Việt Sử Tiêu Án
Ngô Thời Sỹ
HUỆ TÔN
HOÀNG ĐẾ
Tên là
Kiểu, con trưởng vua Cao Tôn, ở ngôi vua 14 năm, bị Trần Thủ độ giết.
Vua là người tài hèn, gặp hy loạn, v́ người vợ đẹp mà gây nên biến
loạn, không biết t́m người kế tự, họ Lư mới bị mất nước.
Niên hiệu
Kiến Gia thứ nhất, vua sai đưa thuyền rồng đi rước Trần Thị về, anh
Thị là Trần Tự khánh lấy cớ bấy giờ đương loạn, chưa cho rước về.
Vua lại sai Phạm Bố đi đón rước vào cung lập làm Nguyên phi, cho
Trung Từ làm Thái úy phụ chính, phong cho Tự Khánh làm Chương Thành
hầu. Bấy giờ đâu đâu cũng có giặc cướp nổi lên, không ngăn cấm nổi,
Vua ủy nhiệm cả việc nước cho Đàm Dĩ Mông, mà Dĩ Mông là người nhu
nhược, không biết quyết đoán. Chính sự ngày một rối nát, vua sai
Đoàn Thượng mộ dân Hồng Châu(5) đi tiễu giặc, Thượng thấy vua c̣n
tính trẻ con, nhân cơ hội chuyên quyền tác oai tác phúc, bị uần thần
hạch, phải giam vào ngục tra xét. Thượng rút gươm một thân chạy đi
Hồng Châu, xây đồn luỹ mà ở, tiếm hiệu là Vương, triều đ́nh không
chế ngự được.
Trần Tự
Khánh đem quân phạm vào kinh đô, xin rước Vua đi, Vua sinh nghi,
xuống chiếu gọi quân các đạo bắt Tự Khánh, giáng Nguyên phi xuống
làm Ngự nữ. Tự khánh đến quân môn tạ tội, lại xin rước Vua đi,
Vua lại
càng nghĩ, mới cùng Thái hậu đi Lạng Châu; Tự Khánh nghe tin Vua đi
rồi, Ngự nữ lâu nay bị Thái hậu làm khổ, lại đưa quân xin rước Vua
như trước, Vua sách phong Ngự nữ làm Phu nhân. Bà Thái hậu cho Tự
Khánh là phản trắc, thường chỉ Phu nhân là đảng của giặc, bắt ép
phải tự xin rút lui, lại sai người đầu độc nữa, Vua đều ngăn đi cả,
đương đêm Phu nhân chạy đến trại quân của Tự Khánh, vừa gặp lúc ấy
Tự Khánh đưa thuyền đến đón. Vua đóng ở châu Cửu Liên, gọi Tự Khánh
vào chầu, cho làm Thái úy Phụ chính. Tự Khánh điều bổ quân ngũ, sắm
sửa chiến khí, tập vơ nghệ, thanh thế quân mới hơi được chấn khởi.
Người Mán
Quảng Oai khởi loạn, Vua sai Nguyễn Nộn đi đánh. Nộn là cư sĩ ở chùa
Phù Đổng, bắt được vàng và ngọc bích không tiến Vua, có chiếu bắt,
Tự Khánh lấy cớ Nộn đương mạnh muốn dùng lực lượng của y, tâu xin
tha cho Nộn, cho ṭng quân đánh giặc để chuộc tội, nhưng bấy giờ
đương lúc nhiễu hoạn nạn, Nộn chiếm cứ Phù Đổng tự xưng là Hoài Đạo
Vương, triều đ́nh không trị nổi. Trần Tự Khánh mất, Vua cho Trần
Thừa làm Thừa Phụ quốc Thái úy, khi có sớ tấu không phải xưng tên.
Sử thần
bàn rằng: Vua Huệ Tôn t́m sắc đẹp ở trong làng chài lưới, cha chết
chưa chôn mà ở trước cữu sai người đi đón con gái, trong cung được
lúc lo buồn, bỏ mẹ mà cùng chạy trốn với gái, ân ái như thế, cớ ǵ
Tự Khánh lại đem quân đến kinh đô, cớ ǵ nó lại rước vua, là v́ nó
muốn đem Huệ Tôn làm của hiếm có, giữ lấy ở tay nó, để sai khiến
thiên hạ, cho nên nó thác ra là nhớ em gái, làm cho Huệ Tôn tin chắc
mà giao phó thân cho nó, nếu Tự Khánh không chết, th́ nó sẽ chẹt cổ
Huệ Tôn mà cướp lấy ngôi báu, c̣n đợi đâu đến truyền ngôi vua cho
con gái nữa? Đại để là trời muốn cho nhà Trần lên, cho nên đem Ngự
nữ làm mê hoặc tâm chí Huệ Tôn; lại muốn đem ngôi vua cho con trai
Trần Thừa, cho nên lại bắt Tự Khánh chết đi, để cho Trần Cảnh nhận
ngôi vua ở Phật Kim. Đấy là tâm tích Tự Khánh và định án nhà Lư, nhà
Trần hưng vong như thế đó.
Vua dần
dần phát bệnh cuồng, tự xưng là Thiên tướng giáng trần, tay cầm cái
mộc và giắt là cờ ơ trên búi tóc mà múa, mỏi mệt ra mồ hôi nhiều,
nóng ráo khát nước, lại uống cả chính sự cho họ Trần, đại quyền dần
sang tay người.
Vua xuống
chiếu sách phong cho con gái thứ là Chiêu Thánh công chúa làm Thái
tử, Vua truyền ngôi cho Thái tử rồi đi tu ở chùa Chân Giáo.
BÀ CHIÊU
THÁNH HOÀNG
Bà tên là
Phật Kim, lại đổi tên là Thiên Hinh, làm vua hai năm, bà là chất âm
mà ở dương vị, trái hẳn lẽ thường, là thân gái bé nào có biết ǵ.
Xưa kia dăi rồng làm mất ngôi nhà Hạ, mỏ én làm đổ cơ nghiệp họ Lưu,
cũng không đến nỗi ác độc ác như thế!
Niên hiệu
Thiên Chương Hữu Đạo thứ hai Chiêu Hoàng xuống chiếu truyền ngôi vua
cho Trần Cảnh là quan Thị nội Chính thủ.
Bà Chiêu
Hoàng mới lên ngôi, bà Trần Thái hậu cùng anh họ là Trần Thủ Độ giữ
cả quyền chính ở trong ngoài, tuyển con em các quan xung vào làm sắc
dịch ở nội cung. Trần Cảnh mới 8 tuổi, Chiêu Hoàng yêu lắm, mỗi khi
chơi đêm thường ở trong bóng tối đùa bỡn, khi th́ kéo tóc, khi th́
đứng nấp vào bóng nhau. Cảnh bưng chậu nước rửa mặt, bà lấy tay vốc
nước vảy vào mặt Cảnh, khi Cảnh bưng khăn dầu th́ bà ném khăn cho.
Trần Cảnh lạy mà nói: "Xin xá tội cho, thần xin vâng mệnh". Chiêu
Hoàng cười nói:
"Mày đă
có trí hiểu biết". Từ khi ấy trở đi cùng nằm với nhau như vợ chồng.
Thủ Độ sợ việc tiết lộ ra ngoài, sai đóng hết cửa cung, triệu bách
quan vào dụ rằng: "Nhà vua đă có chồng rồi". Quần thần xin chọn ngày
chầu mừng, liền xuống chiếu rằng: "Nhà Lư ta nhận mệnh của trời đă
hơn 200 năm, không may hiện không có người thừa kế, Trẫm là đàn bà,
tài đức hèn kém, sợ không kham được cơ nghiệp lớn, mỗi khi nghĩ đến
việc t́m người hiền lương quân tử, tính đi tính lại một ḿnh, duy
chỉ t́m được Trần Cảnh, có văn lại có chất, thật có thể cách hiền
lương, uy nghi đường bệ, tài kiêm văn lẫn vơ, xét kỹ thấy có hiệu
nghiệm rồi, có thể nhường ngôi lớn cho được, để được vừa ḷng Trẫm.
Vậy các ngươi phải đồng tâm giúp đỡ, để dân được hưởng hạnh phúc
thái b́nh". Chiêu Hoàng liền xuống bệ khuyên mời Trần Cảnh lên ngôi
Hoàng đế, cải niên hiệu là Kiến Trung, Trần Thủ Độ làm chức Quốc
Thượng phụ Chưởng lư thiên hạ sự.
Khi bấy
giờ Đoàn Thượng chiếm cứ miền đông. Nguyễn Nộn chiếm cứ miền bắc,
một ḿnh Thủ Độ phải chống đỡ kẻ phản nghịch ở bên ngoài, lại tự
nghĩ ḿnh không biết chữ, chưa quen việc trị quốc, khuyên mời thân
phụ vua là Trần Thừa nhiếp chính.
Xưa vua
Lư Thái Tổ mới lên ngôi, có đến chơi chùa Phù Đổng, thấy có bài thơ
của vị thần đề ở cột chùa rằng: "Nhất bát công đức thủy, tùy duyên
hóa thế gian, quang quang trùng chúc chiếu, một ảnh nhật đăng san"
người đời bấy giờ không hiểu nghĩa làm sao, đến khi truyền được 8
đời vua, đến vua Huệ Tôn tên là Kiểu (hay Cảo) th́ là chữ nhật ở
trên chữ san, mà lặn bóng; th́ câu thơ ấy quả nhiên ứng nghiệm. Như
thế nhà Lư hưng và vong đều tại trời cả. Lại địa quyết làng Cổ Pháp
có câu: "Tộ truyền bát diệp, diệp lạc âm sinh"(6) th́ hưng và vong
cũng có mạch đất nữa.
Xét nhà
Lư có 8 vua nối nhau, 218 năm không có vua nào thất đức lớn, nhiều
vua thánh hiền, lâu ăm thái b́nh, từ tiền cổ đến khi ấy chưa có
triều nào hơn. Đại ước cách thống trị của đời vua, chỉ cần pháp độ,
chứ không cần người cho lắm, chính sự th́ chuộng khoan hậu, không
chuộng sự bạo tàn; đương khi vô sự th́ cứ theo sách cũ, giữ chế độ
cũ, tuy là vua c̣n nhỏ tuổi, mà vẫn thống trị nổi; đến lúc suy th́
pháp độ đổ nát, không lấy lại được, hết oai thế, khôngthể gượng lên
được, quân đội không tinh thần chiến đấu, quan chức không có người
đảm đang được việc đó. Đó là v́ quá nhân tu, thành ra cô tức, sau
khi việc bỏ bê, đến nỗi đắm đuối, chất phát th́ bị bọn quyền gian
lừa dối, nhu nhược th́ bị kẻ cường bạo sai khiến, tuy bảo là vua Huệ
Tôn làm mất nước, nhưng cái mầm mất nước mọc ra đă lâu, đó cũng là
t́nh thế xui nên. Các hàng quan tại triều cũng có Đào Cam Mộc giúp
cho hưng quốc, Lê Phụng Hiểu b́nh định biến loạn trong gia đ́nh, Lư
Thường Kiệt mổ rộng biên cương. Bá Ngọc pḥ tá Vua nhỏ tuổi, Đạo
Thành giúp đỡ chính sự khi vua mới lên ngôi, Kính Tu, pḥ tá luôn
bên cạnh, Tử Tư giỏi việc bang giao, ông nào cũng có công lớn để lại,
duy có người đủ tài lược, phẩm vọng, hết ḷng trung thành, gánh vác
công việc rất khó, làm cho vua được yên trên ngôi báu, nước được
hưởng phúc thái b́nh, th́ lại chỉ có một Tô Hiến Thành là hơn hết.
