Liệt,
Thái bảo Nguyễn Lỗi, Lê Niệm và Ngũ phủ Trịnh Văn Sái vào cửa Gia
Hựu họp bàn phương sách đánh bọn giặc cỏ.
Lại sai Kiêu vệ điệp tổng
tri Lê Công Nghị dẫn quân Ngũ phủ Trịnh Văn Sái vào cửa Gia Hựu họp
bàn phương sách đánh bọn giặc cỏ.
Lại sai Kiêu vệ điệp tổng
tri Lê Công Nghị dẫn quân Ngũ phủ đi ứng cứu. Sai bọn Nam quân phủ
đô đốc đồng tri Nguyễn Đức Trung đi An Bang đốc thúc đánh bọn giặc
cỏ, cho phép chém trước tâu sau. Phát 3 vạn thăng gạo kho sai người
phủ Trung Đô làm lương chở tới trấn An Bang để [39b] cung cấp cho
quân lính.
1750 Sao Xuy Vưu: tục gọi
là sao Cờ, giống như Sao Chổi, có đuôi cong như lá cờ (chú của CMCB
19, 2A).
1751 Tức phủ đệ của Gia
Vương, tước hiệu của Thánh Tông lúc ấy.
1752 Chỉ việc phế Nghi
Dân, rước Thánh Tông lên ngôi.
1753 Bọn Lê Bí, Lê Ê, Lê
Thụ bàn mưu giết hại Nghi Dân bị bại lộ, tất cả đều bị chém.
1754 Triệu Thuẫn là khách
khanh nước Tần đời Xuân Thu ở Trung Quốc. Vua nước Tần là Linh Công
định hại Thuẫn, Thuẫn bỏ trốn. Sau Triệu Xuyên giết Linh Công, đón
Thuẫn về phục chức. Tuy Thuẫn không giết vua, nhưng sử quan nước Tần
viên chép là Thuẫn giết vua, v́ cho Thuẫn cùng một chí với Xuyên.
1755 Nguyên bản in là
Dương nhưng hẳn là có lầm từ chữ Mục. Toàn thư BK 12, 59a và 96b đều
chép là Mục Lăng.
1756 Nguyên văn là Dương
Lăng, sửa là Mục Lăng. Toàn thư BK12, 98b cũng chép là Nguyễn Bá Kỳ
soạn bài văn bia ở Mục Lăng.
1757 Tức họ Lư Cầm, tù
trưởng Bồn Man.
1758 Phong hiến: là chức
ngự sử giữ việc đàn hặc.
1759 Lễ bái bài: tức là
lễ bái vọng vào các dịp sinh nhật vua hoặc ngày chính đán.
1760 Viện nhi: người hầu
hạ và sai phái trong các viện.
1761 Đại bô: tiệc cho
thần dân vào các dịp lễ lớn
1762 Ngô: danh từ để chỉ
người Trung Quốc hồi ấy.
1763 Chỉ cuộc kháng chiến
chống Minh thắng lợi lập ra nhà Lê.
1764 Vi phi: làmnhững
điều phi pháp.
1765 Nguyên văn là "bảo
kết:", nghĩa là bảo đảm, cam kết.
1766 Khổng Tử nói: "Tăng
Văn Trọng chẳng phải là kẻ trộm cướp ngôi vị đó ư? Biết Liễu Hạ Huệ
là người hiền mà không cho cùng làm quan với ḿnh" (Xem Luận ngữ,
thiên Vệ Linh Công).
1767 Nên sửa lại là tháng
11 như bản dịch cũ có lẽ đúng hơn.
1768 Lê Niệm là con Lê
Lâm, cháu Lê Lai, Lê Lâm đi đánh Ai Lao, bị chông sắt mà chết.
1769 Tức là vào hàng tế
thần tham dự triều chính.
1770 Như Hối: tức Đỗ Như
Hối, Huyền Linh: là Pḥng Huyền Linh, đều là bề tôi giỏi của Đường
Thái Tông.
1771 Đái Trụ: là người
minh mẫn, cư8ng trực, rất giỏi xử việc rối rắm phức tạp làm đến Kiểm
hiệu Lại bộ thượng thư cho Đường Thai Tông.
1772 Ngạn Bắc: tức là Ôn
Ngạn Bác,giỏi việc tâu bày, làm Thượng thư hữu bộ xạ đời Đường Thái
Tông.
1773 Đổng Tuyên: là quan
lệnh ở Lạc Dương, tính cứng cỏi, thẳng thắn, khi xử vụ án giết người
đầu bếp của Hồ Dương công chúa,Hán Vũ Đế bắt tuyên phải lạy tạ công
chúa, tuyên chống hai tay xuống đất, nhất định kh6ng chịu lạy.
1774 Tô Uy: là trọng thần
của nhà Tùy mất, Uy sống tùy thời, triều này lên cũng xin thờ phụng
và đều được trọng dụng. Đến khi Đường Thái Tông đương nước, Uy xin
yết kiến, không được Thái Tông chấp nhận
1775 Họ Thạch: là Thạch
Thủ Tín, họ Cao: là Cao Hoài Đức, hai công thần nhà Tống đều cố nắm
binh quyền không chịu bỏ. Trong một bữa tiệc, Tống Thái Tổ bảo hai
người nên bỏ binh quyền mà vui thú với con hát, gái múa cho thỏa
thích.
1776 Họ Pḥng, họ Đỗ: tức
Pḥng Huyền Linh và Đỗ Như Hối đời Đường Thái Tông.
1777 Họ Vương họ Ngụy:
tức Vương Khêu và Ngụy Trưng đời Đường Thái Tông đều nổi tiếng về
thẳng thắn can ngăn vua.
1778 Chức này sau đổi
thành tri huyện.
1779Chỉ 10 vị học tṛ nổi
tiếng của Khổng Tử được thờ ở Văn miếu. Đầu tiên th́ có: Nhan Uyên,
Mẫu Tử khiên, Nhiệm Bá Ngưu, Trọng Cung, Tể Ngă, Tử Cống, Nhiễm Hữu,
Quư Lộ, Tử Dụ, Tử Hạ. Sau Nhan Uyên được thăng phối, lấy Tăng Từ
thêm vào. Khi Tăng Tử được thăng phối, lại lấy Tử Trương thêm vào.
1780 Sáu viện là Nghi lễ
viện , Tư h́nh viện, Khâm h́nh viện, c̣n 3 viện nữa chưa rơ ( chú
của CMCB 19, 31B ).
1781 Nguyên văn "Cương
trường nhiễu chỉ phu" lấy ư từ hai câu thơ: "Hà ư bách luyện kim,
hóa tác nhiễu chỉ phu "(ngờ đâu loại kim cứng trăm lần tôi lại hoá
thành chất mềm ṿng vào ngón tay được) của Lưu Công. Câu này dịch ư.
1782 Phàn Cơ: là bà phi
của Sở Trang Vương. Trang Vương hay đi săn, Phàn Cơ can không được,
bèn nhất định không ăn thịt những con vật Trang Vương săn được.
1783 Trưởng tôn hoàng
hậu: là bà hậu của Đường Thái Tông, tính khiêm nhường kiệm ước, làm
gương cho phi tần trong cung, có tài văn học, thường bàn việc với
Thái Tông.
1784 Đuờng Thái Tông muốn
lập Tần Vương Trị làm thái tử. Một hôm, sau khi tan chầu, chỉ c̣n
Trưởng Tôn Vô Kỵ và Pḥng Huyền Linh ngồi lại. Thái Tông nói với hai
người: "Ta có hai con và một em, không biết lập ai, ḷng ta buồn
lắm", rồi nằm lăn ra sập, lấy con dao tự dí vào cổ. Bọn Vô Kỵ sợ hăi
chạy tới ôm lấy Thái Tông, giằng láy con dao đưa cho Tần Vương và
hỏi Thái Tông muốn lập ai. Thái Tông nói: Muốn lập Tần Vương. Bọn Vô
Kỵ nói: "Chúng tôi xin vâng mệnh, ai bàn cách khác th́ chém. Thái
Tông quay sang bảo Tần Vương: "Cậu đă bằng ḷng lập con rồi đấy,
phải tạ cậu đi".
1785 Vệ Quán: là bề tôi
của Tần Vũ Đế, biết Huệ Đế tư chất kém không làm vua được, nhưng
chưa dám nói với Vũ Đế. Sau nhân khi dự yến, giả say, vỗ vào sập của
Vũ Đế ngồi mà nói: "Chổ ngồi này thực đáng tiếc".
1786 Tiết Cư Châu: là
thiện sĩ người nước Tống thời Chiến Quốc.
1787 Thơ dịch của bản cũ,
có sửa một đôi chữ.
1788 "Trung hư": có nghĩa
là trống giữa.
1789 Thường sơn xà: rắn
Thường sơn.
1790 Măn thiên tinh: sao
đầy trời.
1791 Nhạn
hàng: chim nhạn bay sóng hàng.
1792 Liên
châu: chuỗi hạt châu.
1793 Ngư
đội: đàn cá.
1794 Tam
tài hành: trời, đất, người là tam tài.
1795 Thất
môn: bảy cửa.
1796 Yển
nguyệt: trăng khuyết.
1797
Trước đă ân xá các thuế đinh, điền. Nay cần chi tiêu lại bắt dân
phải nộp trả lại.
1798 Chỉ
thời kỳ thuộc Minh.
1799
Tường tự: đều là nhà hương học đời xưa của Trung Quốc. Nhà Thương
gọi là tự, nhà Chu gọi là tường.
1800 Đăng
khoa lục: sách ghi chép tên những người thi đỗ, cùng quê quán và thứ
bậc của họ.
1801 Đề
danh bị: bia đá khắc tên tuỗi, quê quán các vị tiến sĩ.
1802 Năm
phủ (Ngũ phủ): gồm Trung quân phủ, Đông quân phủ, Tây quân phủ, Nam
quân phủ, Bắc quân phủ.
1803 Sáu
bộ (Lục bộ): gồm Lại bộ, Hộ bộ, Lễ bộ, H́nh bộ, Binh bộ, Công bộ.
1804 Sáu
tự (Lục tự): gồm Đại Lư, Thái thường, Quang Lộc, Thái bộc, Hồng lô,
Thượng bảo.
1805 Khúc
sông Đáy chảy qua huyện Ư Yên, tỉnh Nam Hà ngày nay.
1806
Nguyên văn là "lương cân", một loại mũ tết bằng lông đuôi ngựa.
1807 Trấn
sóc: có nghĩa là trấn giữ phương Bắc. Đây là vệ quân đóng giử ở biên
giới phía bắc.
1808 Bác
N ẫm, Vĩnh Bồng: đều nằm trên biên giới phía Bắc.
1809
Nguyên văn là "Cần Chính đường", sửa lại cho phù hợp với đoạn trên.
1810
Trúng trường: là những người đỗ từ 1 đến 3 kỳ trong kỳ thi hội (nếu
đủ 4 kỳ th́ mới được thi đ́nh).
1811 Tam
xá sinh là sinh viên ba xá: thượng xá, trung xá, hạ xá.
1812 Lỗ
Giang: khúc sông Hồng chảy qua huyện Lư Nhân, tỉnh Nam Hà.
1813 Ninh
Sóc: tên một thừa tuyên thời Lê trong khoảng 1469 - 1490 sau đổi lại
là Thái Nguyên.
1814 Sông
Vi: tức sông Ông Vi, tại huyện Vũ Tiên, nay là huyện Vũ Thư, tỉnh
Thái B́nh.
1815
Thường sơn: tức là trận đồ Thường Sơn xà (rắn núi Thường Sơn).
1816 Đạo
Đồng: tức là phu đạo Cầm Đồng ở Thuận Châu.
1817
Việt: tức là Mường Việt, sau đổi thành Yên Châu. Mỗi: tức Mường
Muỗi, c̣n gọi là Thuận Châu.
1818 Ngũ
kinh bác sĩ: chức học quan, chuyên nghiên cứu về năm bộ sách kinh
điển của nho gia (Kinh thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Xuân
Thu), để dạy học tṛ ở Quốc tử giám.
1819 Tô
Vấn Đáp Lạt:: hay Tô Môn Đáp Lạt, tức Sumatra, nay thuộc nước
In-đô-nê-xi-a.
1820 Phủ
Bắc B́nh: sau đổi là phủ Cao B́nh, là đất tỉnh Cao Bằng ngày nay
(trừ huyện Bảo Lộc). Phủ Thông Hóa: phần đất tỉnh Bắc Cạn cũ.
1821 Âm
Động: thuộc phủ Trấn An, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
1822 Tức
bố chính ty Quảng Tây thời Minh.
1823 Phủ
An Tây: thời Lê gồm đất tỉnh Lai Châu ngày nay và một số đất đă mất
vào Trung Quốc.
1824 Toả
Thoát: Theo CMCB 2, 24a, sau là ải Quả Khoái, ở huyện Quảng Uyên,
tỉnh Cao Bằng. Huyện Quảng Uyên nay là huyện Quang Ḥa.
1825 Cửu
khanh: chín chức quan của nhà Chu: Chủng tể, Tư đồ, Tăng bá, Tư mă,
Tư khấu, Tư không, Thiếu tư, Thiếu phó, Thiếu bảo. Tam công: Thái
sư, Thái phó, Thái bảo. Ngũ thần: năm người bề tôi của vua Thuấn
xưa: Vũ, Tắc, Tiết, Cao Dao, Bá Ích. Thập loạn: mười bề tôi dẹp loạn
trị nước của Chu Vũ Vương là Chu Công Đán, Thiệu Công Thích. Thái
Công Vọng, Tất Công, Ninh Công, Thái Điền, Hoàng Yên, Tản Nghi Sinh,
Nam Cung Quát và Ấp Khương.
1826 Hán
Cao Tổ họ Lưu (Lưu Bang).
1827
Đường Cao Tổ họ Lư (Lư Uyên).
1828 Khoa
lệnh: điều luật về h́nh pháp.
1829
Cương mục chép là: "Đế dĩ Thiên Nam Hoàng Đế chi bảo Đẳng tự, thị tế
thần": Nghĩa là vua đưa các chữ "Thiên Nam Hoàng Đế chi bảo" để tế
thần bàn bạc (CMCB 21, 9B)...
1830 Văn
hiến thông khảo, 348 quyền, Mă Đoan Lâm đời Nguyễn soạn là bộ sách
chép điển chương, chế độ của nhiều triều đại ở Trung Quốc.
1831 Thực
lục: một thể loại sử thời trước, chuyên ghi chép công việc của vua.
1832
Đường Thái Tông giết Kiến Thành và Nguyên Cát ở cửa Nguyên Cát ở cửa
Huyền Vũ,Pḥng Huyền Linh chỉ chép mập mờ là sự kiện ngày mồng 4
tháng 6 thôi Thái Tông xem thực lục, bắt phải chép lại cho rơ ràng.
1833 Cửa
Tư Dung: sau là cửa Tư Hiền ở huyện Phú Lộc, nay thuộc tỉnh Thừa
Thiên - Huế.
1834 Cửa
Eo: Sau là cửa Thuận An, huyện Phú Vang, ngày nay thuộc tỉnh Thừa
Thiên - Huế.
1835 Kênh
Sen: tức là Liên Cừ hay Liên Cảng ở huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng B́nh.
1836 Vạn
Ninh: tên châu thời Lê, nay là đất huyện Hải Ninh, tỉnh Quảng Ninh.
1837 Tân
Yên: tên châu thời Lê, nay là đất huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.
1838
Nghĩa là "ấn hoàng để nhận mệnh".
1839
Nguyên văn: "Tạo quân quán".
1840
Nguyên văn thiếu chữ "văn" (quan văn), chúng tôi theo mạ ch văn thêm
vào.
1841
Nguyên văn là "chức vị tây phương", chưa rơ nghĩa, tạm dịch như
trên.
1842 Nam
Sách: tên phủ, thuộc trấn Hải Dương, nay là vùng đất gồm các huyện
Nam Thanh, Chí Linh thuộc Hải Hưng và tiên Lăng thuộc Hải Pḥng.
1843 Hạ
Lang: sau là huyện Hạ Lang, thuộc tỉnh Cao Bằng ngày nay.
1844
Nguyên văn là "thổ thử trấn thủ". Bản dịch cũ theo CMCB 21, 3a sửa
là "Thái Nguyên trấn thủ".
1845 Bát
Nghị: nghị xét tội trạng của 8 người đáng được miễn giảm, gồm: thân
thích, cố cựu, hiền thần, người tài cán, bậc sang trọng, kẻ siêng
năng, tân khách. Xét theo luật bát nghị tức là đưa vào diện "chiếu
cố" mà xét..
1846 Du
thuyết: dùng tài ăn nói để biện bác, mê hoặc người nghe.
1847
Nguyên văn: "Cam lâm tuế hạn, chu tiếp, tế xuyên", lấy điển trong
Kinh thư, vua Thương bảo Phó Duyệt: "Ta sai ngươi làm mưa ngọt khi
nắng hạn, làm mái chèo lúc qua sông".
1848 Tức
là vua Nghiêu, nhân ban đầu được phong ở đất Đường nên gọi là Đường
Ngu.
1849
"Cần": là siêng năng, "thành" là chắc chắn, "đôn" là thành thực, "ư"
là tốt đẹp.
1850 Ngọc
tịch: là sổ hộ khẩu của họ nhà vua
1851
Nguyên văn không có chữ "ty", căn cứ vào mạch văn và tham khảo cương
mục thêm vào.
1852
Ḱnh: là tội phải thích chữ vào trán.
1853 Vĩnh
An: tên châu, là vùng đất sát biên giới của tỉnh Quảng Ninh.
1854Nguyên văn là "Nguyễn Vũ": nhưng căn cứ vào đoạn trên th́ phải
là Nguyễn Thư CMCB 21, 14a cũng chữa là Nguyễn Thư.
1855 Long
tiên: giấy vàng vẨy ngân nhũ và vẽ rồng. Hắc lạn: giấy vàng quanh
ŕa vẽ mực đen. Khám hợp: giấy trắng viết chữ mực (chú của CMCB, 21,
15B)
1856 Các
vệ Ngũ uy là 5 vệ: Phấn uy, Chấn uy, Hùng uy, Lôi uy, Tuyên uy.
1857
Trước là Nam Sách.
1858
Trước là Thiên Trường.
1859 Trước là Quốc Oai..
1860 Trước là Bắc Giang.
1861 Trước là Thái
Nguyên.
1862 Trước là phủ Trung
Đô.
1863 Huy nhân: là tên
quan hàm của mệnh phụ trong cung, trật ṭng tam phẩm.
1864 Phúc Quang đường:
Tại xă Động Bàng huyện Yên Định, nay thuộc tỉnh Thanh Hoá, do Lê
Thánh Tông dựng vào năm Quang Thuận, tức là điện để Hoàng thái hậu
thay áo( CMCB 21, 27b)
1865 Nhâm: tức là Thái
Nhâm là mẹ của Chu Văn Vương, Khương: tức Khương Hậu là vợ của Chu
Tuyên Vương được các nhà nho coi là phụ nữ mẫu mực, hiền và có đức.
Ở đây theo bản dịch cũ.
1866 Phủ B́nh Nguyên: là
phủ đệ của B́nh Nguyên Vương. B́nh Nguyên Vương tức là Lê Thánh Tông
khi c̣n là phiên vương..
1867 Thi Nại: ở Quy Nhơn,
tỉnh B́nh Định ngày nay.
1868 Tức là thời gian 3
năm để tang Lê Thái Tông, bỏ hẳn mọi tṛ vui âm nhạc, múa hát.
1869 Tức Lê Nhân Tông,
nối ngôi Lê Thái Tông, sau bị Nghi Dân giết.
1870 Yên Kinh: chỉ kinh
đô nhà Minh thời đó. Trà Toàn sai sứ sang Yên Kinh xiểm nịnh vua
Minh, gièm pha Đại Việt.
1871 Ở đây nói Chiêm
Thành định lấn ra vùng đất Quảng B́nh, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế
ngày nay.
1872 Ư nói Chiêm Thành
muốn dựng mốc biên giới ở Hoành Sơn, tức phía Bắc tỉnh Quảng B́nh
ngày nay.
1873 Bặc Đạo: là tên
huyện, ở phía tây namTrung Quốc. Hán Vũ Đế sai Đường Mông đào núi,
đến Nam Trung đặt huyện Bặc Đạo. Cây này ư nói Trà Toàn lấn chiếm,
buộc quân ta phải đánh lại.
1874 Sứ Chiêm Thành tâu
với vua Minh là vua Lê tự xưng là Hoàng đế, ngang với Thiên tử nhà
Minh, chuẩn bị binh mă để tiến công nhà Minh.
1875 Nhà Minh đ̣i Chiêm
Thành cống voi cái trắng, ChiêmThành bảo là ta tranh mất..
1876 Chế Bồng Nga: là vua
Chiêm, xâm lược Đại Việt, bị chết tại trận, không mang được xác về.
1877 Vua cũ Chiêm Thành:
Thành cho là ta ở xa, ta đă yếu, không đánh tới đuợc.
1878 Nguyên văn "lưu
dân", ở đây chỉ người Việt ở vùng đất mới là châu Thuận, châu Hóa để
khai phá, sinh sống.
1879 Câu này lấy điển ở
hào: Cửa tam,quê Lữ trong Kinh dịch. Ư nói kẻ trú ngụ mà lấn quyền
tất bị đốt nhà mà bản thân bị hại. V́ Trà Duyệt là người ở Thi Nại
nên nói là "đứa ngủ trọ".
1880 Cáo kêu nơi đế lư:
nghĩ a là đế đô thành nơi hoang tàn. Câu này ư nói phải đánh tan
kinh đô nước Chiêm th́ mới cam ḷng.
1881 Thần Châu: chỉ đất
nước nói chung. Câu này ư nói: Giặc họp quân vào cướp nước ta.
1882 Ư hai câu này là:
Chiêm Thành cho là ta ở xa, ta đă yếu, không đánh tới được.
1883 Tề Tương công diệt
nước Kỷ, trả thù cho ông tổ 9 đời của ḿnh là Tể Ai công, được sách
Xuân Thu khen ngợi.
1884 Cửu Lê: tên tộc
người cổ ở phía đông Trung Quốc có tù trưởng là Xuy Vưu.
1885 Tam Miêu: tên tộc
người cổ ở phía nam Trung Quốc. Đại Vũ: là ông vua đầu tiên của nhà
Hạ. Nguyên văn: "Đại Vũ thệ chúng", tức là làm lễ tuyên thệ khi bắt
đầu ra quân.
1886 Ư nói thuận lợi,
không gặp trở ngại ǵ.
1887 Hán Vũ Đế nổi tiếng
"cùng binh độc vũ", hiếu chiến tham công.
1888 Chu Văn Vương: ông
vua khai sáng nhà Chu ở Trung Quốc, có nhiều vũ công.
1889 Lấy ư của hào Thượng
lục, quẻ Quy muội Kinh Dịch, những kẻ cô độc không ai theo, như
người mổ thịt dê không có máu.
1890 Rợ Hiểm Doăn xâm
lược, Chu tuyên vương phải đem quân đi đánh vàolúc tháng 6, trời
đang nắng gắt. ư nói phải mau chóng kịp thời hành quân.
1891 Lấy ư của hào Thượng
cửu, quẻ Khuê trong Kinh Dịch. Nguyên văn: "Kiến thỉ phụ đồ" (thấy
lợn đội bùn) chỉ bọn giặc Chiêm Thành hôi tanh, bẩn thỉu.
1892 Vua Thuấn chinh phục
nước Tam Miêu, chưa tới 7 tuần, nước này tới quy phục.
1893 Ngày xưa, sau trận
đánh, người ta thu xác chết của quân thù thành từng đống lớn, lấp
đất lên, gọi là "Kinh nghê quán" hay "Kinh nghê kinh quán".
1894 Tức là Thái miếu.
"Thanh" có nghĩa là trong sạch, tôn nghiêm.
1895 Theo bản dịch cũ.
1896 Nhị thập bát tú: 28
cḥm sao. Thiên văn học cổ Trung Quốc chia sao trên trời thành 28
cḥm gọi là "tú"; 4 phương, mỗi phương có 7 cḥm: "Phương Đông có
các cḥm: "Dốc, Cương, Chi, Pḥng, Tâm, Vĩ, Cơ; Phương Bắc: Đẩu,
Ngưu, Nữ, Hư, Nguy,Thất, Bích; Phương Tây: Khuê, Lâu, Vị, Măo, Tát,
Chủy, Sâm; Phương Nam: Tinh, Quỷ, Liễu, Tinh,Trương, Dực, Chẩn.
1897 Ngũ tinh: là năm
hành tinh: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
1898 Thiết Sơn: theo
Cương mục, núi này ở huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An (CMCB 21, 40).
1899 Sa Bôi và Thuận B́nh
là hai châu thuộc nguồn Cam Lộ, nay là tỉnh Quảng Trị.
1900 Gạo cả vỏ: tức là
thóc đem luộc chín, làm lương ăn cho quân.
1901 Thi Nại: vốn là tên
đất. Có thể tên em Trà Toàn cũng trùng với tên này, hoặc được phong
ở đó.
1902 Cửa Áp: tức là cửa
Tân Áp, sau là cửa Đại Áp ở huyện Tam Kỳ, nay thuộc tỉnh Quảng Nam -
Đà Nẵng.
1903 Cửa Toạ: tức là cửa
Cựu Toạ, sau là cửa Tiểu Áp, cách cửa Tân Áp (tức Đại Áp) hơn 7 dặm
(Chú của CMCB 22, 3).
1904 Sa Kỳ: là một cửa
biển ở huyện B́nh Sơn, tỉnh Quảng Ngăi.
1905 Dịch theo nguyên
văn, con số này có lẽ chưa chính xác.
1906 Núi Mộ Nô: ở phía
tây cửa biển Sa Kỳ (Chú của CMCB22, 3).
1907 Mễ Cần: chưa rơ ở
đâu, bản dịch cũ có ghi là Thái Cần và chú là huyện B́nh Sơn, Quảng
Ngăi.
1908 Phi kiều: một loại
chiến cụ đánh thành ngày xưa, làm bằng gỗ hoặc tre, dùng để bắc lên
thành cho quân sĩ vào.
1909
Phiên Lung: là Phan Rang, nay thuộc tỉnh Thuận Hải.
1910 Nam
Bàn: theo Cương mục sau là đất của Thủy xă, Hỏa Xá, nay là vùng đất
thuộc tỉnh Gia Lai- Công Tum và Đắc Lắc. C̣n Hoa Anh có lẽ là vùng
đất thuộc tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh Hoà ngày nay.
1911 Sông
Phi Lai: sông ở xă Phi Lai, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
1912 Thuyền Thiên thu: là
thuyền của Hoàng thái hậu.
1913 Đề h́nh: là chu91c
quan soát xét việc xử án có đúng hay sai.
1914 Hoàng triều quan
chế: nghĩa là quan chế của triều vua đang trị v́ (đây là triều Lê).
1915 Ba ty: tức là Điện
tiền, Hiệu lực, Thần vơ, là tổ chức quân sự.
1916 Tự thân vương: con
cả của thân vương được tập ấm tước của người cha.
1917 Theo Cương mục, th́
8 bậc đó là: Tá quốc sứ, Phụng quốc sứ, Dực quốc sứ, Lương quốc sứ,
Sùng ân sứ, Dụ ân sứ, Mậu ân sứ, Tư ân sứ (CMCB 22, 14a).
1918 Tư: Cũng là đơn vị
phẩm trật, mỗi phẩm thường gồm nhiều tư.
1919 Thí chức: là chức vụ
khong chính thức. Đối lập với "thực chức" là chức vụ chính thức.
1920 Thực thụ: là được
nhận chức chính thức.
1921 Nguyên văn "vị nhập
lưu" là những người chưa được liệt vào bậc nào chín bậc quan tước
(cửu phẩm) của nhà nước.
1922 Bổ tử: những h́nh
cầm thú thêu vẽ tên triều phục của các quan phía trước ngực và sau
lưng theo phẩm cấp của từng người.
1923 Nguyên văn là "phong
hiến". Chỉ những quan ở Ngự sử đài.
1924 Đườn g thượng quan:
hay đường quan là quan chức cao cấp của triều đ́nh.
1925 Sóc: là ngày mồng 1,
vọng là ngày 15 hàng tháng (Âm lịch).
1926 Binh phù: hay nội
phù là vật làm tin, có hai phần rời có thể khớp với nhau. Khi vua
trao lệnh cho tướng sái, ngoài sắc lệnh, c̣n có binh phù.Vua giữ một
nửa phù để trong cung, viên quan sai đi giữ một nửa. Mỗi khi sai
gọi, hay làm việc ǵ đều phải khớp lại làm tin.
1927 Dịch theo nguyên
văn. Đoạn này nên sắp xếp như sau: Kỳ thứ nhất ra 8 đề về Tứ thư:
Luận ngữ 4 đề, Mạnh Tử 4 đề; người thi tự chọn lấy 4 đề, làm bài
văn.
1928 Tế Đinh: tức là lễ
tế Văn miếu. V́ quy định tế Văn miếu vào các ngày đinh, nên gọi là
tế Đinh.
1929 Tháng trọng: là
tháng thứ hai của mỗi mùa, hai tháng trọng của mùa xuân và mùa thu
là tháng 2 và tháng 8.
Quyển
XIII
[[1a]
Kỷ Nhà Lê
Thánh
Tông Thuần Hoàng Đế (hạ)
Quư Tỵ,
Hồng Đức năm thứ 4 [1473], (Minh Thành Hóa năm thứ 9). Mùa xuân,
tháng giêng, vua thân hành cày tịch điền và đốc suất các quan cày.
Cử hành
lễ Giao.
Cấm tửu
sắc. Ra sắc chỉ cho quan viên và trăm họ rằng:
"Kể từ
nay, trong nhà không làm cỗ thết khách th́ không được chè chén,
người vợ không phạm tội th́ không được ruồng bỏ. Kẻ nào dám rượu chè
bừa băi, gia đạo không nghiêm, kẻ nào không có mối lái mà dám vụng
trộm tư thông th́ phải trị tội".
Tháng 2,
vua ngự về Tây Kinh bái yết lăng miếu.
Vua đi
thuyền nhẹ, ngược ḍng sông Lỗi1930 bái yết Nguyên miếu ở thành Tây
Đô. Sau đó, đến từ đường Thuần Mậu ở bên bờ sông (Từ đường này [1b]
ở hương ấp của cha sinh ra thánh mẫu hoàng thái hậu Ngô thị và mẹ là
Đinh thị)1931 .
Ngày 20,
có việc ở tẩm lăng, sai Công bộ thượng thư Phạm Du đến tế ở miếu
Hoằng Hựu. Đến tối, trời mưa gió to.
Tháng 3,
hạn hán, cầu đảo ở Thái miếu và sai quan đi cầu đảo khắp các thần,
hai ngày th́ mưa.
Mùa hạ,
tháng 4, ngày mồng 3, mưa to.
Ra sắc
chỉ cho các nha môn: Các bản tâu th́ dùng giấy trúc.
Định chế
độ lương bổng cho các quan trị nhậm trong ngoài. Định lệ tiền lương
cho các quan giản nhậm, thái giản1932 , các chức nhàn tản, thái nhàn
tản1933 có thứ bậc khác nhau. Định lệ cấp lương bổng riêng cho hai
vệ Cẩm y và Kim ngô.
Vua dụ
bọn thái bảo Kiến Dương bá Lê Cảnh Huy rằng:
"Một
thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải
kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, c̣n có
thể sai sứ sang phương Bắc tŕnh bày rơ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi
dám đem một thước một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc, th́ tội
phải tru di"
[2a]
Tháng 5, cấm tự tiện sai phái vệ binh, bỏ việc canh pḥng túc trực.
Sắc cho
Lễ bộ yết bảng cho trăm quan và các quân nhân rằng: Kể từ nay, nếu
không phải là bậc túc nho danh vọng, tuổi cao đức lớn th́ không được
gọi bừa là "tiên sinh".
Tháng 6,
thần tỷ1934 làm xong, xuống chiếu ban ơn cho các quan và trăm họ,
mỗi người một tư.
Thi giáo
chức. Phép thi: Kỳ thứ nhất, Tứ thư mỗi sách một đề: ngũ Kinh mỗi
kinh một đề. Kỳ thứ hai, một đề phú, thể Lư Bạch. Kỳ thứ ba, chế,
chiếu, biểu, mỗi thể loại một đề.
Định phạm
vi cai quản của cai đạo giám sát ngự sử thuộc ngự sử đài: Như Thanh
Hóa, Nghệ An đạo giám sát ngự sử th́ kiêm coi các ty của vể Cẩm y:
Lực Sĩ, Canh Ban, Xá Nhân; ty Ngũ thành binh mă, ty nghi vệ, Cảm y
vệ phó trung quân phủ, và quân dân ba ty các xứ [2b] Thanh hóa, Nghệ
An, Hải Dương, Yên Bang đạo giám sát ngự sử kiêm coi ty Thần tỷ, vệ
Tráng sĩ, vệ Kim ngô, phó quân Thần sách tứ vệ. Đông quân phủ, quân
dân ba ty cá xứ Hải Dương, yên Bang, Sơn Nam, Thuận Hóa, Quảng Nam
đạo giám ngự sử kiêm coi sáu vệ ty Điện triều, Nam quân phủ, quân
dân ba ty cá xứ Sơn Nam, Thuận Hóa, Quảng Nam. Tam Giang Hưng Hóa
đạo giám sát ngự sử kiêm coi bốn vệ Hiệu lực, bốn vệ Thần tượng, bốn
vệ Mă nhà, Tây quân phủ, quân dân ba ty các xứ Tam Giang, Hưng Hóa.
Kinh Bắc, Lạng Sơn đạo giám sát ngự sử kiêm coi giám Thượng Y và Ngự
Dụng, các thợ của Công Bộ, cục Tuyên đạt, cục Ứng sự; các sở, ty Đồn
điền, Tàm tang, Tinh mễ, Chủng thái1935 , Điền mục, Bắc quân phủ,
quân dân ba ty các xứ Kinh Bắc, Lạng Sơn.
[3a] Thái
Nguyên, Tuyên Quang đạo Giám sát ngự sử kiêm coi Tuyên đạt trù, cục
Thị vệ, quân Phụng trực, quân dân ba ty các xứ Thái Nguyên, Tuyên
Quang.
Hiệu định
chức trách của hiến ty. hiến sát sứ Hiến sát phó chuyên giữ các chức
vụ tâu bày, xét hỏi, tâu hặc khám xét, xét kiện, hội đồng, đối
chiếu, soát lại, xét công tội, đi tuần hành... cả thảy là 32 điều.
Mùa thu,
tháng 7, thi y, đề gồm 4 môn.
Tháng9,
mưa to. Trước đó, cuối mùa xuân suốt ba tuần không có mưa, mùa hạ ít
mưa. Đến đây mưa như trút, suốt đêm đến sáng chưa tạnh.
Ra sắc
chỉ cho các nha môn trong ngoài rằng: Mọi bản tâu về việc công, quan
phụ trách phải xét kỹ sự việc nguyên do, tự ḿnh khởi thảo, rồi giao
cho viên lại giữ việc đó chép lại, xong rồi kiểm soát lại để thi
hành.
[3b] Ra
sắc chỉ rằng, những sách trong sổ của H́nh bộ th́ màu vàng, độ dài y
theo sổ.
Định
những điều không hợp cách của bản tâu, như: ḍng chữ lên xuống, có
vết bẩn... Đó là theo lời tâu của Hàn lâm viện thị độc kiêm Đông các
đại học sĩ Thân Nhân Trung.
Mùa đông,
tháng 11, hiệu định lệnh riêng về việc đánh Sơn Man1936 gồm 10 điều.
Ra sắc
chỉ rằng, kể từ nay, các quan văn vào chầu không được nhổ cốt trầu,
ném bă trầu ở cửa và sân Đan Tŕ.
Tháng 12,
đi đánh Sơn Man.
Giáp Ngọ,
[Hồng Đức] năm thứ 5 [1474], (Minh Thành Hóa năm thứ 10). Sắc dụ
quan lại phủ, châu, huyện, các xứ thừa tuyên trong cả nước rằng:
"Đặt luật
để trừ kẻ gian, sao dung được bọn coi thường pháp luật; đặt quan để
dẹp mối kiện, lại gây ra cái tệ bán quan mua tước. Nếu không cấm
triệt cho nghiêm th́ sao chấm dứt được nạn tranh đoạt rắc rối. [4a]
Từ nay về sau, việc thừa nhận ruộng đất nếu đă quá hạn rồi mà làm
đơn gian trá, ghi năm tháng c̣n trong hạn và chưa được hầu xét vào
đơn, cùng là trước đă xét là gian trá, tuy có lời cung,
cũng đều
cho là phế bỏ cả, không được xét hỏi nữa. Quan phụ trách dám nhận
đơn và xét hỏi, Hiến ty hặc tâu, th́ xử tội lưu".
Gia phong
Trần Phong làm Thiếu bảo ngự sử đài đô ngự sử. Vua dụ rằng:
"Ngươi
trước kia làm Kinh diên, quen thói mưu ngầm với Nguyễn Khốn, thực là
điều hổ thẹn. Nay ngươi làm Ngự sử, găy lưng chụm cẳng với Nhân
Chính, cũng đáng là sỉ nhục. Ngươi sao không gột rửa cái thói xấu
đi, để nhận lấy công lao khi về già?".
Mùa hạ,
tháng 4, ngày 22, ra sắc chỉ rằng:
Tù nhân
bị tội lưu, ở châu gần th́ sung làm quân vệ Thăng Hoa, ở châu ngoài
th́ sung làm quân vệ Tư Nghĩa, ở châu xa th́ sung làm quân vệ Hoài
Nhân, những kẻ được tha tội chết cũng sung làm [4b] làm quân vệ Hoài
Nhân.
Tháng 5,
ngày 15, định lệnh mua giấy làm sổ. Ra sắc chỉ rằng:
Về việc
làm sổ hộ tịch và ruộng đất, quan làm sổ có thể chia xă lớn, xă nhỏ,
cho nhân phu chịu sai dịch, mỗi người đóng 3 tiền mua giấy bút,
tŕnh quan thừa ty đối chiếu soát lại.
Tháng 6,
ngày 16, ra sắc chỉ rằng: Học sinh ba xá1937 ở tản mát, th́ quan phụ
trách trừng trị kẻ phạm lỗi, kẻ nào phạm nhiều lần th́ tâu lên để
bắt sung quân.
Định lệnh
khuyến khích trung nghĩa:
Trung
thần nghĩa sĩ như Lê Phụ Trần, (Trần) Khát Chân triều trước, Đào
Biểu1938 triều này, quan phụ trách và quan phủ huyện t́m lấy một
người cháu nội, hay cháu gọi bằng chú bác của các vị đó, xét thực
tâu lên sẽ trao cho một chức nhàn tản. Nếu không có cháu th́ mới cho
một người thân thuộc [5a] được miễn quân dịch và thuế khóa để coi
việc thờ cúng. C̣n như Phó đô ngự sử Nguyễn Duy Trinh th́ theo lệ
chết trận để tỏ khuyến khích.
Tháng 6
nhuận, ngày 16, giết Hà Nghiễm. Vua dụ bọn Thái bảo Kỳ quận công Lê
Niệm rằng:
"Hà
Nghiễm chết, có ba điều bất hạnh: Phép chưa đáng đă bị giết oan, đó
là nỗi bất hạnh của Hà Nghiễm. Vô tâm giết bừa, tự mang tiếng xấu,
đó là điều bất hạnh của trẫm. Bấy giờ Lại bộ thượng thư Hoàng Nhân
Thiêm, Thị lang Hà Nghiễm, Trần Tuân hay lấy người làm quan nơi xa
chuyển bổ về chổ gần gũi, thuận tiện, lấy người ở nơi nước độc
chuyển bổ về nơi đất tốt, nên mới sai Vũ Nhân Ḥa đem bọn Hoàng Nhân
Thiêm, Hà Nghiễm, Trần Tuân đến hỏi. Trẫm bị bệnh cảm rồi quên mất,
bọn Nhân Thiêm chưa được hỏi đến mà Hà Nghiễm đă chết, thế là điều
bất hạnh".
[5b] Mùa
thu, tháng 8, xuống chiếu rằng: Ai t́nh nguyện đi đánh Sơn Man th́
tháng 10 tiến phát.