Thế nhưng mà chọn triều Lư th́ lễ văn thiếu sót, chính sự thô sơ,
chậm chạp, không biết thêm bớt, có nhiều cơ hội làm được, mà không
biết sửa sang thể cách chính trị, điều đó là lỗi ở các vị đại thần
không sao chối căi được.
C̣n đến những việc như là
Du Đô
dâng chim sẻ để được thăng quan, Vũ Xưng dâng hạt châu để mong khỏi
tội, Văn Thịnh hóa ra hổ làm điếm nhục ngôi Sư, Bảo; Tử Khắc dâng
con hươu mà được giữ binh quyền. Vũ Đới tha tội Anh Vũ để lưu độc
cho triều đ́nh. Đỗ Thanh , Phạm Duyên mắc mưu Bố Tŕ gây hạo ở nơi
biên giới; bắt được con voi cũng dâng biểu mừng; xem lưng con rùa mà
thành h́nh chữ, không thể nào gọi là văn được; đưa Ung Minh về nước
Mên mà không xong; bị Quách Bốc vào cướp đất nước mà không chống cự
nổi, không thể nào gọi là vơ được; có chép tên vào sử thường chỉ
thấy có chức tước của vị quan ấy, mà không thấy chép công trạng ǵ,
không chỉ là hạng người kiêu dâm, bạo ngược mà thôi đâu, lại là hạng
người phẩm cách hèn hạ, tầm thường, làm hỏng việc, hại nước nữa,
nhân tài thời bấy giờ đều như thế cả; là v́ rằng triều đ́nh, chỉ tin
dị đoan, không chuộng chính học, chỉ dùng bọn du nịnh, không có ǵ
để phấn khởi khí tiết của sĩ phu. Suốt đời nhà Lư chỉ thấy 2 lần
nhắc đến lập nhà học, mà quy chế thi cử không nhất định. Sĩ phu ở
vào thời bấy giờ không có ǵ để mà dũa học vấn, bồi dưỡng khí tiết;
người đă vào ṿng sĩ hoạn th́ chỉ mượn sự báo tin có điềm tốt để làm
bậc bước lên chức cao, người nào đă hiển đạt rồi th́ chỉ y a phụ họa
để làm kế giữ vững địa vị; như thế th́ hỏi sao mà sĩ phong chả thối
nát, nhân tài chả suy kém, bị lôi cuốn và lưu tục, không thụ lập
được ở trên đời; có được vài người như Tô, Lư cũng là ngẫu nhiên đó
thôi. Cổ nhân có nói: "Trời không cho có hiền tài xuống giúp nhà vua,
là tại không biết cách gây dựng lấy nhân tài đó, không thể đổ lỗi
tại thời đại không có nhân tài được".
1) Thư trên trời truyền xuống Vua được vạn tuế.
2) Vua Vũ bắt được con rùa ở Lạc Thủy theo vết trên lưng rùa mà làm
ra Hồng Phạm cửu trù.
3) Nay là đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
4) Tức là chùa Dâu, nay ở xă Khương Tự, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh.
5) Hồng Châu. Nay thuộc đất tỉnh Hải Dương.
6) Truyền ngôi được 8 đời, tức là 8 lá rụng xuống rồi âm khí sinh ra,
ư nói nhà Lư có 8 vua, khi mất ngôi v́ có vua đàn bà.
Nhà Trần
THÁI TÔN
HOÀNG ĐẾ
Vua tên Cảnh, được bà Chiêu Hoàng truyền ngôi cho, làm vua được 33
năm. Tiên tổ vốn là người tỉnh Phúc Kiến, nước Trung Hoa, đến ông tổ
là Kinh sang nước Nam ở làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp,
Hấp sinh ra Lư, Lư sinh ra Trần Thừa, làm nghề đánh cá, lấy bà Lê
Thị làm vợ, đến năm Mậu Th́n sinh ra vua Thái Tôn.
Vua là
người khoan nhân, có độ lượng đế vương, lập ra chế độ, điển chương
đă văn minh đáng khen, nhưng chỉ v́ tam cương lộn bậy, nhiều sự xấu
xa trong chốn buồng khuê.
Niên hiệu
Kiến Trung thứ hai, cho Trần Thủ Độ giữ việc hành quân đánh giặc.
Khi bấy
giờ chỗ nào cũng có giặc cướp nổi lên, như là các dân Mán ở Tản Viên
và Quảng Oai, đều b́nh định được cả; duy c̣n Nguyễn Nộn chiếm cứ Bắc
Giang, Đoàn Thượng chiếm cứ Hồng Châu, thế lực đương mạnh tuy có
đánh mà không b́nh được, Thủ Độ xin Vua phong Nguyễn Nộn làm Hoài
Đạo Vương, chia cho đất Bắc Giang, Đông Ngàn. Lại cũng có hẹn phong
vương cho Đoàn Thượng nữa, nhưng Thượng không đến, chiếm cứ Hồng
Châu, Đường Hào, xây thành ở Yên Nhân, gọi dân làm lính để tự giữ
lấy. Nộn đem quân đến đánh nhau ở Đồng Dao, Thượng bị thua chết, con
là Văn đem cả gia thuộc đầu hàng. Thanh thế của Nguyễn Nộn lừng lẫy,
Thủ Độ lấy làm lo, sai người mang thư đến mừng Nộn, và cho Ngoạn
Thiền công chúa, để xem t́nh h́nh Nguyễn Nộn động tĩnh thế nào. Nộn
làm riêng nha trướng cho công chúa ở, nên không được tin tức ǵ. Nộn
đă thôn tính được quân Thượng, tự xưng là Đại Thắng Vương, nhưng
biết rằng thế không đứng vững được, hẹn đến tháng 10 th́ vào chầu,
đến khi ấy đau nặng, vua sai người hỏi thăm, Nộn miễn cưỡng ăn cơm
rồi phi ngựa chạy, làm ra vẫn khoẻ mạnh, chưa được bao lâu th́ Nộn
chết, bộ tướng của Nộn là Phan Ma Lôi ăn trộm con ngựa trốn đi mất,
không biết đi đâu (Ma Lôi là người nước Chiêm Thành, Nộn thu dụng
làm đứa ở, khéo biết dụng binh, liệu sức địch mà tính đường thắng),
trong nước từ đấy mới thống nhất.
Sử thần
bàn rằng: Thủ Độ thậm vô mưu, chịu trách nhiệm chuyên chinh, không
được thành công ǵ, bất miễn phải cắt đất phân phong cho Nguyễn Nộn,
Đoàn Thượng để che lỗi ḿnh cầm quân không được việc ǵ; đến khi
thanh thế Nộn to quá, lại đưa thư đến mừng, công nhiên lấy lễ định
quốc đăi nó, thậm chí gả công chúa cho nữa th́ càng tỏ ra là vô mưu
quá lắm, không sợ nó cười cho hay sao? Thủ Độ giết Thượng hoàng nhà
Lư ở chùa Chân Giáo, lấy bà Trần Thị là Thái hậu nhà Lư làm vợ (giáng
làm Thiên Cực công chúa, để gả cho Thủ Độ cho tiện). Thượng hoàng
xuất giá đi tu, có một hôm ngồi xổm ở sân chùa nhổ cỏ, Thủ Độ trông
thấy nói: "Phải nhổ hết cả gốc" Thượng hoàng nói: "Ta biết ư mày rồi".
Sau nhân khi đi ra chơi ở Đông Thị, nhân dân trông thấy Thượng hoàng
có người cảm động đến phải khóc, Thủ Độ sợ nhân tâm nhớ vua cũ, sinh
ra biến cố chăng, sai người đem hương hoa đến, nói rằng: "Thượng phụ
có lời thỉnh". Thượng hoàng giận lắm, khấn rằng: "Chúng mày đă lấy
cả thiên hạ của nhà ta, lại c̣n muốn hại thân ta nữa, con cháu chúng
mày sau này cũng phải chịu như thế". Lập tức tự ải chết; Thủ Độ sai
đục thành đưa linh cữu ra, đưa đến phường An Hoa hỏa táng, để cốt ở
tháp Bảo Quang.
Sử thần
bàn rằng: Thủ Độ và Huệ Hậu thừa cơ vua Huệ Tôn bị bệnh cuồng, xui
giục bắt phải xuất gia, để cho thành cái mưu truyền quốc cho nhà
Trần; thần dân nhà Lư tuy bức bách về oai thế; nhưng sao lại chả có
ḷng nhớ vua cũ; nhất đán gặp vua cũ đi ở trong phố phường, xưa kia
th́ nhà vàng cờ đỏ, ngất ngưởng là vị cửu trùng, nay th́ lê đôi giầy
cỏ, chống cái gậy tre, thất thểu là một người nhà chùa, người có
lương tâm ai không rơi lệ. Nhân tâm như thế, khởi hữu không xảy ra
những việc bất ngờ, cho nên tất phải bức bách cho chết đi, công
nhiên nói là Huệ quan Đại sư(1) đă lên cơi niết bàn, để tuyệt vọng
của người ta, mà ngăn ngừa được biến cố khác; tâm địa Thủ Độ thật
nham hiểm lắm. Lại c̣n quá tệ hơn nữa là: Thái hậu là người đàn bà
góa của nhà Lư, đương triều vua Huệ Tôn đă là mẹ của Thủ Độ, sao lại
nỡ muối mặt, táng tâm đến thế, cái ngày thày tăng chùa Chân Giáo lên
cơi niết bàn lại là ngày Kiến gia Hoàng hậu bị hạ giá(2) tuy đă đổi
tên gọi là công chúa, nhưng ở trong họ c̣n là anh em gần; v́ con nhà
chài lưới chả biết lễ nghĩa là ǵ, tập tục loạn luân như thế, từ đời
Kinh, Hấp đă có thế rồi. Không may cho vua Huệ Tôn gặp phải, tự cho
ḿnh là giai nhân, có biết đâu việc dâm loạn trong nhà họ, cũng như
đó rách không giữ nổi con cá lớn, đă từ lâu rồi. Than ôi! Gây dựng
nên triều đ́nh nhà Trần là triều đ́nh dâm loạn như loài chim muông
là tự việc Thủ Độ lấy Thiên cực mở đầu ra đó. C̣n đến việc Thủ Độ
chỉ bị tiếng giết vua, mà nhà Trần phải chịu họa báo ứng. Vua Thái
Tôn là con rể đă cướp nước lại c̣n giết cha vợ, sau này Quư Ly đối
với nhà Trần cũng là con rể mà cướp nước lại c̣n cha vợ mà giết con
rể; sự hưng vong như giấc mộng, việc báo ứng như cái ṿng tṛn, ăn ở
bất nghĩa có ích ǵ đâu?
Vua sách
phong bà Chiêu Hoàng làm Hoàng hậu tuyển con gái đẹp con nhà lương
thiện vào làm cung nhân.
Vua định
thể lệ tiền tiêu, dân gian sử dụng tỉnh mạch tiền, một tiền là 69
đồng, tiền thượng cung một tiền là 70 đồng.
Vua xuống
chiếu phàm các văn thư, trạng khế dùng cách in tay vào nửa tờ giấy.
Vua ra
lệnh thi Tam giáo.
Theo thể
lệ cũ triều Lư: hàng năm cứ ngày 4 tháng 4 bách quan vào triều rồi
lui ra ngoài cửa tây thành, đến đền thờ thần Đồng Cổ, đọc lời thề
rằng: "Làm tôi phải tận trung, làm quan phải thanh bạch, ai trái lời
thề này th́ thần minh hại người ấy". Trai gái đến xem đông như kiến,
cho là việc vui, và long trọng.
Thi lại
viên bằng cách thức Bạ đầu, (thể thức công văn tư đi lại, gọi là Bạ
đầu).
Vua duyệt
định sổ đinh, hàng năm cứ đến mùa xuân, xă quan phải khai báo nhân
khẩu, người có quan tước th́ con cháu được tập ấm, mới được làm quan;
người giầu lớn lên mà không có quan tước, th́ suốt đời làm lính.
Vua định
ra quốc triều Thông phán H́nh luật, lễ nghi cộng 20 quyền. Định luật
đồ sai dịch, (Tội nặng vừa th́ bắt làm việc cày công điền, tội nhẹ
phải làm cỏ ở Thăng Long Phượng Thành, lệ thuộc vào quân Tứ Sương).
Vua chia
kinh thành làm 61 phường và đặt ra ty B́nh Bạc. Vua xuống chiếu: các
ty, nha xét kiện, tụng th́ được lấy tiền B́nh Bạc, (B́nh nghĩa là
xét đoán, là lấy tiền xét kiện), sau vua Thánh Tôn đổi B́nh Bạc ty
ra là An Phủ sứ.
Vua cho
hoạn quan là Nguyễn Bang Cốc được lĩnh Chư Binh Nữu. (Binh ở đây
nghĩa là tướng, Nữu là quyền then chốt).
Vua cho
đào các cửa biên Trầm, Hào, từ Thanh Hóa vào đến phía nam Diễn Châu.
Vua xuống
chiếu: "Các nhà trạm đều tô vẽ tượng Phật".
Tục nước
ta: v́ nắng bức, nên lập ra nhiều đ́nh quán ở dọc đường cho hành
khách nghỉ ngơi, tránh nắng. Khi Vua c̣n hàn vi, thường vào nghỉ ở
một cái đ́nh, có thày tăng bảo rằng: "Cậu bé này ngày sau phải đại
quư", nói rồi, không biết thày tăng ấy đi đâu mất, cho nên đến khi
bấy giờ phàm chỗ nào có quán trạm đều tô vẽ tượng Phật.
Thi Thái
học sinh, lấy đỗ: Trương Hanh, nhất giáp, Đặng Diễn, nhị giáp, Trần
Chu Phổ, tam giáp. Nước ta có khoa thi mà chia ra giáp, đệ từ đây
trước nhất; sau này định ra 7 năm một khoa thi, đủ cả tam khôi, điều
lệ khoa thi ngày thêm đầy đủ, ân điển ngày một long trọng, ở đó mới
sản xuất lắm nhân tài, so với triều Lư thịnh hơn nhiều.
Triều
đ́nh ban bố tên húy của nhà Vua. (V́ cớ ông tổ xưa có tên là Lư, nên
bỏ chữ Lư, để tuyệt ḷng dân trông ngóng nhà Lư nữa).
Vua đại
sát người tôn thất nhà Lư. Vua xuống chiếu bắt các người họ nhà Lư
phải đến lễ tiên hậu ở Hoa Lâm, Thái Đường, đào một hố sâu kín, làm
nhà lên trên, khi giật dây th́ chôn sống cả.
Thượng
hoàng mất, cho quan Thái úy là Liễu Phụ chánh, sách phong làm Hiển
Hoàng. (Tôn kính anh ruột đến nỗi sách phong là Hoàng, cái tên thật
là bất chính, Trần Liễu manh tâm khởi loạn, vị tất không phải do
việc này).
Vua phong
cho Phùng Tá Chu là Hưng Nhân Vương, Phạm Kính Ân làm quan Nội hầu.
Hai người này đều là cựu thần nhà Lư, nhất đán đổi chủ, cam làm ưng
khuyển, ư tất lũ ấy đều là thân thuộc họ ngoại nhà Trần, cũng là một
phường với Trung Từ, Tự Khánh, cho nên thủy chung vẫn được tin yêu,
ân thưởng hơn người khác. Nhà Lư mất, nhà Trần lên, vẫn là sở nguyện
của những kẻ ấy, đâu c̣n đem lễ nhượng mà trách kẻ ăn trộm bao giờ?
Vua xuống
chiếu định thể lệ lương bổng các quan văn vơ, (tất phải có lương
bổng, nhiên hậu mới bắt người ta thanh liêm được).
Nước lụt
lớn vỡ vào cung Lệ Thiên, Hiển Hoàng Liễu phải đi thuyền vào triều,
đi qua nơi ấy thấy cung phi cũ của nhà Lư, bắt ép tư thông; Đ́nh
thần hặc tội Liễu, bị giáng làm Hoài Vương, đổi tên cung ấy gọi là
Thưởng Xuân.
Nhà Trần
v́ dâm loạn mà mắc đắc quốc, cho nên trời làm nước lụt để cảnh cáo,
Liễu lại làm quá tệ, dâm ác không c̣n biết sợ là ǵ, lại lấy chữ
Thưởng Xuân mà đặt tên cung, thật xấu xa quá lắm. Vua xuống chiếu
định pháp chế in tay vào các văn thư, khế ước, (Phàm lập ra chúc thư,
và văn khế điền thổ, vay nợ, th́ người làm chứng in tay vào 3 hàng
trước, chủ bán in tay vào 4 hàng sau). Vua lấy vợ của anh là Trần
Liễu lập làm Hoàng hậu. (Tức Thuận Thiên Công chúa họ Lư), giáng bà
Chiêu Thánh xuống làm Công chúa. Bấy giờ bà Chiêu Thánh không có
con, mà vợ Liễu đă có mang 3 thánh, Thủ Độ và bà Thiên Cực mật mưu
lấy cho vua làm Hoàng hậu, Liễu giận lắm, tụ tập đại quân ở Đại
Giang làm loạn; trong ḷng vua bất tự an, đương đêm ra ở với Phù Vân
Quốc sư ở núi Yên Tử (thày tăng này là bạn cũ vua Thái Tôn), Thủ Độ
đưa quần thần đến mời vua về kinh đô, vua nói: "Ta tuổi trẻ không
cha, chưa kham nổi việc nước, nên không dám ở ngôi vua, để làm nhục
cho xă tắc",Thủ Độ nói: "Vua ở chỗ nào tức là triều đ́nh ở đó, xin
phá núi để xây dựng cung điện", Quốc sư xin với Vua rằng: "Bệ hạ nên
hồi loan không nên để cảnh sơn lâm của đệ tử bị phá hủy", Vua mới
chịu về. Liễu tự nghĩ ḿnh thế cô, lén đi thuyền độc mộc đến nơi vua
ở xin đầu hàng. Thủ Độ nghe tin, đi thẳng đến thuyền Vua ngự, to
tiếng rằng: "Phải giết giặc Liễu". Vua vội vàng giấu Liễu đi, đưa
thân nhân ra nhận, Thủ Độ ném thanh kiếm nói: "Thủ Độ này là con chó
săn thôi, biết đâu sự thuận hay nghịch của anh em nhà Vua". Vua phải
giảng giải măi, rồi cho Liễu đất An Sinh làm nơi ơ riêng, và phong
cho Liễu làm An Sinh Vương, mà giết những kẻ theo làm loạn.
Vua Thái
Tôn đương đêm quan sông Bàn Than, vào chùa Yên Hoa ở núi Yên Tử,
tiếp kiến Trúc Mộc Thiền sư, muốn trụ tŕ ở đó, vừa gặp Thủ Độ đi
yêu giá kéo đến. Thiền sư nói: "Làm vua phải lấy ḷng dân làm ḷng
ḿnh, dân chúng muốn thế thế, xin Vua hồi loan, sau này Hoàng tử
trưởng thành có thể nối ngôi lớn được, Nhiên hậu hăy bỏ vào núi mà
tu luyện", Vua cho là phải. Bấy giờ vua mới 4 tuổi, đă có ư chán
trần tục, cho nên các Vua triều Trần đều bắt chước theo như thế, là
v́ sở đắc ở Trúc Lâm bí quyết.
Vua Thái
Tôn làm hại nhân luân, lấy bà Thuận Thiên, Phụ Trần cũng thông gian
với bà Chiêu Thánh, ḿnh cướp vợ anh, th́ người khác lại cướp vợ
ḿnh; tuy là tự ư đem cho, nhưng cũng là trời làm cho tâm thần tối
tăm mà làm việc càng bậy đó, tạo hóa khéo thật.
Tết Đoan Ngọ, nhớ viếng Khuất Nguyên và hiền nhân xưa như lũ Giới Tử
Thôi, từ khi ấy hàng năm lấy làm lệ thường.
Vua lập
sổ đinh, tuyển đinh tráng vào làm lính, định 3 bậc: Thượng, trung,
hạ. Lại định ra quy chế nhà cửa, thuyền, xe cho các vương hầu và các
quan văn vơ.
Vua thân
hành đi tuần biên giới, vào địa giới nhà Tống, đi qua châu Khâm và
Liêm, tự xưng là Trai lang, bỏ thuyền ở đất Tống, chỉ dùng thuyền
Kim Phượng và Nhật Quang mà đi, người châu ấy không biết là Vua; đến
lúc biết, liền chăng xích sắt ở ḍng sông để chặn đường thủy, Vua
liền trở về, nhổ vài chục cọc sắt đem về.
Vua Thái
Tôn đi lần này thật là cuồng bậy, bất quá muốn xem sông núi ở nội
địa Tống, cho là người Tống chả làm ǵ được, chung quy v́ sự đi chơi
này mà gần bị người Tống làm khốn, thoát được miệng hùm là may đó,
có phải là c̣n huyết khí thiếu niên, chưa được định tính đó chăng?
Vua sai chia trong nước làm 12 lộ, đặt ra chức quan An phủ, Trấn phủ,
chánh và phó để cai trị.
Các xă và
xách (xă nhỏ) đặt ra chức Đại hay Tiểu Tư xă (ngũ phẩm trở lên làm
chức Đại Tư xă; lục phẩm trở xuống làm Tiểu Tư xă) hoặc là kiêm 3, 4
xă, Xă chánh, Sử giám làm xă quan. Lập sổ hộ: người dân 20 tuổi là
đại hoàng nam, 17 tuổi, là tiểu hoàng nam, 60 tuổi là lăo. Nhân đinh
mà có điền thổ th́ phải nộp tiền và thóc (1 hay 2 mẫu phải nộp 1
quan, 3 hoặc 4 mẫu nộp 2 quan, 5 mẫu trở lên nộp 3 quan. Thuế ruộng
1 mẫu phải nộp 100 cân thóc), người không có ruộng th́ được miễn
hoàn toàn.