Tháng 9,
ngày 11, ra sắc chỉ rằng: Lại viên các nha môn tự tiện bỏ về nhà th́
đồ làm khao đinh sung quân. Quan bản nha tự tiện cho về th́ phạt 10
quan tiền.
Lại đi
đánh Sơn Man.
Mùa đông,
tháng 10, sai sứ sang nhà Minh. Bọn Lê Hoằng Dục, Nguyễn Đôn Phục,
Ngô Lôi nộp cống hằng năm; bọn Nghiên Nhân Thọ, Nguyễn Đ́nh Mỹ tâu
việc Chiêm Thành tan vỡ quấy nhiễu biên giới.
Sửa đắp
bức tường phía tây kinh thành.
Ai Lap
tiến cống phương vật.
Năm này
lấy Trịnh Công Đán làm Binh bộ thượng thư, Vương Khắc Thuật làm Lại
khoa cấp sự trung, Vũ Đức Khang làm Hộ khoa cấp sự trung, Trần Khải
làm H́nh khoa cấp sự trung.
Ất Mùi,
[Hồng Đức] năm thứ 6 (1475), (Minh Thành Hóa năm thứ 11). Mùa xuân,
tháng giêng, nhà Minh sai Kim ngô vệ chỉ huy sứ Quách [6a] Cảnh sang
đuổi bắt những kẻ chạy trốn. Cảnh đi đường sông Thao đến.
Khi Cảnh
về, vua sai Thái phó Kỳ quận công Lê Niệm, Lại bộ thượng thư Hoàng
Nhân Thiêm, Binh bộ thượng thư Đào Tuấn, Hàn lâm viện thị độc kiêm
Đông các đại học sĩ Thân Nhân Trung, Đông các hiệu thư Đỗ Nhuận,
Quách Đ́nh Bảo, Hàn lâm viện thị thư Vũ Kiệt và Sử quan tu soạn Ngô
Sĩ Liên làm thơ. Vua viết bài tự để tiễn Cảnh. Bài tự đề là Thiên
Nam đông chủ Đạo Am tự1939 .
Tháng 3,
tổ chức thi hội cho các cử nhân trong nước. Bấy giờ, có 3200 người
dự thi. Lấy đỗ bọn Cao Quưnh 43 người.
Phép thi
khoa ấy: Kỳ thứ nhất, về Tứ thư: Luận Ngữ 3 đề, Mạnh Tử 4 đề, Trung
Dung 1 đề, cộng là 8 đề. Người thi tự chọn 4 đề mà làm, [6b] không
được thiếu. Về Ngũ kinh, mỗi kinh 3 đề, riêng Xuân Thu 2 đề. Kỳ thứ
hai, thơ và phú mỗi loại một bài. Thơ dùng thể Đường luật, phú dùng
thể Lư Bạch. Kỳ thứ ba, chiếu, chế, biểu mỗi thể loại một bài. Kỳ
thứ tư, sách vấn, đầu đề văn sách hỏi về ư nghĩa dị đồng của kinh,
sử và nội dung về thao lược của tướng soái.
Mùa hạ,
tháng 5, ngày 11, vua ngự điện Kính Thiên, thân ra đề văn sách, hỏi
về đạo vua tôi ngày xưa.
Sai Quang
tiến trấn quốc thượng tướng quân pḥ mă đô úy Đông quân đô đốc phủ
tả đô đốc Đoan Vũ bá Trịnh Công Lộ và Lại bộ thượng thư Hoàng Nhân
Thiêm làm đề điệu; Thái tử thiếu bảo Ngự sử đài đô ngự sử Trần Phong
và B́nh khoa đô cấp sự trung Phí Bá Khang làm giám thí; Hàn lâm viện
thị độc kiêm Đông các hiệu thư Đỗ Nhuận, Quách Đ́nh Bảo làm độc
quyển. Ban cho ba người: Vũ Tuấn Chiêu, Ông Nghĩa Đạt, Cao Quưnh đỗ
tiến sĩ cập cập đệ, bọn Phạm Xán 13 người đỗ tiến sĩ xuất thân, bọn
Đỗ Vinh 27 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.
Ngày 28,
ra sắc chỉ rằng: Nếu các xứ có trộm cướp nhóm họp th́ các quan phủ,
châu, huyện, các xă trưởng, thôn trưởng của nơi đó đều phải trị tội
theo như pháp luật.
Mùa thu,
tháng 7, nước lũ, vỡ đê sông Tô Lịch ở phường Kim Cổ.
Tháng 8,
ngày 28, tổ chức thi cho con cháu các quan viên. Phép thi: 1 bài
biểu, 1 đề toán.
Mùa đông,
tháng 10, ra sắc chỉ cho các xă làm sổ hộ tịch. Trong một xă, đàn
ông, đàn bà cùng họ không được cùng [7b] tên. Nếu người trước đă ghi
cùng tên th́ phải đổi ngay tên khác. Người mới khai và người cũ
không được trùng tên nhau.
Tháng 11,
tuyển bổ quân ngũ.
Định lệnh
cấm vơ vét xoay tiền. Trong các việc xây dựng sửa chữa, kẻ nào mượn
cớ mà vơ vét xoay tiền th́ trị tội theo luật xoay tiền.
Định tội
các thí quan1940 : Nếu can việc công th́ xử theo luật người có quan
chức, nếu can việc tư th́ xử theo luật người không có quan chức.
Ra sắc
chỉ cho cả nước sửa đắp những chỗ đê đập và đường sá. Đặt các chức
quan Khuyến nông và Hà đê.
Nhà Minh
lập hoàng tử Hựu Đường làm Hoàng thái tử.
Ra sắc
chỉ rằng: Quan Tổng binh về kinh phải có sắc thư và nội phù, khi xét
quả thực không có sai sót ǵ, mới được theo lệnh. Nếu chỉ có phù
không có sắc, hoặc chỉ có sắc không có phù mà dám tự tiện rời bỏ
nhiệm sở, [8a] tội nặng th́ phải xử tử, tội nhẹ th́ phải đi đày.
Lấy Lê
Cảnh Huy làm Thái bảo Kiến Dương hầu, Lê Huy Cát làm Diên Hà bá, Chử
Phong làm Đề h́nh giám sát ngự sử.
Bính
Thân, [Hồng Đức] năm thứ 7 [1476], (Minh Thành Hóa năm thứ 12). Mùa
xuân, tháng 2, vua thân hành ngự đến nhà Thái học, sai các văn thần
chia nhau tế ở đông vu và tây vu.
Ngày 16,
nguyệt thực toàn phần.
Vua ngự về Lam Kinh.
Ngày 22, vua xuất phát từ
Tây Kinh, đi thuyền nhẹ ra cửa Linh Trường1941 , làm thơ Linh Trường
hải khẩu và bài tự.
Bài tự viết:" Nh́n non
ngắm nước là để ngụ cái thú của người thân, bậc trí1942 . Bên bờ
biển, toàn là dăy núi xanh cao vút, những ngọn núi dựng đứng ở cửa
biển, h́nh dáng lại càng lạ hơn. Cái hang dưới chân núi, ăn sâu măi
vào trong, thăm thẳm [8b] khôn lường, tương truyền đó là miệng một
con rồng. Bên ngoài miệng rồng lại có tảng đá, có h́nh thể rất lạ,
tương truyền đó là mũi rồng. Ở dưới mũi rồng, lại có một tảng đá rất
tṛn, rất đẹp, tương truyền đó là hạt châu dưới hàm con rồng. Đá lớn
nhô ra lơm vào nhiều vẻ, chổ dày chổ thưa, nhiều không kể xiết,
tương truyền đó là bộ râu rồng".
Vua bỏ thuyền lên bờ, đi
bộ đến đầu núi, bỗngnảy hứng thơ bèn viết 56 chữ 1943 để ghi lại.
Ngày 29, sắc dụ các quan
lưu thủ Đông Kinh là bọn Thái bảo Kiến Dương hầu Lê Cảnh Huy, Diên
Hà bá Lê Hy Cát và Lại bộ thượng thư Hoàng Nhân Thiêm rằng:
"Ngày mồng 3, tháng 3,
đại giá sẽ từ Lam Kinh về. Ngày hôm đó, phải chia quân ngăn cấm
người đi lại. Ở kinh [9a] th́ các tráng sĩ hộ vệ phải giữ đồn điếm
cho nghiêm ngặt. Thượng Kinh1944 là đất căn bản, nên đặc biệt dụ bọn
khanh được biết".
Tháng 3, ngày 16, ra lệnh
đại xá gồm 49 điều.
Mùa hạ, tháng 4, hạn hán.
Ngày 23, vua cầu đảo Hạo Thiên Thượng Đế là v́ từ mùa đông tới mùa
hạ ít mưa. Xét bài biểu cầu mưa đại lược viết:
Kẻ không có đức, thần Lê
mỗ xin dốc hết ḷng chí thành, dâng lời kêu với đức Thái thượng khai
thiên chấp phù ngự lịch hàm chân thể đạo hạo thiên chí tôn ngọc
hoàng thượng đế bệ hạ: Nay từ mùa đông đến mùa hạ ít mưa, nắng suốt,
việc dân vất vả. Người làm thợ, đi buôn không chỗ nương nhờ, kẻ cày
ruộng chăn tằm hết bề trông ngóng. Chỉ v́ thần không có đức, để đến
nỗi trâm họ chịu tai ương. Bọn dân ngu nhớn nhác kêu thương, cơ hồ
đến hết phương sinh sống. V́ thế, thần dám đâu không gơ cửa Đế đ́nh
để giăi tỏ ḷng xót thương, để tâu bày niềm kinh sợ. Cúi xin ngài
tha thứ cho tội lỗi, [9b] đổi tai họa thành điềm lành, ban cho mưa
móc lớn, thấu khắp đến mọi nơi. Thần kính cẩn xin tâu lời cầu khẫn.
Tháng 6, ngày mồng 7, ban
sắc dụ 20 điều.
Ngày mồng 10, ra sắc chỉ
rằng: Con trai, con gái của các nữ đinh khiêng kiệu sinh ra, cứ 6
năm một lần duyệt tuyển sung vào, coi đó làm lệ thường.
Lấy Hàn lâm viện thị thư
Đào Cử làm Đông các hiệu thư.
Ngày 16, xuống chiếu bắt
Cung Vương Khắc Xương, v́ Khắc Xương ngầm mưu việc đại nghịch.
(Đến ngày mồng 6, tháng
8, Khắc Xương ốm chết).
Mùa thu, tháng 7, ngày
27, nhà Minh sai chánh sứ Lễ bộ lang trung Nhạc Chương, phó [10a] sứ
Hành nhân Trương Đ́nh Cương mang sắc thư sang báo việc lập Hoàng
thái tử và ban vóc lụa.
Nghiên Nhân Thọ chết.
Tháng 8, ngày 16, khắc
đầu canh năm có nguyệt thực toàn phần.
Mùa đông, tháng 10, ngày
15, sai sứ sang nhà Minh: Bùi Sơn, Vương Khắc Thuật, Chử Phong mừng
lập Hoàng thái tử Lê Tiến, Ông Nghĩa Đạt tạ ơn ban vóc lụa. Nguyễn
Tế tâu việc địa phương Chiêm Thành.
Đinh Dậu, [Hồng Đức] năm
thứ 8 (1477), (Minh Thành Hóa năm thứ 13).
Mùa xuân, tháng 2, ngày
mồng 3, ra sắc chỉ cho Lễ bộ yết bảng rằng:
"Kể từ nay, các quan hộ
vệ, trừ những ngày hộ vệ túc trực theo thường lệ ra, c̣n những ngày
chịu ân mệnh hay sắc chỉ sai phái và những ngày ra mắt, từ biệt, lạy
tạ, đều mặc thường triều phục và [10b] công phục như lệ các quan
viên triều tham, không được đội mũ sơn đen và mặc áo thường như
trước. Các quan văn vơ vào lạy tạ đều dùng công phục, không được
dùng thường triều phục như trước".
Tháng nhuận, ra sắc chỉ
cho các quan nha môn các vệ phải kư tên vào giấy tờ rồi theo đó mà
thi hành.
Xây thành Đại La.
Định thường triều phục.
Ra sắc chỉ cho các quan
văn vơ trong ngoài cả nước: Kể từ nay, những ngày yết triều, từ biệt
hay ra mắt th́ mặc áo cổ tṛn đúng như kiểu áo của các quan đă ban
xuống.
Tháng 3, ngày 16, bọn Hàn
lâm viện thừa chỉ kiêm Đông các đại học sĩ Thân Nhân Trung tâu rằng:
Phụng xét quan chế của
Hoàng triều, Sùng Văn quán có chức Tư huấn và Điển nghĩa để dạy nho
sinh. Cháu trưởng của các bậc công, hầu, bá, tử, nam; con trưởng của
các quan văn vơ nhị, tam phẩm; [11a] con trưởng của các tản quan
tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát phẩm, nếu ai tuổi trẻ và thông minh ham
học th́ cho vào Sùng Văn quán1945 làm học sinh đọc sách. Lại bộ chọn
bổ chức Tư huấn và Điển nghĩa cùng các văn thần tuổi cao, có học vấn
kiêm việc dạy học. Cứ 3 năm, quan lại học làm danh sách tâu lên, đưa
sang Lễ bộ để tổ chức thi. Đề thi là một kỳ ám tả, một bài kinh
nghĩa, hai bài về Tứ thi. Ai đỗ th́ bổ các chức quan văn. Nếu tuổi
đă lớn mà đần độn, muốn học vơ nghệ, th́ cho vào học tập ở vệ Cẩm y,
mỗi ngày tới trường đấu vơ ở phía tây kinh thành tập luyện các nghề
cung tên, thủ tiễn, đánh mộc... Đến cuối mùa đông, vệ ấy sai quan
khảo xét, cứ ba năm một lần, quan phụ trách làm danh sách tâu lên,
đưa sang Binh bộ, tổ chức thi theo lệ đă định. Người nào đỗ th́ bổ
các chức quan vơ. Người nào đau yếu không chịu nổi muốn xin về quê
quán, th́ làm giấy tŕnh lên các quan Lại bộ và Lại khoa [11b] xét
duyệt, làm bản tâu lên, cho được mang chức cũ về nghỉ ở quê hương.
Ra sắc chỉ rằng: Con cháu
các tụng quan 1946 , nếu thi đỗ các môn thơ, biểu và viết chữ, làm
tính th́ cho làm nho sinh ở Tú lâm cục và làm thuộc lại các nha môn
như lệ con cháu văn vơ quan thi đỗ.
Mùa hạ, tháng 4, ngày 18,
sắc dụ các quan thừa ty, hiến ty các xứ, và các quan phủ, huyện
rằng:
Các việc dân sự thường
ngày như hạn hán mà không cầu mưa, lụt lội mà không tháo nước, việc
lợi mà không làm ngay, việc hại mà không trừ ngay, tai dị mà không
cầu đảo th́ phải xử tội đi đày.
Mùa đông, tháng 10, ngày
mồng 6, quy định điều lệ thi các đội trưởng. Tất cả các cục, ty, sở
Ứng sự, Tinh mễ, Điển mục, Chủng thái, Đồn điền, Tàm tang, bị thiếu
các chức đội lại, th́ Hộ bộ khảo thi những người am hiểu về viết chữ
và tính toán trong các cục, ty, sở, ai đỗ th́ bổ vào.
Định ngạch thuế băi dâu
ven sông nhỏ.
Định lệ chia mở chợ mới.
Ra sắc chỉ rằng: Sinh dân các huyện, châu, xă ở các xứ trong nước
mỗi ngày một đông, nếu muốn mở thêm chợ mới để tiện mua bán th́ quan
phủ, huyện, châu phải khám xét thực tế, nếu quả là tiện lợi cho dân
th́ làm bản tâu lên, cho theo tiện lợi mà họp chợ, không cứ là có
ngạch cũ hay không.
Tháng 11, ngày 20, vua
sai Binh bộ tả thị lang Trần Trung Lập, Hàn lâm [12b] viện hiệu thảo
Lê Ngạn Tuấn và Phan Quư sang nhà Minh tiến cống và phi báo cho bọn
huyện quan Bằng Tường là Lư Quảng Ninh, tri châu Long Châu là Triệu
Nguyên kịp thời đón tiếp lễ cống và sứ thần để tránh làm lỡ việc
tiến cống.
Định chế độ bổng lộc của
các quan cai trị trong ngoài. Xét đại điển có ghi:
Cấp bổng lộc để khuyến
khích lập công, tùy theo trách nhiệm là nặng hay nhẹ. Các bậc hoàng
tôn, công thần, tuy không hạn chế về phẩm trật, nhưng cũng có thứ
bậc khác nhau; các chức quan văn vơ trị nhậm trong ngoài, công việc,
trách nhiệm khác nhau, cũng nên xét rơ khó nhọc hay nhàn rỗi. Người
nào phẩm trật ngang nhau nhưng kiêm nhiệm quan chức th́ cấp bổng lộc
theo chức nhiều việc. Người chức thấp mà kiêm chức, th́ cấp theo
chức kiêm nhiệm, mức tối thiểu là theo tam phẩm trật vốn có, tùy
công việc nhiều hay ít mà xét cấp. Người chức cao mà làm việc chức
thấp th́ cấp theo chức vụ đảm nhiệm, mức tối thiểu là theo tam phẩm
trật vốn có, tùy công việc nhiều hay ít mà xét cấp. Đại để quan
trong kinh kiêm nhiệm nhiều việc th́ tăng 1 bậc, nhiều nữa th́ tăng
2 bậc, ít việc th́ giảm 1 bậc, ít nữa th́ giảm [13a] từ 2 đến 5 bậc.
Các quan ngoài kinh kiêm nhiệm nhiều việc th́ giảm 1 bậc, chỗ nhiều
việc vừa th́ giảm 2 bậc; chỗ ít việc th́ giảm 2 bậc, chỗ ít việc nữa
th́ giảm từ 3 đến 5 bậc. Các thí quan tùy theo chỗ nhiều việc hay ít
việc, sau khi đă tăng hoặc giảm rồi, lại giảm xuốn 3 bậc nữa mà cấp.
Tháng 12, ngày 15, nguyệt
thực toàn phần.
Ngày 21, sắc dụ các quan
văn vơ:
Người nào không phải là
thân thuộc của hai vệ Cẩm y, Kim ngô và các vệ, ty Thần vũ, Điện
tiền, Hiệu lực, Tráng sĩ mà mượn cớ để tặng biếu, đi lại, chè chén,
cầu kết bạn, cùng là người trong các vệ, ty mà kết bạn với họ, đều
phải bắt giao đ́nh úy xét tội. Quan ngoài mà kết giao với quan trong
th́ xử tội chém. Quan cai quản không biết xét tâu lên th́ xử tội đi
đày.
Ra sắc chỉ rằng: Kỳ quân
của các ty Hộ vệ, người nào chưa đeo thẻ bài th́ quan cai quản ấy
cho đeo thẻ bài bằng gỗ theo như [13b] quân Hộ vệ.
Định lệ tư cách và xuất
thân1947 của lại viên các nha môn.
Những lại viên các nha
môn ở trong [kinh], người nào có chân xuất thân th́ khi mới tuyển bổ
được làm thư lại, làm việc 3 năm được bổ làm đạt lại; làm việc 3 năm
nữa được thăng làm điển lại; làm việc 3 năm nữa mà không phạm lỗi ǵ
th́ được thăng làm đô lại. Nếu lại viên các nha môn ở trong kinh mà
không có chân xuất thân th́ khi mới tuyển bổ, cho làm thông lại, làm
việc 6 năm, thăng làm đề lại. Nếu ở ngoài th́ cũng như lại viên các
nha môn ở trong mà không có chân xuất thân.
Định lệ tư cách cho lệnh
sử các phủ nha1948 . Mới tuyển bổ th́ sung làm á lệnh sử, làm việc 3
năm th́ thăng bổ thừa lệnh sử ở nha môn phủ đó, lại làm việc 3 năm
nữa th́ thăng bổ đô lại ở nha môn vào hạng có chân xuất thân.
[14a]
Định lệ phong tặng.
Hoàng
thái hậu phong 3 đời; Hoàng hậu, Tam phi1949 phong 2 đời; Cửu
tần1950 , Lục chức1951 , Nữ quan1952 , nhất phẩm chỉ được phong 1
đời. Người được truy phong th́ chỉ được gia phong danh hiệu quan
tước, chỉ được một ḿnh mà thôi, không có lương chức vụ và lệ tập
ấm. Quan viên ngày thường làm việc mà bị tai nạn cũng được phong
tặng. Các quan văn vơ được sắc chỉ ban phong cho mệnh phụ, Lại bộ
làm bản tâu lên, khi được sắc chỉ th́ kê rơ tước hiệu, chức phẩm tâu
lên, giao cho Tư lễ giám chiếu lệ thi hành.
Định lệ
cấp ruộng cho các quan viên.
Mậu Tuất,
[Hồng Đức] năm thứ 9 (1478), (Minh Thành Hóa năm thứ 14). Mùa xuân,
tháng 2, ngày 23, ra sắc chỉ cho ba ty Đô, Thừa, Hiến các xứ người
nào liêm khiết hay được xét các quan lại trong bộ thuộc của ḿnh,
người nào liêm khiết hay tham ô, chuyên cần hay lười biếng, cùng các
quan nho học dạy dỗ nhân tài, hằng năm có người được sung cống sĩ
hay không, nhiều hay ít, đều ghi tên tâu lên [14b] để định việc
thăng hay giáng.
Ra sắc
chỉ cho các quan thừa tuyên, phủ huyện các xứ trông nom việc đồng
ruộng, khuyên dân lấy nước vào ruộng để kịp thời gieo cấy.
Tháng 3,
tổ chức thi hội cho các củ nhân trong nước. Lấy đỗ bọn Lê Ninh gồm
26 người.
(Lê Ninh
người Thụ Ích, Yên Lạc1953 , là ông của Hiến).
Mùa hạ,
tháng 5, ngày 14, vua ra hiên, ra đề văn sách, hỏi về đế vương trị
thiên, duyệt các bài trả lời. Cho Lê Quảng Chí đỗ đệ nhất giáp tiến
sĩ cập đệ đệ nhị danh1954 , Trần Bích Hoành, Lê Ninh đều đỗ đệ nhất
giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh1955 (Quảng Chí người [xă] Thần Đầu,
[huyện] Kỳ Hoa1956 , làm đến chức Đông Các, được tặng Thượng thư,
hiệu là Hoành Sơn tiên sinh, được phong Thượng đẳng thần, là anh của
[Lê Quảng] Ư; Bích Hoành người [làng] Vân Cát, [huyện] Thiên Bản1957
. Bọn Nguyễn [51a] Địch Tâm 9 người đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất
thân1958 . Bọn Nguyễn Nghiễm 50 người đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất thân.
Mùa thu,
tháng 8, nước to.
Định lệ
vào chầu mừng cho các tù trưởng ở phiên trấn. Mỗi năm hai lần vào
chầu ở kinh. (Mỗi năm về chầu một lần vào tháng giêng, một lần vào
tháng 7). Nếu tự ư bỏ thiếu lễ chầu, một lần th́ phải băi chức, mất
quan, hai lần th́ bắt về trị tội.
Tháng 9,
ngày mồng năm, định lệ kư tên cho các quan thủ lĩnh. Kể từ nay, các
bản tâu và mọi giấy tờ việc quan, quan thủ lĩnh các nha môn đều phải
kư tên ở cuối tờ giấy, không được đứng tên hàng với các đường quan.
Ngày 22,
vua hạ chiếu đi đánh nước Lăo Qua.
Mùa đông,
tháng 11, ngày 20, định lệnh tuyển bổ quan viên các ty ở H́nh bộ.
[15b] Ra
sắc chỉ cho đường quan H́nh bộ công bằng xét kỹ quan các ty, có
người nào do chân chính lại viên xuấr thân, học thức nông cạn, tài
năng thấp kém th́ tâu lên rơ ràng, đưa sang Lại bộ xét thực, đổi bổ
làm việc khác. Lại chọn lấy các tiến sĩ và các sĩ nhân đă thi đổ, đă
từng làm qua các chức ở phủ, huyện, châu và chức thủ lĩnh, mà có tài
năng, kiến thức bổ thay vào.
Định lệnh
lựa thải quan viên 3 điều :
1- Bậc
trưởng quan các nha môn văn chức trong ngoài, đều phải công bằng xét
kỹ các quan viên dưới quyền ḿnh, nếu có kẻ hàn kém, như Tham nghị
Lạng Sơn Trần Duy Hinh, Tri phủ Trần Khánh Ninh Tháp Nhung, Tri phủ
Phú B́nh Phạm Tháo... và những tên đần độn bỉ ổi, không làm nổi
việc, đáng phải cho nghỉ, th́ làm bản tâu lên, giao cho Lại bộ xét
thực, đều bắt phải nghỉ việc; lại chọn người đă từng làm việc có tài
năng, kiến thức, quen thạo [16a] việc mà bổ
vào thay.
2- Bậc
trưởng quan các nha môn quản quân trong ngoài, phải công bằng xét kỹ
các quan vệ sở dưới quyền ḿnh, nếu có kẻ nào mỏi mệt hèn kém như
bọn Nguyễn Trí Nghiêu, Đỗ Hữu Trực, Đỗ Công Thích... cùng những tên
đê tiện bỉ ổi, không có tài cán, không làm nổi việc, đáng cho về
nghỉ, th́ làm bản tâu lên, giao cho Lại bộ xét thực, hoặc đổi đi chỗ
ít việc hoặc bắt nghỉ việc; lại chọn những người đă từng qua chinh
chiến, có tài năng, kiến thức làm được việc mà bổ vào thay.
3- Trưởng
quan các nha môn cần lựa thải th́ phải công bằng sáng suốt, không
được theo sự ưa ghét riêng của ḿnh để khi làm công việc ấy được mọi
người thành tâm tin phục. Nếu xét người hay dở mà sai sự thực th́
Lục khoa, Ngự sử đài, Hiến ty kiểm xét hoặc tâu để trị tội.
Tháng 12,
ngày 16, ban đêm có nguyệt thực.
Hạ lệnh
cho các quân tập tượng trận [16b] ở sân điện Giảng Vơ.
Ngày 23,
bắt đầu quy định nghi lễ hôn nhân giá thú.
Các nghi lễ đó là:
Khi lấy vợ, trước hết
phải nhờ mối lái đi lại bàn định, rồi sau mới định lễ cầu thân; lễ
cầu thân xong, rồi mới bàn việc dẫn cưới; dẫn cưới xong, rồi mới
chọn ngày lễ đón dâu. Ngày hôm sau, [con dâu] chào cha mẹ chồng,
ngày thứ ba đến làm lễ ở nhà thờ, phải theo đúng tŕnh tự các nghi
thức tiết văn đă ban xuống mà thi hành, không được như trước, nhà
trai đă dẫn lễ cưới rồi c̣n để qua 3,4 năm sau mới cho đón dâu.
Định lệ thưởng phạt trong
kỳ đô thí1959 . Các bậc công hầu, bá và các vơ quan trong ngoài,
người nào có chức quản quân đều phải dự đô thí.
Phép thi như sau: Mỗi
người thi bắn cung tên 5 phát, ném thủ tiễn [17a] 4 chiếc, đấu mộc 1
tao. Trúng được từ 8 đến 10 là thượng cấp; từ 7 sáu đến 7 là trung
cấp, từ 4 đến 5 là hạ cấp; đều được thưởng theo thứ bậc khác nhau.
Nếu trúng từ 2 đến 3 th́ không được thưởng cũng không bị phạt; trúng
từ 1 đến không trúng th́ phải phạt tiền cũng theo thứ bậc khác nhau.
Lấy Trịnh Công Ngô làm Hộ
bộ thượng thư.
Kỷ Hợi, [Hồng Đức] năm
thứ 10 [1479], (Minh Thành Hóa). Tháng giêng, ngày mồng 9, dời các
tướng Chân Vũ ra ngoài.
Ngày 26, vua ngự giá
duyệt vơ bị 16 ngày.
Sai Sử quan tu soạn Ngô
Sĩ Liên soạn bộ Đại Việt sứ kư toàn thư 15 quyển.
Tháng 2, ngày 20, vua xem
bắt cá ở Tây Hồ.
Tháng 3, ngày mồng 10, ra
sắc rằng: Các quan viên lười biếng, bỉ ổi, đê tiện, yếu hèn, nếu là
con cháu công thần [17b] th́ băi chức bắt về làm dân; nếu là con
cháu thường dân th́ băi chức sung quân.
Mùa hạ, tháng 5, hạ lệnh
thu lương khô1960 chức vào kho của các thừa ty các xứ. Lại viên các
nha môn trong ngoài, mỗi người người nộp 20 thăng lương.
Tháng 6, ngày mồng 7, vua
xuống chiếu đi đánh Bồn Man.
Tờ chiếu viết:
"Trời đất khoan thứ như
dương sinh, thảm khắc tựa âm tàn, nguyên khí bao la mọi chốn. Đế
vương nuôi dưỡng bằng ḷng nhân, đánh dẹp dùng điều nghĩa, đức uy
trùm khắp phương. Kinh dịch nói: "Cung tên để ra uy trong thiên hạ".
Kinh Thư ghi: "Kẻ vô đạo th́ thúc đẩy cho diệt vong, người có đạo
th́ giữ ǵn cho c̣n măi, như thế th́ nước mới phồn". Kinh Thư viết:
"Chăm việc vơ bị, để yên nước vua". Chu Lễ nói: "Kẻ nào giết người
hiền, hại sinh dân th́ phải đánh, kẻ nào cậy hiểm trở, không phục
tùng th́ phải chiếm". Câu nói trị đời của thánh hiền xưa nay vẫn là
một.
Nước nhà ta tóm thâu bờ
cơi, thống trị muôn dân; dù chốn hang hùm ổ rắn [18a] cũng được nắng
soi, ruợu hưởng, đến kẻ ḿnh vẽ sai xâu, đều phải dâng lễ, nộp châu.
Giặc Bồn Man Cầm Công ở
lấn ngoài cơi xa xăm. Thánh tổ ta lượng như biển cả bao dung, như
mùa xuân nuôi dưỡng, cho Tư Ngao1961 sống sót trong cỏ tranh: Văn
Hoàng ta ḷng như núi lớn chứa đầy, như sông sâu chở nặng, mặc Quỳ
Mạnh1962 nghênh ngang ngoài g̣ đông.
Thế mà nó dạ muông thú
không chịu đổi thay, tính dă man khó bề thuần hóa. Lừng khừng như
loài lợn ốm gầy, điên đảo tựa một phường dối trá. Bỏ chức phiên thần
mà lười dâng lễ cống; mang ḷng lừa trời mà làm nhục sử thần. Mưu
việc chẳng lành, làm sao nên được! Tinh ma nhiều cách, dám dựa kẻ
trái mệnh để làm càn, sấm sét ra oai, phải đem quân chính nghĩa mà
hỏi tội. Trước c̣n ôm đầu chạy trốn, nín thở náu ḿnh; sau lại vẫy
đuôi kêu thương vội vàng nộp đất. Trẫm thương lương dân sống một
phương, tha cho tội ác đáng muôn chết. Đặt quận huyện để trị biên
cương; đổi áo xiêm mà trao quan tước.
Nhưng nó vẫn ngoan ngu
như gỗ đá, [18b] uổng phụ ḷng tốt của đất trời; buông ḷng tham sâu
như khe hang: đảo danh phận lộn ngược giày mũ. Lộng hành quyền binh,
chém giết tứ tung; bán cả ruộng dân, vơ vét tiền của. Hủy hoại tóc
da chỉ v́ đắm mê cửa Phật1963 , theo thói cầm thú đến nỗi dâm hiếp
con dân. Liêu thuộc ra đón sắc mệnh ở ngoài thành th́ gối cao nằm
khểnh; quan ải phi báo công văn thắng trận1964 th́ đóng cửa ngăn
đường. Thậm chí nuôi phường khích thách vơ loài, chứa chấp mưu gian
càn rỡ. Bày kế gián điệp ḥng nḥm ngó nước ta, đặt lời điêu toa để
mê hoặc ngoài cơi. Bầy gian ác Lệ Khai th́ dung túng chở che, người
thổ tù Hàn Triệu lại giam giữ không thả. Thích tên bán nước Đức Lân
mà kết làm phụ tử, ghét người tích trữ Lang Tủng th́ giết cả vợ con.
Nhóm họp lũ bè, thường chống lại quan triều cai trị; giả kính trái
mệnh, dám để chậm con tin vào chầu. Trong [19a] tin lời yêu tăng
gian tà, ngoài dựa tiếng Lăo Qua tiếp viện. Chế sứ Nguyễn Tử Nghi
hơn vài mươi bọn, trăm cách chống lại mà không nghe; đại thần Vương
Văn Đán hơn hai chục người, bỗng chốc đánh giết mà chẳng nể.
Lại c̣n đào hào, sửa
giáp, phục kích, đóng đồn. Tự cho là bụi tre rậm có thể náu ḿnh,
quen làm kế qua ngày sống tạm, tử nghĩ là loài chó dại có thể gây
độc, dám lập mưu quay lại cắn càn.
Ḱa như: Cát Bá giết một
đứa mang cơm mà Thương Thang dấy binh đánh trước1965 . Lâu Lan cướp
một người đi sứ mà Hán Đế ra quân không tha1960 . Huống chi tên đầu
sỏ Cầm Công, thói đố kỵ ngày càng
quá quắt. Nó xé xác quan
ấp tể của ta, nó băm vằm quân đồn thú của ta. Nỗi căm giận đâu chỉ
chứa đầy lồng ngực, tội ác kia c̣n nhiều hơn tóc trên đầu Tử Dương
chống Hán, ếch ngồi đáy giếng tự tôn1967 . Nguyên tế phản Đường,
ngỗng kêu trong ao khó thoát1968 . [19b]Rành rành dấu xe trước, lồ
lộ lưới pháp xưa.
Đặc sai Thái uư Sùng quận
công Lê Thọ Vực, Đoan Vũ hầu Trịnh Công Lộ, Diên Hà bá Lê Hy Cát đeo
ấn tướng quân, trao cho 20 vạn quân tinh nhuệ, hẹn đến tháng 8 năm
nay, chia đường tiến quân, kể tội đến đánh. Tập hợp binh sĩ như hổ
như beo; gióng trống hành quân thẳng sào huyệt giặc. Để dân cơi xa
được chăn chiếu ấm êm, khiến đảng hung ác phải ḱnh nghê phanh xác.
Lừng lẫy danh thiêng chói lọi, theo trời nêu uy thế chẻ tre, liên
tiếp tin vui rạng rỡ, hẹn ngày tâu thắng trận trở về. Báo cáo trong
ngoài thảy đều được biết.
Định lệnh về nha lại sao
chép sắc chỉ. Kể từ nay, lại viên các nha môn được sai sao chép sắc
chỉ, việc lớn th́ dùng giấy khổ to, việc nhỏ th́ dùng giấy khổ nhỏ,
đều viết vào một tờ, không được đóng gộp nhiều tờ.
[20a] Mùa thu, tháng 7,
ngày 22, vua xuống chiếu thân hành đi đánh nước Ai Lao. Tờ chiếu
viết:
"Bậc đế vương đời xưa chế
ngự di địch, phục tùng th́ cưu mang bằng đức, phản lại th́ sấm sét
ra oai. Cốt để diệt bạo trừ hung, cho dứt mối lo cơi bờ bị xâm lấn;
đổi ḷng theo hoá, cho trọn ḷng nhân của trời đất chở che.
Cho nên: Hiên Hoàng ra
quân núi Trác Lộc1969 , Chu Tuyên đi đánh rợ Hoài Di1970 . Đó là thể
theo lẽ đóng cửa của trời đất, bắt chước cơ khoan nhặt của âm dương.
Đâu phải là thích lớn ham công, nhàm binh đánh bậy?.
Tổ tông ta theo trời chịu
mệnh, giữ cơi an dân, chăn nuôi bằng nhân, đánh dẹp bằng nghĩa, rạng
rỡ đời trước, để phép đời sau.
Trẫm nay nối công tổ
tông, giữ cơ nghiệp lớn. Vỗ yên trung châu cùng man mọi, văn trị Đại
Thuấn khắp ban; phát huy mưu trí của đế vương, quy mô Chu Văn rộng
mở.
Duy nước Lăo [20b] Qua
kia, giáp giới cơi tây. Đương khi Thánh Tổ dẹp giặc Ngô cuồng bạo,
đă nḥm sơ hở đánh úp quân ta, đến lúc Thần Vũ giết tên Nghiễm hung
tàn, lại giúp kẻ gian dấy binh đánh chiếm1971 . Chỉ v́ kẻ thù của
vua cha chưa diệt, mà di địch kia ngạo ngược càng già. Kiêu ngạo
muôn bề, lăng loàn trăm phách. Gọi Cao Hoàng là em1972 , coi Dụ miếu
là cháu1973 lên mặt như ếch đáy giếng khác ǵ; sang cướp châu Lang
Chánh, sang quấy phủ An Tây, nhả nọc c̣n độc hơn loài ông bọ. Vườn
tược Sầm Thượng, Sầm Hạ, nó ăn lấn như tằm; nhân dân biên giới của
ta, nó lấm lét cắn trộm. Thuận B́nh, Sa Bôi do vậy rối ren; Lâm An,
Quy Hợp bị chúng giày xéo. Thang Thượng, Thang Hạ là biên ấp của ta,
nó cướp đoạt hoành hành; Đạo Luận, Đạo Xa, tên thổ tù phản ta, nó
kêu gọi, chứa chấp. Sứ của nó sang thông, th́ ta hậu đăi cho về,
quan của ta giao thiệp, nó lại [21a] bắt giữ bỏ ngục.
Đến nước tên Cầm Công
trong khi ẩn náu, nó đă giúp đỡ bao che và lúc tên Cầm Công trở mặt
cắn càn, nó lại cho quân tiếp sức. Xâu xé bờ cơi ta, chiếm lấn đất
đai ta. Khinh nhờn tự phụ, lừa dối làm càn. Đây đâu chỉ là mối lo
một thời nơi cương giới, mà thực là mối thù muôn kiếp của nước nhà.
Trẫm nối phúc cả của tiên
tổ, rộng mưu xa của Hoàng vương. Rửa sĩ nhục cho Triệu Tống phải cầu
hoà rợ Nhung1974 , mở ḷng hiếu sinh như trời đất; phục mối thù cho
Tề Tượng đă chết v́ nạn nước, đánh dẹp theo nghĩa sách Xuân Thu1975
.
Huống chi đám dân chốn
man rợ này, từ lâu nhiễm hôi tanh của loài chó Lăo Qua; muốn khôi
phục cương thường cho tục mọi, ắt phải vung cung kiếm, dậy oai thanh
lừng lẫy.
[21b] Người có sức vác
đỉnh, dựng cờ đều tập hợp trong quân ngũ; kẻ có tài nhảy xa, vượt
ải, đều xô đến dưới bóng cờ. Người bàn luận quân cơ, giúp thêm mưu
kế; kẻ núi rừng ẩn dật đóng góp tài năng. Người người đều hăm hở
vung gươm, ai ai cũng múa tay nhảy nhót. Hăy xem ư chí của ba quân,
đủ biết ḷng người đều muốn đánh.
Đă định ngày 28 tháng 7
này, đặc mệnh tướng thần, chia đường tiến đánh. Chinh Tây tướng
quân1976 Lê Thọ Vực là tiên phong, đi đường chính chỉ huy các quân
các doanh du kích, trước hăy giết tên cháu hiếu của giặc Bồn Man để
chặt vây cánh nó, rồi chiếm ngay đất hiểm yếu là xứ Trấn Ninh mà
đánh vào ḷng giặt. Chinh Di tướng quân Trịnh Công Lộ chỉ huy các
doanh quân thổ binh từ đường An Tây tiến vào để chiếm giữ mạn thượng
lưu. Trấn Lỗ tướng quân Lê Đ́nh Ngạn chỉ huy các doanh quân hoành dă
từ đường Ngọc Ma đánh tới để cắt ngăn đường giặc chạy. Du kỵ phó
tướng quân là bọn Lê Lộng đi đường châu Thuận Mỗi để bóp cổ chẹn
lưng.Thảo tặc phó tướng quân là bọn [22a] Lê Nhân Hiếu theo lối phủ
Thanh Đô để đánh chỗ sơ hở. Muốn một trận đập tan nước Tề, phải
nhiều mưu mà lừa nước Sở. Nó như ong đàn kiến lũ, cố giữ th́ được
bên nọ, núng đàng kia; nó tựa hươu chạy, quạ kinh, đánh lại th́ thế
đă chia, lực lại yếu. Liệu mưu lược ta đă bày trước, biết quân giặc
tất phải cầm tù.