Theo lệnh
nhà Thành Chu: Lấy hạ sĩ hay trung sĩ làm chức Lư tể, Lư tư, bổ quan
chuyên chủ chính sự trong làng; đời Hán đặt ra Tam lăo, Sắc phu, c̣n
có ư nghĩa cổ; đời sau coi khinh rẻ chức xă trưởng, cho những bọn
hèn hạ bỉ ổi ra làm, ra khỏi làng th́ bị nhục về roi vọt của quan
phủ, về nhà riêng th́ bị cường hào lấn át, chính họ cũng tự coi rẻ
thân họ, chỉ lần lừa làm kế no bụng, bóc lột dân nghèo, v́ thế dân
càng khổ thêm, không chỉ một tham quan ô lại làm hại dân mà thôi.
Trong năm Cảnh Trị đời Lê có đặt ra xă trưởng, quan Huyện xét công
trạng xă trưởng tư lên Bộ. Bộ sẽ kén chọn cho làm quan, coi trọng
nhiệm vụ, để cho làm chính sự trong một làng, đó cũng là lương pháp
v́ dân. Tôi trộm nghĩ nên kén hàng quan đă về hưu mà cho làm xă quan,
ủy cho hết thảy công việc giáo hóa dân làng, mà Lư Chính phải lệ
thuộc vào xă quan, xét việc làm mà phân biệt, để người ta vui ḷng
mà làm, Nhiên hậu mong thành hiệu được.
Vua phân
phái các văn thần nhậm chức các phủ hay lộ. Phủ có chức Tri phủ,
châu th́ có Tàu Vận sứ.
Vua định
qui chế quân lính, kén người đinh tráng xung vào các đôi quân: Tứ
Thiên, Tứ Khánh, Tứ Thần, Thiên Thuộc, Thiên Cương, Chương Thánh,
Củng Thần, Thánh Dực, Thần Sách; cần thừa ra th́ sung vào Trạo nhi
Đoan đội.
Vua ra
lệnh định ra quan trong và quan ngoài, 15 năm một lần xét duyệt. (Quan
viên nào khuyết th́ cho Chánh kiêm chức Phó, Chánh vá Phó đều khuyết
th́ bổ quan nơi khác đến kiêm, chờ khi măn năm khảo duyệt, mới bổ
vào chưc khuyết ấy). Thời bấy giờ trong nước vô sự, các quan tại
chức lâu quá, vị nào ở quán và các 10 năm mới được xuất thân, vị nào
ở sảnh và cuộc th́ 15 năm. Chức Tể tướng cũng phải kén con cháu tôn
thất mà hiền tài mới được làm.
Vua xuống
chiếu thi ở điện để chọn lấy người danh sĩ. Cho đỗ: Trạng nguyên là
Nguyễn Hiền, Bảng nhăn là Lê Văn Hưu, Thám hoa là Đặng Ma Lă, và
hạng xuất thân có từng bậc (2 khoa Nhâm Th́n và Kỷ Hợi duy chỉ gọi
là Giáp và Ất) lấy đủ tam khôi từ khoa này trước nhất.
Vua xuống chiếu khi người thông tam giáo các khoa. (Khoa thi Bính
Th́n, lấy đỗ Kinh Trạng nguyên là Trần Quốc Lại, Trại Trạng nguyên
là Trương Xán. Chia trấn Thanh và Nghệ gọi là Trại, mới phân biệt ra
Kinh và Trại. Lệ chia ra Kinh và Trại này cũng như nhà Thanh chia ra
Hán và Mă).
Sử thần
bàn rằng: Đạo chỉ có một thời, ngoài "nhất trung" ra, không c̣n đạo
ǵ nữa; cũng như Trương Dung xem chim hồng mà hiểu rằng: "Người Việt
gọi là chim Phù, người Sở gọi là chim Ất, về người th́ có người Việt
người Sở, chứ chim Hồng vẫn là một loài ấy thôi. Nhà Phật tự tôn đạo
của ḿnh lên, mới có thuyết 3 người bạn là: Mao Đầu (chứng Già Diệp
Bồ tát giáng sinh là Lư Lăo Tử), Na Ẩn (chứng Hộ Minh Bồ tát sinh ra
Thích Già), ư thị người đời tin tưởng mê hoặc, đặt ra phương pháp
mặc và ăn, mong được thành tiên, ăn chay, tụng kinh, mong được thành
Phật, xét đến tôn chỉ vẫn trống không; gọi là sa môn và đạo sĩ ăn
chay tụng niệm, th́ thi để làm tṛ ǵ.
Vua đắp
đê Đỉnh Nhĩ từ ngọn nguồn" sông đến cửa biển để ngăn nươc lớn; đặt
ra quan Hà đê sứ, để đốc xuất việc làm đê; đo đạc số điền địa đắp đê
bị mất mà tính giả tiền. Bắt đầu có đắp đê từ đây. Lại kén các vị
quan ít việc làm chức Hà đê sư, hàng năm cứ đến mùa nghỉ làm ruộng
th́ đắp đê và đào ng̣i, để pḥng khi bị nước lụt và đại hạn. Lại bắt
trồng cây am la(3) ở thân đê.
Vua sai
Thuật sĩ đi quan sát khắp núi sông trong nước, nơi nào có vượng khí
th́ yểm cho mất đi (như là núi Chiêu Bạc, sông Bà Lễ đều bắt thợ đục
và đào cho sai h́nh đi).
Thế tục
truyền rằng: Cao Vương (Biền) xem xét mạch sông núi nơi nào là đại
địa, đều có đặt thành bài ca, hoặc là nói chỗ đất này đă lập chùa,
đắp đường, đào giếng và chôn sắt để yểm đi rồi, ư giả đều là Thủ Độ
làm cả, mà đổ cho Cao Vương, để làm cho thuật của ḿnh là thần kỳ đó
thôi.
Vua xuống
chiếu bắt: trong nước gọi là quốc gia, đổi Đô, Vệ, Phủ gọi là Tam ty
viện (Phụng tuyên viện, Thanh túc viện, Hiến chính viện).
Vua biết
lấy bài minh cho Hoàng tử, để dạy cho biết: trung hiếu, ḥa tốn, ôn
lương, cung kiệm.
Con An
Sinh Vương là Quốc Tuấn đoạt hôn, (bắt cô dâu sắp cưới để chiếm đoạt).
Thiên
Thành Công chúa được hứa gả cho Trung Thành Vương, định đến ngày
vọng tháng ấy làm lễ hợp cẩn, Vua cho mở hội, bày các đồ vật đưa dâu.
Khi bấy giờ Công chúa đă đến ở nhà Nhân Đạo Vương (cha Trung Thành
Vương), Quốc Tuấn mê về sắc đẹp, muốn đoạt lấy, đương đêm lẻn vào
nơi Công chúa ở mà thông gian. Thụy Bà Công chúa (cô Quốc Tuấn và
nuôi Quốc Tuấn làm con) biết chuyện ấy, sợ có tai họa, lập tức đến
gơ cửa vua tâu vua biết, và Nhân Đạo Vương bắt giữ Quốc Tuấn rồi,
xin vua thương cho. Vua sai người đến nhà Nhân Đạo Vương không thấy
động tĩnh ǵ, vào buồng nằm của Công chúa, th́ thấy Quốc Tuấn ở đó.
Nhân Đạo Vương bấy giờ mới biết. Thụy Bà công chúa xin đem 10 mâm
vàng làm lễ cưới, vua bất đắc dĩ phải gả cho Quốc Tuấn mà đem 2.000
khoảnh ruộng ở Ứng Thiên(4) trả lại lễ cưới của Trung Thành Vương.
Điều này thật là lỗi ở Quốc Tuấn thiếu niên khinh bạc, nhưng cũng do
gia phong bất chính của nhà Trần, ai ai cũng thế cả, nên không biết
dâm loạn là đáng hổ thẹn nữa.
Vua ban
yến cho quần thần, khi rượu say đều đứng lên giang tay nhau mà hát;
quan Ngự sử Trần Chu Phổ cũng giang tay nhưng không hát câu ǵ khác,
duy chỉ nói rằng; "Sử thần hát" thế thôi, đến sau yến tiệc, có người
đeo cái mo gơ vào đó để làm tửu lệnh, làm như thế càng thô bỉ lắm.
Nước
Chiêm Thành đưa thuyền đến cướp biên giới, sai sứ đến nói cầu xin
lại những đất đă dâng trước, vua giận lắm, chính thân đi đánh, bắt
được Vương phi nước ấy là Bố Gia La, rồi trở về. Vua lập ra Viện
Quốc học, tô tượng Chu Công, Khổng Tử, Mạnh Tử để thờ phụng. Vua
xuống chiếu cho nhân sĩ trong nước đến việc ấy giảng sách ngũ kinh,
tứ thư.
Vua lập
ra nhà học, tôn chuộng nghề văn, dựng lên ngôi nhà, giảng tập việc
vơ, cả văn và vơ có vẻ rực rỡ lắm, cho nên có các ông Hán Siêu,
Trung Ngạn, Nhật Duật, Ngũ Lăo nối nhau xuất hiện, Văn Trinh và Hưng
Đạo là bậc danh nho, danh tướng lừng lẫy thời bấy giờ, là kết quả
của sự tôn chuộng văn vơ đó.
Vua định
ra thể lệ các phục sức, xe ngựa và người theo hầu của các quan văn
vơ, chia ra từng bậc, (Tôn thất được đi kiệu đầu phượng, sơn đỏ,
lọng tía; quan tam phẩm trở xuống đi kiệu Vân đầu, lọng xanh; quan
lục phẩm trở xuống th́ lọng đen. Người theo hầu nhiều lắm là một
ngh́n người, ít là một trăm người. Lọng tía th́ 4 cái, lọng xanh th́
2, lọng đen th́ 1).
Vua ra
lệnh bán quan điền, cày 1 mẫu th́ nộp 5 quan tiền.
Vua nằm
mộng ra đi chơi, thấy vị thần chỉ một người mà nói: "Người này làm
chức Hành khiển được", đến khi ra đi chơi ở ngoài hoành thành, thấy
người con trai, mặt mũi, h́nh dáng rất giống người ở trong giấc mộng,
Vua triệu lại hỏi, trả lời đúng như các lời trong giấc mộng. Theo lệ
xưa: chức Hành khiển duy chỉ dùng người hầu gần vua làm thôi (theo
việc triều Lư dùng Lư Thường Kiệt) Vua mới cho làm chức ấy mà ngại
khó, liền cho người ấy 400 quan tiền để tự thiến ḿnh, và cho tên là
Phạm Ứng Mộng.
Hoàng tử
là Nhật Duật mới sinh.
Xưa kia
đạo sĩ cầu tự cho Vua, khi lạy dâng sớ xong nói rằng: "Thượng đế đă
cho Chiêu Văn giáng sinh ở trần 4 kỷ", quả nhiên sinh được con trai,
trên lưng có chữ "Chiêu Văn" nhân lấy chữ ấy đặt tên; đến năm 40
tuổi, bị đau, con ông Nhật Duật đặt đàn chay cầu đảo, đạo sĩ lạy
dâng sớ xong, nói rằng: Thượng đế cười nói; "Làm ǵ mà quyến luyến
trần tục ở lâu thế? Nhưng v́ con có hiếu mà thành, lại cho thêm 2 kỷ
nữa". Cho nên Nhật Duật hưởng thị được 77 tuổi.