Nay trẫm tự cầm cờ mao
trắng điều khiển, tự cầm lưỡi búa vàng chỉ huy. Đánh dẹp đất man,
trói bắt bọn giặc mà đời trước không trói bắt được; kế tục ông cha,
làm xong công việc mà người xưa chưa thể làm xong. Để cơ đồ lâu dài
đến muôn đời được mở mang; để sĩ nhục to lớn của trăm vua được rửa
sạch. Trên trời cao, dưới đất rộng, sáng soi công liệt huy hoàng,
tây giáp biển, nam gặp sông, rộng mở cơ đồ sáng lạn. Bá cáo trong
nước, để mọi người hay".
Tháng 8, ngày 23, sai
tướng thần đem 18 vạn quân, chia làm 5 đường [22b] đi đánh Ai Lao,
Bồn Man và Lăo Qua, đều phá tan cả.
Pḥ mă đô uư Đông quân đô
đốc phủ chưởng phủ sự Đoan Vũ hầu Trịng Công Lộ làm Chinh Di tướng
quân, đeo ấn tướng quân. Đô đốc đồng tri Lê Vĩnh làm Chinh Di phó
tướng quân và Tổng b́nh đồng tri là bọn Nguyễn Lộng dẫn quân kiên
dũng các vệ Minh Nghị, Quảng Vũ, Ngọc Kiềm, Anh Đức, Phấn Uy thuộc
Đông quân, gồm 2.000 người, theo đường An Tây tiến đánh Ai Lao. Du
kỵ phó tướng quân Lê Lộng và Thổ binh tham tướng Đinh Thế Nghiêu đều
dưới quyền chỉ huy.
Lại lệnh cho bọn Công Lộ
rằng:
Nay sai bọn các ngươi đem
quân hùm gấu, quét bọn chó dê, phải dùng quyền uy sai khiến các
tướng. Ngươi mang ấn tướng quân nếu như để lỡ cơ hội, th́ cho chạy
trạm tâu báo ở hành tại; hàng tham tướng, phó tướng mà trái lệnh th́
đóng cũi giải về ngự doanh; từ hàng vệ, tổng trở xuống th́ cứ chém
đầu, không phải [23a] ngần ngại.
Lại lệnh cho quan kư lục
là bọn Nguyễn Như Uyên, Nguyễn Căng: trên từ tướng súy, dưới đến
binh lính, người nào chăm chỉ được việc, người nào lười biếng ngu
đần, kẻ nào dám hèn nhát khiếp nhược... tất cả đều phải ghi chép cho
rơ để tâu lên.
Lại ban cho Chinh Di
tướng quân doanh ngân bài nhỏ thưởng công để sau ban thưởng tuỳ theo
mức độ.
Sai Chinh Tây tướng quân
Sùng quận công Lê Thọ Vực đem quân đi theo đường chính Trà Lân, chỉ
huy các doanh du kích, đánh Ai Lao và Bồn Man. Sai Trấn Lỗ tướng
quân Lê Đ́nh Ngạn chỉ huy các doanh hoành dă từ đường Ngọc Ma tiến
sang để đón chặn đường giặc chạy. Du kỵ phó tướng quân là bọn Lê
Lộng tiến theo đường châu Thuận Mỗi để chẹn yết hầu giặc. Thảo tặc
phó tướng quân là bọn Lê Nhân Hiếu th́ theo đường Phủ Thanh Đô mà
đánh vào chổ sơ hở của giặc. Năm đạo quân cùng hợp đồng đánh Ai Lao,
phá tan bọn chúng, vào thành Lăo Qua1977 , tịch thu của cải châu
báu. [23b] Quốc vương nước ấy chạy trốn. Ta bắt sống dân chúng,
chiếm lấy đất đai, đến tận sông Trường Sa1978 , giáp biên giới phía
nam nước Miến Điện, nhận được thư của nước Miến Điện, thắng trận trở
về.
Tháng 9, ngày mồng 1, ra
sắc chỉ cho các đô đốc của năm phủ và thượng thư của sáu bộ rằng:
Khi tan chầu lui ra, trưởng quan và liêu thuộc bên dưới nếu tự tiện
về nhà th́ xử tội giáng chức.
Ngày 13, ra sắc chỉ rằng:
Khi làm chúc thư và văn khế, phải t́m người cùng thôn ấp, tuổi từ 30
trở lên, lập văn tự làm chứng, th́ mới cho phép thi hành. Kẻ nào dám
cố t́nh trái lệnh này, dỗ bảo người ít tuổi làm chứng, ḥng cho trôi
kế gian của ḿnh, th́ xử chúc thư, văn khế đó không hợp pháp.
Mùa đông, tháng 10, ngày
18, đại giá khởi hành đi đánh Ai Lao.
Ngày hôm ấy đóng đinh ở
Phù Liệt. Giờ dậu có hỏa tai, lửa cháy lan đến kho thuốc súng của vệ
Thiên Uy ở cửa Đoan Môn. Cháy [24a] sạch cả khu nhà túc trực của các
vệ Thần tư, Tráng sĩ, Điện tiền ở phía tây.
Tháng 11, ngày mồng 6, ra
săc chỉ sai Phó đoán sự vệ Cẩm y Trần Bảo và Đô chỉ huy thiêm sự
Phạm Nhân Kính đến phủ Trấn Ninh để trù tính tại chỗ, lo liệu chứa
lương.
Trần Bảo cùng Hữu tuần
tiễu1979 phó tướng quân Nguyễn Cảnh Thanh lực chọn những người khỏe
mạnh, tự nguyện trong kỳ quân và người làm thợ ở hai doanh tả hữu,
mỗi doanh lấy 600 người cộng là 1.200 người, lấy khí giới, lương
thực của các doanh để đi đến quân doanh của Chinh Tây tướng quân Lê
Thọ Vực.
Xuống chiếu hỏi tin tức
đánh nước Lăo Qua và hỏi tin về các doanh của Chinh Di tướng quân
Trịnh Công Lộ miền thượng lưu, của Trấn lỗ tướng quân Lê Đ́nh Ngạn
miền hạ lưu xem đă tiến được gần hay xa, c̣n hành quân đă hay ngừng
lại... phải tâu lên cho tường tận, hẹn [24b] ngày 21 tháng này, đến
hành điện Chiềng Vang báo cáo. Lại dụ rằng:
Thư báo thắng trận của
Chinh Tây quân doanh đánh phá nước Lăo Qua bị giặc Bồn đón chặn mà
mất th́ bọn tướng quân Lê Thọ Vực làm bản tâu theo sự thực và kê
khai họ tên những người cắt được tai giặc tại trận giao cho Trần Bảo
mang theo về hành tại.
Ngày mồng 8, xa giá đi
tới Châu Bồ, đóng doanh ở đây 4 ngày. Đến ngày 22 1980 đại giá trở
về.
Ngày 29, quan Khâm sai
phó đoán sự vệ Cẩm y Trần Bảo và Hữu tuần tiễu phó tướng quân Nguyễn
Cảnh Thanh mang sắc chỉ tới Sa Quan, châu Niệm Tống Trung ở ngă ba
sông miền thượng lưu thuộc đất Lăo Qua.
Tháng 12, ngày 28, vua về
tới kinh sư.
Lại đánh Bồn Man. Sai
tướng quân Kỳ quận công Lê Niệm đeo ấn tướng quân, mang [25a] 30 vạn
quân đánh Bồn Man, v́ có thư báo thắng trận của Chinh Tây quân doanh
đánh nước Lăo Qua bị giặc Bồn đón chặn làm mất.
Quân vào cửa ải, Cầm Công
bỏ chạy rồi chết. Quân ta đốt thành, đánh phá các thành khác, đốt
các kho tàng.
Trước đây dân chúng Bồn
Man có đến 9 vạn hộ nhưng bị chết đói gần hết, chỉ c̣n hơn 2.000
người, mới sai người tới xưng thần xin hàng. Bèn phong cho người
giống ṇi đó là Cầm Đông làm Tuyên úy đại sứ, lại đặt quan lại trấn
giữ các huyện để cai trị. Sau Cầm Đông lại làm phản.
Sửa định lại biệt lệnh 25
điều về việc đi đánh Chiêm Thành và quy định chính lệnh hành quân
cùng các lệ thưởng công.
Canh Tư, [Hồng Đức] năm
thứ 11 [1480], (Minh Thành Hóa năm thứ 16). Mùa xuân, tháng giêng,
xa giá từ Bồn Man về đến [kinh sư].
Ngày mồng 10, Tri huyện
Bằng Tường nhà Minh là Lư Quảng Ninh bắt giam người của ta sai đi là
Hoàng Thế Cung.
[25b] Thải bớt người già
yếu trong quân ngũ và miễn duyệt tuyển.
Tháng 3, ngày 15, ra lệnh
rằng:
Các quan viên nhận chức ở
vùng đất độc hại đă đủ hai lần khảo khóa trở lên mà xứng đáng với
chức vụ, không có tội lỗi, th́ Lại bộ xét thực, rồi điều về chổ đất
lành.
Ra sắc chỉ rằng:
Phép khảo khóa đă có lệnh
sẵn, cốt để phân biệt người hay dở, tỏ rơ việc khuyên răn. Nay Lại
bộ và quan các nha môn trong ngoài, nên theo đúng lệ mà làm để
khuyến khích mọi người. Nếu dám nhu nhơ bỏ phép như trước kia, th́
khoa phụ trách kiểm xét nêu lên, theo luật mà trị tội.
Ngày 22, giờ dậu, mưa đá
trong 2 khắc.
Thải bớt quân sắc.
Mùa hạ, tháng 5, ngày
mồng 6, giờ dậu, có sao sa từ giữa trời rơi về phương đông.
Hộ bộ thượng thư Lê Đoan
Chi dâng lời bàn:
Các quan phủ huyện tuy
làm xong việc thuế khóa, nhưng nếu trông nom việc đắp đê làm đường
không chăm, những lúc rỗi việc nông mà chưa hoàn thành, để trở ngại
tới thu hoạch, th́ đến [26a] kỳ khảo khóa sẽ không được thực chức và
thăng cấp, để răn những kẻ coi thường việc dân.
Tháng 6, hạn.
Ngày 20, ra sắc chỉ rằng:
H́nh quan và các quan
thừa hiến phủ, huyện các xứ xét xử án kiện, lấy của đút th́ nhiều,
giữ lẽ công th́ ít, có trường hợp để ứ đọng văn án đến 3, 4 năm; có
trường hợp nha môn trên dưới đùn đẩy lẫn nhau, đổi trắng thay đen,
cho trái làm phải, gian trá trăm cách, lư ngay không được tỏ bày,
oan trái nhiều, sầu than lắm, đến nỗi hạn hán xảy ra luôn. Triều
thần phải công bằng mà lựa chọn hoặc hoặc sa thải h́nh quan và quan
thừa hiến phủ huyện các xứ để đều được người giỏi, xét xử đúng lẽ,
phái tâu lên để thi hành.
Ngày 25, Tổng binh đồng
tri Bắc B́nh Trần Ao sai liệt hiệu Đào Phu Hóan đem 600 tên quân cờ
đến địa phương Cảm Quả mở cửa ải Thông Quang1981 đến tận ruông xứ
Ban [26b] Động dựng dóng rào chắn nganh. Đầu mục người nước
ngoài1982 là bọn La Truyền đem thổ binh tới đánh bắn. Phu Hoán lui
quân về cửa ải. La truyền lại đem quân nhổ rỡ dóng đem đốt đi. Trần
Ao đem việc ấy tâu vua sai quan Tư lễ đưa tờ tâu cho triều thần xem.
Lê Niệm tâu rằng:
Nay nếu dựng lại dóng
rào, tất họ lại phá đi, không có ích ǵ. Nên sai quan đến khám, nếu
qủa là đất của ta xen vào trong đất của họ và bị họ xâm chiếm th́ vẽ
điạ đồ cho rơ ràng, vều tâu đúng sự thực, rồi làm tờ tư sẵn đợi
lệnh. Năm này sai sứ sẽ giao cho bồi thần mang đi tŕnh với đô ty
tỉnh Quảng Tây, biện bạch phải trái, rồi sau hăy dựng rào. Vua y
theo.
Ra sắc chỉ rằng:Các quan
vào chầu, khi đến ngoài cửa Đoan Môn, nếu gặp ngày mưa th́ tạm tránh
mưa ở hai bên hành lang phía đông và phiá tây.
[27a] Ra sắc chỉ rằng:
Các lại viên thi đỗ th́ được bổ làm chánh quan các châu, huyện và
các chức kinh lịch, thủ lĩnh, phó sứ: C̣n các lại viên không thi đỗ
th́ chỉ bổ làm quan thủ lĩnh hoặc các quan ở châu, huyện.
Muà thu, tháng 8, có sắc
dụ rằng: H́nh quan là chức quan trọng, phải chọn người có sở trường.
Quan các ty ở H́nh bộ, không kể là nho hay là lại, nếu tài năng kiến
thức nông cạn, không am hiểu về h́nh danh, th́ đường quan bộ ấy lựa
thải ra, làm ban tâu lên, giao cho Lại bộ đổi bổ chức khác, rồi chọn
các quan trong kinh ngoài trấn, người nào đă nhận chức đủ hai kỳ
khảo khóa trở lên, đă thi đỗ và có tài năng, kiến thức, cùng những
người do lại viên xuất thân mà đă từng trải việc h́nh danh để bổ vào
thay.
Ngày 27, nhà Minh có sắc
văn đưa sang nói rằng:
"Gần đây, được các quan
trấn thủ và tổng binh Vân Nam, tâu rằng Quốc Vương An Nam vô cớ điều
động binh mă đánh giết ở đất Lăo Qua [27b] đến nay vẫn chưa lui
quân, lại định đánh nước Bát Bách Tức Phụ1983 . Vậy tư cho Vương
biết, nếu có phạm lỗi nói trên, nên gấp lui quân; nếu không, Vương
phải sang báo ngay để triều đ́nh truy xét kẻ báo cáo bậy trị tội
theo pháp luật.
Ngay hôm ấy, vua sai Tư
lễ giám đưa tờ sắc ấy cho triều thần xem. Bọn Lê Thọ Vực bàn nên trả
lờilà:
V́ hiện nay có 13 người ở
thành Đông Quan chạy trốn sang biên giới nước Lăo Qua, nên sai bọn
đầu mục Nguyễn Báo đến địa giới để đ̣i lại, chỉ bắt được xe buôn bán
chở về, không liên quan ǵ đến việc đánh Lăo Qua và việc muốn đánh
Bát Bách Tức Phụ cả. Điều ấy là nói bịa. Bèn giao cho Nguyễn Văn
Chất mang tờ tâu đi.
Bọn Binh bộ tả thị lang
Trần Trung Lập, Hàn lâm kiểm thảo Lê Tuấn Ngạn, Phan Quư vâng mệnh
đi sứ nhà Minh trở về, nhân tiện mang theo sắc văn của vua Minh về.
Vua sai [28a] Ngô Văn Thông đưa sắc ấy cho triều thần xem. Tờ sắc
nói:
"Mới rồi bọn bồi thần
Trần Trung Lập tâu rằng lễ tiến cống tới Long Châu, huyện Bằng
Tường, tỉnh Quảng Tây, Th́ Tri huyện Lư Quảng Ninh, Tri châu Thiệu
Nguyên không ứng phó nghênh tiếp ngay và chia cho hai châu Thượng
Thạch, Hạ Thạch chở đi, đến nỗi bị ngăn trở lâu hàng tháng, nên từ
nay, hễ có sứ thần sang kinh đô, th́ gửi tờ tư trước cho các quan
Tổng trấn, hẹn ngày tới Bằng Tường đón chuyển tới Long Châu, Tuyên
phủ Quảng Tây theo lệ cắt người đưa đi, khi sứ thần về th́ giao cho
quan lại có trách nhiệm đưa ra ngoài cửa ải Huống Thôn để cho khỏi
bị chậm trễ".
Ba ty Đô, Thừa, Hiến Lạng
Sơn là bọn Lưu Doăn Trực, Nguyễn Đễ (có sách chép là Lưu Doăn Thông
và Nguyễn Hữu Đễ) tâu rằng:
Người châu Tư Lăng nước
ngoài tràn vào châu Lộc B́nh, cướp lấy của cải và trâu ḅ súc vật
của bọn Hoàng Lô, Mă Bát ở Lộc B́nh mang đi. [28b] Quan thủ bị Lê
Đ́nh Hoán không biết ngăn giữ: xin giao cho vệ Cầm y bắt hỏi tội.
Bọn triều thần Lê Thọ Vực
nói: Nó quen thói trước, hay tràn vào cướp bóc dân ta. Nay nên sai
Đông các soạn tờ điệp văn cho vệ Lang Sơn gửi sang châu Tư Lăng
trách họ về việc không biết cấm đoán nhân dân trong hạt, để chúng
liều lĩnh gây hấn ở biên giới, vượt cơi cướp bóc trâu ḅ của cải,yêu
cầu bắt phải trả lại.
Lại soạn thảo sắc chỉ,
sai một viên giám sát và một viên quan nhàn rỗi cùng với ba ty xứ đó
điều tra xem bọn Hoàng Lô với bọn kia trước đây có chuyện ǵ với
nhau không, duyên do phải trái thế nào, xét cho rơ ràng tâu lên. Năm
nay sai sứ Đông các lại đem đầu đuôi việc cướp bóc trước sau, soạn
tờ tư của triều đ́nh, giao cho sứ thần nhân tiện mang sang cho các
quan Tổng trấn và Tổng đốc Lưỡng Quảng yêu cầu điều tra xem châu Tư
Lăng trong hạt v́ cớ ǵ đem dân chúng vượt qua biên giới sang cướp
bóc, gây hấn sinh sự [29a]. Bọn Lê Đ́nh Hoán không biết ngăn giữ để
người nước ngoài vào cướp bóc, nếu đúng như lời tâu của bọn Lưu Doăn
Trực th́ cho bắt hỏi. Lại bộ kíp chọn quan khác đến thay.
Mùa đông, tháng 11, ngày
18, sai bọn bồi thần Nguyễn Văn Chất, Doăn Hoành Tuấn, Vũ Duy Giáo
sang tuế cống nhà Minh và tâu việc Chiêm Thành.
Tháng 12, ngày đinh dậu,
vua đưa tờ biểu về việc tiến cống hằng năm so Hàn lâm viện thị thư
Lương Thế Vinh soạn thảo để triều thần bàn.
Bọn Lê Thọ Vực nói:
"Ba bài biểu, văn đều
thuận lẽ cả, như bọn Thân Nhân Trung đă cùng tâu lên".
Về giấy tờ bang giao, vua
trước hết sai quan Hàn lâm viện soạn thảo, rồi trao xuống cho Đông
các xem, sau lại đưa cho triều thần xem. Nếu có ư ǵ khác, th́ cho
sửa lại. V́ thế, người Minh thường khen rằng nước ta có nhiều người
giỏi.
Ba tờ biểu văn th́ một tờ
[29b] tŕnh việc đầu mục nước ngoài là La Truyền1984 phá dóng rào ở
cửa ải Thông Quang,một tờ tŕnh về việc Tri huyện Bằng Tường Lư
Quăng ninh bắt giữ người của ta sai đi là Hoàng Thế Cung.
Phát tiền nộp chủ ban cho
đại thần và các quan mua tơ lụa dâng nộp, v́ mùa đông năm ấy là kỳ
sai sứ cống phương Bắc.
Tân Sửu, [Hồng Đức] năm
thứ 2 [1481], (Minh Thành Hóa năm thứ 17). Mùa xuân, tháng giêng,
ngày 19, Đô cấp sự trung Vũ Mộng Khang dâng thư nói các việc, đại
khái có 4 điều:
1- Kẻ nào xâm chiếm ruộng
đất của người khác và chặt nêu, nhổ mốc, tự tiện lập giới hạn th́
phải phạt trượng và biếm truất: nếu phá bỏ bờ ruộng th́ chỉ phạt
tiền thôi.
2- Kẻ nào chặt phá cây
cối, tre pheo ở vườn mộ người khác th́ phải phạt trượng và biếm
truất, nếu cày phá mộ của người xưa th́ đều xử tội lưu.
3- Lấy vợ phải lấy người
ngoài, không được lấy [30a] kẻ giàu sang, thân thích phi loại, kẻ
nào vi phạm, th́ xử tội đồ.
4- Các quan ty sở tại khi
khám xét án kiện trong ngoài và loại tạp phạm, phải theo đúng hạn
định trong luật mà xử đoán phải trái, không được đùn đẩy cho nhau để
kéo dài; kẻ nào làm trái th́ phải phạt tiền như lệnh.
Mùa hạ, tháng 4, thi hội
cho các cử nhân trong nước, lấy đỗ bọn Phạm Đôn Lễ 40 người.
Ngày 27, vua ngự điện
Kính Thiên, thân hành ra đầu bài văn sách hỏi về lư số.
Cho bọn Phạm Đôn Lễ, Lưu
Hưng Hiếu, Nguyễn Doăn Định ba người đổ tiến sĩ cập đệ; bọn Ngô Văn
Cảnh 8 người đỗ tiến sĩ xuất thân; bọn Nguyễn Minh Đạo 29 người đỗ
đồng tiến sĩ xuất thân.
(Phạm Đôn Lễ, tên tự là
Lư Khanh, người huyện Ngự Thiên, phủ Tân Hưng ngụ ở làng Thanh Nhàn,
huyện Kim Hoa1985 , khi đỗ 27 tuổi, thi hương, hội, đ́nh đều đỗ đầu,
người đời gọi là Tam nguyên Đôn Lễ).
Tháng 5, ngày 21, triệu
bọn tiến sĩ Phạm Đôn Lễ vào trong Đan Tŕ. Vua [30b] ngự điện Kính
Thiên. Các quan Hồng lô truyền lệnh gọi tên. Lại bộ ban ấn mệnh. Lễ
bộ bưng bảng vàng, nổi trống nhạc, rước ra ngoài cửa Đông Hoa treo
lên. Xong rồi ty Mă cứu đem ngựa tốt đưa trạng nguyên về nhà.
Xuống lệnh rằng:
Quan các vệ, ty, sở Tráng
sĩ, Thần vũ, Hiệu lực, Điện tiền, Ngũ phủ, Mă nhàn, Thuần tượng
trong kinh, các quan vệ sở, phủ, châu, huyện bên ngoài, nếu có người
đẽo khoét quân lính, mọt hại nhân dân, chỉ chăm làm lợi cho ḿnh,
không nghĩ đến phép nước, ở trong th́ đường quan là các Chỉ huy, đề
đốc Kiểm điểm, Đô đốc và các quan Đoán sự, Kinh lịch; bên ngoài th́
hay ty Thừa, Hiến, đều phải công bằng xét xử, tham khảo dư luận của
mọi người, người nào trước kia có nhũng loạn, tuy không có chứng
thực, nhưng mọi người đều biết; cùng là người nào liêm khiết, không
mắc [31a] thói tham ô, kê ra từng loại tâu lên cả, trao cho Giám sát
ngự sử ở đạo đó thẩm tra lại, làm bản tâu lên, sẽ khu xử để tỏ rơ
khuyến khích và trừng phạt.
Lập sở Đồn điền. Xuống
chiếu rằng:
Mở đồn điền là để dùng
hết tiềm lực của nghề nông, mở rộng nguồn trích trữ cho nhà nước.
Nay lệnh cho các xứ định đồn điền thành ba bậc thượng, trung, hạ.
Tháng 6, ngày 20, chọn
thải bớt quan viên và bổng lộc.
Quan viên quá nhiều, tiêu
phí lộc kho, lục khoa phải tra xét xem từ năm Quang Thuận thứ 2 đến
nay, quan viên nào đă từng phạm các tội hối lộ, đă bị xử các tội
biếm, giáng, cùng các tướng hiệu, quản áp, để thiếu ván thuyền, gỗ
lạt, củi, gạch... vụng trộm bắt quân nộp tiền, đến nỗi thiếu nhiều
thứ phải nộp, trị giá từ 10 quan trở lên mà người ấy hăy c̣n tại
chức th́ bắt phải thôi việc, để triệt những quan tham nhũng [31b]
cho bớt lộc.
Ngày 21, xuống chiếu
rằng:
Các quan trong ngoài đua
nhau kiếm lợi là bởi quan có trách nhiệm ăn nói chưa được người
giỏi. Kẻ th́ nhu nhơ không có tài cán ǵ, người th́ đả kích quá để
rước gièm pha. Quan lại tham nhũng, dân chúng oán thán, đem khí dữ
làm trái khí ḥa, mối tệ này phải nên trừ bỏ. Từ nay trở đi, các
chức khoa đài, hiến sát, triều thần phải công bằng mà bàn chọn, ai
nên thả ra, ai nên bổ thay, làm bản tâu lên thi hành, để trừ bỏ tệ
cũ.
Mùa thu, tháng 7, ngày
mồng 4, Phó đô ngự sử kiêm Tả xuân phường tá trung doăn Quách Đ́nh
Bảo tâu về việc tự tiện đuổi dân trú ngụ như sau:
"Thần trộm nghĩ rằng:
Kinh sư là gốc của bốn phương; tiền của trao đổi mua bán tất phải
cho lưu thông đủ dùng, không nên để thiếu thốn. Trước đây, dân cư
phủ Phụng Thiên, trừ những người quê quán ở phủ đó, gián hoặc có
người tuy không phải quê ở đó, nhưng có [32a] cửa hiệu, thuế ngạch
và nộp thuế, chịu sai dịch với bản phường. Nay quan phủ Phụng Thiên
lại không hỏi xem dân tạp cư ở đó có cửa hiệu, thuế ngạch hay không,
đuổi hết cả về nguyên quán, e rằng như thế th́ nơi kinh sư sẽ buôn
bán thưa thớt, không c̣n sầm uất phồn thịnh nữa, không những người
làm nghề buôn bán sẽ thất nghiệp nhiều, mà chợ búa e sẽ trống rỗng,
ngạch thuế sẽ có thể thiếu hụt, có phần không tiện. V́ thế tâu xin:
Ngoài những kẻ vô loài tạp cư th́ nên đuổi đi, c̣n những người chuyê
có hàng chợ, cửa hiệu, trước đây đă biên vào thuế ngạch th́ hăy cho
được cư trú để buôn bán sinh nhai, cho vào bản phường nộp thuế theo
lệ cũ".
Tháng 9, ngày 27, ra sắc
chỉ rằng: Từ nay, các phi tần và quan viên th́ làm sổ riêng.
Mùa đông, tháng 10, ra
sắc chỉ rằng: Quan các vệ, sở, người nào dám hạch [32b] sách tiền
của như trước, tính từ 5 tiền trở lên th́ pháp ty sẽ trị tội theo
luật pháp, ngoài ra, từ 4 tiền trở xuống th́ nhất luật băi chức sung
quân, như lệ quan viên tham nhũng.
Xuống chỉ dụ gồm 56 điều:
Tuyển người bổ sung quân
ngũ.
Khảo thi con cháu các
quan viên, hỏi về làm văn, viết chữ, làm toán.
Đào hồ Hải Tŕ. Hồ này
quanh co đến 100 dặm. Giữa hồ có điện Thúy Ngọc, bên hồ xây điện
Giảng Vơ để tập luyện binh tượng.
Lấy Nguyễn Bá Kư làm Lại
bộ thượng thư. (Nguyễn Bá Kư người Chí Linh).
Nhâm Dần, [Hồng Đức] năm
thứ 13 [1482], (Minh Thành Hóa năm thứ 18). Mùa xuân, tháng giêng,
vua ngự về Tây Kinh.
Mùa thu, tháng 7, ngày
mồng 6, ra sắc chỉ rằng: Nho sinh tú lâm cục, số người thêm nhiều mà
người giảng tập th́ ít. Quan Lại bộ chọn lấy 3 viên quan Hàn lâm
viện có thể kiêm chức Tư huấn Tú lâm cục [33a] rồi làm bản tâu lên,
thuyên bổ để tiện giảng tập.
Định lệnh bảo cử quan
Thừa ty. Ra sắc chỉ rằng: Quan Thừa ty các xứ, chức nhiệm rất nặng
nề, trong khi chọn bổ, phải được mọi người đều bằng ḷng. Kể từ nay,
quan Thừa ty các xứ có khuyết th́ Lại bổ tâu lên, đưa xuống cho
triều thần theo như lệ của hai ty Đô, Hiến mà bảo cử quan viên trong
ngoài, người nào làm nổi chức ấy, đưa cho Lại bộ thi hành.
Ngày 16, lấy Đào Cử làm
Hàn lâm viện thị độc Đông các hiệu thư. V́ Cử hầu vua đi đánh miền
tây, chăm chỉ được việc, không hề phạm lệnh cho nên được thăng chức.
Tháng 8, đại xá thiên hạ,
có 63 điều.
Làm sổ hộ tịch. Nghiêm
Lâm tâu rằng:
Khi làm sổ hộ tịch, Xă
trưởng phải chua rơ các quan viên [33b] chức phẩm cao hay thấp, tư
tước nhiều hay ít. Nếu không chua rơ ràng, Hộ khoa kiểm soát tâu
lên, quan phủ huyện và Xă trưởng đều bị trị tội.
Tháng 9, ngày 15, giờ
Tuất, nguyệt thực.
Mùa đông, tháng 10, khảo
hạch quân và dân, hỏi về viết chữ, làm toán.
Ra sắc chỉ kiểm xét sổ hộ
tịch và sổ ruộng đất. Từ Lục1986 khoa đến Lại bộ, nho sinh Tú lâm
cục, cùng với lại viên Hộ bộ và lại viên Thừa ty đều tới chùa Báo
Thiên, quán Hội đồng để cùng khảo xét với phủ, huyện.
Lấy Lê Ninh làm Hộ bộ tả
thị lang: Phạm Hưng Hiếu làm Hộ khoa cấp sự trung.
Quư Măo, [Quang Đức] năm
thứ 14 [1483], (Minh Thành Hóa năm thứ 19). Mùa xuân, tháng giêng,
ngày 13, cấm yến tiệc công làm cỗ bàn tiếm lễ.
Ngày 15, cấm thả kỳ quân
để thu tiền và thông đồng với con buôn.
[34a] Làm điện Đại Thành,
đông vu, tây vu ở Văn miếu cùng điện Canh Phục, kho chức ván in, kho
chứa đồ tế lễ, đông tây đường nhà Minh Luân.
Tháng 2, ngày 15, ra sắc
chỉ rằng: Nhân dân và quân sắc, ai thi hương đỗ tam trường, th́ sung
sinh đồ, đỗ tứ trường th́ sung sinh viên ở Tăng Quảng đường như lệ
cũ. Nếu sinh đồ từng thi hương mà không trúng kỳ nào th́ phải sung
quân, trúng một kỳ thi về làm dân chịu phú dịch như lệ. Sinh viên
Tăng Quảng đường mà thi hội không đỗ th́ sung quân. Quan Thừa, Hiến
và quan Quốc tử giám phân loại tâu lên để thi hành theo lệ đă định.
Mùa hạ, tháng 4, ngày 14,
ra sắc chỉ rằng: Các tư nhân tranh chấp đánh nhau th́ pháp ty chia
ra thủ phạm và ṭng phạm mà trị tội.
Ngày 22, ra sắc chỉ rằng:
Kể từ nay, sáu bộ có các bản tâu [34b] và hết thảy công văn các
việc, đều phải kư tên ở cuối tờ giấy như các quan Kinh lịch năm phủ
và thủ lĩnh Thừa ty các xứ.
Tháng 5, ngày 18, ra sắc
chỉ cho chánh quan các sở Tuần tượng, Mă nhàn được đeo thẻ bài vào
các buổi triều tham thường lệ, như quy định cho các chánh quan ở năm
phủ.
Quy định thời hạn vào
trường thi hương và lệ tiến cống sĩ nhân. Bọn Lễ bộ thượng thư Lâm
Giang bá Lê Hoằng Dục tâu rằng:
Có sắc chỉ sai chiếu số
học tṛ của Thừa tuyên sứ ty các xứ nhiều hay ít mà liệu định ngày
vào thi. Vâng tra năm Hồng Đức thứ 5, tháng 8, ngày mồng 5, Hàn lâm
thị độc kiêm Đông các đại học sĩ Thân Nhân Trung bàn tâu về lệ cống
sĩ của các Thừa ty các xứ. Các xứ Hải Dương Sơn Nam, Tam Giang, Kinh
Bắc mỗi xứ 130 người. [ 35a] Các xứ Thanh Hóa, Yên Bang, Tuyên
Quang, Hưng Hóa, mỗi xứ 30 người.
C̣n như nhật kỳ vào
trường thi hương, chưa biết định vào ngày nào cho phải, bọn thần xin
đợi lời Thánh thượng dạy cho: Thi hương th́ Thừa ty các xứ trong
nước và phủ Phụng Thiên lấy ngày mồng 8 tháng 8 năm nay đều vào kỳ
đệ nhất. Thừa ty các xứ Hải Dương, Sơn Nam, Tam Giang, Kinh Bắc lấy
ngày 18 tháng ấy vào kỳ đệ nhị, ngày 25 vào kỳ đệ tam, ngày mồng 1
tháng 9 vào kỳ đệ tứ, ngày mồng 7 treo bảng sĩ nhân đỗ. Các xứ Thanh
Hóa, Nghệ An ngày 15 tháng 8 vào kỳ đệ nhị, ngày 22 kỳ đệ tam,
ngày26 vào kỳ đệ tứ, ngày mồng 1 tháng 9 treo bảng sĩ nhân thi đỗ.
Các xứ Thuận Hóa, An [35b] Bang1987 , Hưng Hóa, Tuyên Quang, Lạng
Sơn, Thái Nguyên và phủ Phụng Thiên đều lấy ngày 13 tháng 8 vào kỳ
đệ nhị, ngày 18 vào kỳ đệ tam, ngày 26 vào kỳ đệ tứ, ngày mồng 1
tháng 9 treo bảng các sĩ nhân thi đỗ.
Tháng 6, ngày mồng 9, mưa
gió to, nước lụt.
Ngày 24, định lệ giảm bớt
Xă trưởng.
Mùa thu, tháng 9, ngày
mồng 2, Ngự sử đài phó đô ngự sử kiêm tả xuân phường tả trung doăn
Quách Đ́nh Bảo tâu rằng:
Những kẻ phạm các tội như
đại ác, đại nghịch, phản bội, trộm cướp, hối lộ, xui kiện, hống
hách, gian dâm, tham ô, bày mưu hăm hại người, cố ư giết người là
những tội gặp kỳ ân xá thường lệ không được dự vào. C̣n những tạp
phạm khác, tuy phát hiện ra sau khi có lệnh ân xá, nhưng đă phạm từ
trước khi có lệnh ân xá, th́ đều cho được hưởng lệnh ân xá để rộng
ơn thánh. Vua nghe theo.
[36a] Mùa đông, tháng 11,
ngày 11, sai Lê Đức Khánh, Nguyễn Trung, Đỗ Cận sang cống nhà Minh.
Ngày 12, ra sắc chỉ cho
các vệ, ty, sở làm đồ khí giới th́ phải tới Vũ khố của vệ, ty, sở
ḿnh mà làm, không được tự tiện làm ở nhà giải vũ và điếm quân ở
ngoại thành, ai vi phạm bị xử tội lưu.
Sắc dụ cho Hàn lâm viện
thừc chỉ Đông các đại học sĩ Thân Nhân Trung, Ngự sử đài phó đô ngự
sử kiêm tả xuân phường tả trung doăn Quách Đ́nh Bảo, Đông các hiệu
thư Đỗ Nhuận, Hàn lâm viện thị độc Đông các hiệu thư Đào Cử, Hàn lâm
thị thư Đàm Văn Lễ, biên soạn các sách Thiên Nam dư hạ tập1988 và
Thân chinh kư sự1989 .
Vua đề vào bản thảo bài
tựa Thiên nam dư hạ tập của Đại học sĩ Thân Nhân Trung rằng:
Hỏa thử thiên đoan bố,
Băng [36b] tàm ngũ sắc ty, Cánh cầu vô địch thủ, Tài tác cổn long y.
(Vải dệt lông chuột lửa, Lụa năm sắc tằm bằng, Lại t́m tay vô địch,
Cắt may áo cổn rồng).
(Xét sách Thần dị kỳ kinh
của Đông Phương Sóc có nói rằng: Ở ngoài cơi Nam hoang có lửa, trong
lửa mọc loại cây không bao giờ chết. Lửa cháy đêm ngày dù mưa to gió
lớn cũng không tắt. Trong lửa có con chuột nặng trăm cân, lông dài
hơn 3 tấc, nhỏ như sợi tơ có thể dệt thành vải. Sách Thập dị kư của
Vương Tử Niên có nói rằng: Núi Viên Kiệu ở biển Đông có giống tằm
băng dài 7 tấc, có vẩy, có sừng, lấy sương tuyết phủ lên, có kén tơ
năm sắc, dệt làm áo mặc lội nước không thấm ướt).
Lấy Nguyễn Xung Xác làm
Hàn lâm thị độc chưởng viện sự.
Giáp Th́n, [Hồng Đức] năm
thứ 15 [1484], (Minh Thành Hoá năm thứ 20). Mùa xuân, tháng giêng
ngày 16, Thái uư Phú Quốc công Lê Thọ Vực chết.
Tháng 2, có dụ ân xá.
Thi hội các cử nhân trong
nước, lấy đỗ bọn Phạm Trí Khiêm 44 người.
Tháng 3, ngày mồng 1, ra
sắc chỉ rằng: Kể từ nay, ai khai đào mỏ bạc th́ phải nộp thuế theo
quy định.
Thi đ́nh, đề văn sách hỏi
về nhà Triệu Tống dùngnho sĩ. Cho bọn Nguyễn Quang Bật, Nguyễn Giác,
Mai Duy Tinh [37a] ba người đỗ tiến sĩ cập đệ; bọn Ngô Văn Pḥng 16
người đỗ tiến sĩ xuất thân; bọn Chu Đ́nh Bảo 25 người đỗ đồng tiến
sĩ xuất thân.
Ngày mồng 10, nhắc rơ
lệnh cấm mua bán ức hiếp. Sắc chỉ nêu rơ:
"Việc cấm mua bán ức hiếp
đă có lệnh rất nghiêmmà các nhà quyền hào vẫn chưa đổi thói cũ, hại
dân chúng, hỏng chính sự không ǵ tệ bằng. Kể từ nay, phủ Phụng
Thiên và hai ty Thừa, Hiến các xứ phải nhắc lại lệnh cũ, cấm đoán,
răn bảo. Các nhà sắm sửa lễ vật cưới xin, nếu mua bán ở hàng chợ dân
gian, hàng hoá lớn nhỏ đều phải tuân theo thời giá, không được quen
thói gian ngoan như trước, ỷ thế cậy oai, mua hiếp, cướp đoạt, kẻ
nào vi phạm th́ trị tội theo như lệnh trước".
Ngày 12, nhắc lại việc
đàn bà phá thai và phá thai cho người khác.
Trước đây có lệnh cấm
rằng: [37b] Loại đàn bà tàn nhẫn, v́ muốn ít con cái để giữ lấy
nhiều của, hoặc ngại việc sinh đẻ, muốn tránh khó nhọc, thấy ḿmh có
thai, dùng kế cho sẩy thai, thương tổn tính mệnh, làm hại luân
thường, cùng là những kẻ phá thai cho người khác, đều phải tra xét,
trị tội theo luật pháp. Thế mà chúng vẫn coi là tờ giấy lộn, không
đổi lỗi trước, vẫn theo thói cũ, tệ trước càng tăng, coi thường pháp
luật, làm hư phong tục không ǵ hơn thế. Nay hăy nhắc rơ lệnh trước,
răn cấm nghiêm hơn, nế có người đàn bà nào như hạng nói trên, mà mọi
người đều biết, cùng là người chồng không biết răn cấm, đều trị tội
theo luật pháp.
Mùa hạ, tháng 4, bắt đầu
cấm kẻ giàu ỷ phép quấy nhiễu xưởng khai mỏ vàng bạc.