Sử thần
bàn rằng: Việc kỳ quái ǵ cũng có thể có được, nhưng là v́ tinh thần
gây nên, hoặc giả ở trong khoảng h́nh như có và không, chứ trời có
nói ǵ đâu. Đạo sĩ bởi đâu mà được có lời truyền dạy rơ ràng thế?
Xưa kia nhà Chu có mộng xin 9 tuổi, mà cho 3, chép ở Lễ Kư, thế nho
c̣n cho là vị tất đă có; huống chi con Nhật Duật đâu có được ḷng
thành cảm thấu trời như vua Văn Vương? Chả qua là nhà Trần tin
chuộng quỉ thần, nên vin theo lời hoảng hốt mà phụ hội thêm vào, cho
ra thần dị đó thôi.
Doăn đưa
cả gia quyến chạy sang Tống, (Doăn là con An Sinh Vương), Thổ quan
là Hoàng Bính bắt trả về cho nước ta, bởi thế mà quan ải càng thêm
nghiêm mật, Bính nhân thế đưa gia quyến đến cửa khuyết dâng người
con gái, Vua nhận lấy.
Nước Mông
Cổ ngày mạnh dần, Bính là vị quan giữ đất cho nhà Tống, biết nhà
Tống sắp mất nước, nên đưa gia quyến về với ta, để tránh nạn giặc Hồ,
rồi giặc Hồ lại xâm lấn nước Nam, Bính vẫn không tránh thoát. Ích
Tắc, Lê Xí cũng cho là nhà Trần tất mất nước, mới đem cả gia quyến
đầu hàng quân Nguyên, mong được phú quí, thế mà Trần không hề mất
nước, chỉ bọn đó chịu sự nhục đầu hàng giặc. Làm bầy tôi mà phản bội
nước nhà có ích ǵ đâu. Lũ ấy không đáng nói đến, nhưng cũng chép
lên đây, để răn bảo những bọn thần tử mà có nhị tâm.
Quân Mông Cổ đến xâm lấn nước ta. (Khi trước Hà Khuất chủ trại Quy
Hóa cho trạm chạy tâu rằng "Có sứ Mông Cổ đến", Vua xuống chiếu sắm
sửa binh khí, đem cả quân thủy và bộ ra chống giữ biên giới, trao
quyền tiết chế cho Quốc Tuấn), Vua tự làm tướng ra chống giữ, đóng
quân ở Sông Lô, tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai sai người đến
dụ Vua đầu hàng, 3 lần đến, Vua đều bắt giam cả, ra lệnh chư tướng
đưa nhiều quân ra chờ lệnh, quân giặc đến sông Thao, vua tự đốc
chiến, quan quân phải lui, duy có Lê Phụ Trần một ngựa ra vào trong
trận giặc, sắc mặt vẫn thản nhiên. Lúc ấy có người khuyên vua đóng
quân ở lại để cự chiến. Phụ Trần nói: "bệ hạ hăy làm như đánh tiếng
bạc cuối cùng, hăy tạm lánh đi, tôi xin chận hậu". Quân giặc bắn
loạn, Phụ Trần lấy ván thuyền che cho vua, được khỏi nạn, lui về giữ
ở sông Thiên Mạc, theo Vua bàn việc cơ mật, Vua ngự ở thuyền nhỏ,
triệu Nhật Kiểu để vấn kế, Nhật Kiểu lấy ngón tay thấm nước viết 2
chữ "Nhập Tống" vào mạn thuyền. Thủ Độ nói: "Đầu tôi chưa đến đất,
Bệ hạ không phiền phải nghĩ ǵ khác cả", vua liền cùng Thái tử ngự
lâu thuyền, tiến lên Đông Bộ Đầu, đánh nhau với quân Mông Cổ phải
trốn về, đến Quy Hoá, trại chủ là Hà Bổng lại tập kích phá tan quân
giặc. Khi ấy Mông Cổ mới lấy được Vân Nam, quân du kích kéo sang
không chủ bụng đánh, nên bấy giờ gọi là Phật tặc. Giặc rút lui hết,
Vua về kinh đô, bách quan vẫn yên như cũ, xét định công ban thưởng,
cho Phụ Trần làm chúc Ngự sử Đại phu, gả bà Hoàng hậu cũ là Chiêu
Hoàng cho ông, và nói rằng: "Trẫm không được khanh th́ đâu có ngày
nay, nên cố gắng, mong sao được thành công".
Xưa kia Vua cho tả hữu ăn quả am la, không cho Hoàng Cự Đà, đến khi
đánh nhau với quân Nguyên ở Đông Bộ Đầu, Cự Đà đi thuyền trốn trước,
đi đến Hoàng Giang, gặp Thái tử, Cự Đà tránh mặt, quan quân gọi y
lại hỏi: "Quân Nguyên đâu"?. Cự Đà nói: Không biết, cứ hỏi người ăn
quả am la th́ biết". Thái tử đem việc ấy tâu lên Vua, xin giết đi,
để răn bảo kẻ bất trung. Vua nói: Xưa có Dương Châu không được dự ăn
thịt dê, đến nỗi thua về quân Trịnh, tội Cự Đà là lỗi ta, tha chết
cho y theo đi đánh giặc để chuộc tội".
Sử thần
bàn rằng: Lời can gián của Phụ Trần thật là trung, chận hậu quân ở
sông Lô thật có công, lấy quan tước mà đền công và ḷng trung thành
ấy là được rồi; sao lại làm nhục bà Hậu cũ mà gả cho Phụ Trần. Xưa
Hầu Cảnh đem vợ Thái tử gả cho tướng Quách Nguyên Kiến, Kiến từ chối
rằng: "Đâu có Quí phi lại giáng làm vợ người thường", rồi không chịu
trông mặt bà phi ấy. Phụ Trần nhận sự gả ấy, lại không bằng tên
nghịch tặc c̣n có lương tâm. Ở nước Ngô có người đưa cỏ bồ nát hỏi
vợ, người vợ giận mà chết, không chịu nhục; nay bà Chiêu Thánh vui
thích sự gả đó, lại không được bằng người đàn bà thường dân c̣n có
liêm sĩ. Ôi! Dâm phong của nhà Trần tập nhiễm đă quen; bà Thiên Cực
là Thái hậu mà lấy người bầy tôi, bà Thuận Thiên là chị dâu mà lấy
em chồng, cho nên bây giờ bà Chiêu Thánh cũng là Hoàng hậu mà lấy
người bầy tôi làm chồng, Phụ Trần là bầy tôi mà lấy bà Hậu làm vợ,
mẹ ấy con ấy, chị ấy em ấy, vợ ấy chồng ấy, vua ấy tôi ấy, thật
không bằng cầm thú.
Sứ thần
Mông Cổ đến đ̣i lễ cống hàng năm, vua sai Phụ Trần di sang Tầu định
lệ 3 năm một lần cống.
Vua
truyền ngôi cho Thái tử Hoảng, lui về ở Bắc Cung, Thái tử lên ngôi
vua, đổi niên hiệu là Thiệu Long lấy con gái An Sinh Vương tên là
Thiều làm Hoàng hậu.
Lời bàn:
Mấy năm đầu vua Thái Tôn có tính tà dâm, đều do Thủ Độ xui bảo cả;
đến mấy năm sau để ư học vấn, tấn tới được nhiều, lại càng nghiên
cứu điển cố trong kinh sách, có làm ra sách "Khóa Hư lục" mến cảnh
sơn lâm, coi sinh tử như nhau, tuy ư hơi giống đạo Phật không hư,
nhưng mà ư chí th́ khoáng đạt, sâu xa cho nên bỏ ngôi báu coi như
trút giầy rách thôi.
1) Tên hiệu là Huệ Tôn khi đă xuất gia.
2) Trước
làm Hoàng hậu, sau lấy Trần Thủ Độ được phong là Linh từ Quốc mẫu.
3) Không
biết tiếng Việt tên là ǵ, chỉ biết trồng cây ấy ở hai bên thân đê
để giữ cho đê khỏi bị lở.
4) Nay là
huyện Ứng Ḥa, tỉnh Hà Tây.
Trần
Thánh Tôn
THÁNH TÔN
HOÀNG ĐẾ
Tên là
Hoảng, con trưởng vua Thái Tôn, ở ngôi vua 21 năm, tính trung hiếu
và nhân thứ, biết tôn người hiền, trọng đạo học, nhưng quá mê tín
đạo Phật, không phải là thịnh đức của Đế vương. Niên hiệu Thiệu Long
thứ 4, Mông Cổ sai Mạnh Giáp cầm thư sang dụ, đại lược thư rằng:
"Nước Nam vẫn yên ổn như xưa, lễ nhạc phong tục nhất thiết y theo
bản quốc, không nên thay đổi, đă có răn bảo các tướng ở biên giới
không được thiện tiện động binh nhiễu nơi bờ cơi, không nên sợ hăi
ǵ".
Thi lại
viên bằng thư toàn.
Vua cử
Quang Khải làm chức Thái úy.
Chế độ
nhà Trần: các Vương, Hầu đều ở nhà riêng ở làng của ḿnh(1), như
làng Vạn Kiếp của Quốc Tuấn, Quặc Hương của Quốc Điền; đến khi vào
làm Tể tướng mới giữ việc nước, nhưng chỉ cầm đại cương thôi, quyền
hành th́ về tay quan Hành khiển; đó cũng là ư bảo toàn danh dự cho
tôn thất. Lại c̣n khi giặc Hồ vào cướp, th́ các vị ấy lại có hương
binh đưa ra làm đạo quân cần vương, lại cũng là thế lực vững chắc
giúp cho nhà vua nữa. Thượng hoàng đi Tức Mặc, đổi dinh ở phủ Thiên
Trường làm cung Trùng Quang, mà ở tại đó, lại được lên cung Trung
Hoa, làm nơi ở cho vua khi đến chầu hầu Thượng hoàng. Trần Thủ Độ
mất - 71 tuổi, được tặng là Thượng Thư Trung Vũ Vương - Thủ Độ tuy
không học vấn ǵ, nhưng có tài lược hơn người, thân làm Tể tướng,
việc ǵ cũng để ư, v́ thế mà giúp vua gây dựng nên vương nghiệp, giữ
trọn vẹn công danh; Vua Thái Tôn làm bài văn bia ở sinh từ, trọng
đăi một cách đặc biệt.
Thượng
hoàng ban yến cho quần thần ở điện Diên Hiền, có sao chổi hiện ra ở
phận vị sao Liễu, sáng rực trời; Thượng hoàng ra coi, bảo rằng: "Sao
Liễu là địa phận Lâm An, không phải là thiên tai ở nước ta", lại vẫn
ăn yến đến xong, tháng 10 năm ấy th́ vua nhà Tống mất.
Mông Cổ sai Nậu Lạt Đinh đến nước ta, Vua sai Vũ Hoàn đi sang thăm
trả lại.