Cấm trong nước; Nếu không
phải là các dịp tế lễ, giỗ chạp, cưới xin, ân mệnh, ăn mừng, đám ma
mà vô cớ họp nhau ăn uống [38a] th́ trị tội theo luật pháp.
Ngày mồng 9, cấm người
giữ cửa nhận tiền đút lót.
Ngày 21, định lệnh rằng
khi nộp các ngạch thuế vào kho th́ quan đạc chi của các Thừa ty
không được gây khó dễ.
Ngày 29, định mệnh cấm mả
chôn sau không được che lấp hướng mả chôn trước.
Trước đó, phó sứ Thanh
h́nh hiến sát sứ ty xứ Yên Bang là Nghiêm Quang tâu rằng:
"Mộ của quan viên và dân
chúng chưa có phân biệt, cho nên kẻ dân mọn ngu tối thấy người có
quan tước th́ cho là do mạch đất mà được thế, khi có người nhà chết
th́ đua nhau chôn ở đằng trước, sát phạm đến nấm mồ. Con cháu nhà có
mồ bị vi phạm, thường đem việc đó kiện tại cửa quan th́ lại chưa có
quy định riêng, nên cũng khó ḷng xét rơ phải trái. Vậy có nên chiếu
theo chức phẩm cao thấp mà quy định đất để mồ mả rộng hẹp hay không?
Đến đây Lễ bộ thượng thư
Quách Đ́nh Bảo bàn rằng:
"Đất để mồ mả của quan
viên và dân [38b] chúng trong nước, có khi là ruộng đất công, có khi
là ruộng đất tư. Nếu kẻ nào lấy ruộng tư làm đất để mồ mả th́ kích
thước rộng hẹp cũng phải theo hướng đất trước sau cho phải. Người để
mồ sau không được cậy là ruộng đất tư của ḿnh mà chôn sát, che lấp
mồ chôn trước. Kẻ nào cố ư vi phạm th́ con cháu họ hàng nhà chôn
trước kiện tại quan tư sở tại, bắt mồ chôn sau phải dời đi chỗ khác
và bắt phải nộp tiền tạ lễ theo như luật pháp". Vua y theo.
Ban xuống lệnh thưởng
công.
Cấm nha môn các phủ, vệ,
ty cậy quyền ỷ thế mà chửi mắng viên thủ lĩnh và ban ơn trả oán mà
tiến cử hay sa thải người càn bậy.
Tháng ấy, định lệ lấy
người các xă phục dịch lễ đảo vũ.
Các quan vâng mệnh đi đảo
vũ ở đền chùa nơi nào, cho lấy người xă gần đó và người xă gần đó và
người xă bản xứ để đốt hương, đóng oản, [39a] phục dịch các quan và
nuôi dưỡng tăng sĩ, mỗi ngày 10 người, luân phiên thay đổi để tiện
việc cầy cấy.
Ngày 13, định lệnh sách
công ban xuống, Hiến ty phải kiểm soát.
Bấy giờ Lễ bộ thượng thư
kiêm tả xuân phường tả trung doăn Quách Đ́nh Bảo tâu rằng:
Trước đây, hằng năm sách
công ban xuống cho các phủ ở ngoài như Tứ thư, Ngũ kinh, Đăng khoa
lục, Hội thí lục, Ngọc đường văn phạm, Văn hiến thông khảo.Văn
tuyển, Cương mục, cùng các loại sách thuốc. Nhưng có khi phủ quan
tham ô, tư tiện giữ riệt lấy làm sách tư cuả ḿnh, không hề giao cho
học quan và y quan, rất là trái lệ. V́ thế xin tâu bày: Hiến ty các
xứ hăy kiểm soát các phủ trong hạt ḿnh, nếu thấy những sách nói
trên mà quan bản phủ cố t́nh giữ riệt, sách học không giao cho học
quan, sách thuốc không giao cho y quan, th́ cứ thực t́nh tâu hặc
lên, giao cho [39b] H́nh bộ trị tội. Vua y theo, cho nên có lệnh
này.
Tháng 5, ngày 26, ra sắc
chỉ rằng: Các quan cai quản quân dân trong kinh ngoài trấn, trong đó
có người liêm khiết, cũng có kẻ tham nhũng, nếu không phân biệt nêu
lên th́ khuyên răn thế nào được? Trong thi Đô đốc năm phủ, ngoài th́
đường quan ba ty Đô, Thừa, Hiến, các quan hăy công bằng mà bảo cử
các quan vệ, phủ, huyện, châu trong ngoài, người nào liêm khiết,
người nào tham nhũng đều phải khai rơ sự thực, hẹn trong 3 tháng kể
từ ngày sắc chỉ đưa tới, làm bản tâu lên, giao cho Ngự sử đài xét
lại mà thi hành khu xử để ỏ rơ cách khuyên răn và để nới sức cho
quân dân.
Ngày 27, Lại bộ thượng
thư Nguyễn Bá Kỳ tâu rằng: Các quan viên có việc mà H́nh bộ xét hỏi,
có viên nào can phạm phải trị tội, th́ lập tức phải vâng lệnh đ̣i
lại sắc [40a] mệnh cũ và khám hợp rồi trao về Lại bộ tâu nộp.
Tháng 6, ngày 16, định
lệnh bổ dụng sinh viên ba xá. Bọn Phó đô Ngự sử đài Quách Hữu Nghiêm
tâu rằng: Bọn thần trộm thấy quy định về sinh viên ba xá của Quốc tử
giám, cho phép người nào mỗi năm thi hội mà rúng một kỳ được các kỳ:
hễ trúng được ba kỳ th́ làm sung làm thượng xá sinh, trúng được hai
kỳ th́ làm trung xá sinh, trúng một kỳ th́ sung làm hạ xá sinh, mỗi
xá là 100 người đều được cấp tiền kho. Sinh viên ba xá mỗi người đều
được 9 tiền. Đến khi bổ dùng, th́ Lại bộ và quan Quốc tử giám bảo
lĩnh tiến cử để chọn bổ, c̣n như số lượng chọn bổ th́ ba xá đều nhất
loạt giống nhau không có phân biệt. Nay về tiền lương của sinh viên
ba xá th́ hạ xá sinh nên giảm, thượng xá sinh nên tăng 1 tiền cho đủ
1 quan, trung xá sinh để nguyên 9 tiền như trước, hạ xá sinh giảm 1
tiền c̣n [40b] 8 tiền. Đến khi bổ dụng th́ Lại bộ và quan Quốc tử
giám chỗ khuyết mà bảo cử: thượng xá sinh 3 phần, trung xá sinh 2
phần, hạ xá sinh 1 phần. Như thế th́ sinh viên ba xá thi trúng được
mấy kỳ, học giỏi hay kém, thứ bậc trước sau được thích hợp mà nhân
tài trong nước đều được khuyến khích. Vua y theo.
Mùa thu, tháng 8, ngày
mồng 4, định lệnh đắp bờ ruộng để giữ nước. Ra sắc chỉ cho hai ty
Thừa, Hiến các xứ và các quan phủ, huyện, châu rằng: Kể từ nay, xứ
nào trong hạt có đê điều bị vỡ, ngập mất lúa mất mùa mà thế có thể
giữ nước để làm nhiệm vụ chiêm th́ hai ty Thừa, Hiến ra lệnh cho các
quan Hà đê, Khuyến nông các phủ, huyện, châu phải nhân dịp nước rút
dần, nghĩ trước kế chống đói cho dân, xem xét địa thế, tùy theo tiện
nghi, đốc thúc [41a] dân làng cơi đắp bờ ruộng, cần giữ lấy nước để
làm nhiệm vụ chiêm, không được vứt bỏ chức trách của ḿnh, coi
thường đau khổ của dân, ngồi nh́n mà không có kế sách ǵ, để dân
phải đói khát.
Ngày 15, dựng bia có bài
kư ghi tên các tiến sĩ từ khoa Nhâm Tuất năm Đại Bảo thứ 3 vua Thái
Tông triều ta đến nay.
Vua cho là từ năm Đại Bảo
thứ 3 triều Thái Tông đến giờ1990 , việc dựng bia, đề tên tiến sĩ
các khoa vẫn chưa làm được, sai Lễ bộ thượng thư Quách Đ́nh Bảo biên
rơ họ tên, thứ bậc các tiến sĩ từ khoa Nhâm Tuất năm Đại Bảo thứ 3
triều Thái Tông, khoa Mậu Th́n năm Thái Ḥa thứ 6 triều Nhân Tông,
khoa Quư Mùi năm Quang Thuận thứ 4, khoa Bính Tuất năm thứ 7, khoa
Kỷ Sửu năm thứ 10, khoa Nhâm Th́n năm Hồng Đức thứ 3, khoa Ất Mùi
năm thứ 6, khoa Mậu Tuất năm thứ 9, khoa Tân Sửu năm thứ 12 đến khoa
Giáp Th́n năm nay, [41b] khắc vào bia đá.
Quách Đ́nh Bảo nhân xin
đổi trạng nguyên, bảng nhăn, thám hoa thành tiến sĩ cập đệ, chánh
bảng thành tiến sĩ xuất thân, phụ bảng thành đồng tiến sĩ xuất thân
để hợp với quy chế ngày nay. Vua y tờ tâu, sai Công bộ khởi công
dựng tạc bia.
Bọn từ thần là Hàn lâm
viện thừa chỉ Đông các đại thần học sĩ Thân Nhân Trung, Hàn lâm viện
thị độc Đông các hiệu thư Đào Cử, Đàm Văn Lễ, Ngô Luân, Hàn lâm viện
thị thư kiêm Tú lâm cục tư huấn Nguyễn Đôn Hậu, Hàn lâm viện thị thư
kiêm Sùng văn quán Tú lâm cục tư huấn Lương Thế Vinh, Đông các hiệu
thư Lê Tuấn Ngạn, Hàn lâm viện thị độc kiêm Tú lâm cục tư huấn
Nguyễn Xung Xác chia nhau soạn văn bia. Bọn Trung thư giám chính tự
Nguyễn Tủng và Thái Chúc Liêm [42a] cùng điển thư Phạm Lư vâng sắc
chỉ viết chữ. Kim quang môn đăi chiếu Tô Ngai vâng sắc chỉ viết chữ
triện.
Xét bài văn bia của Đỗ
Nhuận:
"Sự nghiệp trị nước lớn
lao của Đế vương, không ǵ cần kíp hơn nhân tài, điển chương chế độ
đầy đủ của nhà nước, tất phải chờ ở bậc hậu thánh. Là bởi trị nước
mà không lấy nhân tài làm gốc, chế tác mà không dựa vào thánh nhân
đời sau th́ đều chỉ là cẩu thả tạm bợ mà thôi, sao có thể đạt tới
chính trị phong hóa phồn vinh, văn vật điểm chương đầy đủ?.
Kể từ Thái Tổ bắt đầu sửa
sang việc học vào kỷ nguyên Thuận Thiên, Thái Tông mở khoa thi đầu
vào năm Đại Bảo thứ 3, Nhân Tông chọn người hiền, dùng bậc giới,
kính cẩn tôn theo phép cũ. Đến như việc dựng (có sách chép là "phụ")
bia ở nhà Thái học th́ vẫn để đó chưa làm; văn vật đầy đủ, như c̣n
chờ bậc hậu thánh.
Nay Thánh thượng như trời
mở trung hưng, tự ḿnh gánh vác đạo lớn, việc tôn sùng Nho giáo càng
thành khẩn chăm lo. Huống chi nhân tài đă được các tiên thánh nuôi
dạy từ lâu, hơn nữa lại nhờ công sức mười [42b] năm nâng vực. Trước
đây 6 năm một lần thi lớn, nay thi châm chước theo chế độ nhà Chu đă
định là 3 năm. Trước kia lấy đỗ đều không quá hai ba chục người, nay
thi rộng xét thực tài, không lo nhiều quá.
Cho nên tôn trọng biểu
dương, đức ư rất hậu, ân vinh thứ bậc. tiết mục tận tường, vẹn toàn,
rực rỡ, vượt cả xưa nay. Cho nên bia đá khắc tên, vẫn ghi việc thực,
đặt ở cửa hiền, tưởng lệ kẻ sĩ, công việc làm của nhà vua tốt đẹp
nhường nào.
Thế th́ triều Lê ta văn
minh đầy đủ, khoa mục mở mang, mở nguồn từ thời Thuận Thiên, bắt đầu
từ năm Đại Bảo, thịnh hành từ đời Thái Ḥa, mà thịnh nhất vào đời
Hồng Đức vậy. Nếu như không phải do Thánh thượng làm tṛn trách
nhiệm bậc thầy, thân hành nắm giữ quyền hành chế tác, th́ sao có thể
thực hiện cái chí của người trước chưa thực hiện được, hoàn thành sự
nghiệp mà người trước chưa hoàn thành".
[43a] Tháng 9, ngày mồng
5, ra sắc chỉ rằng: Các viên Huấn đạo, có khi nhiều người cùng khảo
cứu một kinh mà học tṛ lại học kinh khác, không tiện việc truyền
dạy. Sắc cho Lại bộ điều tra sự thực, tiến hành ngay việc điều động
thay đổi, chọn người nghiên cứu kinh khác đổi bổ thay cho nhau.
Ra sắc chỉ, định lệnh các
sắc quân, người nào cùng vô sở xuất th́ sai làm việc nhẹ.
Ngày 29, ra sắc chỉ rằng:
Khi làm chúc thư, văn khế, th́ nhất loạt dùng thứ giấy lục lô hạng
trung, c̣n hết thảy giấy tờ khác dùng giấy quan hạng trung. Đó là
lời tâu của Tri huyện Tế Giang1991 Đặng Kiến Tố.
Mùa đông, tháng 10, ngày
11, ra sắc chỉ rằng: Con cháu các vị công thần khai quốc hễ là các
công thần khoảng nămThuận Thiên đă nhận quan chức, hoặc [các công
thần] tuy không được ban tên tự (có sách ghi là tên họ) nhưng đă
được dự vào hàng công thần khai sáng, khoảng năm Thuận Thiên, cũng
dự có công đă được quan chức đến nhất, nhị phẩm, nếu con cháu của họ
[43b] c̣n ở trong quân ngũ th́ cho chính người ấy đưa đơn kêu ở hai
ty Thừa Hiến bản xứ, làm bản tâu lên, giao cho Binh bộ xét thực, nếu
sức vóc có thể dùng được th́ sung làm tuấn sĩ vệ Cẩm y, nếu sức yếu
không làm nổi th́ cho được miễn phú dịch. Đó là lời xin của Thái phó
Tĩnh quốc công Lê Niệm.
Quy định việc xây dựng
hành điện:
Hành điện gồm 5 gian, 2
chái, nhà bếp mỗi dăy 3 gian, một đài Quan canh1992 ở giữa, cao 5
thước, rộng 40 thước, làm một khu đàn Tiên nông cao 7 thước, rộng 36
thước, 4 mặt đắp tường đất, cùng đi cửa đi ngựa vào. Đều ở xă Hồng
Mai, huyện Thanh Đàm1993 .
Làm điện Đại Thành ở Văn
Miếu cùng nhà đông vu, tây vu, điện Canh phục, kho chứa ván in và đồ
tế lễ, [44a] nhà Minh luân, giảng đường đông tây, nhà bia đông tây,
pḥng học của sinh viên ba xá, và các cửa, xung quanh xây tường bao.
Tháng 12, ra sắc chỉ
rằng:
Kể từ nay, quan các nha
môn trong ngoài có bị khuyết, khi vâng mệnh bảo cử, người nào từng
biết rơ người nào đó quả có tài năng, kiến thức, thanh liêm, có thể
bổ làm chức ǵ, th́ các quan khoa, đài, phải dùng biên chép, chua sổ
rơ ràng. Sau này người được bảo cử, nếu có kẻ bỉ ổi, tham nhũng
không làm việc, làm quan không công trạng ǵ, th́ phải tra xét xem
viên quan nào đă bảo cử bậy người ấy, tâu hặc lên để tra xét/
Lấy Lê Đ́nh Ngạn làm Tây
quân đô đốc phủ tả đô đốc Thanh Tương bá kiêm Tông nhân phủ tả tông
nhân chính.
Lấy Lê Trạc làm Pḥ mă đô
uư Vân Dương bá; Lê Quyền làm Trung quân đô đốc phủ tả đô đốc Kinh
Dương Bá.
[44b] Ất Tỵ, [Hồng Đức]
năm thứ 6 [1485], (Minh Thành Hóa năm thứ 21). Mùa xuân, tháng
giêng, ngày 11, định lệnh:
Các quan phủ, huyện, châu
trong nước nộp thuế nhân đinh điền tô, đầu nguồn, nếu dám lười biếng
không chăm thu nộp, đến nỗi dây dưa để thiếu th́ đ̣i tiền bồi thường
theo như lệnh đă định (lệnh chia làm 10 phần, đ̣i ở người thiếu thuế
7 phần, đ̣i ở quan trưởng phụ trách 3 phần). Nếu người nào đói rét
khốn khổ th́ thôn trưởng phải làm tờ cam đoan và cùng nhau bảo đảm,
theo như lệnh trước mà thi hành.
Tháng 2, ngày 12, ra sắc
chỉ rằng: Các bản tâu và đề của nha môn trong ngoài thí chính viên
quan phụ trách phải kư tên, không được sai lại viên viết chữ kư
thay.
Tháng 3, Thái phó Tĩnh
quốc công Lê Niệm chết.
Mùa hạ, tháng 4, ngày
mồng 10, định lệnh nộp thuế của xứ Quảng Nam.
Trước đó, xứ Quảng Nam
không có thuyền, [45a] hằng năm quân dân khiêng gánh thường bị mất
mát. Kể tứ nay, mỗi khi đến kỳ nộp thuế, cho Thừa ty Quảng Nam
chuyển giao thuế hiện vật cho ba ty Đô, Thừa, Hiến Thuận Hóa để sai
người chuyển đệ nộp lên.
1930 Đoạn sông Mă chảy
qua hai huyện Vĩnh Lộc và Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa.
1931 Tức cha mẹ bà Ngô
thị Ngọc dao, mẹ lê Thánh Tông.
1932 Quan giản nhậm: quan
trị nhậm ở nơi ít việc, quan thái giản: quan trị nhậm những nơi rất
ít việc.
1933 Chức nhàn tản: chức
quan coi việc nhẹ, chức thái nhàn tản: chức quan coi việc rất nhẹ.
1934 Thần tỷ: một loại
con dấu của nhà vua.
1935 Sở đồn điền: trông
coi việc mở đồn điền, ty tàm tang trông coi việc dâu tằm, ty Tinh mễ
trông coi việc trồng lúa, ty Chủng thái trông nom việc trồng rau.
1936 CMCB 22, 35 chép là
ở Sơn Man ở châu Bằng Tường của nhà Minh.
1937 Học sinh ba xá (Tam
xá học sinh): học sinh của ba xá gồm Thượng xá,Trung xá và Hạ xá.
1938 Đào Biểu: làm chức
Nội nhân thị hậu phó chưởng, chết theo Nhân Tông trong loạn Nghi
Dân.
1939 Thiên Nam động chủ
và Đạo Am đều là tên hiệu của Lê Thánh Tông.
1940 Thí quan:những viên
quan chưa được tuyển bổ chính thức.
1941 Cửa Linh Trường: nay
là cửa Lạch Trường, huyện Hậu Lộc, tỉnh Tỉnh Thanh Hóa.
1942 Trích từ câu "Nhân
giả nhạo sơn, trí giả nhạo thủy" (người nhân th́ ưa núi, người trí
th́ ưa nước) của sách Luận ngữ.
1943 Tức bài thơ Đường
luật 8 câu 7 chữ.
1944 Thượng Kinh: chỉ
kinh đô Thăng Long.
1945 CMCB23, 5b chép là
Chiêu Văn quán.
1946 Tụng quan: quan văn
theo hầu vua.
1947 Xuất thân: như giám
sinh, sinh đồ và người thi đỗ thư, toán (CMCB 23, 10a).
1948 Phủ: là phủ của thân
vương, công chúa. Nha: là nha môn của hoàng tử,quốc công, quận
công,hầu, bá, tử, nam (CMCB 23, 11a).
1949 Tam phi: tức Quư
phi,Minh phi, Kính phi.
1950 Cửu tần: tức Chiêu
nghi, Chiêu duy, Chiêu viên (tam chiêu); Tu nghi, Tu duy, Tu viên
(tam tu) và Sung nghi, Sung duy, Sung viên (tam sung).
1951 Lục chức: chức tiệp
dư, dung hoa, tuyên vinh, tài nhân, lương nhân, nữ nhân.
1952 Nữ quan: có bậc tư
nhất phẩm đến lục phẩm.
1953 Yên Lạc: tên huyện,
nay thuộc một phần đất huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phú.
1954 Tức là bảng nhăn.
1955 Tức là thám hoa.
1956 Nay là huyện Kỳ Anh,
tỉnh Hà Tĩnh.
1957 Naylà huyện Vụ Bản,
tỉnh Nam Hà.
1958 Tức là hoàng giáp.
1959 Kỳ đô thí: kỳ thi
lớn về vơ nghệ
1960 Lương khô: nguyên
văn là "thực lương" chỉ thóc gạo đă đồ chín.
1961 Tư Ngao: Tù trưởng
một bộ lạc thời vua Nghiêu trong truyền thuyết Trung Quốc.
1962 Quỳ Mạnh: là Quư Tôn
thị và Mạnh Tôn thị, đại phu nắm giữ quyền binh ở nước Lỗ thời Xuân
Thu.
1963 Nho giáo quan niệm
cơ thể con người là do cha mẹ sinh ra, phải giữ ǵn từng sợi tóc,
làn da, như vậy mới là có hiếu. Trong khi đó nhửng người đi tu lại
gọt đầu cắt tóc, như vậy là "bất hiếu".
1964 Ngăn chặn người phi
báo tin đánh thắng nước Lăo Qua.
1965 Theo truyền thuyết
Trung Quốc, Cát Bá là vua nước chư hầu thời Hạ, tàn ác vô đạo, giết
cả đức trẻ mang cơm ra ruộng rồi cướp lấy cơm. Thành Thang dấy binh,
lấy nước đó làm mục tiêu đánh đầu tiên.
1966 Nước Lâu Lan: ở vùng
Tây Vực, đón đường giết sứ giả củ a Hán Vũ Đế đi sứ nước Vũ Uyển.
Hán Chiêu Đế sai Phó Tử sang đánh và tiêu diệt nước đó.
1967 Tử Dương: tức Công
Tôn Thuật, chiếm cứ đất Thục, xưng đế, chống lại nhà Hán. Mă Viện
từng nói với Ngỗi Ngao: "Tử Dương như con ếch ngồi dưới đáy giếng".
Ư nói kiến thức nông cạn.
1968 Ngô Nguyên Tế phản
nhà Đường, Lư Tổ lợi dụng đêm có tuyết, ngỗng vịt ầm ĩ, đem quân
đánh, bắt được Nguyên Tế.
1969 Hiên Hoàng: tức
Hoàng đế, tên một ông vua trong truyền thuyết Trung Quốc.
1970 Chu Tuyên: tức là
Chu Tuyên Vương, Hoài Di: là Rợ Di ở miền sông Hoài thời đó.
1971 Xem BK 10 việc năm
Tân Sửu (1421) và BK 11 việc năm Đại Bảo thứ 2 (1441) và Đại Bảo thứ
3 (1442).
1972 Chỉ Lê Lợi.
1973 Từ Lê Thái Tổ đến Lê
Nhân Tông, không có vị vua nào miếu hiệu là Dụ Tông. Có lẽ chữ Dụ do
chữ Hựu chép lầm. Thái Tông chôn ở Hựu Lăng, nên Hựu miếu dùng để
chỉ Thái Tông.
1974 Nhà Tống đến thời
Cao Tông phải xưng thần, nộp cống cho nước Kim. Các vua Tống họ
Triệu nên gọi là Triệu Tống.
1975 Chỉ việc Tề Tượng
công diệt nước Kỳ để báo mối thù của tổ 9 đời Tề Ai công được sách
Xuân Thu khen.
1976 Nguyên văn là "
Chinh at6y tướng sĩ, chữ " sĩ " in lầm, các bản in sau chữa là
'quân"
1977 Tức là thành Luông
Pha Bang, tục gọi là Mường Luông.
1978 CMCB23 chép là sông
Kim Sa, sông Kim Sa tức là sông Irauadi ở Miến Điện.
1979 Nguyên văn là "Tả
hữu tuần tiễu phó tướng quân... "Sửa theo tờ 24b: "Hữu tuần tiễu phó
tướng quân Nguyễn Cảnh Thanh...".
1980 Ngày mồng 8, xa giá
tới Châu Bồ, đóng doanh 4 ngày, th́ ngày trở về phải là ngày 12 chứ
không phải là ngày 22.
1981 Cửa ải Thông Quan ở
xă Quang Lang, châu Ôn, sau đổi là đồn Quang Lang (CMCB 13).
1982 La Truyền là một
viên thổ tù tỉnh Quảng Tây, Nguyên vănlà "hóa ngoại đầu mục ", nghĩa
là viên đầu mục ở ngoài ṿng giáo hóa của triều đ́nh (Đại Việt).
1983 - Bát Bách Tức Phụ:
có nghĩa là "Tám trăm vợ. "Theo sách Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư
th́ đó là tên một bộ lạc người Man vùng biên giới Vân Nam - Miến
Điện. Tương truyền tù trưởng bộ lạc này có 800 vợ, mỗi vợ quản lư
một trại, v́ thế mới gọi là nước Bát Bách Tức Phụ.
1984 Nguyên văn là "Hóa
châu đầu mục La Truyền..." chữ "Hóa Châu" là do chữ "hóa ngoại" khắc
lầm.BK 13, 236b đă chép rơ La Truyền là "hóa ngoại đầu mục".
1985 Sau là huyện Kim
Anh, nay thuộc Sóc Sơn, Hà Nội.
1986 Nguyên văn là "tự
Lục khoa". Bản dịch cũ, theo Lịch triều hiến chương loại chí chữa là
"mệnh Lục khoa", nghĩa là "sai Lục khoa".
1987 Nguyên văn là "An
Quảng". Nhưng trước đó (tờ 35a) đă ghi là An Bang, An Bang đổi thành
An Quảng là việc về sau, vào đời Lê Anh Tông (húy là Bang)
(1556-1573).
1988 Thiên Nam dư hạ tập:
gồm 100 quyển, ghi chép đủ các chế độ, luật lệ, điều lệ, cáo sắc của
cả một thời. Sau đời Lê trung hưng, các bộ này bị tan tác, mươi phần
chỉ c̣n được một.
1989 Thân chinh kư sự:
nghĩa là ghi chép về việc thân chinh của nhà vua.
1990 Từ khoa NhâmTuất năm
Đại Bảo thứ 3 (1442) đến khoa Giáp Th́n năm Hồng Đức thứ 15 (1484)
gồm 10 khoa.
1991 Tế Giang: Sau là
huyện Văn Giang, nay thuộc huyện Châu Giang, tỉnh Hải Hưng.
1992 Đài Quan Canh: đài
cao để vua xem cày cấy.
1993 Nay là xă Hoàng Mai,
huyện Thanh Tŕ, Hà Nội.
1994 Phương diện quan:
chỉ những đại thần nắm quyền cai trị cả một vùng lớn.
1995 Khách sứ: sứ thần
các nước phiên thuộc.
1996 Tức kinh đô.
1997 Lạt Gia: tức Mă Lạt
Gia (Malacca).
1998 Tiểu nội: chỉ chung
những đầy tớ hầu hạ trong cung.
1999 Tức là Lê Nghi Dân.
2000 Thất chế: chỉ 7 vua
nhà Hán giỏi làm pháp chế là Cao Tổ, Văn Đế, Vụ Đế,Quang Vụ, Minh
Đế, Thương Đế, Tam Tông: chỉ 3 vua nổi tiếng của nhà Đường là Thái
Tông, Huyền Tông và Hiến Tông.
2001 Nay thuộc huyện Vũ
Thư, tỉnh Thái B́nh.
2002 - Ngày mồng 1 tháng
giêng âm lịch, tức ngày mồng 1 Tết Nguyên Đán.
2003 - Ngày sinh của vua.
2004 - Quốc kỵ: là ngày
giỗ của vua.
2005 - 13 xứ thừa tuyên:
Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Thái Nguyên, Hưng Hoá, Lạng
Sơn, An Bang, Thanh Hoá, Nghệ An, Thuận Hoá, Quảng Nam và phủ Trung
Đô Thi.
2006 CMCB 23 chép là
"dựng điện Thạch Thất".
2007 Quân chính; các điều
lệnh của quân đội bấy giờ.
2008 Quân giới: các điều
kỷ luật trong quân đội bấy giờ.
2009 Nay là khu vực Cửa
Nam, Hà Nội
2010 "Quảng văn" có nghĩa
là "truyền bá rộng"
2011 Quỳnh uyển cửu ca:
có nghĩa là "chín khúc ca trong vườn Quỳnh".
2012 Đầu đề của 9 bài thơ
đó là: 1 - Phong niên (năm được mùa), 2 - Quân đạo (đạo làm vua, 3 -
Thần tiết (tiết tháo người làm tôi), 4 - Minh lương(vua sáng tôi
hiền), 5 -Anh hiền (người tài giỏi), 6 - Kỳ khí (người tài ba), 7 -
Thư thảo (viết thảo), 8 - Văn nhân, 9 - Mai hoa.
2013 Theo Cương mục, miếu
Hoằng Hựu ở huyện Lương Giang, Nay là huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh
Hóa.
2014 Băi Thúy Ái: ở phía
nam sông Hồng, nay thuộc huyện Thanh Tŕ, Hà Nội.
2015 Dịch theo nguyên
văn. Chữ "hành tại" ở đây có lẽ thừa.
2016 Âu Dương Tu: là một
nhà thơ đời Tống, nổi tiếng về thơ và từ.
2017 Tử Mỹ: là Đỗ Phủ,
nhà thơ lớn thời Đường, Trung Quốc.
2018 Lư: tức là Lư Bạch,
Đỗ: tức là Đỗ Phủ, nhà thơ lớn thời Đường, Âu: tức là Âu Dương Tu;
Tô: tức là Tô Đông Pha, nhà thơ nổi tiếng thời Tống.
2019 Bài thơ Cẩm sắt là
của Lư Thương Ân thời Đường, Trung Quốc.
2020 Trang Chu nằm mơ
thấy ḿnh hóa bướm, khi tỉnh dậy, mơ màng không biết ḿnh là bướm
hay chính là Trang Chu.
2021 Vọng Đế: là vua nước
Thục, Trung Quốc, tương truyền ông vua này bỏ nước đi ở ẩn, sau lại
hối hận, nên khi chết hóa thành chim đô quyên tức chim cuốc, kêu
suốt mùa xuân và chỉ kêu một tiếng "quốc" (nước).
2022 Lam Điền: là tên một
ngọn núi, ở tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc, tương truyền là nơi sản sinh
ra ngọc quư.
2023 Đội mũ tṛn, đi hia
vuông: là vơ tướng, ư nói không xứng đáng làm vơ tướng.
2024 Trường Lạc hoàng
hậu: tức bà Nguyễn Hằng con gái Thái uư Tŕnh Quốc công Nguyễn Đức
Trung mẹ Hiến Tông.
2025 Tám
bính: theo sách Chu Lễ là : 1. Tước (ban chức tước cho bầy tôi); 2.
Lộc (cấp bổng lộc); 3. Dự (khen thưởng); 4. Tri (đặt quan chức); 5.
Sinh (nuôi dưỡng người có công lao); 6. Đoạt ( thu lấy tài sản, chức
tước của kẻ có tội); 7. Phế ( phế bỏ, đuổi đi); 8. Tru (trị tội).
2026
Hoàng đế: Một ông vua nổi tiếng trong truyền thuyết của Trung Quốc.
2027 Ngu
Chu: thời đại của Ngu Thuấn và Chu Văn Vương, được coi là thời kỳ
"thịnh trị" lư tưởng, theo quan niệm của sử gia phong kiến.
2028
Người có ḷng hiếu bềnvững, khắp thiên hạ ai cũng thừa nhận.
2029 Thôi
quan: chức quan phụ trách việc bắt giữ các phạm nhân.
Quyển XIV
[[1a]
Kỷ Nhà Lê
Hiến Tông
Duệ Hoàng Đế
Tên húy
là Sanh2030 lại húy là Huy, là con trưởng của Thánh Tông, ở ngôi 7
năm, thọ 44 tuổi th́ băng, táng ở Dụ Lăng.
Vua thiên
tư anh minh thông tuệ, giữ vận thịnh trị, thái b́nh, mới trong
khoảng 7 năm mà thiên hạ b́nh yên, xứng đáng là bậc vua giỏi giữ cơ
đồ, thế mà ở ngôi không lâu, đáng tiếc thay!
Mẹ ngài
là Trường Lạc Thánh Từ hoàng thái hậu họ Nguyễn, tên húy là
Huyên2031 , người ở trang Gia Miêu Ngoại, huyện Tống Sơn, là con gái
thứ hai của tặng thái uư Trinh quốc công [Nguyễn] Đức Trung. Trước
đây, Thánh Tông chưa có con nối, Quang Thục hoàng thái hậu2032 đă
từng cầu đảo, sai Đức Trung đến cầu ở am Từ Công núi Phật Tích2033 ,
chiêm bao thấy đến trước mặt thượng đế cầu hoàng tự. Thượng đế phán:
"Cho sao Thiên Lộc làm con Nguyễn thị". Nói rồi cho ẵm đến ngồi ở
trước. Bấy giờ, Trường [1b] lạc hoàng thái hậu ở cung Vĩnh Ninh, tức
th́ có mang. Đến khi đủ ngày tháng, chiêm bao thấy rồng vàng từ trên
trời sa xuống, bay vào trong pḥng, một lát sau th́ sinh ra vua.
(Vua sinh vào ngày mồng 10 tháng 8, năm Tân Tỵ, Quang Thuận năm thứ
2 [1461]).
(Xét bài
Thiên Phúc tự bi kư2034 của Nguyễn Bá Bằng có nói: Trường Lạc hoàng
thái hậu có điềm rồng vàng nhập vào sườn bên tả).
Vua sinh
ra, dáng vẻ thiên tử, mũi cao, mặt rồng, thần thái trang nghiêm,
tươi đẹp khác thường, Thánh Tông yêu quư lắm. Năm Quang Thuận thứ 3
[1462], tháng 3, sách lập làm hoàng thái tử.
Năm Hồng
Đức thứ 28 [1497], tháng giêng, Thánh Tông băng, vua lên ngôi hoàng
đế, đổi niên hiệu, đại xá, lấy ngày sinh làm Thiên Thọ thánh tiết,
tự xưng là Thượng Dương động chủ. Sau vua được truy dâng tôn thuỵ
miếu hiệu là Hiến Tông.
Mậu Ngọ,
Cảnh Thống năm thứ 1 [1498] , (Minh Hoằng Trị năm thứ 11). Mùa xuân,
tháng giêng, ngày 16, có sắc dụ cho [2a] các ty hộ vệ trong ngoài
rằng: Cửa hành cung không nghiêm th́ việc canh giữ cung thành không
chắc. Nếu gặp khi đại giá đi bái yết sơn lăng th́ ba ty Hộ vệ2035
càng phải hiệu
lệnh cẩn
mật, chớ cậy thời b́nh mà lơ là việc pḥng bị. Kinh Thư nói : "Có
pḥng bị th́ không lo ngại"2036 . Kinh Dịch nói: "Gơ hiệu canh từng
lớp cửa thành để ngăn ngừa kẻ bạo nghịch"2037 , chính là nói về điều
đó. Nếu thấy đặc chỉ cho gọi người vào, ban ngày th́ dùng bài ngà
tuyên triệu, có cả cờ lệnh và bài đồng nữa. [Nếu không] th́ không
được tự tiện mở đóng cửa doanh.
Ban đêm
th́ dùng bài vàng song hổ, có cả cờ lệnh và bài đồng. Nếu không có
phù vàng, bài ngà th́ nhất thiết không được thi hành. Kẻ nào không
nhận rơ thực giả, không theo sắc chỉ, th́ bị tội theo quân luật.
Tháng 3,
ngày mồng 5, định lệ thu nộp các thứ thuế. Mọi thứ thuế trong nước,
năm nào thu th́ đến cuối năm ấy phải nộp đủ, không được [2a] thu năm
nay đến năm sau mới nộp.
Có sắc
chỉ rằng: 6 sở của vệ Lang Sơn, kỳ quân th́ ít, quan lại th́ nhiều.
Các quan ba ty xứ ấy phải cùng nhau bàn định, giữ lại mỗi sở hai
viên2038 ; mỗi vệ, chức giáo tập bác sĩ 6 người, c̣n lại th́ đều
giảm bớt. Kê khai rơ họ tên những ngườI giảm bớt gửi lên Lại bộ và
Binh bộ để điều bổ và sai đi huấn luyện vệ sở khác.
Ngày Giáp
Tuất, mồng 8, quan tài của Thánh Tông Thuần Hoàng Đế rước về đến Lam
Kinh. Đến ngày Giáp Ngọ 28, an táng vào bên tả Vĩnh Lăng ở Lam Sơn,
gọi là Chiêu Lăng. Trước đó, Lễ quan tâu xin dựng bia, khắc minh để
tỏ rơ sự nghiệp của tiên đế cho đời sau. Vua khen lời tâu là phải,
sai Đông các đại học sĩ kiêm Quốc tử giám tế tửu Thân Nhân Trung, Lễ
bộ thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ Đàm Văn Lễ, Đông các đại học
[3a] sĩ Lưu Hưng Hiếu2039 soạn văn bia. Ngày hôm ấy, vua sai nữ quan
và nữ sử 10 người đưa linh cữu vào an táng xong rồi ra.
Thả vài
trăm cung nữ.
Sau sứ đi
khắp bốn phương, truy xét những người nghèo túng, già yếu c̣n trong
quân ngũ th́ thải cho về, những người chịu thuế khoá và phục dịch
công tŕnh quá nặng th́ giảm nhẹ cho; tha những kẻ lầm lỡ, xét rơ
người oan khuất, bổ dùng kẻ mất chức, khen thưởng người có công; tha
nợ thuế, nới h́nh phạt, nêu gương người tiết nghĩa, giúp đỡ kẻ côi
cút, người đói nghèo, cất nhắc người liêm khiết, tiến cử bậc hiền
tài, trong ngoài ai cũng thoả ḷng. Vua ở Đông cung 36 năm, đức
hạnh, học nghiệp ngày càng tăng tiến, nhân hiếu nổi lên khắp trong
nước, cho nên chính sự bước đầu đă tốt đẹp, khả quan.
Trong hạt
Nghệ An, Thuận Hoá, bọn trộm cướp đều nổi lên, quận bên cạnh đánh
dẹp không yên được. Vua ra sắc lệnh cho quan có trách nhiệm, triệt
bỏ hết toán lính đi tiễu bắt, chiêu an phủ dụ cho chúng ra thú tội
trở lại nghề nghiệp cũ2040 .
Vua xem
sổ tiền thóc của Hộ tào dâng lên và hỏi [3a] các quan tả hữu, biết
được t́nh trạng dự trữ của nhà nước và tư nhân. Từ đấy lại càng để ư
đến việc nông tang, tự tay viết sắc lệnh sai các quan thừa hiến,
phủ, huyện đi tuần hành khuyên bảo nhân dân đắp đê điều, đào ng̣i
lạch, khơi bờ ruộng, để pḥng hạn, lụt. Lại sai triều thần đi kiểm
tra, xem xét những việc đó. Mỗi xă đặt một người xă trưởng hay thôn
trưởng chuyên trông nom việc nông tang, lại đem xă quân và nông
trưởng đi đốc thúc. Quan bên ngoài ai có việc về Kinh và sứ của
triều đ́nh từ ngoài trở về, vua đều cho gọi vào hỏi về mùa màng được
hay mất, trăm họ sướng khổ ra sao. C̣n lính ở thợ đến phiên th́ cứ
theo lệ trước, tháng 6, tháng 10 chia một nửa về làm ruộng.
Ngày 16,
có chiếu quy định rằng các quan trong ngoài, người nào không có con
mà nuôi con nuôi, đều chiếu theo chức phẩm, cho được tập ấm bổ quan
như con đẻ.