Mông Cổ
đến bảo rằng: "Trước có sai sứ thần sang thông hiếu, v́ người chấp
sự mê, lạc ấy không thấy trở về, nên mới có đạo quân sang năm
trước". Trước kia Ngột Lương Hợp Thai b́nh xong Đại Lư, đưa quân
sang xâm nước Nam, 3 lần sai người sang dụ đều bị bắt cả mới phạm
vào đất Hồ Lệ, Thượng hoàng phải lánh đi ra ngoài, Mông Cổ vào kinh
đô, tha 3 người sứ giả ra khỏi nhà ngục, thấy có tre trói vào thân,
cởi trói ra th́ một người chết, liền tha bồ giết cướp, ở lại 9 ngày,
v́ không chịu được nắng nực phải về. Thượng hoàng cho đón đánh. Mông
Cổ lại sai 2 sứ thần trước dụ Vua phải vào chầu, Thượng hoàng không
nghe, lại thấy cung khuyết ở kinh đô bị chúng tàn phá, giận quân
Mông Cổ tàn bạo, liền trói 2 sứ thần thả cho về, nên có việc Lạt
Đinh đến hiểu bảo, có câu trói 2 sứ thần, là ư trách ta đó.
Vua cho phép Vương hầu, Công chúa được khẩn điền lập ra trang trại.
Vương hầu có điền trang bắt đầu từ đây.
Lại định
lệ phong cho tôn thất, y theo đồ ngũ phục(2).
Vua xuống
chiếu kén chọn văn học sĩ sung vào quan ở Quán và Các, Đặng Kế được
kén làm Hàn Lâm Học sĩ, liền được thăng chức Trung Thư. Theo quy chế
cũ: không phải người trong họ Vua th́ không được làm chức Hành
khiển. Những người văn học được giữ quyền binh bắt đầu từ đây.
Vua phong
cho em là Ích Tắc và Nhật Duật làm Vương. Ích Tắc ham học, thông
kinh sử, giỏi văn chương. Xây nhà để tập họp văn sĩ tứ phương đến đó
giảng tập, như Mạc Đĩnh Chi, Bùi Phóng do ở đó ra, mà hiển quư ở
đời.
Vua cho
định ra quân ngũ (mỗi quân 30 đô, mỗi đô 80 người) kén người trong
tôn thất có học tập vơ nghệ và hiểu rơ binh pháp cai quản đạo quân
này. Khi lui chầu, vào hầu riêng. Vua bảo tôn thất rằng: Thiên hạ
này là của tổ tôn, nên phải cùng tôn thất chung hưởng phú quí, khi
vui khi buồn có nhau, truyền cho con cháu, chớ quên lời này th́ là
phúc cho xă tắc. Mỗi khi yến ẩm ở Lan Đ́nh, chiều tối chưa về được
th́ Vua cho đặt cái gối dài, chăn lớn cùng nhau nằm liền giường. Đến
khi có lễ triều hạ, th́ lại có vị thứ rơ ràng, v́ thế các Vương, Hầu
ai cũng ḥa vui, kính sợ, không dám khinh lời trái lễ. Sử thần bàn
rằng: Nhà Trần xử với tộc thuộc ḥa vui không hiềm nghi ǵ, trong
đạo vua tôi ở với nhau như người nhà, khi vô sự th́ thơ từ xướng
họa, vui vẻ hết đường; khi hữu sự th́ đồng ḷng góp sức, thân hơn
chân tay, đó là phong tục tốt của đời ấy, ít ai theo kịp. Vua Thánh
Tôn có tư chất nhân hậu, được môn học tâm tính; đă từng học qua Cơ
Cừu Lục của vua biết được các bài tụng Đả mă, Toàn quy, có nghĩa
tinh vi nhập thần; ngoài ra câu nào cũng huyền diệu, chữ nào cũng
thiết thực, không phải thâm đạo không làm được thế; cho nên gặp việc
mà suy rộng ra đều là có thiên lư, ḥa vui với anh em, có thể tưởng
tượng được tấm ḷng chí thành, nên mới có hiệu quả chống nổi giặc
mạnh khi bấy giờ, và sự dạy bảo thân yêu họ hàng c̣n để lại về sau,
thật là vị vua hiền.
Vua và
anh là Quốc Khang chầu Thượng hoàng. Quốc Khang múa lối Hồ, làm tṛ
vui, Thượng hoàng cởi áo ngự ban cho; Vua cũng ra múa Hồ để xin áo,
Quốc Khang nói rằng: "Quư nhất là ngôi Hoàng đế, thần không dám
tranh với Nhị Lang, đấng Chí Tôn cho thần vật mọn này, Nhị Lang muốn
đoạt lại chăng?". Thượng hoàng cười nói: "Mày coi ngôi vua với cái
áo bằng nhau à?". Cùng vui đùa với nhau thỏa măn rồi mới thôi.
Sứ thần
Mông Cổ là Hốt Lung Hải Nha đến dụ về việc biên giới, Vua nhận tờ
chiếu của vua Mông Cổ mà không lạy. Mông Cổ đưa tờ điệp dẫn nghĩa
Xuân Thu mà trách, vua sai phục thư rằng: "Quốc vương không nên
ngang với sứ thần; và theo quốc tục nước tôi nhận tờ chiếu th́ để ở
chính điện, rồi lui tránh sang nhà khác, đó là lệ xưa". Mông Cổ lại
đưa điệp nói: "Người nhà Vua tuy nhỏ, nhưng có mệnh của Vua là
trọng; tờ chiếu trước th́ lấy cớ nước nào cũng có tục riêng, không
muốn thay đổi tục cũ, có lẽ nào lấy sự không lạy tờ chiếu của Vua là
theo tục hay sao". Chúng lại dụ Vua phải thân vào chầu, đưa con sang
làm con tin, biên dân số, phải chịu quân dịch, nộp thuế, đặt quan
giám trị, cộng 6 việc, Vua đều không nghe. Lại có điệp hỏi địa giới
cũ có đồng trụ do Mă Viện lập lên, Vua sai người trả lời: "Lâu năm
tiêu tan mất, không có vết tích ǵ", Mông Cổ lại đổi quốc hiệu là
Nguyên sai sứ thần sang dụ Vua phải sang yết kiến, Vua chối từ là có
bệnh đau chân không đi được.
Sử thần
bàn rằng: Đương lúc bấy giờ người Nguyên hùng cường gian ác, chăm
chú muốn nuốt đất Nam, cho nên t́m nhiều cách sang trách ta, gây nên
mối dụng binh, vua ta cũng tự giữ nghiêm trọng, không chịu khuất
chút nào, có thể gọi là người hùng.
Vua sai
đồng tử là Đỗ Giă Ḥa đi sang nước Nguyên. Khi bấy giờ Nguyên đ̣i
nước ta phải
nộp các
hạng người có danh sắc, Giă Ḥa đỗ khoa Thần đồng, nên tuyển cho đi.
Vua xuống
chiếu cầu các người hiền lương và minh kinh làm chức Tư Nghiệp nhà
học quốc tử, vào hầu giảng sách cho Vua.
Nhà Tống
chỉ c̣n ở mảnh đất Lâm An, thường bị người Nguyên đến xâm lấn, phải
dùng thuyền biển chở cả vợ con, của cải đến Cát La Nguyên, đặt ra
phường Giai Tuân, gọi tên là Hồi Kê. (Người Tống đem thuốc bắc sang
buôn bán với nước ta, người nước ta gọi là Kê quốc nên có tên là Hồi
Kê). Vua lập con trưởng là Thấm làm Thái tử, kén nho sĩ vào chực hầu
Đông Cung; lại làm ra 2 quyển Di Hậu Lục cho Thái tử.
Người
Nguyên cử Diệp Thức Nghê làm chức Đạt Lỗ Hoa Xích để giám trị, động
làm việc ǵ như có người ḱm giữ ở bên, bị họ lấn át, xin đổi chức
quan sai sang đó gọi là Dẫn Tiến sứ. Vua Nguyên không cho, lại đem
quân đi tuần biên giới, xem địa thế nước ta, quan giữ biên giới của
ta đem việc ấy tâu lên, Vua sai Lê Khắc Phục đến giải thuyết, lại
sai Đào Thế Quang lấy tiếng là đi mua thuốc bắc, sang Long Châu ḍ
thám t́nh trạng người Nguyên.
Thượng
hoàng mất, theo lệ cũ, khi nào Vua mất, th́ kéo chuông ở triều. Khi
ấy Thiều Dương Công chúa đă lấy chồng rồi, thường sai người đến thăm
hỏi bệnh t́nh Thượng hoàng, tả hữu thưa rằng đă b́nh phục. Hôm ấy,
Công chúa đương ở cữ, nghe tiếng chuông ở triều liên hồi, thất kinh
nói: "Có lẽ Thượng Hoàng mất" thương khóc quá rồi cũng mất theo,
người trong nước đều tỏ ḷng thương xót. Vua Thái Tôn đă truyền ngôi
rồi, thường đi chơi các chùa Quỳnh Lâm, Hoa Yên, gặp lúc Đức Thành
người Tống đi thuyền biển đến, Vua mời vào nói chuyện. Đức Thành hỏi
lư Thích già độ người ta thế nào, vua đọc câu kệ rằng: "Thiên giang
hữu thủy thiên giang thủy, vạn lư vô vân vạn lư thiền" tùy câu hỏi
mà trả lời, đều thành câu văn nhă như là những câu: "Xuân vũ vô cao
hạ, hoa chi tự đoản trường"(3) và câu: "Mạc vị vô tâm vân thị đạo,
vô tâm do cách nhật trùng quan"(4) Đức Thành lại hỏi: "Các vị đế
vương ngộ đạo được thị được nhân duyên ǵ?". Vua nói: "ta và ngươi
như hai mộc mà cùng một hỏa, phóng ra th́ rộng cả kiền khôn vô cùng,
thu lại th́ mảy may có thể hết được; thân người ta ai cũng có minh
châu sáng suốt, mùa xuân đến th́ hoa tự nhiên nở". Đức Thành phục là
ngộ đạo.
Vua Thái
Tôn đến nhà ngự, hốt nhiên thấy con rết leo lên áo, lấy tay gạt
xuống đất, có tiếng kêu, trông ra là cái đinh sắt, nhân thế mới xem
bói, nói rằng: đó là triệu 10 năm. Lại đùa bảo Mặc Lăo xem cho biết
tốt hay xấu, Mặc Lăo nói: "Thấy có một cái rương vuông, bốn bên đều
có chữ Nguyệt, trên rương có một cái kim, cái lược". Vua Thái Tôn
giải nghĩa rằng: Rương là gỗ vuông, bốn bên đều có chữ nguyệt là bốn
tháng. Cái kim có thể đâm vào vật ǵ, đó là triệu vào nằm trong gỗ,
chữ sơ là cái lược đồng âm chữ sơ là xa nghĩa là xa nhau". Đương khi
nói Vua đùa, có câu: Chóng đến mồng một sẽ có thay phiên. Vua xem
quẻ nói rằng: "Đó là ngày mồng một sẽ chết. Đến khi ấy quẻ đúng lời
xem bói."
Vua Dụ
Tôn có làm thơ khen vua Thái Tôn:
"Đường,
Việt khai cơ lưỡng Thái Tông,(5)
Đường
xưng Trinh Quán ngă Nguyên Phong.
Kiến Thành
tru tử An Sinh tại,
Miếu hiệu
tuy đồng đức bất đồng."
Bà Chiêu
Thánh mất. Bà đă bị giáng là Công chúa, rồi gả cho Phụ Trần, khi ấy
mất đă 61 tuổi. Hiện nay ở tỉnh Bắc Giang, có đầm Minh Châu, giữa
đầm có phiến đá to, người ta truyền lại rằng: Bà Chiêu Thánh cắp ḥn
đá nhảy xuống đầm mà chết, trên bờ đầm có miếu Chiêu Hoàng. Đó là
thổ dân nơi đó bênh vực hồi mộ cho bà Chiêu Hoàng mà đặt ra thuyết
ấy.