Định lệ
bảo cử chức Tổng binh. Có chiếu chỉ rằng: Chức Tổng binh giữ trọng
trách cả một phương, không thể trao cho kẻ không xứng đáng. [4a] Kể
từ nay, nếu có khuyết chức Tổng binh th́ cho phép các quan khoa, đài
bảo lănh, lựa chọn quan ở các nha môn, người nào có đảm lược học
thức, uy vọng, tài cán, liêm khiết, siêng năng để bổ vào chức vụ đó.
Kẻ nào dám riêng tư tiến cử bậy loại ngu dốt, thô bỉ, nhút nhát, hèn
kém th́ phải trị tội nặng hơn luật thường.
Định lệ
nộp thuế tơ sống, đó là theo lời bàn của Trịnh Trị.
Lấy Dương
Trực Nguyên làm Lại khoa đô cấp sự trung, lại ưu đăi cho thêm tiền
quư bổng liêm khiết.
Mùa hạ,
tháng 4, ngày mồng 5, có sắc dụ quy định: Những điển lại có tội phải
sung quân, khi được ân xá, nên bổ làm lại ở nha môn bên ngoài. Người
nào tội t́nh nhẹ th́ bổ nơi đất lành, khoan cho một chút; người nào
tội t́nh nặng th́ bổ nơi biên cương xa xăm nước độc.
Ngày 19,
bọn Tản trị thừa tuyên sứ ty, tham chính các xứ Hải Dương Vũ Duệ
dâng lời tâu bày về việc định ngày thi Hương rằng: Bọn thần kính xét
thể lệ thi Hương năm trước: tháng 8, ngày mồng 8 [4b] vào kỳ thứ
nhất, ngày 19 vào kỳ thứ hai, ngày 25 vào kỳ thứ ba, ngày mồng 1
tháng 9 vào kỳ thứ tư. Theo như thế, bọn thần trộm xét, tháng 8 năm
nay đúng vào kỳ thi Hương mà ngày mồng 10 tháng ấy kính gặp ngày
Thiên thọ thánh tiết. Nếu ngày mồng 8 tháng ấy, Vũ Duệ và các viên
Hiến ty đều đă vào trường thi Hương rồi, đến ngày mồng 10 lại ra
trường thi về nha môn làm lễ th́ việc thi sẽ không được cẩn mật, mà
nếu bày hương án làm lễ2041 ngay trong trường thi, th́ lễ văn sẽ
không đầy đủ. Cúi xin thi Hương năm nay hoăn đến ngày 12 tháng ấy
vào kỳ thứ nhất, ngày 20 vào kỳ thứ hai, ngày 29 vào kỳ thứ ba, ngày
mồng 6 tháng 9 vào kỳ thứ tư. Như vậy, một là để bày tỏ t́nh cảm kẻ
tôi con chúc mừng vua cha, hai là để công việc [5a] đặt khoa thi
chọn hiền sĩ của triều đ́nh được nghiêm túc. Vua nghe theo.
Tháng 5,
ngày 24, định lệ truy thu thuế bông vải mùa hạ của nữ đinh.
Mùa thu,
tháng 7, ngày 15, Ngự sử đài đô ngự sử Quách Hữu Nghiêm tâu rằng:
Những lực sĩ, dũng sĩ, vơ sĩ, điển lại, quân sắc, ai bắt được kẻ
cướp cùng bọn giặc phản nghịch gian ác, nếu lệ có xuất thân th́ Lại
bộ chiếu như lệ xuất thân mà bổ dùng, nếu lệ không có xuất thân th́
đều trao cho tản chức theo như lệnh.
Tên phản
nghịch Hoàng Hấp Kiện bị giết.
Tháng 8,
ngày 22, ra sắc dụ cho H́nh bộ, Đ́nh uư ty và các quan xét xử án
kiện trong ngoài rằng: Việc dùng h́nh ngục quan hệ tớI sinh mệnh của
dân, sử dụng đạo th́ dân thoả ḷng, xử trái đạo th́ dân chịu hại.
Cho nên lời Tượng của Kinh Dịch rất răn việc chậm xử án2042 , Kinh
Thư rất xem trọng việc xét trong tù2043 . Thế th́, trong việc tra
xét, xử án, [5b] há có thể được phép tŕ hoăn sao! Kể từ nay về sau,
H́nh bộ, Đ́nh uư ty và các quan xét xử án kiện trong ngoài, hễ thấy
những án nào c̣n nghi ngờ, khó xử, cũng đều phải theo đúng kỳ hạn mà
xét xử cho xong. Nếu có ai dám để chậm trễ quá kỳ hạn, th́ đến cuối
mỗi năm, quan phụ trách cùng H́nh bộ, Đề h́nh giám sát ngự sử, Thanh
h́nh hiến sát sứ ty phải kiểm tra tâu hặc lên để trị tộI theo pháp
luật. Nếu lấy t́nh riêng dung túng, không biết tra xét tâu lên, th́
cho người có việc kêu lên, đường quan ngự sử đài và thể sát xá nhân
xét thực làm bản tâu lên để trị tội. Các quan kể trên không chịu làm
đúng lư th́ cho người bị hại tâu rơ thực t́nh sẽ trị tội họ theo
luật pháp.
Đặt thêm
các cơ sở hiệu của ba vệ Thăng Long, Tư Nghĩa, Hoài Nhơn thuộc Đô ty
Quảng Nam.
Mùa đông,
tháng 10, ngày 21, bọn Lễ bộ thượng thư Vũ Hữu2044 tâu rằng: Đầu bếp
phục dịch ở Thái quan Thư2041 [6a] vẫn có kẻ bỏ trốn. Bọn đầu bếp ở
Thái quan thư so với hạng chăn voi của Công bộ
cứ đến
tháng 6, tháng 10 hàng năm đă được vâng mệnh về làm ruộng, c̣n bọn
đầu bếp th́ chưa được, như thế là chưa công bằng. Do đó, cúi xin hạ
lệnh cho Thừa tuyên sứ ty bốn xứ Hải Dương, Sơn Nam, Tam Giang, Kinh
Bắc chọn lấy những phú nông trong hạt, bổ thêm làm đầu bếp, như lệ
số người phiên trước để tiện phục dịch. Cứ đến tháng 6, tháng 10
hàng năm th́ nhật luật chia cho về làm ruộng như hạng chăn voi của
Công bộ, cho khó nhọc và nhàn rồi được công bằng, ngơ hầu có thể xoá
bỏ được cái tệ bọn đầu bếp trốn đi. Vua nghe theọ
Tháng 11,
ngày mồng 8, vua sai bọn bồi thần Nguyễn Quan Hiền, Phạm Thịnh, Lê
Tuấn Mậu sang nhà Minh cống hàng năm.
Ngày 20,
có sắc chỉ cho Thừa ty bốn xứ Hải Dương, Sơn Nam, Tam Giang, Kinh
Bắc [6a] rằng: Khi rỗi việc làm ruộng, th́ sai các quan phủ huyện
đốc bắt dân phu các xă chuyên chở thóc công của huyện ḿnh, mỗi thừa
ty là 12.500 thạch đưa về kinh giao nộp, kho Thiên Hội kiểm nhận
chứa vào bốn dăy kho bỏ không từ trước. C̣n như thóc công của Thừa
ty các xứ Thanh Hoá, Nghệ An, Thuận Hoá, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hưng
Hoá, Tuyên Quang, th́ đều xứ nào thu chứa ở xứ đó như trước đây, để
đủ lương cho việc pḥng bị biên cương.
Tháng 12,
ngày mồng 10, có sắc chỉ quy định: Kể từ nay, trưởng quan các nha
môn trong ngoài, khi khảo khoá các chức ở vệ, sở, phủ, huyện hạt
ḿnh phải xét tường tận thành tích các nhiệm vụ đă trải qua. Người
nào hết ḷng phủ dụ chăm sóc quân dân, được quân dân yêu mến khâm
phục, nộp thuế không thiếu hụt, th́ mới được xét duyệt là xứng đáng
với chức vụ và được thăng chức, ban thưởng theo lệ đă định. Nếu quấy
nhiễu, hạch sách nhân dân, theo lợi riêng gây mối tệ, th́ dẫu việc
bị cáo giác không có chứng cớ cụ thể, nhưng thói gian tham mọi người
đều biết cả, [7a] cùng là trong hạt có nhiều kẻ trốn đi th́ đều khảo
vào loại không xứng chức.
Có lệnh
chọn chức thủ lĩnh.
Lời chiếu
viết: Chức thủ lĩnh được ngang hàng với trưởng quan, được bàn luận
phải trái cùng trưởng quan, không phải chỉ có tra xét, viết lách sổ
sách ở phủ vệ, mà c̣n phải xét hặc các tướng hiệu gian phi. Cần phải
công bằng giữ phép, ngay thẳng cho người noi theo. Thỉnh thoảng có
người liêm khiết xứng chức như bọn Vũ Phục Long, Phạm Như Dụ, Vũ Thế
Hảo, th́ đă nêu khen ban thưởng để khuyến khích người sau. Nay những
người ở chức ấy, không biết thấy người hay th́ lo theo kịp, lại bắt
chước kẻ dở, dung túng che giấu cho nhau, lâu ngày quen nết. Thậm
chí hùa nhau làm tṛ nhơ nhuốc, mặt dày nịnh bợ, quỳ gối chui luồn,
nuôi chứa ḷng gian, gây mối tệ hại, nhưng sao kể xiết, khiến không
sao phân biệt được kẻ hay, người dở để mà khuyến khích hoặc răn
trừng. Từ nay, ở trong th́ Lục khoa, ở ngoài th́ Hiến ty, hễ là thủ
lĩnh, phải theo phép công bằng, phân biệt cho rơ, ai là người liêm
khiết giữ luật pháp, [7b] ai là kẻ tham nhũng vụ lợi riêng, đều kê
tên tâu lên, trao cho Cai đạo giám sát ngự sử xét lại làm bản tâu
lên để thi hành. Kẻ nào dám theo ḷng ân oán riêng, tham mê của đút
lót, mà nhận xét không đúng, cùng là dung túng không nói ǵ, th́ cho
quan Lục khoa được nhất luật hặc tâu.
Kỷ Mùi,
[Cảnh Thống] năm thứ 2 [1499] , (Minh Hoằng Trị năm thứ 12). Mùa
xuân, tháng giêng, ngày 20, quy định ngày nộp tiền sai dư2046 trong
kỳ đại tập. Ra lệnh cho các nha môn trong Kinh thời hạn trong 15
ngày; Hải Dương, Sơn Nam, Tam Giang, Kinh Bắc 25 ngày; Thanh Hoá, An
Bang, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hoá 1 tháng; Nghệ An,
Cao Bằng, Thuận Hoá 1 tháng 15 ngày, Quảng Nam 2 tháng. [Các nơi]
đều phải theo đúng ngày hẹn giao nộp. Hộ bộ kiểm thu đủ số theo lệ
đă định.
Ra sắc
chỉ dụ các quan viên và quân sắc ở trong ngoài cả nước rằng: Việc
thiết lập vũ bị, cốt phải phép [8a] tắc vững bền, cách sửa sang
chính trị, quư ở trừ mối tệ hại. Cho nên sách Tam lược chú trọng
quyền cầm quân của tướng, sách Lục thao ghi việc thưởng phạt công
minh. Xét lời chứng ấy, đủ làm gương soi. Nước nhà ta dùng sức của
dân, định ra phép nước; binh lính các phủ vệ trong ngoài phải mở
rộng quy chế; bọn thợ thuyền lớn nhỏ càng phải coi trọng việc xét
công lao. Trừng trị kẻ tham ô, lời dạy rất rơ ràng; khen thưởng
người liêm cần, điển chương đă đầy đủ. Chăm chắm roi vọt răn đe,
ngăn
ngừa tư
thông đút lót. Mà sao bọn quan lại giữ chức quyền, không đoái chi
tới phép tắc của triều đ́nh. Người lo cho nước, quên việc nhà th́
ít; kẻ thiếu trách nhiệm, bỏ chức phận th́ nhiều. Tha giàu bắt
nghèo, không chừa ác cũ; tham tiền khoét của, vẫn theo lỗi xưa. Kẻ
th́ chỉ lo hại người để béo ḿnh, kẻ th́ đam mê tửu sắc mà chẳng bỏ,
kẻ th́ dựa thế [8b] đang lên nghĩ cách bóc lột, kẻ th́ nhân được gả
xuống2047 mà mặc sức vét ḅn, kẻ th́ cho nhờ vả che chở làm mưu hay
mà vứt bỏ phép nước, kẻ th́ lấy yêu sách, đánh đập là kế giỏi mà
không thương xót người nghèo. Việc quân, việc nước hỏng nát không
lúc nào nghiêm trọng bằng lúc này. Trẫm mới lên ngôi báu, nghĩ cách
trừ bỏ thói tệ, muốn đặt h́nh phạt nặng để chính sự buổi đầu được
trong sạch. Nhưng lại nghĩ: lấy h́nh phạt trừng trị kẻ gian là công
cụ giúp việc trị b́nh; lấy miệng lưỡi thay cho búa ŕu là ḷng nhân
chế ngự kẻ dưới. Vậy đặc cách ban bố điều khoản mới, yêu cầu trừ bỏ
thói quen xưa. Người nào biết thể theo ư trẫm, không bất lương th́
được thưởng hậu để nêu khen; kẻ nào quen giữ thói cũ, không nghe lời
răn dạy, th́ phạt nặng để trừng trị. Họa, phúc không có cửa nào, mọi
người hăy lựa chọn cho kỹ.
Cày ruộng
tịch điền.
Tháng 2,
ngày 17, có sắc chỉ dụ bọn Thái bảo Sùng Khê hầu Lê Vĩnh, Đô kiểm
điểm [9a] Cống Xuyên hầu Lê Năng Nhượng rằng: Mới rồi nhận được bản
tâu của các khanh, lo kế lớn cho tông miếu xă tắc, khẩn thiết xin
dựng lập hoàng trừ2048 , trẫm rất khen ngợi việc đó. Hoàng tử thứ
nhất là Tuân2049 th́ thích mặc áo đàn bà, bỏ thuốc độc cả mẹ; hoàng
tử thứ hai là Tuấn th́ c̣n bé, lại không có đức, sợ không kham nổi;
hoàng tử thứ ba là Thuần rất ham thích Thi, Thư , dốc ḷng hiếu
kính, trẫm đích thân vỗ về dạy bảo, nay đă trưởng thành, Trẫm quyết
đoán từ công tâm, cho giữ ngôi thái tử, thực không phải là bỏ con
trưởng lập con thứ, mà là v́ thiên hạ chọn người làm vua đó! Song
điện chính Đông cung trẫm c̣n đang ở, nên làm cung mới bên cạnh
điện, và làm sách phong thái tử, tuyên bố nghi lễ tiết văn, truyền
cho Hữu ty chọn ngày cử hành việc đó.
Nói rơ
việc cấm chỉ cỗ bàn xa xỉ.
Tháng 3,
ngày mồng 2, làm lễ tế đàm2050 cho Thánh Tông, ngày hôm ấy, bỏ áo
tang.
[9b] Mùa
hạ, tháng 4, ra sức dụ cho bọn Lễ bộ thương thư Vũ Hữu rằng: Nhân
tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí mạnh th́ đạo trị nước mới
thịnh. Khoa mục là con đường chính của người làm quan, đường chính
mở th́ chân nho mới xuất hiện. Cho nên ngày xưa dùng khoa lấy người
tài giỏi phải đặt quy chế chia vị cho nghiêm, phải định thể lên dán
tên cho chặt, có lệnh cấm bảo nghĩa cho nhau, đổi sách cho nhau, cốt
để ngăn ngừa mầm gian, thu nhiều người giỏi, để cung cấp cho nhu cầu
dùng người vô cùng của thiên hạ. Phép chọn kẻ sĩ của tổ tông ta bắt
chước đời xưa mà làm, đến nay quy mô rộng lớn, đă rất kỹ lại đầy đủ.
Song phép lập đă từ lâu, tệ xấu theo đó mà nảy sinh, kẻ tầm thường
th́ lạm vào hàng thi đỗ, người thực học th́ bị gạt ra ngoài ṿng,
lời bàn tán xôn xao, ḷng học tṛ chưa thoả. Trẫm giữ cơ nghiệp lớn,
rạng tỏ đạo công, sùng chuộng ḷng thành, muốn văn hồi phong tục
thuần phác, ngăn cấm lề thói phù hoa, mong trừ bỏ [10a] thói tệ kiêu
bạc. Để cho bậc hiền triết nối gót bước lên, việc pḥng giữ phải đặt
ra minh bạch. Nhắc rơ các điều, liệt kê ra cả thảy 20 điều dưới đây.
Điều thứ nhất: Trường thi phải rộng răi, trong chia làm bốn khu, mỗi
khu đều ngăn bằng rào thưa; bốn góc trong trường thi, mỗi góc làm
một cái cḥi, đến ngày vào thi, lấy nội thần hiệu uư mỗi cḥi một
người đứng trên cḥi để trông coi...
Thi hội
các cử nhân trong nước. Bây giờ, có tới hơn 5000 người dự thi, Vua
nói: Phép cấm không nghiêm th́ không thể ngăn chặn được thói cầu
may, giũ bỏ không kỹ th́ không thể lấy được người thực
giỏi.
Liền cho Nghi tào2051 định ra phép thi, cận thần ra đầu bài thi in
ra đưa xuống từng lều từng khu. Các viên tuần xước2052 phải thay
nhau canh cả ngày. Khảo quan ai có người thân vào thi th́ cho rút.
Lấy đỗ được 55 người.
Tháng 5,
ngày 19, xuống chiếu rằng: Kể từ nay, năm nào được mùa to, [10b]
thóc lúa bội thu, th́ thừa tuyên sứ ty các xứ sức cho, các quan phủ,
huyện, châu trong hạt bắt các nông trưởng, thôn trưởng phải quan tâm
khuyên bảo người trong xă ḿnh ai nấy nên dự trữ thóc gạo cho dồi
dào, không được xa xỉ dùng bậy cho tổn phí.
Đại hạn.
Cầu mưa ở Thái Miếu mà vẫn nắng dữ.
Ngày 29,
có sắc chỉ truyền cho H́nh bộ rằng: Hôm nay, ở Thái Miếu c̣n đương
cầu mưa, hăy hoăn việc xử trảm và phạt trượng tù nhân, hăy ghi chép
t́nh trạng tù nhân bị phạt trượng tâu lên, phải cấp tốc vâng lệnh
thi hành.
Tháng ấy,
lấy Dương Trực Nguyên làm Phủ doăn phủ Phụng Thiên.
Tháng 6,
ngày 19, thải bớt lại viên.
Sắc cho
bọn Lại bộ thượng thư Trần Cận rằng: _ vào phép nước mà đục khoét là
thói tệ của bọn lại, thường xuyên sa thải là quy chế của quốc giạ
Trước
đây, lựa chọn không công bằng, bọn lại quá nhiều, rất nhũng tạp. Có
kẻ ăn mày, chỉ một nghề là được bổ dụng, [11a] có kẻ nhờ cậy nhiều
ngón, mong được chỗ hơn, hối lộ công khai, thăng quan vượt cấp. Lại
c̣n có kẻ không viết nổi bản thảo tờ tâu, phải bỏ tiền thuê người
viết hộ. Cũng có kẻ không chép nổi sách, chỉ mánh khoé để kiếm
miếng. Bệnh trong tim óc, năm tháng đă lâu. Muốn cho trị giáo trở
lại thuần hậu, mà cứ để lũ tiểu nhân đầy đường, tắc lối th́ không
thể làm được. Ngươi phải gửi công văn cho các nha môn trong ngoài
các xứ trong nước, hạn trong ba tháng, các quan phụ trách phải làm
bản tâu rơ người nào thanh liêm, chính trực, kẻ nào gian tham, ngu
dốt, cùng những người già ốm, hèn yếu, th́ cho về hết thảy, theo như
lệnh mà thải ra. Lại chọn con em nhà lương thiện, có xă trưởng bảo
đảm, nếu khai gian th́ trị tội chết mới cho vào thi mà bổ dụng.
Ngày 26,
có sắc chỉ rằng: Kể từ nay, quân dân xứ Quảng Nam bắt được voi cho
nhà nước, th́ cho báo cáo với ba ty, cùng hiệp đồng xét thực, cứ 1
con voi [11b] mà 35 người trở lên bắt được, th́ cho 20 người là hạng
chính thức bắt được, 20 người là hạng đi theo để bắt, làm bản kê tên
từng người để xét ban thưởng theo thứ bậc khác nhau.
Mùa thu,
tháng 7, ngày mồng 5, ra sắc dụ cho các quan viên và dân chúng rằng:
Thế đạo thịnh hay suy quan hệ ở phong tục; phong tục tốt hay xấu
quan hệ ở khí số. Kinh Dịch nói: "Dùng người quân tử cho đạo đức
thuần hậu, phong tục tốt lành"2053 . Kinh Thư nói: "Ban rộng năm
điều giáo hoá để dạy dân vào khuôn phép"2054 . Kinh Thi nói: "Khuôn
mẫu không sai mới uốn nắm được người bốn cơi"2055 . Kinh Lễ nói:
"Thực hiện đủ "bát chính" để pḥng ngừa bừa băi, thống nhất đạo đức
để phong tục hoà đồng"2056 . Kinh của thánh nhân truyền lại lời dạy,
chứng cớ rành rành. Các bậc đế vương thời xưa, lên ngôi trị nước,
giữ ́nh tiếp vật, không ai không lấy đó làm đầu. Thái Tổ Cao Hoàng
Đế ta, dẹp yên nước nhà, gây dựng cương kỷ. Thái Tông Văn Hoàng Đế
làm sáng phép trời, luân thường chăm giữ. [12a] Thánh Tông Thuần
Hoàng Đế phát huy công đức của đời trước, rộng ban giáo hoá, hoà hợp
ḷng người, thánh thần truyền nối, quy củ tiếp nhau. Ḷng nhân tiếng
nhân dào dạt khắp trung châu, chính giáo tốt ành, thấm
nhuần tới
cơi mọi. Hàng triệu dân hưởng phúc tốt yên hoà, hàng ức năm được
phong đăng thịnh trị. Trẫm lên ngôi báu, kính theo mưu xưa. Tự ḿnh
hiếu kính để chấn chỉnh khuôn mẫu dạy dân; nêu gương cương thường để
tỏ rạng từng điều giáo huấn. Trên làm dưới bắt chước, đă mong mọi
chốn đều yên; trị an đến lâu dài, lại muốn nghiệp lớn tiến măi. Vậy
đặc cách nhắc rơ các điều ước, nêu ra dưới đây2057 . V́ thế có lời
dụ này.
Ngày mồng
9, thi Điện. Đầu bài văn sách hỏi về nhân tài và vương chính. Sai
Bắc quân đô đốc phủ tả đô đốc Hoa Lâm hầu Trịnh Tốn và Lại bộ thượng
thư Trần Cận làm đề điệu; H́nh bộ thượng thư Đinh Bô Cương làm giám
thí; Đông các học sĩ Nguyễn Bảo, Hàn [12b] làm viện thị giảng tham
chưởng hàn lâm viện sự Lê Ngạn Tuấn làm độc quyển. Cho Đỗ Lư Khiêm,
Lương Đắc Bằng, Nguyễn Khắc Kiệm, ba người đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ
cập đệ; bọn Hoàng Trưng, Nguyễn Hằng 24 người đỗ đệ nhị giáo tiến sĩ
xuất thân; bọn Trần Bá Lương, Lê Tự 28 người đỗ đệ tam giáp tiến sĩ
xuất thân, tổng cộng là 55 người.
Ngày 16,
vua ngự điện Kính Thiên, quan Hồng lô truyền loa xướng danh, Lễ bộ
đem bảng vàng treo ở ngoài cửa Đông Hoa.
Ngày 12,
ngày Thiên thọ thánh tiết, ngừng hoăn việc sai các tướng hiệu đi săn
bắn.
Ngày 25,
Ngự sử đài đô ngự sử Quách Hữu Nghiêm tâu rằng: Thưởng hay phạt, ban
hay cho đoạt lại, đó là quyền của đế vương trị thế. Thưởng đúng công
th́ người người đều được khuyến khích, phạt đúng tội th́ ai ai cũng
lấy đó làm điều răn đe. Cho nên, trong việc thưởng phạt, phải cho
hết đạo chí công. [13a] Nay bệ hạ, chính sự buổi đầu trong sáng,
thâu tóm mọi quyền trị hoá, tiến dùng bậc hiền tài, gạt bỏ kẻ gian
nịnh, người trong nước không ai không ngưỡng mộ đức hay, mừng xem
thịnh trị. Nhưng thần trộm thấy năm trước khi đi đánh Sơn Di, Chiêm
Thành, Lưu Cầu, Lăo Qua th́ chọn kỹ quân cờ các vệ Hiệu lực, nhưng
người sức lực khoẻ mạnh xông lên trước giết giặc được bổ dụng vẫn
chưa hết. Đến khi lựa thải lại phải lui về làm quân năm phủ cũng
ngang với những người không giết được giặc, mà
không có
phân biệt ǵ. Cúi xin, các quân cờ bốn vệ Hiệu lực có giết được
giặc, người nào bị thải ra sung quân năm phủ th́ Binh bộ kê ra tâu
lên, đặt thành 4 đội riêng của vệ Hiệu lực, như lệ đặt đội riêng của
vệ Thần vũ để khuyến khích các chiến sĩ có công. Lại như những lực
sĩ, dũng sĩ, vơ sĩ, lại điển, quân sắc mà bắt được kẻ cướp và bọn
nghịch tặc gian ác, có người lệ đáng được xuất thân, có người lệ
không được xuất [13b] thân, nếu như có ban thưởng nhất loạt như nhau
th́ không có phân biệt ǵ công lao lớn nhỏ. Cúi xin từ nay trở đi,
người nào bắt được kẻ cướp và những tên phản nghịch gian ác, lệ được
xuất thân th́ Lại bộ theo như lệ xuất thân mà bổ dụng, người nào lệ
không được xuất thân th́ đều trao cho chức nhàn tản theo lệnh đă
định. Như vậy th́ việc ban thưởng khinh hay trọng được xử trí thoả
đáng và mọi người đều biết cố gắng.
Bọn thần
lại trộm thấy những người khiêng kiệu phạm các tội trộm cướp gian
hung, H́nh bộ theo luật xử tội lưu mà không phát đi, thành ra chúng
quen thói cũ, coi thường luật pháp, không c̣n kiêng sợ ǵ nữa. Có kẻ
ngang ngược gian ác, trả thù báo oán, nhiều người lương thiện đă bị
chúng làm hại. Từ nay trở đi, người khiêng kiệu lần đầu tiên phạm
phải tội lưu hoặc phải thích chữ đồ làm lính ở Nam quân th́ cho trở
về làm người khiêng kiệu như lệnh đă định. Nếu không biết răn chừa,
cố ư tái phạm th́ kẻ nào đáng phải lưu đày châu, sở nào, phải bắt đi
hết thảy, để cho những kẻ gian ác [14a] biết sợ hăi và không dám
ngang ngược hung bạo nữa. Vua y theo. Tháng 8, ngày mồng 9, có chiếu
rằng: Kể từ nay, trên từ thân vương, dưới đến dân chúng, đều không
được lấy đàn bà con gái Chiêm Thành làm vợ, để cho phong tục được
thuần hậu. Đó là theo lời tâu của Hộ khoa đô cấp sự trung Vũ Lộc.
Ngày 12,
có sắc chỉ quy định: Lương dân nào dâng thóc nhận quan chức th́ cho
Phạm Thái vâng mệnh khám xét, nếu đúng là người lương thiện th́ cứ
theo như lệ trước mà bổ2058 ; nếu là kẻ ác nghịch, trộm cướp, xúi
giục kiện tụng, hào cường làm bậy, phường chèo con hát cùng với con
cháu các hạng ấy, th́ đều không được bổ quan.
Ngày 14,
Công bộ thượng thư Trần Bảo dâng bản tâu. Có thánh chỉ rằng bản tâu
của các nha môn và của dân chúng đều quỳ dâng ở ngoài cửa Nam Huân
và được tiếp nhận như trước.
Ngày 20,
Công bộ thượng thư Trần Bảo tâu bàn lại việc xoá bỏ thói tệ của lại
điển ở các quân sở.
[14b]
Ngày 22, bọn Binh bộ thượng thư Nguyễn Phùng Th́ tâu bàn về việc các
tội tù ở biệt sở Tuyên Quang.
Sửa lại
chùa Thiên Phúc ở núi Phật Tích và dựng bia. Đó là làm theo lời di
chúc của Trinh quốc công Nguyễn Đức Trung, thân phụ Hoàng thái
hậu2059 .
Tháng 9,
ngày mồng 6, đặc sở Thủ ngự Nghệ An và Thuận Hoá.
Ngày mồng
9, có chiếu chỉ rằng: Kể từ nay, người bắt được tù trốn, nếu tên tù
đó tội chưa đến mức tử h́nh th́ theo như lệ bắt được kẻ trộm trước
kia mà ban thưởng, nếu tội đến mức tử h́nh th́ theo như lệ bắt được
kẻ cướp trước kia mà ban thưởng.
Bọn Cẩm y
vệ đô chỉ huy sứ ty đô chỉ huy sứ, chưởng vệ sự kiêm tri Phong Hỗ
đường Đinh Đổ lại vâng mệnh nghị định lệ thưởng phạt đối với các lực
sĩ, dũng sĩ, vơ sĩ thi đấu vơ nghệ đỗ hay không đỗ.
Ngày 19,
ra sắc chỉ cho Lễ bộ yết bảng quy định khi đón tiếp sứ nhà Minh, cho
các quan được đi hia và bít tất. Từ tháng 10 mùa đông trở về sau,
[15a] là tiết giá rét th́ quan mặc áo là tơ gai để thuận thời tiết,
không mặc áo sa nữa.
Ngày 29,
Lễ bộ tâu về việc thường triều phục: [Bọn thần] từng nghĩ rằng, quy
chế xiêm áo lấy biểu tượng ở trời, đất rất rơ ràng: mùa hạ áo vải,
mùa đông áo cừu, phù hợp với mùa. Các công, hầu, bá, pḥ mă, các
quan văn vơ, hộ vệ, từ nay trở đi y phục thường triều như sau: từ
tháng 10 trở đi, mặc áo là tơ gai, từ tháng 2 về sau, mới mặc áo sa,
nếu gặp ngày mưa gió th́ mặc áo bông vải sa, để hợp với thời tiết.
Ngày 30,
Binh bộ thượng thư Nguyễn Phùng Th́ tâu rằng: Từ nay trở đi, các lực
sĩ, dũng sĩ, vơ sĩ, người nào bị ốm nặng về quê điều trị 10 ngày,
khi khỏi bệnh phải làm đơn nộp ở Binh bộ, rồi trao cho trung quan và
các quan ở khoa, đài hiệp đồng xét nghiệm, nếu đúng là sức vóc c̣n
tráng kiện th́ tâu cho trở lại chân lực sĩ, dũng sĩ, vơ sĩ ở vệ ty
cũ, [15b] nếu không th́ sung vào quân Điện tiền. Vua theo lời tâu.
Mùa đông,
tháng 10, ngày mồng 7, tuyên triệu bọn tiến sĩ Đỗ Lư Khiêm vào làm
bài ứng chế, vua sai làm bài kư Ngũ vương tướng2060 . Lương Đắc Bằng
được hạng ưu. Nguyễn Quư Nhă làm lạc vần, cho ra làm tri huyện huyện
Phụ Dực2061 .
Nhắc lại
quy chế y phục thường triều. Xuống chiếu cho các công, hầu, bá, pḥ
mă, quan to phẩm cao cùng các quan hộ vệ rằng: Từ ngày 15 tháng 10,
phẩm phục các quan chức như sau2062 : Ngày mồng một hàng tháng, y
phục thường triều đều mặc áo là tơ gai, nếu gặp ngày mưa gió và ngày
trực ở bản nha th́ cho mặc áo sa bằng vải bông, vải gai đều được.
Lại có chiếu rằng: kể từ nay, hễ gặp ngày quốc kỵ th́ cho mặc áo vải
sa không được mặc áo là vóc hoa sặc sỡ, bổ tử th́ dệt màu tối không
được dùng ngũ sắc.
Xuống
chiếu quy định: Từ nay, công, hầu, bá, pḥ [16a] mă, các quan văn,
vơ từ tam phẩm trở lên đội mũ phác đầu, hai cánh bằng sa đen, hơi
dài và to hơn các quan văn vơ khác, không được dùng kiểu mũ dương
đường2063 nạm hai cánh. C̣n các quan khác vẫn theo như kiểu cũ.
Ngày 21,
định lệ khảo khoá. Ra sắc dụ bọn Lại bộ thượng thư Trần Cận, Lại
khoa đô cấp sự trung Lê Tung rằng: Tước thưởng là thuật khuyến khích
người đời, khảo khoá là phép xét thực quan lại. Giáng kẻ dở, thăng
người hay, Ngu Thuấn do đó mà làm nên mọi việc, thâu tóm danh, khảo
sát thực, Hán Tuyên v́ vậy mà dấy nghiệp trung hưng. Là bởi ở trên
đă mở máy thần cổ vũ th́ bên dưới tất phải mài chí vươn lên. Việc ưa
ghét không công bằng th́ lấy ǵ khuyến khích, răn đe được? Nhà nước
ta đặt quan theo đời xưa, dùng người giúp chính sự. Quyền lựa chọn,
cất nhắc vừa công bằng, vừa minh bạch. Việc khảo xét, điều tra đă
tường tận lại đủ đầy. Thế mà cớ sao các quan lại coi đó là mớ hư
văn? Trưởng quan không phân biệt người hiền [16b] kẻ ngu, chỉ chiếu
lệ cho rằng giỏi giang đáng chọn; cai ty2064 chẳng hiểu rơ kẻ dở
người hay, cứ nhất loạt coi là liêm khiết, tài năng. Thuyên tào2065
chỉ cân nhắc lấy lệ, Lại khoa cũng ít khi bác đi. Người vất vả tận
tuỵ, hàng bao năm mới được thăng quan; kẻ hèn kém gian tham, th́ mau
chóng đội ơn tiến chức. Quan trường nhũng lạm, bởi đó mà ra. Nay ta
buổi mới lên ngôi, càng bức thiết đổi thay chính sự. Những việc nên
làm, dụ cho các ngươi biết: Kể từ nay, các quan viên văn vơ trong
ngoài, ai tại chức đủ 9 năm, không có tham tang, can phạm ǵ, đáng
được khảo khoá th́ quan giữ việc khảo xét theo như lệ trước, xem xét
kỹ càng. Viên nào có tài cán, làm được việc, quả thực không phải là
hàng dung tục tầm thường, theo người mà lui tiến th́ mới được xét
vào loại xứng chức, cho thăng thưởng như lệ. Nếu viên nào tuy tại
chức đủ 9 năm, không tham tang, can phạm, nhưng là người không có
tài năng ǵ, nhờ người mà nên việc, th́ không được khảo xét thăng
thưởng. C̣n những kẻ lười biếng hèn [17a] ngu như hạng Cục phó Trân
mỹ cục Nguyễn Lao, nhẹ th́ phải biếm quan, nặng th́ phải giáng chức.
Quan khảo xét nếu dám theo t́nh riêng mà xét bậy, Lại bộ xét lại
không rành, Lại khoa xét bác không đúng th́ nhất loạt giao cả cho
H́nh bộ trị tội theo luật.
Ngày 27,
sắc cho Thừa ty Thanh Hoa đi khám xét nơi khai khẩn, đem nhà dân
lương thiện cho ở đấy.
Ngự sử
đài đô ngự sử Quách Hữu Nghiêm tâu rằng: Nha môn ngự sử không đủ lại
viên kiểm xét, xin bổ sung thêm để tiện việc tra xét. Vua y theo.
Tháng 11,
ngày 16, có chiếu rằng: Từ nay trở đi, xứ Quảng Nam không được cướp
bắt người Man và mua bán nô tỳ tư. Ai vi phạm th́ cho phép Hữu ty
hặc xét trị tội.
Có sắc
chỉ đặc riêng ty Đ́nh uư. Trước đây, theo lệ đời Hồng Đức, ty Đ́nh
uư thuộc vệ Cẩm y, hễ có người nào tội nặng, án đáng ngờ, thiên tử
có chiếu chỉ xuống, th́ ty ấy vâng mệnh [17b] xét hỏi. Đến đây,
không để thuộc vệ Cẩm y nữa, mà đặt chỉ huy sứ ty, chỉ huy đồng tri,
chỉ huy thiêm sự, mỗi chức một viên, đều dùng nho thần, rồi đặt tách
riêng ra, lựa chọn văn thần chức cao, xứng đáng để làm. Ra lệnh cho
các vệ tuần tượng diễn tập voi ở sân Giảng Vơ, và truyền cho vệ tuần
tượng sai bắt quân cờ làm chuồng voi lợp ngói, lấy quân nhân ở Trung
thành2066 trông coi để bớt phí tổn, cứ mỗi phiên lại phải làm nhà
tranh.
Làm kho
thóc ở bên trong tường thành cung cấm, gồm 20 dăỵ
Có sắc
chỉ cho quân nhân các vệ và thợ thuyền các ty, sở rằng: Khi có những
việc khởi công, xây cất như làm Nội phủ, Vũ khố, đền từ, chùa quán,
mà quan phụ trách các vệ, sở, ty và nhân viên đốc thúc dám đánh
người, yêu sách tiền bạc, gây tệ nạn bán chác, đánh tráo, th́ Lục
khoa, Giám sát ngự sử, Hiến ty cùng xá nhân vệ Cẩm [18a] y tra xét
đưa ra trị tội.
Tháng 12,
ngày Tân Măo mồng 6, vua sai Thái bảo Đường Khê bá Lê Vĩnh và Trung
quân đô đốc phủ tả đô đốc, Điện tiền đô kiểm điểm ty đô kiểm điểm
Dung Hồ bá Lê Lan mang kim sách và ấn báu lập hoàng tử Thuần làm
hoàng thái tử.
Ngày Canh
Tư 15, nhà Minh sai Hành nhân ty hành nhân Từ ngọc sang dụ tế Thánh
Tông Hoàng Đế.
Ngày Nhâm
Dần 17, nhà Minh sai chánh sứ là ty Kinh cục tẩy mă kiêm Hàn lâm
viện thị giảng Lương Trừ, phó sứ là Binh khoa đô cấp sự trung Vương
Chẩn mang sách sang phong vua làm An Nam Quốc Vương.
Trước đó,
ngày mồng 9 tháng ấy, vua sai Binh bộ thượng thư Cống xuyên bá Lê
Năng Nhượng, Thiếu bảo Trịnh Công Đán, H́nh bộ tả thị lang Nguyễn
Khắc Cung, Cẩm y vệ [18b] đô chỉ huy thiêm sự tri Đ́nh uư ty sứ Phạm
Miễn Lân, Đông các hiệu thư Phạm Trí Khiêm, Đại lư thiếu khanh Lưu
Túc, Thanh Hoa đạo giám sát ngự sử Vũ Đạt Đạo, thông sự Vũ Nhân Tu,
Nguyễn Khâm và Phạm Cận lên địa cầu nước ta; Pḥ mă đô uư Trần Khuê,
H́nh bộ hữu thị lang Bùi Nguyên Đạo, Công bộ hữu thị lang Lê Nhạc,
H́nh khoa đô cấp tả đô đốc Hoa Lâm bá Trịnh Quư Thuật, Công bộ hữu
thị lang Nguyễn Giản, Lại khoa đô cấp sự trung Lê Trung, Hải Dương
thừa tuyên tham nghị Nguyễn Hán Đ́nh sang trạm Thị Cầu2067 ; Nam
quân đô đốc phủ tả đô đốc pḥ mă đô uư Lâm Hoài bá Lê Đạt Chiêu, Hộ
bộ hữu thị lang Trần Sùng Dĩnh, Ngự sử dài thiêm đô ngự sử Hoàng
Hăng, Yên Bang [19a] đạo giám sát ngự sử Trịnh Quỳ sang trạm Lữ
Khôi2068 để ứng tiếp bọn Lương Trừ, Từ Ngọc theo như lệ cũ.
Ngày 23,
bọn Lương Trừ, Vương Chẩn, Từ Ngọc đều tới trạm Thị Cầu. Hôm ấy, vua
sai bọn Đông các đại học sĩ Đàm Văn Lễ, học sĩ Nguyễn Nhân Thiếp,
Bùi Nhân tới trạm Thị Cầu cùng với bọn Lương Trừ bàn việc làm lễ.
Ngày 24,
Từ Ngọc đi từ Thị Cầu đến trạm Lữ Khôi, vua ngự thuyền Tiểu Quang
đến trạm đón tiếp. Khi vua trở về cung, Trừ ra ngoài cửa trạm đưa
tiễn, bảo Bùi Nhân rằng: "Hôm nay được thấy quốc vương tuổi đă lớn,
thực là tướng thánh nhân, thực là tướng trường thọ, quả là phúc lớn
của sinh linh
phương
Nam. Sao mà học rộng và ứng tiếp mọi việc nhanh chóng, mẫn tiệp đến
thế", cứ trầm trồ khen ngợi măi không thôi.
Ngày 25,
Từ Ngọc đi từ trạm Lữ Khôi đến bến Thịnh Liệt2069 xuống thuyền. Vua
đến [19b] điện Quyền Vân tiếp kiến. Vua về cung trước. Từ Ngọc tới
điện Cần Chính làm lễ tế Thánh Tông Hoàng Đế. Lễ xong, vua cùng Từ
Ngọc làm lễ tương kiến rồi sai các quan đưa ra Sứ quán.
Ngày 27,
bọn Lương Trừ tới điện Kính Thiên làm lễ mở đọc chiếu thư. Chiếu thư
đại ư viết: Vâng trời mở vận, hoàng thượng truyền rằng: nhà Đại Minh
ta làm vua muôn nước, thống trị khắp nơi, thanh giáo rộng ban, gần
xa thấm khắp. Nước An Nam ngươi, ở về cơi Nam, làm phên giậu cho ta,
xưa nay nổi tiếng là giữ lễ nghĩa, có phong tục văn minh . Có Quốc
vương Hạo2070 kính chăm lễ cống, giữ muôn dân, an xă tắc, được 40
năm, nay đă trọn đời; quốc thống phải có người nối. Thế tử Sanh tài
đức hơn hẳn mọi người, dân chúng thành tâm quy phục, dâng biểu xin
phong, lời lẽ khẩn thiết. Vậy đặc ân sai bọn Lương Trừ đem phù tiết
sang phong làm An Nam Quốc Vương. Ôi! [20a] Kính đức lớn, noi gương
hiền của tiên vương, dẫu xa gần nghĩa không có khác; nối chí xưa, kế
nghiệp cũ của người trước, hăy cùng nhau cung kính để đáp lại đức
của trẫm vỗ yên người xa. Vậy nên ban xuống chiếu thư để mọi người
đều biết".
Nghi chú
của lễ cũ, không có mục dâng hương, mục nhảy múa tung hô. Đến đây,
bọn Trừ, Chẩn đưa nghi chú sang có các mục ấy. Vua không theo, báo
cho bọn Trừ tuân theo lệ cũ. Làm lễ xong, vua đến điện Cần Chính làm
lễ tương kiến, rồi sai các quan đưa bọn Trừ ra Sứ quán.
Ngày 29,
Lương Trừ ốm, vua thân hành tới Sứ quán thăm hỏi, Trừ ra yết kiến.
Hôm ấy, vua thiết yến bọn Trừ ở điện Cần Chính và ban cho vàng bạc,
tơ lụa theo thứ bậc khác nhau, bọn Trừ đều không nhận, cố từ chối
xin về nước. Vua làm thơ đưa tiễn.
Dựng bia
đề tên các tiến sĩ khoa Kỷ Mùi, năm Cảnh Thống thứ 2 [1499] [20b] ở
cửa nhà Thái học.
Canh
Thân, [Cảnh Thống] năm thứ 3 [1500] , (Minh Hoằng Trị năm thứ 13).
Mùa xuân, tháng giêng, ngày 25, vua sai sứ sang nhà Minh. H́nh bộ tả
thị lang Nguyễn Duy Trinh2071 , Lễ khoa đô cấp sự trung Lê Lan
Hinh2072 , Thượng bảo thiếu khanh Nguyễn Nho Tông2073 sang tạ ơn
phúng tế; Đông các học sĩ Lưu Hưng Hiếu, Hàn lâm viện thị thư kiêm
Tú lâm cục tư huấn Đỗ Nhân2074 , Thông sự ty thừa Bùi Đoan Giáo2075
tạ ơn việc sách phong và xin ban mũ áo.
Lấy Quách
Hữu Nghiêm làm Thái thường tự khanh.
Ngày 27,
H́nh bộ thượng thư Trịnh Quư Tuân tâu lời nghị bàn rằng: Tiền sai dư
về kỳ đại tập quân lính trong tháng ấy phải nộp đủ. Các nha môn các
xứ Thanh Hoa, Nghệ An và bốn thừa tuyên2076 th́ 1 tháng 10 ngày; các
nha môn xứ Thuận Hoá 1 tháng 15 ngày [21a] ngày; các nha môn xứ
Quảng Nam, trong 2 tháng phải nộp đủ. Các nơi đều phải theo đúng kỳ
hạn nộp lên. Ty Độ chi của H́nh bộ cùng về Cẩm y và Hộ khoa kiểm
thu.
Ngày 28,
lấy Đào Thuấn làm H́nh bộ thượng thư kiêm tri Sùng Văn quan Tú lâm
cục.
Tháng 2,
ngày mồng 6, định lệnh về kỳ hạn truy đ̣i tang vật và tiền phạt.
Ngày 11,
Thừa chế Đặng Tuấn Truyền kính nhận được chiếu chỉ nói rằng: Các xá
sinh thi hội trúng tam trường và hàng năm nhiều lần trúng thưởng,
nếu chức huấn đạo có khuyết th́ cho quan Quốc tử giám bảo đảm người
có đức hạnh, có tư cách đáng làm thầy đưa sang Lại bộ để thuyên bổ.
Mùa hạ,
tháng tư, ngày mồng 7, định lệnh kiểm xét vật hạng nộp thuế, thứ nào
tráo lẫn vào th́ trả lại. Có sắc chỉ rằng: Kể từ nay, khi nộp gỗ
cây, phải cùng nhau kiểm nghiệm ở ngoài cửa kho thuyền và xưởng đóng
thuyền. Thứ nào hợp lệ th́ kéo [21b] vào kho, xưởng kiểm nhận và ghi
chung vào sổ; thứ nào không hợp lệ th́ cũng đem vào và cùng nhau
kiểm nhận, ghi vào sổ, c̣n thứ nào tráo lẫn th́ nhất thiết trả lại.
Lấy Dương
Trực Nguyên thăng làm Đô đ́nh uư. Trước kia, Trực Nguyên làm Phủ
doăn, đàn hặc, trấn áp bọn cường hào, những kẻ có quyền thế cũng
phải chùn tay. Lê Quảng Độ bảo đảm rằng Trực Nguyên có phép cai trị,
là người cương nghị, có thể thăng làm Đ́nh uư, v́ thế có lệnh này.
Biếm Đông
các hiệu thư Ngô Hoán, sung làm quân ở bản phủ v́ tội đem việc trong
triều nói với người ngoài. Sau đến khoa thi Hương năm Tân Dậu,
[Hoán] thi đỗ tam trường, không cho vào tứ trường.
Có sắc
chỉ rằng: Kể từ nay, khi có các việc xây dựng hay sửa chữa, phải dự
tính trước mọi thứ vật liệu công tŕnh cho đầy đủ, liệu xem công
việc nặng hay nhẹ, khẩn cấp hay thư thả mà làm dần từng bước, không
được làm cả một lúc để khoan thư sức người.
Hộ bộ tả
thị lang Nguyễn [22a] Đức Quảng dâng lời tâu rằng: Khi Thái Tổ Cao
Hoàng Đế mới khởi nghĩa, tướng thần, quân sĩ đều đồng tâm hiệp lực.
Tướng thần có công lao lớn đều đă được phong thuỵ hiệu và truy tặng,
nếu có con cháu đều được tập ấm bổ dùng. Quân sĩ cũng dự phần công
lao, tuy đă được ban sắc mệnh, phong mỹ tự, và được làm tướng quân
các vệ, nhưng con cháu họ nhiều người vẫn phải ẩn khuất trong hàng
quân ngũ, chưa được hưởng tập ấm. Thần e rằng như thế, phép khuyến
khích lập công chưa làm được trọn.
Nay bệ hạ
lên ngự ngôi báu, đức rộng như đất trời, ai ṭng quân đánh giết được
giặc, đều cho bổ dụng, dùng người không được chọn lấy trong khi dẫn
tuyển2077 cũng c̣n được trao chức chính quan, huống chi quân sĩ khai
quốc, trăm trận khó nhọc, đến hơn mười năm, đă có công lao mà nỡ để
bản thân không được truy tặng, con cháu không được tập ấm th́ lấy ǵ
mà khuyến khích người làm tôi. Nay thần cúi xin: nhưng người đă có
công lao ở thời Thuận Thiên, đă được nhận sắc [22b] mệnh, phong mỹ
tự, th́ cho con cháu họ tự khai báo, quan có trách nhiệm điều tra rơ
ràng, rồi kê rơ họ tên tâu lên, giao cho Lại bộ gia tăng 1 cấp. Nếu
con cháu nối dơi có ai không biết chữ th́ xét xung làm tuấn sĩ vệ
Cẩm y, c̣n người nào biết đọc sách, viết chữ th́ xét cho làm học
sinh ở Sùng Văn quán theo như lệ đối với công thần.
Như vậy,
trên có thể tỏ rơ lời ghi sông tạc núi đến vô cùng của các tiên
thành, dưới là để ban dày phúc trạch cùng nước hưởng vui tới muôn
thuở cho bậc công thần.
Vua y
theo lời tâu và truyền sắc chỉ rằng: Những người có công dựng nước
thời Thuận Thiên, đă nhận sắc mệnh ban phong, ai từ tam phẩm trở lên
mà con cháu đă bị sung vào sắc quân ngũ th́ cho phép bản thân họ
khai báo. Binh bộ điều tra, người ở quân ngũ th́ được sung vào làm
tuấn sĩ vệ Cẩm y, người biết đọc sách th́ cho làm nho sinh ở Sùng
Văn quán; ai từ tam phẩm trở xuống th́ con cháu họ được sung vào các
vệ Vũ lâm, Thần tư.
[23a] Mùa
thu, tháng 8, ngày 15, vua làm bài thơ ngự chế Quan Giá đ́nh trung
thu ngoạn nguyệt2078 15 vần, sai bọn Đông các học sĩ Nguyễn Nhân
Thiếp, Lê Ngạn Tuấn, Lê Mậu Thưởng, Nguyễn
Xung Xác,
Hàn lâm viện thị thư Nguyễn Tôn Miệt, Đông các hiệu thư Đặng Ṭng
Củ, Đặng Minh Khiêm, Lương Đắc Bằng, Hàn lâm viện hiệu lư Nguyễn
Viên, Vũ Châu, Hiệu thảo Nguyễn Mẫn vâng mệnh hoạ lại.
Xuống
chiếu rằng: Kể từ nay, nếu thiếu thợ th́ đến kỳ tuyển tráng đinh,
chọn lấy những hoàng đinh2079 ở các xă trang am hiểu các nghề để bổ
sung vào. Ngừng việc sai người đi các xứ chọn người am hiểu các nghề
để sung làm thợ.
Mùa đông,
tháng 10, ngày 25, Nguyễn Đoan tâu rằng:
Xă trưởng
nào chăm việc dạy bảo, nếu được tục hay, có thẻ bổ làm quan tạp lưu
được th́ quan huyện, châu nơi đó xem xét tŕnh lên hai ty Thừa Hiến,
[23b] cho đ̣i xă trưởng xă đó và các xă gần đó tới điều tra rồi làm
bản tâu lên để biểu dương, khen thưởng.
Xây tường
phía đông.
Định quy
chế mũ áo2080 . Sai Lễ bộ yết bảng để các vương công, hầu, bá, pḥ
mă, các quan văn vơ trong ngoài, nho lại, các quân sắc và dân chúng
chiểu theo kiểu mũ áo ḿnh được dùng mà tuân hành2081 .
Làm kho
tàng và phủ đệ các thân vương, công chúa.
Tân Dậu,
[Cảnh Thống] năm thứ 4 [1501] , (Minh Hoằng Trị năm thứ 14). Mùa
xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, vua ngự về Tây Kinh, cấm các quan
theo hầu không được sai quân cờ chở đem vợ con hoặc kỹ nữ đi theo,
bừa băi t́nh dục.
Xuống
chiếu rằng: Quan trông coi lính và thợ, khi đốc thúc làm việc công,
nếu có ai lười biếng, vắng mặt, đáng phải xử lư th́ tuyên bố tội
trạng, trừng trị theo pháp luậ, không được tự ḿnh dùng gậy, dùng
tay chân, gạch ngói, dùi gỗ mà đánh đập tàn nhẫn họ. Ai vi phạm th́
phải trị tội theo luật.
Lấy Dương
Trực Nguyên là Công bộ [24a] hữu thị lang.
Ngày mồng
2, hiệu định thể lệ các quan theo hầu và ở lại giữ Kinh sư gồm 7
điều.
Mùa hạ,
tháng 4, ngày mồng 1, xuống chiếu rằng: Những nữ đinh khiêng kiệu
trước đă ban cho cung nhân và công chúa, th́ chỉ cho bản thân người
ấy thôi, nếu có đẻ ra con, cháu th́ phải nộp cả cho nhà nước.
Tháng 5,
ngày 24, xuống chiếu rằng: Kể từ nay, hàng năm đến kỳ tuyển tráng
đinh, xă nào có người nghèo túng, không kể là có ruộng công, ruộng
tư hay không, xă trưởng phải làm tờ khai cam đoan trước, quan phủ,
huyện khám xét lại, rồi khai vào hạng nghèo túng, cho phép miễn
tuyển.
Mùa thu,
tháng 4, ngày 29, xuống chiếu rằng: Kể từ nay, quan hai ty Thừa Hiến
các xứ phải xét kỹ công, tội của các quan phủ, huyện đă làm, cứ đến
cuối năm, chia thành ba bậc thượng, trung, hạ mà khảo xét. Người nào
thương xót dân chúng, kiêm khiết, siêng năng, có thành tích cai trị
là hạng thượng khảo; người nào thương xót dân chúng, [24b] thu thuế
khoá không phiền nhiễu, làm việc quan không có lỗi ǵ là hạng trung
khảo; người nào tầm thường dung tục, tiến lui theo người là hạng hạ
khảo. Lại viên ở các ty Thừa Hiến và phủ, huyện, châu, người nào
liêm khiết có tài và cần mẫn là trung đẳng; người nào bỉ ổi không
chăm việc là hạ đẳng. Tất cả đều kê rơ họ tên, chưa kỹ sự việc, làm
bản thảo gửi cho Lại bộ thu xét. Quan viện th́ theo lệ khảo khoá
cung trước đây, cứ đủ 9 năm sẽ thi hành việc thăng giáng. Lại điển
nếu đủ số năm, được nhiều lần trung đẳng th́ cho chiếu lệ thăng bổ.
Quan lại nếu có ai quả là tham ô, nhũng nhiễu, gian tham, lười
biếng, ăn đút lót, có bằng chứng xác thực th́ gửi cho Lại bộ tra xét
và trị tội theo lệ đă định. Quan Thừa Hiến nếu có ai quả v́ ân oán,
hối lộ mà kêu tâu bất công để đến nỗi thiện ác lẫn lộn, công tội đảo
điên th́ các quan ở khoa, đài tra xét hặc tâu để đưa xét hỏi. Quan
Ngự sử cũng phải xét kỹ [25a] công quan Thừa Hiến các xứ, cứ đến
cuối năm, chia thành ba bậc
thượng,
trung, hạ khảo xét tâu lên, theo như lệ các quan Thừa Hiến, xét tâu
các quan phủ, huyện, châu mà thi hành.
Xuống
chiếu cho các quan phủ huyện rằng: Nơi nào có ruộng đất c̣n bỏ
hoang, trước đă cấp thông tư cho người cày cấy, nộp thuế theo lệ quy
định. Nếu là người nghèo túng, trước kia đem gia đ́nh đi khai khẩn
ruộng đất hoang ở các phủ huyện khác theo lối chiếm xạ, th́ theo lệ,
được truyền cho con cháu cày cấy.
Cho phép
quan khám tù được tư cho bản huyện xă t́m bắt vợ cả, vợ lẽ [của tù
nhân] tŕnh cho quan khám tù khai rơ họ tên của tù nhân và vợ cả vợ
lẽ của y; giao vợ cả, vợ lẽ cho người giải nộp ngục quan.
Ngày hôm
ấy, lại sai định lệnh bổ dụng nho lại. Xuống chiếu rằng: Hoa văn học
sinh, nho sinh, án lại, giám sinh, đô lại ở các nha môn đă được chọn
dùng th́ Lại bộ tra xét xem người nào [25b] thi Hội trúng trường
nhiều th́ bổ trước, người nào trúng ít th́ bổ sau. Nếu không có chân
trúng trường thi Hội th́ người lâu năm bổ trước, người ít năm bổ
sau, không được như những lần duyệt tuyển trước đây, bổ dụng lẫn
lộn, không theo tài năng, thứ bậc nào. Ai vi phạm sẽ bị trị tội.
Tháng 9,
ngày mồng 1, mưa to, nước tràn ngập trong thành.
Tuyển
tráng đinh sung quân.
Định lệnh
sai dịch và thuế thân của nhân đinh. Những người tàn phế không thể
làm ăn sinh sống được th́ tha cho cả sai dịch và thuế thân, nếu c̣n
có thể làm để sinh sống được th́ thu một nửa tiền thuế thân.
Mùa đông,
tháng 11, ngày 16, vua sai Lại bộ tả thị lang Nguyễn Úc, Đông các
hiệu thư Đinh Cương, Hàn lâm viện thị thư kiêm Tú lâm cục tư huân
Đặng Minh Khiêm sang tuế cống nhà Minh.
Ngày 26,
Binh bộ thượng thư Nguyễn Hoằng Thạc tâu rằng: Người khiêng kiệu bắt
được trộm cướp được thăng thưởng th́ đều như lệ những người ứng sai
ở các nha môn bắt được [26a] trộm cướp, thăng làm cục nhân cục Tuyên
đạt. Nếu lại bắt được trộm cướp lần nữa th́ phỏng theo đô lại ở nha
môn bắt được trộm cướp, thưởng cho một ít tư, không được thăng bổ.
Các tráng sĩ coi việc đi bắt, nếu không được thăng bổ th́ thưởng tư
cho ngang với lại viên ở các nha môn không kém. Vua y theo.
Tháng 12,
ngày 25, ra sắc chỉ quy định các thể lệ thi Hương để thi hành.
1- Kể từ
nay, đến kỳ thi Hương, xă trưởng các xứ phải bảo đảm cho học tṛ xă
ḿnh; trừ sinh đồ ở Tú lâm cục không kể, những quân sắc và người dân
nào quả là con em nhà lương thiện, có hạnh kiểm, học vấn, biết làm
văn đủ các thể của bốn trường cũng cho bảo lĩnh. Nếu là học tṛ ở
bốn xứ Hưng Hoá, Yên Bang, Tuyên Quang, Lạng Sơn th́ làm văn đủ ba
trường cũng cho vào thi. Xă lớn 20 người, xă vừa 15 người, xă nhỏ 10
người. Xă nào ít người học tập th́ không [26b] câu nệ theo lệ này.
Xă trưởng kê khai họ tên, quan phủ, huyện, châu sau đó xét lại từng
người. Học tṛ phải thi một kỳ ám tả, ai đỗ th́ hai ty Thừa Hiến
theo lệ mà khảo thí. Nếu xă trưởng nào khai nhận, bảo đảm không
đúng, quan phủ, huyện châu khảo hạch không kỹ, để đến nỗi khi học
tṛ vào thi c̣n nhũng tạp và có người viết bất thành văn hoặc v́ họ
hàng con em mà nhắn nhe gửi gắm th́ sai nhân của khoa, đài đó phải
ḍ xét cho ra sự thực, giao hết lên để xét hỏi trị tội.
2- Kể từ
nay, khi học tṛ vào thi, các quan đề điệu, giám thi, phải sai các
viên giám quan khám xét, hiệp đồng kiểm tra trường thi, t́m xét mọi
dấu vết, xem có chỗ nào cất dấu Thi, Thư và các tài liệu khác. Đến
khi học tṛ vào trường thi, th́ phải khám xét kỹ từ ngoài cửa. Nếu
thấy người nào sao chép văn bài mang theo, hoặc là người nào thi hộ
th́ phải bắt ngay người đó đưa ra xét hỏi. Người can phạm như hạng
nói trên [27a] bị sung làm quân bản phủ 3 năm, suốt đời không được
vào trường thi nữa. Các viên giám thị niêm phong bài thi, kẻ nào bất
minh th́ bị biếm hay giáng chức. Hai ty Thừa Hiến cùng hiệp đồng tra
xét rồi mới cho người vào thi. Nếu người nào lộ rơ dấu gian, th́ giữ
ngay lại, tâu lên để tra hỏi. Quan Thừa Hiến nếu ai dám trái phép,
dung túng kẻ gian làm bậy, th́ quan khoa, đài và sai nhân có trách
nhiệm ḍ xét ra sự thực, nhất loạt đưa ra xét hỏi trị tội.
3- Kể từ
nay, những quan viên phải bổ ở Thừa ty xứ khác, cùng các hạng nho
sinh, điển lại gặp phiên lên Kinh hoặc được giữ làm việc ở kinh
thành, ai t́nh nguyện dự thi cho người đó được nộp đơn thi. Sau khi
kiểm tra, người nào làm đủ được các thể văn của bốn kỳ mới cấp giấy
tờ cho trở về quê quán dự thi ở Thừa ty nơi bổ nhiệm và phủ Phụng
Thiên như trước nữa. Người nào vi phạm sẽ bị giao xét hỏi trị tội.
4- Kể từ
nay, những viên lại điển thi Hương được trúng [27b] thức th́ được
sung vào Quốc tử giám học tập.
5- Kể từ
nay, khi vào trường thi Hương, các giám sinh và sinh đổ chịu tang ở
đầu nhà đều phải tới bản phủ báo tên, điểm danh, ai vắng mặt, quan
hạt đó làm bản tâu lên, bắt sung làm quân bản phủ. Người nào tự tiện
vào cửa ngoài trường thi, hoặc vào thi hộ bị xử tội đồ, suốt đời
không được đi thi và bổ dùng nữa. Nếu xă trưởng nào khi nhận diện,
thấy điều gian trá mà đồng t́nh, dung túng, để cho kẻ thi hộ vào
trong trường thi, bị người khác cáo giác bắt được th́ phải sung làm
quân bản phủ2082 .
Năm ấy,
phủ Phụng Thiên bị cháy.
Ra lệnh
cho người Kinh trốn tránh xiêu giạt ra đầu thú th́ đưa về làm lao
dịch ở các phiên trấn.
Nhâm
Tuất, [Cảnh Thống] năm thứ 5 [1502] , (Minh Hoằng Trị năm thứ 15).
Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng ba, có sắc chỉ rằng:
1- Kể từ
nay, quan huyện, châu các xứ phải sức xuống cho các xă trưởng, tất
cả quân nhân và các sắc dịch của tượng cục, [28a] khi sắp tới kỳ đại
tập quân lính hoặc gặp phiên trực, th́ phải đốc thúc răn bảo trước.
Nếu kẻ nào bỏ cả kỳ đại tập hay phiên trực, hoặc làm công chưa đủ kỳ
hạn mà trốn về trước th́ phải truy hỏi tới cùng, bắt phải khai nhận
rơ ràng, sau khi xét rơ tội ngoan ngạnh, lười biếng cùng việc bỏ kỳ
đại tập và phiên trực, cho báo lên quan huyện, châu, tâu giao cho bộ
phụ trách trị tội.
2- Kể từ
nay, các vệ, ty, sở, có người bỏ trốn đă trở về nghiệp cũ và những
người già ốm, mỗi khi tới phiên trực th́ cho làm việc nhẹ theo như
lệnh trước đây, c̣n những người mạnh khoẻ, nếu v́ ốm đau không làm
được việc, cũng có thể cho nộp tiền thay, nhưng không được gian trá
giả ốm đau.
Lấy H́nh
bộ Hữu thị lang Dương Trực nguyên làm Binh bộ tả thị lang, Nguyễn
Quan Hiền làm H́nh bộ hữu thị lang.
Tháng 2,
thi Hội các cử nhân trong nước. Số dự thi là 5.000 người, lấy đỗ bọn
trần Dực [28b] 61 người. Lại bộ kê tên tâu lên. Vua đích thân ra đầu
bài văn sách hỏi về đế vương trị thiên hạ. Sai Nam Quân đô đốc phủ
tả đô đốc pḥ mă đô uư Lâm Hoài bá Lê Đạt Chiêu, và Hộ bộ thượng thư
Vũ Hữu làm đề điệu: Binh bộ tả thị lang Dương Trực Nguyên và Ngự sử
đài thiêm đô ngự sử Bùi Xương Trạch làm giám thí; Lễ bộ thượng thư
Tả Xuân phường hữu dụ đức kiên Đông các đại học sĩ Đàm Văn Lễ, Lễ bộ
thượng thư kiêm Hàn lâm viện thị độc, trưởng Hàn lâm viện sự Nguyễn
Bảo, Lễ bộ tả thị lang kiêm Đông các học sĩ Lê Ngạn Tuất, Quốc tử
giám tế tửu Hà Công Tŕnh, Tư nghiệp Hoàng Bồi, Thái thường tự khanh
Nghiêm Lâm Tiến đọc quyển thi. Vua xem xong, cho bọn Lê Ích Mộc
(người Thanh Lăng, huyện Thuỷ Đường2083 , trước làm đạo sĩ, đến khi
đỗ, vua sai tuyên đọc chế từ, bưng lư hương cháy rực lửa ra trước,
bị bỏng tuột cả tay mà không biết), [29a] Lê Sạn, Nguyễn Văn Thái 3
người đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ; bọn Nguyễn Cảnh Diễn, Lê Nhân
Tế 24 người đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân; bọn Phạm Khiêm Bính,
Nguyễn Mậu 34 người đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Vua ngự
điện Kính Thiên, Hồng lô tự truyền loa xướng danh. Mọi năm bảng vàng
vẫn treo ở ngoài cửa Đông Hoa, đến nay vua sai Lễ bộ bưng ra, đánh
trống nổi nhạc rước ra treo ở cửa nhà Thái học. Bảng vàng treo ở cửa
nhà Thái học bắt đầu từ đó.
Tháng 3,
duyệt tuyển hoàng đinh. Xuống chiếu rằng: Các phường, xă, sách có
đinh nam, theo số từ năm Cảnh Thống thứ 4 [1501] là 11 tuổi, năm nay
lên 12 tuổi và những hoàng đinh lậu sổ mà sức vóc
mạnh
khoẻ, to lớn, cao từ 4 thước trở lên2084 th́ xă trưởng khai tên gửi
lên ba ty của xứ đó và phủ Phụng Thiên, đến khi rỗi việc nông sẽ
duyệt tuyển.
[29b] Mùa
hạ, tháng 4, ngày 18, H́nh bộ tả thị lang Nguyễn Quang Hiền dâng lời
tâu rằng: "thần kính vâng sắc chỉ nói rằng: Kể từ nay, các hạng lính
và thợ, theo lệ được cho về làm mùa, th́ cứ đến phiên tháng 5, tháng
6 và tháng 10, tháng 11, đều được chia một nửa cho về làm ruộng,
không được chia xen kẽ mùa thu, mùa hạ. Như thế, thần Nguyễn Quan
Hiền trộm xét:
Việc đ̣i
bắt án ngục, phiên tháng 5, tháng 11 năm nay, các hạng lính và thợ
đă chia về làm ruộng, mà ngục tốt các sở ngục của ty Ngũ h́nh vẫn
tạm phải ở lại đi đ̣i bắt án ngục, chưa được xét đến. Thần kính cẩn
tâu lên, cúi mong thánh thượng dậy bảo". Vua y theo.
Ngày 30,
có sắc chỉ rằng: Các chức Thượng thư, Thị lang của Lục bộ, Ngự sử
đài, Đông các, Lục tự, Lục khoa, Thừa tuyên sứ, Hiến sát sứ nếu có
khuyết th́ Lại bộ làm bản tâu lên, đợi nhận chỉ thi hành.
[30a]
Tháng 6, ngày 12, Đỗ Nhân vâng mệnh đi sứ phương Bắc trở về, được
lấy làm Đông các hiệu thư kiêm Tú lâm cục tư huấn.
Mùa thu,
tháng 8, ngày 19, lấy Đỗ Nhân là Lễ bộ hữu thị lang.
Mùa đông,
tháng 11, lấy Dương Trực Nguyên là Lễ bộ tả thị lang.
Tháng 12,
ngày mồng 5, định lệ chọn các quan từ phủ, vệ, ty, sở trở lên. Các
chức ngũ phủ đô đốc, đô kiểm điểm, hoàn đốc, chỉ huy sứ, đô tổng
binh sứ nếu có khuyết viên nào, Lại bộ tâu lên, nhận chỉ thi hành.
Vệ sở nào khuyết 1 viên tổng tri, theo lệ được lấy 2 viên quản lĩnh,
khuyết 1 viên quản lĩnh, theo lệ được lấy 3 viên vơ uư để chọn lấy 1
viên. Lại bộ kê khai họ tên, quan chức của những người không phạm
lỗi, làm bản tâu lên. Quan chức trong Kinh th́ do Nội phủ dẫn tuyển,
quan chức ngoài trấn th́ do Chỉ [30b] huy sứ, Hàn lâm viện hội đồng
với ba ty Đô, Thừa, Hiến lựa chọn, tâu lên để thuyên bổ.
Ngày 18,
sai Thái thường tự khanh Quách Hữu Nghiêm, Giám sát ngự sử Nguyễn
Bỉnh Hoà, Cấp sự trung Trần Mậu Tài sang nhà Minh tạ ơn ban cho mũ
áo.
Bấy giờ,
hoàng hậu nhà Minh thấy sứ nước ta tới, sai quan thu nhận ḥm rương
vào nội điện để t́m thấy hương lạ. Quách Hữu Nghiêm vốn có mua được
một chiếc áo long cổn là thứ hàng cấm giấu ở trong ḥm, sợ người
Minh bắt được sẽ bị quở trách, liền làm bảng văn răn bộ thuộc và thu
lấy hương lạ dâng lên. Bài văn như sau:
"Bọn thất
phu mang ngọc bích, bị Lân kinh2085 chê là tham của, lái buôn rợ Hồ
giữ hạt châu, mà Mă sử2086 răn là liều ḿnh. Cho nên, kẻ tự gơ cửa
dâng thư được khen là trung thuần đáng quư, mà người tiến rau cần,
dâng nắng sưởi2087 dẫu nhỏ nhặt cũng đáng nên khen. Hay dở rành
rành, gương soi rất rơ. [31a] Xét thấy bọ sứ thần bản hộ, cùng nhau
đến tự phương xa, tới thăm phong cảnh thượng quốc. Trải muôn dặm
trèo non vượt biển, đâu dám sá từ, tưởng chín tầng mây vọng trông
nhật nguyệt, mừng ngắm thiên nhan. Tới triều đ́nh Ngu Thuấn văn vật
rơ rành, thấy chế độ nhà Chu y quan lễ nhạc. Một niềm tôn kính, báo
đáp khôn bề. Chút ít của cải mang theo, đâu dám mang ḷng ngại tiếc.
Hiện có một hộp kỳ nam hương lạ, tŕnh giao sai quan chọn lựa dâng
lên".
Vua Minh
xem bài văn ấy, cho là bậc nhân tài vào thời Tam đại, sai thái giám
Trần Khoa truyền cho lăo thần Nội các là bọn Lư Đông Dương xem. Lư
tâu rằng: Đó là tấm ḷng trung thành của viên ấy, nên ban thưởng hậu
để tỏ ư khuyến khích. Vua Minh lại hỏi các quan hậu cần rằng: Hắn
làm chức ǵ ở nước ấy. Các quan trả lời là chức Đô ngự sử. Vua Minh
cho dự yến ở trên điện và ban áo màu hồng thẫm
thêu h́nh
giải tră bằng kim tuyến [31b] và các thứ đồ tơ gai. Hữu Nghiêm nhân
đó dâng biểu tạ ơn rằng:
"Thần
trộm nghĩ: Trời đất sinh nuôi muôn vật, dẫu mầm non gốc cỗi đều cảm
nhận ḷng nhân hoá sinh. Đế vương yên vỗ triệu bang, dù cơi thẳm dân
cùng cũng đội ơn vương đạo rộng phẳng. Nay thần lạm dự sang cống cơi
Hạ, được gần mây Nghiêu. Trông mặt trời chốn Trường An, thiết tha
nương tựa, họp áo xiêm nơi triều hội, khôn xiết vui mừng. Nào ngờ kẻ
mọn phương xa, được ban lớp lớp ân sủng. Thân ḿnh rạng rỡ, sắc phục
huy hoàng. Áo báu mới ban, giải trăi vẻ đẹp. Nghĩ như thần: là cỏ
cây chỉ một rễ kém hèn, lại càng cảm ơn đất trời gây dựng. Thần xiết
bao cảm kích ghi ḷng, kính chúc Hoàng Đế muôn muôn tuổi, thọ ngang
với trời, để cho mọi người chốn thần dân đều vui cảnh thanh b́nh,
thịnh trị, các [32a] nước lớn nhỏ thấm nhuần phúc tốt dài lâu. Đó là
nguyện vọng sâu xa của thần vậy".
Ngày Bính
Ngọ, Kiến Vương Tân mất2088 . Vua nghỉ chầu 3 ngày, ban tên thuỵ là
Trinh Tĩnh.
Xuống
chiếu rằng: Kể từ nay, vệ Kiến An và sở chăn voi ở Nghệ An phải đóng
2 chiếc thuyền buôn để tiện chở thóc.
Bọn
Nguyễn Vinh vâng lệnh [nhắc lại] sắc chỉ khoảng năm Quang Thuận,
Hồng Đức quy định nội thần ra ngoài tự tiện đến nhà người khác th́
bị xử trảm.
Ngừng đặt
chức xá nhân thường xuyên, chọn lấy người cao lớn sung làm xá nhân
vệ Cẩm y, người thấp bé bổ làm xá nhân ngoại trực.
Quư Hợi,
[Cảnh Thống] năm thứ 6 [1503] , (Minh Hoằng Trị năm thứ 16). Mùa
xuân, tháng giêng, hạn hán.
Ngày mồng
8, có sắc dụ bọn Thanh Hoa tán trị thừa tuyên sứ ty, tham nghị Dương
Tĩnh rằng: Ta rất lưu ư tới việc nông, ngươi coi binh dân nên hết
sức. Đi thăm nom không được lười biếng, chứa tháo nước phải cho kịp
thời. Lo [32b] việc chính sự giỏi, để măi măi giữ vững cơ đồ. Kinh
Thư nói:
"Có pḥng
bị th́ không có mối lo" là như thế đó. Ngoài những việc đă tâu lên,
nơi nào bị hạn hán úng lụt, phải dự bị đề pḥng trước các việc trồng
cấy. Bọn quan châu huyện, coi dân như người nước Tần, nước Sở, ai
béo, ai gầy không bận ḷng đến. Ta thường sai nội thần đi xem xét
đồng ruộng, thấy chỗ th́ ruộng thấp, chỗ th́ bờ ruộng hoang rậm, chỗ
th́ g̣ đất bị lở, chỗ th́ thả vịt hại lúa. [Nước chứa] chỉ được vài
bữa, không giữ được lâu, nắng chưa mấy ngày đă cạn khôn cả, đó là do
không được người giỏi để chia lo cùng ta, không có kế hay mà ngăn
ngừa chống giữ. Than ôi! Bọn các ngươi lấy mũ áo đẹp, bổng lộc nhiều
để làm sang nhà cửa hay là để giúp việc cho vua? Ta một ḿnh lo sợ
đăm đăm, để các ngươi nhởn nhơ vui thú. Huống chi năm nay đúng vận
hạ nguyên2089 , gặp thời mạt kiếp. Kinh Huyền khu nói: "Tiết đông
[33a] chí gặp ngày Nhâm th́ đất hoang ngàn dặm". Kinh Địa mẫu nói:
"Năm Quư Hợi mưa rất nhiều", việc sửa đắp đê đều chẳng cần kíp ư?
Ngươi phải cho làm gấp cống đập, guồng nước, khe lạch, đường lớn
trong hạt, hạn trong ba tháng phải xong. Ngươi phải thân hành đi
kiểm tra lại. Người nào làm hoàn hảo th́ xếp vào loại bậc thượng
khảo, kẻ nào sửa đắp ṛ sót th́ biên vào loại không xứng chức, ghi
chép tường tận tâu lên để quyết định thăng hay giáng chức. Nếu bọn
các ngươi lơ là không chịu đôn đốc, đến khi mưa dầm, lúa má bị ngập
th́ khi điều tra ra sự thực, sẽ bị nhất loạt hỏi tội.
Ngày mồng
9, bọn Quách Hữu Nghiêm đi sứ nhà Minh sắp về, vào từ biệt. Vua Minh
sai bọn Tây Di đô đốc đại thông sự, Cẩm y vệ đô chỉ huy sứ Dương
Tông tuyên đọc thánh chỉ, ban cho Quách Hữu Nghiêm chiếc áo đại hồng
hoa mây dệt giải trăi bằng kim tuyến, 4 tấm lụa sợi gai, 3 tấm lụa
tơ chín. Lại sai Binh bộ thượng thư Tăng [33b] Dật phụng sao thánh
chỉ cấp riêng cho Quách Hữu Nghiêm một chiết thuyền đi nhanh, kính
theo lệnh này. Quách Hữu Nghiêm dâng bài thơ tạ ơn như sau:
Tằng nhân
quốc sự cống trân phong, Tảo yếu thao bồi ngọc bệ trung. Trăi thái
dĩ chương tam phẩm phục, Ích chu tái giá bát hoang phong. Thi từ
tiếu phạp khoan như hải, Tửu lực na kham ẩm tự hồng. Phúc thọ nghĩ
đồng Chu nhă chúc, Thăng hằng nhật nguyệt chiếu lâm công. (Từng nhân
việc nước tạ ân phong, Yến lớn lạm hầu trước bệ rồng. Áo trăi nêu
màu tam phẩm quư, Thuyền chim cưỡi gió tám phương thông. Nguồn thơ
thẹn chẳng như khơi biển, Sức rượu nào kham với ráng hồng2090 . Phúc
thọ chúc bài ca Chu nhă2091 , Đôi vầng nhật nguyệt sáng soi chung).
Tháng 2, ngày 17, Lễ bộ thượng thư Vũ Hữu tâu rằng: Hàng năm, cứ đến
kỳ đại tập quân sĩ, khi nộp tiền sai dư và tiền già ốm, th́ phải
khai đầy đủ họ tên những người phải nộp các khoản tiền nói trên và
số tiền thực đă nộp, số người đă nộp giao cho Hộ bộ theo đó mà thu
nhận.
Đại hạn.
Mùa hạ,
tháng 4, sao Chổi mọc ở phương đông.
Lễ bộ tả
thị lang Dương Trực Nguyên tâu xin [34a] đắp để bên sông Tô Lịch,
trên từ xă Trát Kiều xuống đến xă Cống Xuyên2092 để pḥng lụt hạn,
làm lợi cho nghề nông, lại xin đào cừ Yên Phúc xuống đến cừ Thượng
Phúc2093 để tưới nước cho ruộng dân.
Tháng 5,
ngày mồng 6, ban thơ ngự chế đề trên quạt tỏ ư khuyên răn:
Tinh hoả
hôn trung dạ, Bồng mang xuất bích đông. Kinh phương dương đại thủy
Vệ địa khủng hưng nhung. Tuần tỉnh vưu tâm lư, Suy chiêm mạn dị
đồng. (Nửa đêm sao Hỏa mọc, Tua chổi hiện phương đông. Đất Kinh lo
nước lớn, Đất Vệ sợ binh nhung. Chăm nom nên để ư. Suy xem nghiệm
hay không)2094 . Mùa thu, tháng 8, quan Ngự sử đài tâu rằng: Quan
Hàn lâm mà lười biếng bỏ việc th́ phải xét hỏi trị tội.