Bà Chiêu
Hoàng nhất sinh ra là người dâm, cuồng, lầy chồng không vừa lứa đôi,
đâu c̣n trinh tiết như lời người ta truyền lại.
Vua
truyền ngôi cho Thái tử, Thái tử lên ngôi vua tự xưng là Hiếu Hoàng.
Vua
Nguyên nghe tin vua Thái Tôn mất, có ư muốn lấy đất nước ta sai Sài
Xuân đến lấy cớ rằng Vua ta không thỉnh mệnh vua Nguyên mà tự lập
làm vua, trách bắt Vua ta phải vào chầu, Vua ta nói: "V́ sinh trưởng
ở thâm cung không quen phong tục, thủy thổ chưa thể nào yết kiến vua
Nguyên được". Xuân phải trở về; Vua sai Trịnh Đ́nh Toản sang Nguyên
dâng con voi đă dạy thuần, người Nguyên giữ sử thần ta ở lại không
cho về.
1) Hầu Vương đều được một vài làng để thu thuế khóa làng đó làm bổng
lộc, gọi là thực ấp.
2) Bảng kê người họ xa hay gần để định lễ để tang trở.
3) Mưa xuân không chỗ cao hay thấp, cành hoa tự nhiên có cành dài,
cành ngắn.
4) Đừng bảo vô tâm là đạo đăn, vô tâm lại c̣n cách một lần cửa nữa
mới đến đạo.
5) Đường và Việt đều có vua Thái Tôn, Đường hiệu Trinh Quán, Việt
hiệu Nguyên Phong, Đường Thái Tôn giết anh là Kiến Thành, v́ làm
phản, Việt cũng có anh là An Sinh làm phản mà không giết, là hơn
Đường Thái Tôn.
Trần Nhân
Tôn
NHÂN TÔN
HOÀNG ĐẾ
Tên là
Khâm, con trưởng vua Thánh Tôn, ở ngôi vua 14 năm, tốn vị 5 năm,
xuất gia tu hành 8 năm, hưởng thọ 51 tuổi, sự nghiệp trong đời vua
Nhân Tôn hơn cả các đời trước, cũng là vị vua hiền của nhà Trần.
Niên hiệu
Thiệu Bảo thứ nhất, người Nguyên đánh nhà Tống, Thừa tướng nhà Tống
là Lục Tú Phu cơng vua Tống nhảy xuống biển, những người theo xuống
biển mà bị chết đuối đến hơn 10 vạn người. Năm ấy nhà Tống mất nước.
(Năm trước có ngôi sao lớn sa về phía Nam, rơi vào biển, đến hơn
1.000 v́ sao nhỏ cùng rơi theo, đó là điềm báo trước).
Ban mẫu quan xích (thước đo gỗ, thước đo lụa cùng một niên hiệu).
Em Đỗ
Khắc Chung là Thiên Nghiễn tranh tụng với người ta, t́nh và lư đều
kém hụt, người đó đón xe vua mà bày tỏ tố cáo, vua hỏi quan giữ việc
h́nh ngục, thưa rằng: "Án đă thành rồi, nhưng h́nh quan thoái thác
không chuẩn y"; Vua nói đó là sợ Khắc Chung đấy, sai Trần Hùng Thao
xét lại, quả nhiên Lư Thiên Nghiễn gian. Hoạn quan áo xanh dự vào
pháp luật bắt đầu từ Hùng Thao trước.
Sử thần
bàn rằng: Thiên Nghiễn cậy thế, quan ṭa ngâm việc, tiểu dân bị oan
ức không kêu đâu được, sai quan khác xét lại, là phải lắm rồi, nhưng
mà trong các quan khanh tướng khởi hữu không c̣n người đáng sai, mà
cớ ǵ lại sai Hùng Thao là hoạn quan? Sau này quyền bính di chuyển
mất dần, sự gian trong giới quan dần nảy nở, đă khơi ng̣i rồi, không
ngăn lại được nữa, thật đáng tiếc.
Trịnh
Giác Mật ở Đà Giang làm phản, vua xuống chiếu cử Nhật Duật đến dụ
Giác Mật đầu hàng.
Giác Mật
xin điều khoản rằng "tôi không dám trái mệnh vua, nếu ân chủ quá bộ
đến nơi chúng tôi th́ tức khắc tôi xin đầu hàng". Nhật Duật đem theo
5, 6 đứa nhỏ đi đến nơi, quân sĩ ngăn không muốn để ông đi, Nhật
Duật nói: "Nếu chúng phản bội ta, th́ triều đ́nh c̣n có vị vương
khác lại đến, không lo ngại ǵ". Khi đến nơi, người Mán cầm gươm
giáo đứng chờ sẵn, Nhật Duật không nh́n đến, cứ đi thẳng vào, Mật
mời ông ngồi lên trên, ông vốn thông hiểu tiếng Mán, cùng với Mật ăn
bốc bằng tay, uống bằng mũi, người Mán vui lắm, Mật đem cả gia quyến
đến xin đầu hàng; không mất một mũi tên nào mà b́nh được Đà Giang.
Nhật Duật đưa Mật đến cửa Khuyết, vua khen ngợi, liền tha cho Mật
trở về.
Nhật Duật
đi lần này cùng với việc Tử Nghi một ngựa đến Hồi Ngột, giống như
nhau, v́ rằng đă sẵn có danh vọng lớn và ḷng tin thật, nên quân
dịch bất giác phải hàng phục, trong khi ông tỏ phong độ và lời nói
có khí phách, nhưng không phải là chính pháp của bậc danh tướng.
Cử Trần Di Ái (hàng chú Vua) đi sang Nguyên. Trước kia người Nguyên
liền dụ Vua ta vào chầu. thượng hoàng dâng biểu xin đưa con hay em
vào làm con tin, đến lúc ấy lấy cớ Di Ái là người tôn thất nên sai
đi, vua Nguyên giận, liền lập Di Ái làm quốc vương sai Xuân đem quân
hộ tống về nước, Xuân kiêu ngạo vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào, quân
sĩ cản lại, Xuân dùng roi ngựa đánh bị thương ở đầu, đi đến điện Tập
Hiền, Vua sai Quang Khải tiếp kiến khoản đăi, Xuân nằm không chịu
ngồi dậy, Quốc Tuấn xin đến nơi xem nó làm tṛ ǵ, lúc ấy Quốc Tuấn
đă cắt tóc mặc áo vải, làm ra dáng vị ḥa thượng nước Tàu, Xuân đứng
lên vái và mời ngồi, đối diện uống nước chè, tên hầu của Xuân cầm
cái roi đứng sau Quốc Tuấn, tự đập đầu nó chảy máu, Quốc tuấn không
đổi sắc mặt, đến khi trở ra về, Xuân tiễn ra tận cửa.
Bọn sứ thần nhà Nguyên kiên ngạo, khinh mạn, không chỉ một Sài xuân,
như Từ Diễn, Hoàng Thường đều có ư khinh rẻ, thế mà trong khi giao
tiếp, hàm xúc ư tứ, khi cương khi nhu càng nâng cao quốc thể, đó
cũng là một thuật làm cho chúng phải sợ người Nam.
Cấm người làng Thiên Thuộc không được vào học.
Luyện tập
quân thủy và quân bộ. Khi bấy giờ Nguyễn Chương đi sang sứ Nguyên
trở về, nói rằng: "Sang năm là kỳ khởi binh của chúng". Vua thân
hành đốc xuất Vương, Hầu điều động cả quân thủy và bộ tập chiến, cử
Quốc Tuấn làm quan Tiết chế, kén quân hiệu người nào có tướng tài
th́ cho chia ra thống suất các bộ ngũ. Duyệt binh lớn ở bến Đông Bộ
Đầu, chia quân đóng ở các xứ B́nh Than, giữ các nơi hiểm yếu.
Nhà
Nguyên sai Trấn Nam Vương là Thoát Hoan đi đánh nước Chiêm Thành cậy
có đất nước hiểm trở, vững chắc, không chịu theo, phàm các sứ thần
Nguyên đi qua các nước ấy đều bị bắt giữ. Chúa Nguyên giận cho quân
đến đánh, Nguyên lại sai Hành Xảnh đất Kinh Hồ là Toa Đô đem quân
hội chiến, lại sợ nước ta thông mưu với Chiêm Thành, đ̣i nước ta
cung cấp lương để giúp cho quân, quan tỉnh Lạng Sơn là Lương Uất tâu
Vua biết: "Toa Đô nói dối là mượn đường, thật ra là xâm lấn nước
ta".
Có con cá
sấu đến sông Lô, sai Nguyễn Thuyên làm bài văn ném xuống giữa sông,
cá sấu tự nhiên bỏ đi. Vua cho việc này giống việc Hàn Dũ làm văn
đuổi cá sấu, cho Thuyên đổi họ là Hàn. Thuyên giỏi làm văn quốc ngữ,
nhiều người bắt chước. Nay các thơ Nôm gọi là Hàn luật, là bắt đầu
từ đây.
Cử Trần
Khánh Dư làm Phó Đô Tướng quân. Trước kia Nguyên sang xâm nước ta,
Khánh Dư thừa lúc bất ngờ tập kích, Thượng hoàng khen là người có
trí và thao lược, phong làm Thiên tư nghĩa dũng (nguyên là Nhân Huệ
Vương), sau v́ tư thông với Thiên Thụy Công chúa, v́ tội ấy mà bị
mất tước, (Công chúa là người đă hứa gả cho con Quốc Tuấn là Hưng Vơ
Vương Nghiễn, vua sợ mất ḷng Quốc Tuấn, sai đánh trượng chết đi,
nhưng lại tiếc người có tài, ngầm bảo đừng đánh chết), lui về ở Chí
Linh, v́ trước có nghề bán than, khi ấy vua đi B́nh Than, hội bách
quan bàn định kế sách đánh Nguyên hay là giữ; hốt nhiên có thuyền
lớn chở củi gỗ, nhân được nước thủy triều lui và gió to, đi qua B́nh
Than, chủ thuyền đội nón cỏ mặc áo lụa ngắn, Vua chỉ vào mà nói :
"Người kia có phải Nhân Huệ Vương không?", sai quân lính chạy theo
gọi lại, nói:Vua triệu ngươi. Khánh Dư nói: "Ông già buôn bán than,
có việc ǵ mà triệu?". Vua nói: "Quả thật Nhân Huệ rồi, người thường
tất không dám nói câu ấy". Khi đến trước mặt Vua, vẫn mặc áo lụa
ngắn yết kiến. Vua nói: "Nam nhi lạc phách đến thế kia a?". Vua cởi
áo ra cho, cùng bàn việc binh, nhiều điều hợp ư, nên cho làm chức
ấy.
Hoài Văn
Hầu Quốc Toản cũng ở trong đoàn hỗ giá, v́ c̣n trẻ tuổi, không được
dự nghị, lấy làm xấu hổ lắm, tay đương cầm quả cam bóp bẹp lúc nào
không biết, lui về nhà, đốc xuất hơn ngh́n gia thuộc, sắm sửa chiến
thuyền và binh khí; kéo cờ to đề 6 chữ "Phá cường địch báo hoàng ân"
(1), thân hành đi trước quân sĩ, mỗi khi đối trận với giặc, không ai
dám đương đầu với ông, đến khi mất, Vua rất tiếc, tự làm bài văn tế
ông. T
hượng vị
hầu là Trần Lăo làm thư nặc danh chê trách việc nước, Vua xuống
chiếu trị tội, bị phát văng làm lính.