Tháng 9,
ngày mồng 10, cháy lớn ở chợ Đông, phố xá bị thiêu trụi.
Mùa đông,
tháng 12, ngày mồng 3, lấy Lễ bộ tả thị lang Dương Trực Nguyên kiêm
việc Hàn lâm viện.
Năm nay,
trước th́ đại hạn, sau lại nước to, núi Tản Viên và núi Tam Đảo bị
lở.
[34b]
Giáp Tư, [Cảnh Thống] năm thứ 7 [1504] (Từ tháng 6 về sau là Túc
Tông, Thái Trinh năm thứ 1; Minh Hoằng Trị năm thứ 17). Mùa xuân,
tháng giêng, xuống chiếu rằng: Kể từ nay, sẽ tăng cường các việc xây
dựng trong cung tường, dự định xây cất thêm lăng miếu và nhà giải
vũ.
Tháng 2,
vua ngự về Tây Kinh.
Mùa hạ,
tháng 4, vua ngự về Lam Sơn. Khi xa giá trở về cung, bị ốm.
Tháng 5,
ngày 23, vua v́ ham nữ sắc, bị bệnh nặng, khi sắp băng, di mệnh cho
hoàng thái tử lên nối ngôi. Ngày 24, vua băng ở điện Đồ Trị.
Trước
kia, vua xây các điện Thượng Dương, Giám Trị, Đồ Trị, Trường Sinh,
nơi để nghỉ ngơi, điện để đọc sách và ăn chay. Lại dựng điện Lưu Bôi
ở trong cung (đưa nước vào trước thềm điện, gọi là đài Lưu Bôi). Vua
tự xưng là Thượng Dương động chủ, sinh được 6 hoàng tử, con trưởng
là An Vương Tuân, con thứ hai là Uy Mục Đế Tuấn, con thứ ba là Tự
Hoàng Thuần2095 , con thứ tư là Thông Vương Dung, [35a] con thứ năm
là Minh Vương Trị, con thứ sáu là Tư Vương Dưỡng.
Tháng 6,
ngày mồng 6, Trung quân đô đốc phủ tạ đô đốc B́nh Sơn hầu Lê Quảng
Độ, Nam quân đô đốc phủ tả đô đốc pḥ mă đô uư Lâm Hoài bá Lê Đạt
Chiêu cùng các quan pḥ mă, các quan Ngũ phủ, Lục bộ, Đông các, Hàn
lâm viện, Lục tự, khoa, đài đến điện Hoàng Cực rước thái tử Thuần
lên ngôi. Đại xá, đổi niên hiệu, lấy năm này làm năm Thái Trinh thứ
1.
Hiến Tông
ưa chuộng văn học, giữ vững cơ đồ, tiết kiệm tiêu dùng, thận trọng
h́nh phạt, sửa chính sự, dùng người hiền, kính trời chăm dân, cũng
là bậc vua hiền mà ở ngôi không lâu, tiếc thay!
Vũ Quỳnh
nói: Vua có tư thế của bậc đế vương, mũi cao, mặt rồng, thần sắc
khác thường, [35b] Thánh Tông rất yêu quư ngài. Vua đặc biệt anh
minh, thông duệ, vượt hơn hẳn mọi người, mà nhân từ, hoà dịu, không
hề tỏ vẻ nghiêm khắc. Khi tan chầu lui vào, thường cho dẫn sĩ đại
phu tới, hỏi han về việc hay dở, được mất của chính sự, dùng lời nói
dịu dàng, nét mặt tươi vui để dẫn dắt cho họ nói ra. Cho nên vua
biết rơ t́nh cảnh người bên dưới, gạt bỏ sự che đậy giấu giếm. Bề
tôi có lỗi lầm ǵ, chỉ răn bảo, quở trách nhẹ nhàng, không nỡ đánh
roi làm nhục; biết cách sắp đặt nên nhàn hạ ung dung, chưa bao giờ
to tiếng, giận dữ mà thiên hạ đều răm rắp tuân theo. Vua thường nói:
Thánh Tổ ta gây dựng đất nước, vua cha ta sửa trong, dẹp ngoài, quy
mô đă định, ta không có việc ǵ phải thay đổi bày đặt, chỉ tuân giữ
phép cũ, mở rộng và phát huy thêm, để tỏ rơ công đức của ông cha mà
thôi!
Túc Tông
Khâm Hoàng Đế
Tên huư
là Thuần ____ lại huư là Thuần ____, là con thứ ba của Hiến Tông, ở
ngôi chưa đầy một năm, thọ 17 tuổi th́ băng, táng ở Kính Lăng. [36a]
Vua dốc chí hiếu học, thân người hiền, vui việc thiện, xứng đáng là
vị vua giỏi giữ cơ nghiệp thái b́nh, không may mất sớm, tiếc thay!
Mẹ ngài
là Trang Thuận hoàng thái hậu Nguyễn thị, huư là Hoàn, người làng
B́nh Lăng, huyện Thiên Thi. Năm Hồng Đức thứ 19 [1488] tháng 8, ngày
mồng 12096 sinh vua. Năm Cảnh Thống thứ 2 [1499], tháng 3 được lập
làm Hoàng thái tử. Đến khi Hiến Tông băng, liền lên ngôi hoàng đế,
đổi niên hiệu là Thái Trinh, lấy ngày sinh làm Thiên minh thánh
tiết, tự xưng là Tự Hoàng, sau được truy dâng tôn thuỵ, miếu hiệu là
Túc Tông.
Vua lên
ngôi, xưng là Tự Hoàng, làm lễ cáo trời đất tông miếu. Tôn tổ mẫu
Trường lạc hoàng thái hậu là Thái hoàng thái hậu.
Mùa thu,
tháng 7, bọn Quách Hữu Nghiêm vâng mệnh đi sứ nhà Minh trở về.
Tháng 8,
ngày mồng 1, [36b] lấy ngày sinh làm Thiên minh thánh tiết.
Tháng
này, có sao Chổi mọc ở phương tây bắc.
Tháng 9,
ngày mồng 8, kính mang bảo sách dân tên thuỵ cho Đại Hành Hoàng Đế
là Thể Thiên Ngưng Đạo Mậu Đức Chí Chiêu Văn Thiệu Vũ Tuyên Triết
Khâm Thành Chương Hiếu Duệ Hoàng Đế, miếu hiệu là Hiến Tông. Tôn bà
quư phi sinh ra vua làm Trung Thuận Minh Ư Hoàng Thái Hậu2097 .
Bọn phản
nghịch Đoàn Thế Nùng bị giết. Bấy giờ, Thế Nùng làm phản ở Cao Bằng,
bị bắt cùng với bè đảng hơn 500 người, đều bị giết.
Mùa đông,
tháng 10, ngày giáp th́n 18, đưa linh cữu của Hiến Tông về Tây Kinh.
Tháng 11,
ngày mồng 8, đưa táng Hiến Tông ở Dụ Lăng. Lễ bộ xét lệ cũ, tâu xin
dựng bia. Vua y lời tâu, bèn sai văn thần là bọn Nguyễn Nhân Thiếp,
Phạm Thịnh, Tŕnh Chí [37a] Sâm soạn văn bia.
Sai sứ sang nhà Minh. Bọn
Lại bộ thị lang Đặng Tán, Kiểm thảo Khuất Quỳnh Cửu, Hộ khoa đô cấp
sự trung Lưu Quang Phụ đi tuế cống; bọn Binh bộ hữu thị lang Nguyễn
Lân, Giám sát ngự sử Nguyễn Kính Nghiêm đi báo tang; bọn Lễ bộ hữu
thị lang Nguyễn Bảo Khuê, Đông các hiệu thư Trần Viết Lương, Hiệu
thư Vũ Châu đi cầu phong2098 .
Tháng này, ngày mồng 8,
vua không khoẻ. Khi vua mới lên ngôi, tha tù nhân, thả cung nữ,
ngừng những việc không cần kíp, giảm những việc nặng nhọc, bớt đồ
dâng cống, giảm nhẹ lực dịch, dùng bề tôi cũ có công, nắm giữ mọi uy
quyền; hạn chế, răn đe thế lực họ ngoại, dốc ḷng thương yêu các vị
thân vương, mọi việc sửa sang nghiệp lớn, dựng đặt gốc lớn, không
điều ǵ không đến nơi đến chốn. Thần dân trong nước đều chăm chú dơi
nh́n chính sự buổi đầu, cho rằng ngày nay lại được trông thấy đời
thịnh trị của Thành, Khang, Văn, Cảnh2099 .
[37b] Tháng 12, ngày Nhâm
Tuất mồng 6, vua sắc dụ triều thần là bọn B́nh Sơn hầu Lê Quảng Độ,
Cống Xuyên bá Lê Năng Nhượng, và các quan văn vơ rằng: Bệnh trẫm
chưa khỏi, lo rằng việc phó thác nặng nề e sẽ không kham nổi. Con
thứ hai của Tiên hoàng đế là Tuấn, là người hiển minh, nhân hiếu, có
thể nối được ngôi chính thống, để thừa kế tổ tông, vỗ về thân dân.
Đại thần và các quan hăy hết ḷng trung trinh để giúp nên nghiệp
lớn; thân vương nào dám tiếm vượt ngôi trời th́ người trong nước
cùng nhau giết đi.
Ngày Quư Hợi, mồng 7, vua
ốm nặng; ngày Giáp Tư mồng 8, vua băng ở điện Hoàng Cực, có di chiếu
cho các quan để tang theo đúng lễ cổ.
Ngày Giáp Tuất 18, Trung
quân đô đốc phủ tả đô đốc B́nh Sơn hầu Lê Quảng Độ, Tông nhân lệnh
Tự ân sứ Lê Năng Nhượng [38a] cùng các công, hầu, bá, pḥ mă, đô uư,
các quan năm phủ, sáu bộ, Ngự sử đài, Đông các, Hàn lâm, Lục tự, Lục
khoa, đề h́nh các quan 13 đạo, đến điện Hương Minh kính đón con thứ
hai của Hiến Tông là Tuấn lên ngôi Hoàng đế. Đại xá, đổi niên hiệu
lấy sang năm là năm Đoan Khánh thứ 1.
Bấy giờ, Nguyễn Bảo Khuê
sang sứ nhà Minh chưa qua cửa ải, lại sửa đổi tờ biểu cầu phong khác
giao cho Bảo Khuê mang đi.
Bấy giờ, ban chiếu đại xá
cả nước. Trong chiếu có một điều là người đỗ khoa tiến sĩ chưa được
bổ dụng mà ốm chết th́ cho con cháu được tập ấm như lệ của các quan
viên, và các thí quan nhập lưu th́ cho 1 con trai được nhiêu miễn,
chỉ tuyển 1 con trai làm tráng đinh thôi.
Ngày 25, định lệ làm điếm
trực canh ngoài cửa Ngũ Thành. Có sắc chỉ rằng: Ở ngoài cửa Ngũ
Thành, các vệ Hiệu lực, Thần [38b] vũ, Điện tiền, phải làm hai dăy
nhà ngói, mỗi dăy 7 gian. Hàng ngày, đơn vị giữ cửa dùng 1 người ra
điếm trực để xét hỏi người qua lại, các nhân viên túc thanh của vệ
Cẩm y cũng phải ở đó. Ban đêm, nội thần phải ở trong cửa đài. C̣n
mỗi dăy nhà th́ dùng 2 viên quan, 20 lính, 50 chiếc mộc, 5 cây thủ
tiễn của các vệ Thần vũ, Điện tiền, Hiệu lực để túc trực theo như
pháp lệnh.
Ngày 26, có sắc chỉ định
lệ làm gióng gỗ ở ngoài điếm quân của năm phủ. Nếu điếm ở ngoài th́
ở chỗ các điếm cách nhau đều phải làm gióng gỗ, cột gióng phải to,
mỗi điếm dùng 5 câu liêm có đầu nhọn, trên đầu cũng có nóc, để ở hai
đầu điếm để canh giữ. Quan viên và binh lính đều phải trực ở điếm,
không được sai phái đi làm việc khác.
[39a] Uy Mục Đế
Tên huư là Tuấn, lại huư
là Huyên, là con thứ hai của Hiến Tông, anh thứ của Túc Tông, ở ngôi
5 năm, thọ 22 tuổi, bị Giản Tu công Dinh2100 đuổi đi, rồi sau bị
hại, chôn ở An Lăng. Vua nghiện rượu, hiếu sát, hoang dâm, thích ra
oai, tàn hại người tông thất, giết ngầm tổ mẫu, họ ngoại hoành hành,
trăm họ oán giận, người bấy giờ gọi là Quỷ vương, điềm loạn đă xuất
hiện từ đấy.
Mẹ vua là Chiêu Nhân
hoàng thái hậu Nguyễn thị, huư là Cận, người làng Phù Chẩn, huyện
Đông Ngàn, lúc bé mồ côi cha, nhà nghèo, tự bán ḿnh cho người ở phủ
Phụng Thiên, sau nhà ấy có tội, Nguyễn thị bị tịch thu sung làm quan
tỳ, do đó được vào hầu Quản Ninh hoàng hậu2101 . Khi Hiến Tông c̣n
làm thái tử, thấy có sắc đẹp th́ ưa, lấy vào làm phi. Năm Hồng Đức
thứ 19 [1488] tháng 5, ngày mồng 5, giờ Tư sinh ra vua. Năm Thái
Trinh thứ 1 [1504], Túc Tông băng, không có con nối, mẹ thứ là Kính
phi Nguyễn thị2102 mưu lập vua ở trong cung cấm, bèn lên ngôi hoàng
đế. Đại [39b] xá, đổi niên hiệu, lấy ngày sinh là Thiên khánh thánh
tiết, tự xưng là Quỳnh Đô động chủ.
Ất Sửu, Đoan Khánh năm
thứ 1 [1505] , (Minh Hoằng Trị năm thứ 18). Mùa xuân, tháng giêng,
ngày mồng 1, có nhật thực.
Ngày 21, xuống chiếu cho
quan viên và dân chúng ở thừa tuyên các xứ rằng: Việc lớn th́ dùng
giấy đại phương, việc nhỏ th́ dùng giấy tiểu phương. Chúc thư, văn
khế th́ dùng giấy đại, không được quen dùng giấy phương như trước.
Hạn cho một tháng đều phải theo lệnh mới. Nếu quan viên và dân chúng
vẫn làm chúc thư, văn khế bằng giấy phương th́ cho người trong họ và
tộc trưởng họ ấy cáo giác,
nếu xét nghiệm đúng sự
thực th́ xử là không có giá trị, người bán mất phần của ḿnh, người
mua mất số tiền bỏ ra, chúc thư và văn khế đều vô dụng.
Tháng 2, ngày Giáp Tuất
16, dâng tôn thuỵ cho Đại Hành Hoàng Đế là Chiêu Nghĩa Hiển Nhân Ôn
Cung Uyên Mặc Hiếu Doăn Cung Khâm Hoàng Đế, miếu hiệu là Túc [40a]
Tông.
Ngày Bính Ty 18, truy tôn
mẹ đẻ Nguyễn thị làm Chiêu Nhân Hoằng Ư hoàng thái hậu.
Thi Hội các cử nhân trong
nước, lấy đỗ bọn Lê Nại (người làng Mộ Trạch, huyện Đường An) 55
người. Thi Đ́nh cho bọn Lê Nại, Bùi Doăn Văn, Trần Phỉ (người làng
Chi Nê, huyện Chương Đức, con là Trần Khải) 3 ngày đỗ đệ nhất giáp
tiến sĩ cập đệ; bọn Nguyễn Tiếu Tượng, Trần Lỗi 16 người đỗ đệ nhị
giáp tiến sĩ xuất thân; bọn Phạm Đôn Thục, Nguyễn Tư 36 người đỗ đệ
tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
Tháng 3, linh cữu củ Túc
Tông Hoàng Đế đưa về Tây Kinh. Ngày Quư Măo, táng ở Kính Lăng. Lễ
quan tâu xin dựng bia, vua y lời tâu, sai bọn Đàm Văn Lễ, Nguyễn
Nhân Thiếp, Phạm Thịnh, Tŕnh Chí Sâm soạn văn bia.
Ngày 22, Thái hoàng thái
hậu Nguyễn thị th́nh ĺnh băng ở chính tẩm điện Trường Lạc, thọ
[40b] 65 tuổi. Trước đây, khi Túc Tông băng không có con nối, nội
thần Nguyễn Nhữ Vi định lập vua, Thái Thánh Tông cho rằng vua là con
người tỳ thiếp, không thể nối được đạo thống, khăng khăng đ̣i lập Lữ
Khôi Vương. Bấy giờ Nhữ Vi liền đóng các cửa thành lại lập vua lên.
Thái hậu có vua đă được lập rồi, có ư không vui. Sau vua liền sai
quan hầu cận ngầm giết Thái hậu rồi nghỉ chầu 7 ngày.
Ngày 27, rước thần chủ
của mẹ là Chiêu Nhân Hoằng Ư hoàng thái hậu thờ vào cung Minh Đức
nhà Thái Miếu ở Đông Kinh.
Tháng này, người ở châu
nước ngoài tràn vào tranh ruộng ở cửa ải Na Nham.
Vua sai Đan Khê bá Trịnh
Hựu đi kinh lư ở vùng Minh Quang, dựng quan ải rồi trở về.
Mùa hạ, tháng 4, ngày 27,
truy tôn thuỵ hiệu cho tổ mẫu là Huy Gia Tĩnh Mục Ôn Cung như Thuận
Thái hoàng thái hậu.
[41a] Vua dựng điện Chân
Nguyên, làm Bảo Thuỵ đường ở hương Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn2103 ,
làm Tuyên Dự đường ở hương Hoa Lăng, huyện Thuỷ Đường2104 . Lại làm
điện Quang Mỹ ở phường Lệ Viên, huyện Quảng Đức2105 để thờ tiên tổ
của Thái hoàng thái hậu.
Tháng 5, ngày mồng 7, vua
Hiến Tông nhà Minh băng, thay hiệu là Kính Hoàng Đế.
Ngày 13, sai Trịnh Hựu đi
công cán ở Tuyên Quang.
Ngày 25, lấy ngày sinh
làm Thiên khánh thánh tiết.
Ngày 28, hoàng thái tử
nhà Minh là Hậu Chiếu lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Chính Đức
(tức là Vũ Tông).
Lấy Dương Trực Nguyên làm
Hộ bộ tả thị lang kiêm coi Chiêu Văn quán.
Tháng 6, ngày mồng 5,
biếm bọn Lễ bộ thượng thư Đàm Văn Lễ, Ngự sử đài đô ngự sử Nguyễn
Quang Bật vào Quảng Nam, rồi giết đi.
Trước đây, khi Hiến Tông
nằm giường bệnh, mẹ sinh ra vua, [41b] Chiêu Nhân hoàng hậu là ty
thiếp được Hiến Tông yêu, sinh ra vua nhưng mất sớm. Mẹ thứ là Kính
phi không có con trai, nuôi làm con ḿnh, có ư lập làm vua, sợ các
đại thần không theo, đem vàng đút lót, nhưng Văn Lễ không nhận.
Đến khi Hiến Tông ốm
nặng, Văn Lễ và Quang Bật nhận di chiếu phụ tá hoàng thái tử nối
ngôi. Bấy giờ, các thân vương tranh nhau đ̣i lập, Văn Lễ sợ xảy tai
biến trong lúc bối rối, mới vào tẩm điện lấy ấn báu truyền quốc đem
về nhà, rồi cùng các đại thần văn vơ lập Túc Tông lên ngôi hoàng đế.
Vua [Uy Mục] căm giận lắm. Đến đây, dùng mưu của Khương Chủng,
Nguyễn Nhữ Vi biếm hai người làm Thừa tuyên sứ Quảng Nam. Khi họ đến
sông lớn huyện Chân Phúc2106 , vua sai người đuổi theo bắt phải tự
tử. Hai người khi sắp gieo ḿnh xuống nước, ngâm thơ quốc ngữ rồi
mới mất. Sau đ́nh thần trong bụng ai cũng biết là hai người chết
không đáng tội, can vua, vua đổ tội cho Nhữ [42a] Vi rồi giết y.
Lấy Lê Tung làm Thừa
tuyên sứ Thanh Hoa.
Khởi phục2107 Ngô Hoán
làm Hiến sát sứ Thanh Hoa. Hoán trước đây bị sung quân2108 , sau lại
thi đỗ sinh đồ, đến đây được bổ dụng lại.
Bính Dần, [Đoan Khánh]
năm thứ 2 [1506] , (Minh Vũ Tông Chính Đức năm thứ 1). Mùa xuân,
trước đây, viên quản lĩnh họ Trần người làm Nhân Mục2109 vốn là cháu
ngoại của [một ông vua] triều Trần sinh được 2 người con gái, con
trưởng tên là Tùng, con thứ tên là Trúc. Vua nghe nói Tùng có sắc
đẹp, chọn vào hậu cung, sinh được hoàng tử nhưng mất sớm. Sau Trúc
cũng được vào hầu2110 .
Tháng 2, tuyển hoàng
đinh.
Truất Phạm Khiêm Bính làm
hiết sát sứ Hải Dương. Bấy giờ, Khiêm Bính phạm tội cùng với Lê Sạn
khắc đá làm bia, bị quan trong triều tâu hoặc nên phải truất.
Triệu viên Trị huyện Phụ
Dực Nguyễn Quư Nhă về làm Đề h́nh giám sát ngự sử. Trước đây [42b]
Quư Nhă làm bài ứng chế lạc vần bị truất. Đến đây triệu về bổ dụng.
Mùa hạ, tháng 4, ngày 13,
khởi phục Đỗ Nhân là Lễ bộ hữu thị lang, Hàn lâm viện thị độc, Tham
chưởng Hàn lâm viện sự, v́ Nhân về nghỉ tang mẹ vừa hết trở.
Mùa đông, tháng 12, ngày
12, sai Binh bộ thượng thư Nguyễn Quang Mỹ, Lại khoa đô cấp sự trung
Nguyễn Tịnh2111 , Đề h́nh giám sát ngự sử Nguyễn Trọng Quỳ2112 làm
đề điệu; giám thí, giám khảo để khảo thi các quân sắc và nhân dân
các môn viết chữ và làm tính ở sân điện Giảng.
Đổi lại quân hiệu từ chức
dũng sĩ phó quân trở xuống.
[43a] Đinh Măo, [Đoan
Khánh] năm thứ 3 [1507] , (Minh Chính Đức năm thứ 2). Mùa xuân,
tháng giêng, ngày mồng 9, nhà Minh sai chính sứ là Hàn lâm viện biên
tu Tăng Đạc, phó sứ là Lại khoa hữu2113 cấp sự trung Trương Hoằng
Chí sang báo việc [Vũ Tông nhà Minh] lên ngôi và ban cho vóc lụa.
Lấy Nguyễn Xao làm Thừa
tuyên sứ Hải Dương. Trước đây, Nguyễn Xao vâng mệnh đi sứ phương
Bắc, có mua được cái gối của phương Bắc rất đẹp, không đem dâng tiến
lên, bị xá nhân tâu lên, phải băi chức về nhà, đến đây, mới được bổ
dụng. Sau Xao chết ở nhiệm sở.
Tháng giêng nhuận, nhà
Minh sai Hành nhân ty hành nhân Hà Lộ sang làm lễ viếng Hiến Tông
Duệ Hoàng Đế, lại sai chánh sứ là Hàn lâm viện biên tu Thẩm Đào, phó
sứ là Công khoa tả2114 cấp sự trung Hứa Thiên Tích mang chiếu thư
sang phong vua làm An Nam Quốc Vương, [43b] lại ban một bộ mũ áo
quan vơ bằng da và một bộ thường phục. Thiên Tích thấy tướng vua, đề
thơ rằng:
An Nam tứ bách vận vưu
trường Thiên ư như hà giang quỷ vương? (Vận nước An Nam bốn trăm năm
rất dài, Không biết ḷng trời như thế nào lại giáng sinh ông vua quỷ
sứ). Phúc khảo 144 người về môn viết chữ và làm tính, người đỗ là
bọn Nguyễn Tử Kỳ 25 người được sung làm Hoa văn học sinh.
Đặt thêm ty Cường lực2115
.
Tri phủ Nguyễn Chí bị
thân nhân của bọn ngoại thích Khương Chủng2116 đáng chết lại sống
lại. Trước đây, thời Hiến Tông, Chí làm Trung thư giám chính sự, sau
khi thi Hội trúng trường, v́ là người huyện Đông Ngàn, quê ngoại của
vua nên được bổ làm Thiếu doăn phủ Phụng Thiên, sau làm Tri phủ phủ
Phú B́nh2117 . Chí là người cứng cỏi bất khuất. Thân nhân của Khương
Chủng là Nguyễn Trọng bắt Chí giam vào ngục của ty Đ́nh uư rồi đáng
chết, vứt xác ra ngoại thành. Con cháu lấy chiếu bó xác lại đem về
định chôn, bỗng nhiên Chí sống lại. Sau đó, phải ẩn náu ở nhà con
em, ban ngày ở dưới hang, ban đêm [44a] ngủ trên cây. Vợ con lấy hài
cốt của người khác đem chôn, rồi làm chay theo như lễ để tang, đă
qua 3 năm mà hàng xóm không ai biết cả. Đến năm Kỷ Tỵ đời Hồng
Thuận, quân khởi nghĩa nổi dậy2118 , Chí đến cửa khuyến tŕnh bày,
được cho vào làm Bí thư xá nhân và được ban tên hiệu là Hoàng Sinh.
Thời Nguỵ Mạc, làm quan đến tri phủ các phủ Nghĩa Hưng2119 và Cao
Bằng. Tháng 3, vua bái yết Tây Kinh. Ngày Mậu Tuất 24, vua từ Tây
Kinh trở về, đóng dinh ở hành điện Xuân Đỗ, thân hành ngự điện Chân
Nguyên, đi xem xét phúc địa.
Lấy Nguyễn Th́ Ung làm
Thừa tuyên xứ Thanh Hoa.
Mùa đông tháng 11, sai sứ
sang nhà Minh. Bọn Hộ bộ tả thị lang Dương Trực Nguyên, Đông các
hiệu thư Chu Tống Văn2120 và Hàn Lâm viện kiểm thảo Đ́nh Thuận2121
mừng Vũ Tông lên ngôi; [44b] Lương Khản tạ ơn ban vóc lụa; Hồng lô
tự thiếu khanh Nguyễn Thuyên dâng hương; bọn Công bộ hữu thị lang
Nguyễn Thọ, Hàn lâm viện kiểm thảo Doăn Mậu Khôi2122 , Hộ khoa cấp
sự trung Lê Đĩnh Chi2123 tạ ơn sang viếng; bọn Thừa tuyên xứ Thanh
Hoa Lê Tung, Hàn lâm viện kiểm thảo Đinh Trinh, Giám sát ngự sử Lê
Hiếu Trung2124 tạ ơn sách
phong; bọn Tham nghị Nghệ An Lê Uyên, Hàn lâm viện hiệu lư Ngô
Tuy2125 , Giám sát ngự sử Hoàng Nhạc2126 đi tuế cống.
Mậu Th́n, [Đoan Khánh]
năm thứ 4 [1508] , (Minh Chính Đức năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 2,
th́ Hội các cử nhân trong nước. Lấy đỗ bọn Đỗ Dung (Dung người huyện
Thư Tŕ, thi Đ́nh đỗ đồng tiến sĩ xuất thân) 54 người. Đến kỳ thi
đ́nh cho bọn Nguyễn Giản Thanh, Hứa Tam Tỉnh, Nguyễn Hữu Nghiêm 3
người đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ; bọn Trần Tông 15 người đỗ đệ
nhị giáp tiến sĩ xuất thân; bọn Nguyễn Nghĩa Thọ [45a] 36 người đỗ
đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
Lấy Nguyễn Bá Tuấn làm
Tổng binh thiêm sự Thanh Hoa, Nguyễn Trung làm Hiến sát sứ Thanh
Hoa.
Tháng 3, ngày mồng 4, có
chiếu rằng: Các đô lại, đề lại và các lại thay phiên nhau ở nha môn
trong ngoài nếu có khuyết th́ Lại bộ chiếu theo lệ đời Hồng Đức, kê
khai họ tên người đáng được bổ sung, làm bản danh sách gửi lên Lại
khao, sao gửi cho Lại bộ chuyển gửi cho các nha môn tuân hành.
Lấy Mạc Đăng Dung làm
Thiên vũ vệ2127 đô chỉ huy sứ ty đô chỉ huy sứ.
Đăng Dung là người xă Cao
Đôi2128 , huyện B́nh Hà (tức là xă Long Động, huyện Chí Linh), tiên
tổ Đăng Dung là Mạc Đĩnh Chi, Trạng nguyên triều Trần, làm quan đến
Tả bộc xạ. Đĩnh Chi sinh ra Cao2129 , Cao sinh ra Thuư2130 , Thuư
sinh ra Tung, dời sang ở xă Lan Khê, huyện Thanh Hà2131 rồi sinh ra
B́nh, B́nh lại dời sang xă Cổ Trai, huyện Nghi Dương2132 [45b] rồi
trú tại đó. B́nh sinh ra Hịch, Hịch lấy con gái trưởng của Đặng Xuân
người cùng xă, sinh được ba con trai, con trưởng là Đăng Dung, con
thứ là Đốc Tín, con út là Quyết. Đăng Dung có sức khoẻ, v́ đỗ vơ cử,
được sung vào quân túc vệ, đến đây phong cho chức này.
Mùa hạ, tháng 6, lấy Đỗ
Nhuận làm Ngự sử đài phó đô ngự sử.
Hộ bộ tả thị lang Dương
Trực Nguyên từ nhà Minh trở về, vua ban hốt ngà và đai bạc cho ông.
Mùa đông, tháng 10, ngày
mồng 4, giam Ngự sử đài phó đô ngự sử Đỗ Nhân vào ngục của ty Đ́nh
uư. Nhân v́ tâu việc trái ư vua phải giam vào ngục, sau lại được
tha.
Người nước Hắc La La2133
xâm nhập cửa ải Chu Thôn Điền2134 . Vua sai Bắc quân đô đốc phủ Trần
Thúc Mại làm Hữu du kích dinh Phó tướng, Phạm Nhất Ngạc làm Kư lục
đi trước, [46a] sai Mỹ quận công Lê Quưnh làm Chinh Man tướng quân,
mang ấn Chinh Man tướng quân, Đan Khê bá Trịnh Hựu làm phó
đề lĩnh đem quân các vệ
Thần vũ, Hiệu lực, Điện tiền và quân các phủ Trung, Đông, Tây, Nam,
Bắc chia thành 6 dinh, mỗi dinh 1 vạn người, lấy 3 ngh́n người chở
lương thực, đi đánh Hắc La La. Đến địa phận Chu Thôn Điền liền dựng
cột mốc địa giới, rồi sai bọn Quưnh đi kinh lư các vùng Thuỷ Vĩ2135
, Chu Quan xứ Thuận Hoá2136 để tu sửa quan ải.
Kỷ Tỵ, [Đoan Khánh] năm
thứ 5 [1509] , (Từ tháng 12 trở về sau là Tương Dực Đế Hồng Thuận
năm thứ 1; Minh Chính Đức năm thứ 4). Mùa xuân, tháng 2, vua cày
ruộng tịch điền, cày bị găy.
Quai chuông lớn Càn
Nguyên ở điện Kính Thiên bị găy, chuông rơi.
Lấy Nguyễn Thừa Nghiệp
kiêm chức Tông nhân lệnh ở phủ Tông Nhân, Con là Mô coi cả quân túc
vệ.
Tháng 3, ra lệnh cho bọn
Chinh Man tướng quân Lê Quưnh và Trịnh Hựu đem quân về.
Vua [46b] tính ưa vũ
dũng, nhân khi đi tế Giao trở về cung, cưỡi trên đầu voi Viện Vân
vào cửa Đông Hoa. Hạ lệnh cho các ty năm phủ đem voi công vào trước
mặt vua để lựa chọn và kê khai voi công của các trấn đem về kinh sư
chọn làm voi ngự để bổ sung cho các vệ.
Bấy giờ Nội thần mới đặt,
có chức Phi vũ ty lực sĩ nội sứ, lấy Nguyễn Tông làm Phi vũ ty đô
phi vũ lực sĩ nội sứ túc trực ở cung Đoan Khang như lệ Đô lực sĩ túc
trực ở điện Kim Quang, đội mũ bạc, cánh mũ thêu phượng vàng, có đuôi
bằng lông đỏ; lấy Nguyễn Công Luận làm Phi vũ ty phi vũ lực sĩ nội
sứ, đội mũ thuỷ ngân, có lông đỏ2137 .
Đặt chức Cung môn thừa
chế giám, như tư lễ giám, hai ty Ngự trong, Ngự mă.
Đặt chức Ngự tượng giám,
Ngự mă giám. Ngự tượng đái đao nội sứ th́ đội mũ thuỷ ngân, vẽ hoa
quỳ vàng. Ngự [47a] mă đội mũ thuỷ ngân vẽ hoa quỳ đỏ.
Hai giám ngự mă, ngự
tượng đấu sức với nhau, cầm gậy đánh nhau từ cửa Thanh Dương đến
ngoài cửa Thái Miếu, vua lấy làm thích, thưởng cho tiền và lụa2138 .
Từ khi lên ngôi, vua đêm
nào cũng cùng cung nhân vui đùa uống rượu vô độ.
Khi rượu say liền giết cả
cung nhân.
Bấy giờ, uy quyền thuộc
về họ ngoại, phía đông th́ làng Hoa Lăng2139 (quê của cha nuôi),
phía tây th́ làng Nhân Mục (quê của vợ vua), phía bắc th́ làng Phù
Chẩn (quê của mẹ vua) đều chuyên cậy quyền thế, vùi dập các quan, kẻ
th́ v́ ư riêng mà giết hại sinh dân, kẻ th́ dùng ngón kín mà yêu
sách tiền của, mọi thứ súc vật, hoa màu của dân, chúng đều cướp đoạt
cả, nhà nào có đồ lạ, vật quư, chúng đánh dấu chữ vào và đ̣i lấy.
Muôn dân ta oán mà vua vẫn không chừa, lại mang ḷng ngờ vực, đố kỵ.
Các quan người nào ngày trước không lập ḿnh, th́ thường giết đi.
Lại [47b] ngầm sai nội nhân Nguyễn Đ́nh Khoa ḍ xét cả 26 vương là
các chú và anh em của vua. Trong đó, Kinh Vương là chú đă chạy trốn
không biết đi đâu, chỉ có Giản Tu công là con chú bác bị giam vào
ngục trốn thoát
được. Do vậy, mọi người
đều cảm thấy nguy đến thân ḿnh, càng nghĩ đến việc nổi loạn.
Sai bọn Đô đốc Bảo Lộc bá
Lê Tử Vân và Vũ Cảnh đi kinh lư vùng Quảng Nam.
Trước đây, năm Hồng Đức
thứ 1, Thánh Tông thân hành đi đánh Chiêm Thành bắt được Trà Toại và
vợ con nó đem về nước ta an trí ở ngoài cửa Bảo Khánh gần 30 năm.
Đến thời Cảnh Thống, con
là Trà Phúc mang trộm hài
cốt của cha là Trà Toại trốn về nước, để lại một người chị ruột, đến
khi có binh hoả mới chết. Đến nay, nô lệ người Chiêm của các nhà thế
gia, công thần ở các điền trang cũng bỏ trốn về nước.
Vũ Cảnh cho chạy trạm tâu
vua là người Chiêm làm loạn. [48a] Vua hạ lệnh giết người Chiêm đến
gần hết, không biết rằng kẻ làm loạn chính là bọn người Chiêm Chế
Mạn2140 . Đến sau bắt được bọn người Chiêm Ma Mạc phiêu giạt ngoài
biển, giam ở thừa chế, họ lại cung khai rằng năm trước, Trà Phúc đă
trở về nước sai con là Ma La sang cầu viện nhà Minh, lại đóng nhiều
thuyền, chứa nhiều lương. Do đó, vua sai bọn Cảnh đi kinh lư.
Lấy Dương Trực Nguyên làm
Ngự sử đài đô ngự sử.
Mùa thu tháng 8, xuống
chiếu bắt giết hết những người Chiêm hiện đang bị giam giữ.
Tháng 9, Lại khoa đô cấp
sự trung Dương Đức Giản tâu rằng: thần kính xét, năm Hồng Đức thứ 7
[1476] có sắc chỉ quy định Quốc tử giám sinh, Tam xá sinh người nào
từ 30 tuổi trở lên th́ bản quan mới được bảo cử bổ dụng; năm thứ 8
có sắc chỉ nói nho sinh ở Sùng Văn quán và Tú Lâm [48b] cục do bản
quan bảo kết khảo xét, người nào lâu năm, tài cán, và thi Hội trúng
trường đều được bổ dụng. Thần trộm thấy giám sinh, nho sinh chưa đến
30 tuổi, vào học chưa đầy 15 năm, chỉ v́ thi Hội trúng trường lại
hay được may mắn tiến thân, như thế th́ có sự hỗn loạn không ổn. Cúi
xin kể từ nay, các giám sinh, nho sinh tuổi từ 30 trở lên và vào học
đă đủ 15 năm trở lên th́ bản quan mới được bảo cử bổ dụng như lệ.
Người nào dám lấy t́nh riêng mà bảo cử người tuổi trẻ, năm ít, th́
khoa phụ trách, Ngự sử đài tâu hặc trị tội để răn đe những kẻ làm
tôi theo t́nh riêng bảo cử bậy và trừ cái tệ cầu may hỗn loạn. Bọn
Ninh quận công Lê Quảng Độ tâu rằng: bọn thần trộm thấy những lời
của Dương Đức Giản thực cũng có lư, nhưng do đó vẫn c̣n có chỗ chưa
đủ, nay bọn thần xin bàn lại các điều [49a] như sau:
1- Kinh xét: Giám sinh
Quốc tử giám, người nào thi Hội nhiều lần trúng trường, vào học 15
năm trở lên, tuổi cao, trúng trường nhiều mới được sung làm Thượng
xá sinh, được dẫn tuyển bổ dụng các chức mục dân, thủ lĩnh, bạn độc,
trưởng sử, huấn đạo. Nếu trúng trường nhiều lần, đă đủ 15 năm, mà
chưa được sung là Xá sinh2141 và những người trúng trường một lần,
đă đủ 18 năm trở lên, th́ cũng cho bảo cử, bổ làm các chức cáp môn,
tự ban, bạn độc, trưởng sử, giảng dụ.
2- Kinh xét: Con cháu các
quan viên sung làm nho sinh ở Sùng Văn quán và Tú Lâm cục, thi Hội
trúng trường, người nào cao tuổi, trúng trường nhiều, đủ 15 năm trở
lên, hoặc trúng trường một lần, mà đủ 18 năm trở lên, mới được lựa
chọn bổ nhậm các chức mục dân, thủ lĩnh. Nếu là người tuổi cao, có
tài, không trúng trường mà đủ 25 năm trở lên [49b] th́ cũng cho bảo
kết khảo thí, bổ làm các chức tá nhị ở châu, huyện. Người nào đă qua
dẫn tuyển nhưng chưa đủ niên hạn, phải đợi đủ niên hạn mới được bổ
dụng. C̣n như ḍng dơi thân thuộc của hoàng hậu và con cháu các khai
quốc công thần sung làm Nho sinh ở Sùng Văn quán th́ vẫn theo lệ cũ.
Mùa đông, tháng 10, ngày
mồng 1, có sao Chổi sắc trắng mọc ở phương tây, 10 ngày mới tắt.
Tháng 11, có khí trắng
như h́nh thanh kiếm hiện ở phương đông nam, dài hơn một trượng.
Vua xua đuổi người tông
thất và công thần về xứ Thanh Hoa và giết các nữ sử nội thần người
Chiêm. Bấy giờ bọn ngoại thích là Khương Chủng và Nguyễn Bá Thắng tự
tiện làm oai làm phúc, quyền thế nghiêng lệch trong triều ngoài
trấn, dân chúng không dám cất tay động chân. Nhà pháp thuật bị cấm
làm phù chú, đạo sĩ thờ đạo phải cắt tóc không được để dài. Do vậy,
các phố xá, hàng chợ nhà nào thờ tiên sư đều phải cất giấu đi. [50a]
Sau này, bọn Thừa Giáo, Thừa Nghiệp đi đường, quan viên và dân chúng
trông thấy chúng từ xa một dặm đă phải chạy trốn vào các nhà ở phố
xá hàng chợ, đợi chúng đi qua rồi mới dám ra. Nguyễn Đ́nh Khoa ngầm
sai người đến Thừa Hiến phủ huyện các xứ trong nước, tới cả dân
gian, cưỡng bắt những con gái chưa chồng, làm khốn khổ nhân dân,
khắp nước mất hết hy vọng.
Bấy giờ, thân thích của
Trường Lạc Hoàng thái hậu là Nguyễn Văn Lang2142 cũng ở trong số
người bị đuổi về quê quán. Đại thần tông thất là Nghi quận công Lê
Năng Can, v́ bất đắc chí, có bài thơ gửi cho Nguyễn Văn Lang và bảo
cử binh giết bọn ác đảng. Văn Lang là người thông thao lược, giỏi
binh pháp, khéo xem xét thiên thời, sức khoẻ có thể bắt được hổ. Bấy
giờ Văn Lang đem bọn Chế Mạn làm nô lệ người Chiêm cùng Vũ Bá, Vũ
Tiếp và người ba phủ nổi nghĩa quân ở thành Tây Đô, đem quân giữ ở
cửa biển Thần Phù2143 .
Bấy giờ, vua giết hại
người tông thất. Giản [50b] Tu công Dinh c̣n bị giam ở ngục mới đem
của cải ải đút lót người canh giữ, thoát được ra, chưa kịp báo cho
mẹ, anh em và vợ ḿnh, một ḿnh trốn vào Tây Đô. Đến cửa biển Thần
Phù, được Văn Lang ra đón, lập làm minh chủ, rồi cùng Văn Lang rèn
đúc giáo dài và cùng với bọn đại thần Nguyễn Diễn, Ngô Khế, Nguyễn
Bá Cao, Lê Trạm, và Thanh Hoa tổng binh thiêm sự Nguyễn Bá Tuấn,
Thừa tuyên sứ Lê Tung, Tham chính Nguyễn Th́ Ung khởi binh. Sai
Lương Đắc Bằng viết hịch dụ đại thần và các quan, đại ư nói: "Bạo
chúa Lê Tuấn, phận con thứ hèn kém, làm nhơ bẩn nghiệp lớn, lần lữa
mới gần 5 năm mà tội ác đă đủ muôn khoé. Giết hại người cốt nhục,
d́m hăm các thần liêu. Bọn ngoại thích được tin dùng mà phường đuôi
chó2144 ngang ngược làm bậy, người cứng cỏi bị ruồng bỏ mà kẻ đầu
cá2145 ẩn nấp nẻo xa. Quan tước đă hết rồi vẫn thưởng tràn không
ngớt, dân chúng đă [51a] cùng khốn c̣n vơ vét chẳng thôi. Vét thuế
khoá từng cân lạng, tiêu tiền của như đất bùn, bạo ngược ngang với
Tần Chính2146 . Đăi bề tôi như chó ngựa, coi dân chúng tựa cỏ rác
ngạo mạn quá cả Nguỵ Oanh2147 . Huống chi lại xây cung thất to, làm
vườn hoa rộng. Xua dân đi trồng cây, giẫm theo vết xe đổ chất g̣ Hoa
Cương2148 đời Tống; lấp biển xây cung điện, nối gót thói u mê xây
cung A Pḥng2149 nhà Tần. Công tŕnh thổ mộc xây lên rồi thay đổi,
thay đổi rồi xây lên, dân Hải Dương, Kinh Bắc mệt mỏi, lao đao; tông
thất xa hoa, kiêu căng lại ngang ngược, ngang ngược lại kiêu căng,
cơi tứ tuyên phiên trấn xôn xao, rối loạn. Cư dân nhức óc, cả nước
đau ḷng".
Lại làm bài hịch rằng:
"Đoan Khánh2150 làm vua, họ ngoại chuyên quyền, Tử Mô2151 làm phường
ngu hèn nơi phố chợ làm rối loạn kỷ cương, Thắng Chủng2152 là hạng
trẻ ranh miệng c̣n hơi sữa đă tái oai tác phúc. Đến mức [51b] đánh
thuốc độc giết bà nội, tàn sát các thân vương. Theo ư riêng mà giết
hại sinh dân, không biết đâu cho thoả; dùng ngón ngầm để vét vơ tiền
của, càng mặc sức tham lam. Bốn biển đă khốn cùng, muôn dân đều sầu
oán".
Giản Tu Công Dinh trá
xưng là Cẩm Giang Vương2153 , dựng cờ chiêu an của Cẩm Giang Vương.
Tháng này, ngày mồng 8,
Giản Tu công Dinh từ Tây Đô đem các dinh thuỷ, bộ cùng tiến phát.
Quân thuỷ đến núi Thiên Kiện2154 . Vua dùng hai chiếc thuyền nhẹ Hà
Thanh và Hải Thanh đi đến chùa Bảo trên núi Thiên Kiện, bắt được một
viên tướng thuỷ dinh và giết được 20 sĩ tốt đem về ngoài cửa Đông
Hoa. Vua sai phó tướng Đông Nham bá Lê Vũ làm tán lư, Ngự sử đài đô
ngự sử Dương Trực Nguyên làm kư lục và bọn Hữu thị lang Phạm Thịnh,
Trần Năng [52a] đem cấm quân và quan quân các vệ Thần vũ, Hiệu lực,
Điện tiền đi chống giữ nhưng không được. Ngày 23, anh của Dinh là
Cẩm Giang Vương Sùng, em là Tĩnh Lượng công Doanh, và Quyên cùng Thọ
Mai pḥ mă Nguyễn Kính đều bị hại. Quân của Dinh vẫn dùng cờ chiêu
an của Cẩm Giang Vương để dụ bọn Vũ về hàng, Vũ lấy đầu Cẩm Giang
Vương giơ ra cho chúng xem và nói: "Đây là cái đầu của Cẩm Giang
vương, chúng bay c̣n nói láo làm ǵ?", rồi cưỡi voi chỉ huy binh sĩ
tiến đánh đến xứ Đồng Lạc, bị hăm trận, Vũ không chịu khuất phục mà
chết. Bọn Dương Trực Nguyên, Phạm Thịnh, Trần Năng cũng bị chết ở
Châu Cầu2155 . Quan quân thua trận rút về. Ngày 26, các dinh quân
của Dinh đều tiến đến các xứ Bảo Đà, Nhân Mục, Hồng Mia, Thiêu
Thân2156 . Vua ra cửa Thanh Dương uư lạo các lực sĩ điện Kim Quang
và tướng sĩ các vệ Cẩm y và Kim ngô, đem kiếm ban cho bọn Tŕnh Chí
[52b] Sâm, Lê Quảng Độ, lấy vàng bạc tiền của ban cho tù nhân bị
giam ở ty Ngũ h́nh mỗi người 3 quan, rồi sai đi đánh giặc. Các tù
nhân nhận tiền xong rồi ai về nhà người ấy. Lại vội vă gọi quân. Vua
sai Trung sứ và Hoa văn học sinh mỗi ty 2 người mang sắc phù đến các
đô ty Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Băng cho nhận sắc,
kháp phù, bắt mỗi trấn lấy 5.000 thổ binh để pḥng đánh giặc.
Những người nhận sắc phù
đi, vua cho mỗi người một chiếc giáo ngắn ngự tiền sơn son để tuỳ
thân. Bọn này chưa đến các xứ Bồ Đề, Xuân Canh2157 th́ quân Dinh đă
tiến vào sát thành, mọi người đều chạy trốn. Hoàng hậu Trần Thị Tùng
trốn ra đến xă Hồng Mai, náu ở nhà dân rồi tự thắt cổ chết ở miếu
chùa. Lê Quảng Độ cùng với Giản Tu công Dinh người trong kẻ ngoài
thông tin với nhau, bắn súng làm hiệu, dựng gậy làm cờ, chặt cây làm
binh khí [53a] đánh lộn lẫn nhau cho các quân kinh hăi, rồi ép vua
chạy sang phương Bắc. Giản Tu công tới thành Đông Kinh nghe tin cha
là Kiến Vương2158 cùng anh là Cẩm Giang Vương, em là Tĩnh Lượng
công2159 , em út là Quyên đều đă bị hại, sai quan sửa việc tang và
làm lễ chôn cất.
Ngày 28, vua chạy tới
phường Nhật Chiêu2160 , một vệ sĩ cũ đuổi theo bắt được, nộp cho
Giản Tu công giam ở cửa Lệ Cảnh. Giản Tu công cho là người vệ sĩ ấy
làm điều bất nghĩa, sai giết đi.
Tháng 12, ngày mồng 1,
vua uống thuốc độc tự tử. Giản Tu công v́ việc trước đây vua giết
hại cha mẹ, anh chị em ḿnh rất thảm khốc, mới căm giận chưa nguôi,
sai người dùng súng lớn, để xác vua vào miệng súng, cho nổ tan hết
hài cốt, chỉ lấy ít tro tàn về chôn tại An Lăng ở quê mẹ là làng Phù
Chẩn, giáng xuống làm Mẫn Lệ công (có thuyết nói khi nghĩa quân tiến
sát kinh thành, vua chạy ra thôn Cập Hối, xă Đông Cao, huyện Yên
Lăng, bị người hành chợ xă ấy đón về nộp cho Nguyễn Văn Lang. Văn
Lang đem về quán Bắc Sứ giết đi. [53b]. Bọn ngoại thích cũng đều bị
giết hết).
Xét sách Hồng Thuận Trị
b́nh bảo phạm2161 nói: Đời Đoan Khánh, bọn hoạn quan thọc vào chính
sự, kẻ ngoại thích mặc sức chuyên quyền, pháp lệnh phiền hà, kỷ
cương rối loạn, nông tang tiêu tàn mất
nghiệp, phong tục ngày
một suy đồi, thực rất đáng thương tâm. Huống chi, lại tàn sát người
cốt nhục, hăm hại kẻ bề tôi, những việc làm như vậy th́ muốn không
bị diệt vong có được không?
Xét sách Hồng Thuận Trung
hưng kư của Nguyễn Dục2162 nói: Mẫn Lệ công thất đức, bọn Chủng,
Thắng chuyên quyền. Thừa Nghiệp là thằng nhăi chăn trâu mà kiêm coi
cả phủ Tông nhân; Tử Mô là đứa trẻ bán cá lại trông giữ hết quân Túc
vệ. Tiến dùng bè lũ sai lang, đua mở rộng đường hối lộ. Xây phủ đệ
th́ rừng núi các xứ Thái Nguyên, Tuyên Quang không c̣n cây để lấp
nguồn dục vọng, [54a] đ̣i mắm muối th́ sông biển các vùng Nghệ An,
Yên Bang không c̣n cá mà nhét miệng đói thèm. Gươm Thái A trở
ngược2163 , đồ thần khí lung lay2164 , tai dị sinh luôn, hạ dân ta
oán, bị diệt vong là đáng lắm rồi.
Mẫn Lệ công tin dùng
ngoại thích, bạo ngược vô đạo, giết hại tông thất, tàn sát nhân dân,
tự ḿnh chuốc lấy diệt vong, chẳng đáng lắm sao!
Tháng này, ngày mồng 4,
Giản Tu công lên ngôi hoàng đế, Đại xá, Đổi niên hiệu, lấy năm này
là năm Hồng Thuận thứ 1.
Lấy Đỗ Nhân làm Đông các
học sĩ, thăng Triều liệt đại phu, v́ Nhân từng vâng mệnh đi sứ
phương Bắc, nên trao chức ấy.
Sau khi lên ngôi, vua sai
bọn đầu mục Lê Quảng Độ, Lê Điêu, Nguyễn Văn Lang, Lê Tung [54b]
Hưng Hiếu, Tŕnh Chí Sâm, Trịnh Tuy, Lương Đắc Bằng, Đỗ Lư Khiêm,
Đinh Ngạc, Đặng Minh Khiêm, Đỗ Nhân, Lê Nại, Đàm Thận Giản dâng biểu
trần t́nh với nhà Minh. Lời biểu nói: Đoan Khánh Lê Tuấn tập phong
tước vương đă được 4 năm, tin dùng phe cánh họ mẹ là bọn Khương
Chủng, Nguyễn Bá Tuấn, ngang tàn bạo ngược, đảo lộn triều cương, tàn
sát họ hàng, giết ngầm tổ mẫu, người trong nước điêu linh, dân không
chịu đựng nổi. Bọn Chủng, Thắng quyền át trong ngoài, ác đảng ngày
càng lan rộng, mưu cướp quyền nước.
Ngày 17, truy tôn mẹ là
Trịnh thị làm Huy Từ Trang Huệ Kiến Hoàng thái hậu. Sai Điện tiền đô
kiểm điểm Thuỵ Dương hầu Trịnh Hựu làm Sơn lăng sứ, Hộ bộ thượng thư
Trịnh Duy Đạt làm phó, Diên quận công pḥ mă đô uư Lê Mậu Chiều làm
tổng hộ [55a] sứ, Tổng binh thiêm sự Thanh Hoa Nguyễn Bá Thuyên (tức
Nguyễn Bá Tuấn) và Đàm Thận Huy làm phó.
Ngày 19 tháng ấy dời [thi
hài mẹ] về táng ở hương Mỹ Xá, huyện Ngự Thiên2165 . Ngày Ất Sửu 29,
dựng bia Huy Từ Trang Huệ Kiến Hoàng thái hậu. Sai Lễ bộ tả thị lang
Hàn lâm viện thị độc chưởng Hàn lâm viện sự Lương Đắc Bằng soạn bi
kư. Truy tôn thuỵ hiệu, tôn hiệu từ Hiển Tổ, Tuyên Tổ, Thái Tổ Hoàng
Đế và Hoàng thái hậu trở xuống. Truy tôn cha là Kiến Vương làm Phối
Thiên Dụ Thánh Ôn Lương Quang Minh Văn Triết Khoan Hoằng Chương Tín
Tuy Hưu Mục Hiếu Kiến Hoàng Đế, mẹ là Kiến Hoàng thái hậu Trịnh thị
làm Huy Từ Trang Huệ Gia Lượng Nhu Thánh Hoà Mục Tôn Khiêm Minh
Chính Ư Thuần Phúc Khánh Hoàng Thái Hậu. Truy tặng anh cùng mẹ là
Cẩm Giang Vương Sùng làm Trang Định Đại Vương, em thứ là Tĩnh Lượng
công [55b] Doanh làm Mục Ư Vương, em út là Quyên làm Dực Cung Vương.
Lấy Ngô Hoán làm Tán trị
thừa tuyên sứ ty thừa tuyên sứ Thanh Hoa, ít lâu sau, trao chức Lễ
bộ thượng thư.
2030 Chữ ____ có hai cách
đọc: sanh ( Quảng vận : Sĩ canh thiết) và tranh ( Tập vận : Trừ canh
thiết).
2031 Chữ ____ co hai cách
đọc: Huyên và Huyến.
2032 Tức bà Ngô Thị Ngọc
Dao, bà hậu của Lê Thái Tông, mẹ của Lê Thánh Tông.
2033Am Từ Công : tức chùa
Thầy, thờ Từ Đạo Hạnh, nhà sư đời Lư. Núi Phật Tích : tức núi Sài
Sơn, nay thuộc huyện Quốc Oai, Hà Sơn B́nh.
2034 Bài kư khắc trên bia
đá ở chùa Thiên Phúc, nay là chùa Thầỵ
2035 Ba ty Hộ vệ: Theo
Kiến văn tiểu lục của Lê Quư Đôn th́ năm đầu tiên hiệu Quang Thuận
(1460) đặt các vệ quân Thần vũ, Hiệu lực và Điện tiền gọi là ty Hộ
vệ.
2036 Xem Kinh Thư , thiên
Duyệt mệnh trung , Nguyên văn: "Hữu bị vô hoạn".
2037 Xem Dịch Kinh đại
toàn , quyển XIX, Hệ từ hạ . Nguyên văn: "Trùng môn kích thác dĩ đăi
bạo khách".
2038 Hai viên là: một
viên quản lĩnh, một viên vơ uư.
2039 Bản dịch cũ và Cương
mục đều ghi là Đông các học sĩ Lưu Hưng Hiếu.
2040 Nguyên văn: "Đế sắc
sở ty tất khử thiết bộ binh phủ dự hứa xuất thú phục nghiệp". Bản
dịch cũ là: "Vua sắc cho quan có trách nhiệm đặt quân đi bắt tại các
nơi và phủ dụ cho ra thú tội làm ăn".
2041 Tức làm lễ mừng ngày
sinh Thiên thọ thánh tiết của vua.
2042 Ư của lờI Tượng quẻ
Lữ trong Kinh Dịch.
2043 Ư một đoạn trong
thiên Khang cáo của Kinh Thư.
2044Vũ Hữu : người làng
Mộ Trạch, huyện Đường An, Hải Dương, đỗ tiến sĩ khoa Quư Mùi (1463)
năm Quang Thuận đời Lê Thánh Tông.
2045 Thái quan thư: cơ
quan phụ trách việc ăn uống của nhà vua.
2046Tiền sai dư : là tiền
sưu hay thuế thân sau này.
2047 Nguyên văn "hạ giá",
tức là được lấy công chúa là "bậc trên".
2048Hoàng trừ : chỉ ngôi
thái tử.
2049Tuân : Tức An Vương
Tuân, con trưởng của Hiến Tông, là người thông minh học rộng, sức
lực hơn người, nhưng tính ngang bướng, thích mặc áo phụ nữ, hồi nhỏ,
v́ không được như ư, đem thuốc độc đầu độc mẹ. Sau này, An Vương bỏ
nết cũ, thờ mẹ rất hiếu, giữ ḿnh kín đáo (Theo Đại Việt thông sử
của Lê Quư Đôn).
2050Tế đàm : lễ tế bỏ
tang phục. Theo tục cũ, cha mẹ chết sau 27 tháng th́ tế đàm rồi cởi
bỏ tang phục.
2051Nghi tào : tức là bộ
Lễ.
2052 Tuần xước: những
người đi tuần tra, canh gác.
2053Kinh Dịch, Tiệm quái
: nguyên văn: "Quân tử dĩ cư, hiền đức thiện tục".
2054Kinh Thư, Quân nha
thiên : nguyên văn: "Hoằng phu ngũ giáo, thức hoà dân tắc".
2055Kinh Thi, Xi Cưu :
nguyên văn: "Kỳ nghi bất thắc, chính thị tự quốc".
2056Lễ kư, Vương chế
thiên : nguyên văn: "Tề bát chính dĩ pḥng dâm, nhất đạo đức dĩ đồng
tục". Bát chính : là tám điều về chính sự: thức ăn, thức mặc, việc
làm, vật dụng, đo, đong, đếm, quy chế.
2057 Theo Hồng Đức Thiên
Nam dư hạ tập , có tất cả 24 điều giáo huấn: Điều 1: Quy định trách
nhiệm của cha mẹ dạy con cái. Điều 2: Trách nhiệm của gia trưởng đối
với gia đ́nh. Điều 3: Quan hệ vợ chồng phải có ân có nghĩa không
được thay đổi. Điều 4: Quan hệ anh em trong gia đ́nh. Điều 5: Quan
hệ họ hàng làng xóm phải quan tâm thương xót lẫn nhau. Điều 6: Điều
7, Điều 8, Điều 9, Điều 10 quy định đạo lư và bổn phận của người phụ
nữ. Điều 11: Nhiệm vụ của người điển lại. Điều 12: Bổn phận của
người điển lại. Điều 13: Bổn phận của quân, dân. Điều 14: Trách
nhiệm kẻ buôn bán. Điều 15: Quy định việc cưới gả, tế tự. Điều 16:
Tục chèo hát, hội hè. Điều 17: Quy định việc hàng quán, nhà cửa dọc
đường cho ngủ trọ. Điều 18: Răn cấm trai gái không được tắm cùng một
bến. Điều 19: Cử người có uy vọng giảng giải lời cáo dụ cho dân.
Điều 20: Quy định việc tố giác, trừng trị bọn hào cường xâm chiếm
ruộng đất, ức hiếp nhân dân, xui nguyên giục bị. Điều 21: Cấm các
vương hầu và nhà đại thần cho nô tỳ đưa đồ đút lót, mua bán ức hiếp.
Điều 22: Khuyên các quan giữ chức trách chăn dân. Điều 23: Khuyên xă
trưởng, thôn trưởng, phường trưởng siêng năng dạy bảo dân. Điều 24:
Khuyên dân Man Lạo kính giữ luân thường.
2058 Tức lệ đă định từ
năm Quang Thuận thứ 1 (1460).
2059 Nguyễn Đức Trung
theo lệnh của Quang Thục hoàng thái hậu cầu tự cho Trường Lạc hoàng
thái hậu ở am Từ Công, chùa Thiên Phúc, sinh ra Hiến Tông.
2060Ngũ vương tướng :
nghĩa đen là cái màn của năm thân vương. Theo tích Đường Huyền Tông
yêu quư anh em, khi mới lên ngôi, cho làm cái màn rộng, gối dài,
chăn to để vua và năm anh em thân vương cùng nằm.
2061 Nay thuộc đất huyện
Quỳnh Phụ, tỉnh Thái B́nh.
2062 Nguyên văn: "Thập
nguyệt, thập ngũ nhật, các quan chức phẩm kỳ mỗi nguyệt sơ nhật
nhất..." Ở đây có lẽ bản in lầm lẫn. Có thể câu "Thập nguyệt, thập
ngũ nhật" ở trên, bị đưa lẫn xuống: tháng 10 ngày 15, nhắc lại quy
chế y phục thường triều. Xuống chiếu cho các công, hầu, bá, pḥ mă,
quan to phẩm cao cùng các quan hộ vệ và các loại quan chức phẩm trật
khác, cứ vào ngày mồng một hàng tháng...
2063Mũ dương đường : Theo
Lễ nghi chí trong Lịch triều hiến chương loại chí th́ mũ dương đường
cũng giống như mũ phác đầu, chỏm đằng sau cao hơn.
2064Cai ty : ty phụ
trách.
2065Thuyên tào : Cơ quan
tuyển bổ quan lại, tức Lại bộ.
2066Trạm Thọ Xương : sau
là Phủ Lạng Thương.
2067Trạm Thị Cầu : sau là
Đáp Cầu, thuộc huyện Tiên Sơn, Hà Bắc.
2068Trạm Lữ Khôi : tại
huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội ngày nay.
2069Bến Thịnh Liệt : bến
đ̣ làng Sét, Thanh Tŕ, Hà Nội.
2070 Tức Lê Thánh Tông.
2071Nguyễn Duy Trinh :
người xă Thượng Cát, huyện Từ Liêm (nay thuộc ngoại thành Hà Nội),
đỗ tiến sĩ khoa Tân Sửu (1481) đời Hồng Đức.
2072Lê Lan Hinh : người
xă Cổ Đô, huyện Tân Phong (nay thuộc huyện Ba V́, Hà Tây), đỗ đồng
tiến sĩ khoa Giáp Th́n (1484) đời Hồng Đức, vốn trước họ Nguyễn.
2073Nguyễn Nho Tông :
người xă Vực Đường, huyện Thiên Thi, đỗ đồng tiến sĩ khoa Đinh Mùi
(1487) đời Hồng Đức.
2074Đỗ Nhân : người xă
Lại Ốc, huyện Văn Giang (nay thuộc huyện Châu Giang, Hải Hưng), đỗ
tiến sĩ khoa Quư Sửu (1493) đời Hồng Đức, sau đổi tên là Nhạc.
2075Bùi Đoan Giáo : người
xă Đại Điền, huyện B́nh Hà (nay thuộc huyện Nam Thanh, tỉnh Hải
Hưng), đỗ tiến sĩ khoa Đinh Mùi (1487) đời Hồng Đức.
2076 Bốn thừa tuyên là
bốn xứ Sơn Nam, Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương.
2077Dẫn tuyển : dẫn vào
cho vua lựa chọn.
2078 Đêm trung thu ngắm
trăng tại đ́nh Quan Giá. Đ́nh Quan Giá là nơi vua ra xem việc trồng
cấy của dân.
2079Hoàng đinh : Theo Hội
điển triều Lê, dân đinh 17 tuổi gọi là hoàng nam (dẫn theo Cương mục
).
2080 Nguyên văn là "quan
mạo" nghĩa là "mũ". Nhưng xét ở dưới, có quy định về cả y phục, nên
sửa như trên.
2081 Quy chế này được ghi
rất rơ trong Hội điển triều Lê. CMCB25, 6 có chép khá rơ nội dung
quy chế này.
2082 Sau câu này c̣n có
ba chữ "tam hạng đẳng", chưa rơ là nghĩa ǵ.
2083 Huyện Thuỷ Đường:
Nay là huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Pḥng.
2084 Tức là 1,6m trở lên.
2085Lân kinh : chỉ Kinh
Xuân thu . Kinh Xuân thu chấm dứt ở việc bắt được kỳ lân, nên gọi là
Lân kinh .
2086Mă sử : chỉ bộ Sử kư
của Tư Mă Thiên.
2087Tiến rau cần : xưa có
người dân nghèo ăn rau cần thấy ngon, định đem dâng vua. Dâng nắng
sưởi : có người đời Tống, mùa xuân sưởi nắng thấy ấm, bảo vợ rằng:
Sưởi nắng ấm mà không ai biết, ta sẽ tâu cho vua biết mà sưởi. Tiến
rau cần, dâng nắng sưởi là ư chỉ dâng vật tầm thường nhưng xuất phát
từ ḷng trung thành, chất phác.
2088Kiến Vương Tân : là
con thứ năm của Lê Thánh Tông, được phong Kiến Vương năm Hồng Đức
thứ 2 (1471), khi mất mới 35 tuổi.
2089 Theo quan niệm của
các nhà thuật sĩ đời xưa, sau 180 năm là hết một độ số của trời, gồm
3 giáp tư (mỗi giáp tư 60 năm). Giáp Tư thứ nhất là thượng nguyên,
giáp tư thứ hai là trung nguyên, giáp tư thứ ba là hạ nguyên.
2090 Vi Cao đời Đường,
làm trấn thủ đất Thục, một hôm họp bạn uống rượu, chợt thấy cầu vồng
mọc ở ngoài sân, tḥ đầu ta uống hết cả rượụ
2091Chu Nhă ở đây chỉ bài
thơ Thiên bảo trong Kinh Thi Tiểu Nhă : "Như nhật chi thăng, như
nguyệt chi hằng, như Nam Sơn chi thọ, như tùng bách chi mâu" nghĩa
là chúc vua như mặt trời mới lên, như mặt trăng đêm mồng tám, sống
lâu như núi Nam Sơn, xanh tốt như cây tùng cây bách.
2092 Xă Trát Kiều và xă
Cống Xuyên ở huyện Thượng Phúc, nay thuộc huyện Thường tín, tỉnh Hà
Tây.
2093Cừ Yên Phúc : ở xă
Yên Phúc; cừ Thượng Phúc : ở xă Thượng Phúc, hai xă này thuộc huyện
Thượng Phúc, nay là huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
2094 Theo bản dịch cũ.
2095 Tức là vua Túc Tông,
nối ngôi Hiến Tông.
2096 Bản dịch cũ ghi là
ngày mồng 3.
2097 Tức bà Nguyễn Thị
Hoàn, người làng B́nh Lăng, huyện Thiên Thi (nay là huyện Kim Thi,
tỉnh Hải Hưng).
2098Đặng Tán : người xă
Mạo Bồ, huyện Sơn Vi (sau là Lâm Thao; nay thuộc huyện Phong Châu,
Vĩnh Phú) đỗ tiến sĩ khoa Đinh Mùi (1487). Khuất Quỳnh Cửu : người
xă Lôi Trạch, huyện Thạch Thất (nay thuộc Hà Nội). Trần Viết Lương (
Cương mục ghi là Trần Bá Lương): người xă Lê Xá, huyện Nghi Dương
(sau là huyện Kiến Thuỵ, nay thuộc đất huyện Kiến An, thành phố Hải
Pḥng). Quỳnh Cửu và Viết Lương đều đỗ tiến sĩ khoa Kỷ Mùi (1499).
Nguyễn Bảo Khuê : người xă Lư Hải, huyện Yên Lăng (nay là huyện Mê
Linh, Hà Nội), đỗ tiến sĩ khoa Đinh Mùi (1487). Vũ Châu : người xă
Dị Sử, huyện Đương Hào (nay thuộc huyện Mỹ Văn, Hải Hưng) đỗ tiến sĩ
khoa Kỷ Mùi (1499) (theo CMCB25).
2099Thành là Thành vương
nhà Chu, Khang là Khang Vương nhà Chu, Văn là Văn Đế nhà Hán, Cảnh
là Cảnh Đế nhà Hán.
2100 Cũng đọc là Oanh.
2101Quản Ninh : dịch theo
nguyên văn. Theo chú thích của bản dịch cũ th́ chữ này là Vĩnh Ninh
bị chép lầm, v́ Trường Lạc hoàng thái hậu khi c̣n làm sung nghi th́
ở cung Vĩnh Ninh, khi Hiến Tông lên ngôi, tôn làm hoàng thái hậu mới
ở cung Trường Lạc.
2102Nguyễn Kính phi :
người xă Hoa Lăng, huyện Thuỷ Đường, nay là huyện Thuỷ Nguyên, Hải
Pḥng (theo Cương mục )
2103Hương Phù Chẩn, huyện
Đông Ngàn là quê hương của Chiêu Nhân hoàng thái hậu Nguyễn Thị Cận,
mẹ đẻ của Uy Mục Đế.
2104Tuyên Dự đường để thờ
tiên tổ Nguyễn Kính phi, có công nuôi Uy Mục Đế, sau lại cùng với
Nhữ Vi đưa vua lên ngôi. Hương Hoa Lăng là quê hương của Nguyễn Kính
phi.
2105Huyện Quảng Đức sau
là huyện Vĩnh Thuận, thuộc phủ Phụng Thiên, nay thuộc Hà Nội.
2106Huyện Chân Phúc : nay
là huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ Tĩnh. Sông lớn ở đây tức là sông Lam.
2107Khởi phục : tức là
"dùng lại", khi viên quan nào trước bị băi chức, hoặc nghỉ việc về
nhà, sau lại gọi ra bổ dụng th́ gọi là khởi phục.
2108 Ngô Hoán đỗ tiến sĩ
đời Hồng Đức, thời Hiến Tông làm Đông các hiệu thư, v́ can tội đem
việc trong triều nói cho người ngoài biết, bị băi chức sung quân.
Năm Cảnh Thống thứ 4 (1501) Hoán lại thi đỗ sinh đồ.
2109Làng Nhân Mục : tức
làng Mục, nay thuộc ngoại thành H à Nội. Nguyên văn là "Nhân Mục
môn".
2110Cương mục : Ghi sự
kiện này như sau: Tháng giêng, mùa xuân, lập Trần thị làm hoàng hậu
(xem CMCB 25, 22).
2111Nguyễn Tịnh : người
xă Vân Xá, huyện Lạng Tài, nay là huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc, đỗ
đồng tiến sĩ khoa Quư Sửu (1493) đời Hồng Đức.
2112Cương mục : chép là
Nguyễn Trọng Đạt (xem CMCB 25, 23).
2113 Bản dịch cũ và Cương
mục đều không có chữ "hữu" này.
2114 Bản dịch cũ và Cương
mục đều không có chữ "tả" này.
2115Ty Cường lực : sau
khi định lại các quân hiệu, băi bỏ chức phó quân th́ đặt thêm ty
này.
2116Khương Chủng : là
người cùng phe cánh với họ hàng của Nguyễn thái hậu, người xă Phù
Chẩn, huyện Đông Ngàn (nay thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc).
2117Phủ Phú B́nh : phủ
thời Lê, gồm đất huyện Phú B́nh, Phổ Yên, Đông Hồ, Đại Từ, Phú
Lương, Vơ Nhai tỉnh Bắc Thái và một phần đất huyện Sóc Sơn, Hà Nội
ngày nay.
2118 Chỉ cuộc khởi nghĩa
của Giản Tu công Oanh (tức là Tương Dực Đế sau này) vào năm 1509.
2119Phủ Nghĩa Hưng : phủ
thời Lê, gồm đất các huyện Vụ Bản. Nghĩa Hương, Ư Yên tỉnh Nam Hà
hiện nay.
2120Chu Tống Văn : người
xă Đa Sĩ, huyện Đường Hào (nay thuộc huyện Mỹ Văn, Hải Dương), đỗ
tiến sĩ khoa Kỷ Mùi (1499) đời Cảnh Thống.
2121Đinh Thuận : người xă
An Dương, huyện Tây Lang (nay thuộc đất huyện Đoan Hùng, Vĩnh Phú),
đỗ đồng tiến sĩ năm 1499.
2122Doăn Mậu Khôi : người
xă An Duyên, huyện Thượng Phúc, nay thuộc huyện Thường Tín, Hà Tây.
2123Lê Đĩnh Chi : người
xă Lạc Sơn, huyện Lập Thạch, nay thuộc tỉnh Vĩnh Phú.
2124Lê Hiếu Trung : CMCB
25, chép là Lê Trung Hiền, người xă Chi Nê, huyện Chương Đức (nay
thuộc Hà Tây), đỗ đồng tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1502) đời Cảnh Thống,
làm quan đến Quốc tử giám tư nghiệp. Khoảng giữa năm Quang Thiệu,
Trịnh Tuy bắt cóc Lê Chiêu Tông vào Thanh Hoa, Trung Hiếu không chịu
khuất mà chết.
2125Ngô Tuy : người xă
Tông Tranh, huyện Đường Yên (nay thuộc huyện Cẩm B́nh, tỉnh Hải
Hưng), đỗ đồng tiến sĩ khoa Kỷ Mùi (1499) đời Cảnh Thống.
2126Hoàng Nhạc : người xă
Hoàng Xá, huyện Đông Thành (nay là Yên Thành, Nghệ An), đỗ tiến sĩ
khoa Nhâm Tuất (1502) đời Cảnh Thống.
2127Thiên vũ vệ : Xem
Canh Ngọ , năm Hồng Thuận thứ 2 (1510), "đặt hai vệ Thiên vũ và
Thánh oai, ban thứ ở trên vệ Cẩm y và Kim ngô".
2128 CMCB 25, 26 chép là
xă Đông Cao.
2129Cương mục chép là
Dao.
2130Cương mục chép là
Tuư.
2131Huyện Thanh Hà : sau
thuộc phủ Nam Sách nay thuộc đất huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Hưng.
2132Huyện Nghi Dương :
sau là huyện Kiến Thuỵ, nay thuộc đất huyện Kiến An, thành phố Hải
Pḥng.
2133Nước Hắc La La : là
vương quốc của người Lô Lô ở vùng Vân Nam, Trung Quốc bấy giờ.
2134Cương mục chép là Chu
quan. Cửa ải Chu Thôn Điền ở châu Thuỷ Vĩ, xứ Hưng Hoá.
2135Thuỷ Vĩ : tên châu
thời Lê, gồm toàn bộ đất tỉnh Lào Cai bây giờ.
2136 Nên sửa lại là xứ
Hưng Hoá . Xứ Hưng Hoá là vùng đất rộng lớn, bao gồm phần đất tỉnh
Lao Cai cũ. Ở đó mới có châu Thuỷ Vĩ và Chu Quan.
2137 CMCB 15, 28: Phi vũ
ty gồm có 100 lực sĩ, phụng mệnh túc trực cung Đoan Khang.
2138 CMCB 15, 29 ghi việc
này như sau: Hàng ngày, sai hai viên giám quân đấu sức với nhau, hai
bên cầm gậy đánh nhau từ cửa Thanh Dương đến ngoài cửa Thái Miếu.
2139Làng Hoa Lăng : Huyện
Thuỷ Đường là quê hương bà Kính phi, mẹ nuôi của Uy Mục. Bản in viết
thành cha nuôi là lầm.
2140 Chỉ việc sau này Chế
Mạn theo Nguyễn Văn Long dấy nghĩa binh ở Tây Đô.
2141 Bản dịch cũ theo
CMCB 25, 31 sửa lại thành Thượng xá sinh.
2142Nguyễn Văn Lang : là
con Nguyễn Đắc Trung, là em của Trường Lạc Hoàng thái hậu.
2143Thần Phù : là cửa
biển thời xưa, nay đă bị bồi lấp. Dấu vết cũ nay c̣n lại ở huyện Yên
Mô, tỉnh Ninh B́nh (nay thuộc huyện Tam Điệp), ngày xưa sông Chính
Đại đổ ra biển ở chổ đó.
2144Đuôi chó : Tấn sử
chép Triệu Vương Lân phong bừa quan tước cho nô lệ, đầy tớ, khi
triều hội đầy những người đội mũ đuôi điêu. Người thời ấy có câu chế
giễu: Đuôi điêu chẳng đủ, lấy đuôi chó nối thêm vào, ư nói kẻ hèn hạ
cũng được thăng quan tước.
2145Đầu cá : Tống sử chép
Lỗ Tông Đạo làm Tham tri chính sự, bọn ngoại thích sợ, gọi Lỗ là
"tham chính đầu cá" (Chữ Lỗ ____ trên đầu có chữ ngư ____ là cá).
2146Tần Chính : tức Tần
Thuỷ Hoàng.
2147Nguỵ Oanh : tức là
Lương Huệ Vương đời Chiến Quốc.
2148Hoa Cương : tức là đá
hoa cương. Tống Huy Tông thích hoa đẹp, đá lạ, bắt dân chở đá đẹp ở
các nơi về Biện Kinh, thuyền ghe nối liền nhau trên sông Hoài, sông
Biện.
2149 Tần Thuỷ Hoàng dựng
cung A Pḥng rất tráng lệ. Sau Hạng Vơ vào kinh đô nhà Tần, đốt cung
này, lửa cháy ba tháng chưa hết.
2150 Niên hiệu của Uy Mục
Đế.
2151 Chỉ Nguyễn Thừa
Nghiệp làm Tông nhân lệnh phủ Tông nhân và con là Nguyễn Mô chỉ huy
quân túc vệ.
2152Thắng : là Nguyễn Bá
Thắng. Chủng : là Khương Chủng, đều là bọn ngoại thích chuyên quyền.
2153Cẩm Giang Vương : là
phong hiệu của Lê Sùng, anh ruột Giản Tu công Lê Dinh.
2154Núi Thiên Kiện : hay
núi Địa Cận, ở xă Thiên Kiện, huyện Thanh Liêm, nay thuộc tỉnh Nam
Hà.
2155Châu Cầu : tên xă,
nay là thị xă Phủ Lư, tỉnh Nam Hà.
2156Bảo Đà : tên xă,
thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Nhân Mục : là làng Mọc thuộc Hà
Nội, Hồng Mai : tên xă, nay là Bạch Mai, Hà nội, Thiêu Thân : chưa
rơ ở đâu.
2157Bồ Đề : tên xă, nay
thuộc huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Xuân Canh : tên xă, nay
thuộc huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội.
2158Kiến Vương Tân : cha
của Giản Tu công Dinh đă chết từ năm Cảnh Thống thứ 5, CMCB 25, 30
chép là mẹ (Trịnh thị, người xă Thuỷ Chú, huyện Lôi Dương, con gái
Đô đốc thiêm sự Trịnh Trọng Phong, sau được truy tôn là Từ Huy Hoàng
thái hậu) là đúng.
2159Tĩnh Lượng công : là
phong hiệu của Lê Doanh, em Giản Tu công Dinh.
2160Phường Nhật Chiêu :
nay là làng Nhật Tân, ngoại thành Hà Nội.
2161 Theo Nghệ văn chí
của Lê Quư Đôn, sách Trị b́nh bảo phạm do Tương Dực Đế soạn.
2162 Cũng theo Nghệ văn
chí , Tương Dực Đế có soạn sách Trung hưng thực lực . Trung hưng kư
phải chăng là Trung hưng thực lực do Tương Dực Đế sai Nguyễn Dục
soạn.
2163Thái A : là tên một
thanh gươm quư. Trở ngược gươm Thái A nghĩa là trao cán gươm quư cho
người khác, chỉ việc Uy Mục Đế để bọn ngoại thích nắm giữ mọi quyền.
2164Đồ thần khí : chỉ
ngai vàng nhà vua.
2165 Huyện Ngự Thiên :
sau là huyện Hưng Nhân, nay thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái B́nh.
Đọc
tiếp trang 3 |