Vua sai
Trần Phủ sang Nguyên yêu cầu hoăn việc quân. Khi Phủ trở về nói:
"Nguyên sai Thoát Hoan và A Lư Hải Nha cầm quân, giả danh là đánh
Chiêm Thành, thật ra là chia nhiều đường sang xâm nước ta", Thượng
hoàng triệu các phụ lăo trong nước đến điện Diên Hồng vấn kế, vạn
người đều cùng nói đánh, (giặc Hồ vào cướp chỉ có việc đánh thôi,
sao lại phải hỏi đến phu lăo làm ǵ, là ư muốn xét biết ḷng dân,
làm cho họ cảm khích, vẫn c̣n theo ư khất ngôn của đời cổ).
Quân của
Thoát Hoan kéo đến biên giới, đưa thư cho nước ta, nói là mượn đường
đánh Chiêm Thành. Vua sai phục thư nói: "Từ nước tôi đến nước Chiêm
Thành, cả đường thủy và đường bộ không đường nào tiện". Thoát Hoan
lại nói cớ hưng binh, thật là v́ Chiêm Thành không phải v́ An Nam.
Vua sai Quốc Tuấn đem quân chẹn ở núi Kỳ Ôn, Kỳ Cấp, quân Thoát Hoan
không tiến lên được, phải do ải Khải Ly, qua cửa Chi Lăng, quan quân
ta đóng ở Vạn Kiếp. Vua ngự thuyền lẹ đi Hải Đông, đă muộn mà chưa
ăn sáng, tiểu tốt Trần Lai dâng cơm gạo hẩm, vua khen là trung. Vừa
lúc ấy Quốc Tuấn điều động quân các lộ đến hội, kén người khoẻ mạnh
làm quân tiền phong, quân thế lừng lẫy thêm, Vua cho câu thơ đề ở
thuyền rằng; "Cối Kê cựu sự quân tu kư, Hoan, Diễn do tồn thập vạn
binh"(2). Các vị vương là Nghiễn, Uất,
Tảng, đều
đốc các toán quân đến hội, dưới sự chỉ huy của Quốc Tuấn.
Quốc Tuấn
có gia nô là Giă Tượng và Yết Kiêu. Kiêu giữ thuyền ở bến đ̣ Băi,
một ḿnh Tượng theo ông đi; quan quân ta bị thất lợi, Quốc Tuấn muốn
noi theo đường sơn cước mà tiến quân. Tượng nói: Kiêu chưa gặp
vương, tất không nhổ thuyền đi nơi khác. Vội đến bến đ̣ Băi, quả
nhiên c̣n độc một thuyền của Kiêu ở đó, Quốc Tuấn mừng lắm nói:
"Chim Hồng và chim hộc bay được cao, tất phải nhờ có lông cánh mạnh,
nếu không th́ chả khác ǵ chim thường; liền kéo thuyền đến cả sông
Vạn Kiếp, chia quân đóng giữ Bắc Giang. Người Nguyên chia ra 2 đạo
quân mà đánh, quan quân ta phải lùi, 20 vạn chiến thuyền bị quân
giặc cướp mất cả, quân giặc thừa thắng kéo lên Gia Lâm, Đông Ngàn,
bắt được tên quân nào của ta ở cánh tay đều có thích 2 chữ "sát
thát" bằng mực, th́ giận lắm, lại càng chém giết mạnh hơn. Vua muốn
cho người ḍ t́nh h́nh quân giặc, mà khó kén được người, Đỗ Khắc
Chung xin đi, Vua khen là có chí khí hăng hái, nói rằng: "Biết đâu
trong đám ngựa kéo xe muối lại có ngựa hay như kỳ kư". Liền sai
Chung đi đến trại quân Nguyên xin ḥa, Ô Mă Nhi hỏi vặn về hai chữ
sát thát, cho là vô lễ, Chung trả lời: "Chó nhà người ta cắn chó
người v́ không phải là chủ nó, ḷng trung phẫn của quân lính tự
thích chữ đó, quốc vương tôi nào biết được, tôi là cận thần sao lại
không có các chữ ấy thích vào tay" rồi giơ tay cho chúng xem. Ô Mă
Nhi nói: "Đại quân ở xa đến, sao nước người không đến yết kiến, lại
dám kháng cự?". Chung trả lời: "V́ tướng quân không theo cánh của
Hàn Tín b́nh nước Yên, hăy đóng quân ở biên giới, cho đem thư đến
trước, nếu bấy giờ không chịu thông hiếu, mới là có lỗi; nay lại bức
bách nhau quá, loài thú cùng quá cũng phải cắn lại, huống chi là
người". Ô Mă Nhi nói: "Đại quân chỉ mượn đường đi đánh ChiêmThành,
Quốc vương phải đến tương kiến ngay, th́ trong nước được yên; nếu
không th́ chỉ trong khoảnh khắc, núi sông sẽ phá bằng như b́nh địa,
lúc ấy không hối lại được nữa". Khi Khắc Chung về rồi, người Nguyên
bảo nhau rằng: "Chúng nó đương bị oai hiếp, mà vẫn ăn nói có vẻ mặt
tự nhiên, không hạ Vua xuống là tên ăn trộm Chích, không nịnh vua ta
là vua Nghiêu, thật khéo ứng đối, nước chúng có người giỏi, chưa dễ
tính được đâu". Khắc Chung về th́ quân Nguyên lại theo gót đến, cự
nhau với quân ta. Thoát Hoan lên sông Nhĩ Hà, cột liền bè vào làm
cầu, cho quân qua sông; quân ta theo hai bên sông lập đồn để cự lại,
không được; ngày đă về chiều, quân giặc qua được sông vào kinh
thành, Vua sai đưa Thiên Tư Công chúa cho chúng, để thư nạn cho nước
(Công chúa là em gái út của vua Thánh Tôn, đem gả cho Thoát Hoan
thật không c̣n kế sách ǵ, đáng cười lắm).
Trần B́nh Trọng (con cháu vua Lê Đại Hành, làm quan với Trần, được
đổi họ Trần, phong làm Bảo Nghĩa Vương) đánh nhau với quân Nguyên ở
băi Đà Mạc, thua, bị bắt, quân giặc hỏi quốc sư, ông không trả lời,
ông nói: Thà ta làm quỷ nước Nam, không thèm làm vương đất Bắc", rồi
bị chúng giết, Vua được tin thương xót quá.
Vua triệu
Quốc Tuấn đến vấn kế. Bấy giờ quân Nguyên bầy hàng thuyền ở từ Hoàng
Giang trở lên, đầy khắp hai bên sông, Quốc Tuấn ở thượng lưu sông
ghép tre làm bè, chứa đá sỏi, thừa lúc gió bắc thuận ḍng thả xuống,
chiến thuyền theo sau, thuyền của Nguyên bị bè tre nứa vướng chặt,
quân ta nhân cơ hội ấy đánh giáp lại, phá được quân giặc.
Vua rước Thượng hoàng đi Tam Trĩ Nguyên, Thoát Hoan vào thành biết
Vua đă đi rồi, đuổi theo càng gấp. Khi bấy giờ xa giá đă chạy trốn,
Quốc Tuấn có tiếng là người có kỳ tài, lại có điều hiềm khích của An
Sinh Vương, dân chúng để ḷng ngờ vực; khi ấy ông theo vua đi tay
cầm gậy gỗ đầu có bịt sắt nhọn, ai cũng ngấp nghé nh́n xem sao, Quốc
Tuấn lập tức tháo bỏ sắt nhọn ấy đi, chỉ c̣n gậy gỗ không, dân chúng
mới được yên ḷng.
Bấy giờ
quân Nguyên ḍ biết vua ở nơi nào rồi, lại gặp lúc tướng Nguyên là
Toa Đô đem quân từ Chiêm Thành về, hợp với quân của Thoát Hoan, chia
cho Tả thừa đi đường thủy, Hữu thừa đi đường bộ, cùng tiến quân;
Vua phải
bỏ thuyền lên đường bộ, dẫn quân về phía đông, c̣n chiến thuyền th́
bị quân Nguyên bắt mất cả, Vua lại phải lấy thuyền do cửa biển Nam
Triệu vào Thanh Hóa.
Con Quốc
Khang là Kiến cùng thuộc hạ là Lê Xí đầu hàng quân Nguyên (Toa Đô
đưa Kiến về Yên Kinh, gia nô của Quốc Tuấn đón đường bắn chết Kiến).
Lũ Trần
Ích Tắc cũng đưa gia quyến đầu hàng quân Nguyên. Ích Tắc 15 tuổi đă
thông hiểu thư sử, tự phụ là thông minh, vẫn ngấm ngầm có ḷng cướp
ngôi con cả, đă từng gởi thư riêng nhờ bọn lái buôn Vân Đồn đưa đi,
xin quân Nguyên sang nước Nam, đến khi ấy quân Nguyên đến xâm lăng
th́ y liền đầu hàng, mong được có cả nước Nam. (Xưa vua Thái Tôn nằm
mộng thấy vị thần 3 mắt, nói rằng bị thượng đế phạt, giáng xuống
trần xin kư thác vào Vua, sau lại đi về bắc. Đến lúc sinh ra Ích Tắc
trên trán có vết ẩn ở trong như một mắt nữa).
Chiêu Văn
Vương là Nhật Duật đánh bại quân Nguyên ở Hàm Tử Quan, hồi trước Toa
Đô từ Chiêm Thành ra, hội quân ở Ô Rí, liền đến cướp đất Hoan và Ái,
tiến lên đóng ở Tây Kết, Vua và quần thần bàn rằng: "Quân giặc bao
năm đi xa, vận lương hàng vạn dặm, thế tất mỏi mệt, quân ta thư thả
đánh quân bị khó nhọc sẵn, tất phá được chúng". Sai khinh binh đón
đánh, đánh nhau ở Hàm Tử Quan, trong quân của Nhật Duật có người ăn
mặc lối người Tống, cầm cung tên ra đánh, Thượng hoàng lấy cớ người
Tống và người Thát Đát tiếng nói và ăn mặc giống nhau, sợ không phân
biệt, sai người truyền cáo rằng: Đó là người Thát Đát của Chiêu Văn
Vương đấy, lên nhận kỹ. Người Nguyên thấy có người ăn mặc lối nhà
Tống, cho là có người Tống giúp sức, đều tan vỡ chạy mất. Xưa lúc
Tống mất nước, có nhiều người chạy về nước ta trong bọn có Triệu
Trung là người mạnh giỏi, Nhật Duật thu dụng làm gia tướng. Cho nên
công đánh được Nguyên, là công Nhật Duật nhiều hơn cả.
Vua rước
Thượng hoàng thân chinh, đánh bại lớn quân Nguyên ở Tràng An, giết
và bắt được vô kể. Lúc bấy giờ Toa Đô cùng Thoát Hoan đóng quân cách
nhau 200 dặm, quân Thoát Hoan thua, mà quân Toa Đô c̣n chưa biết,
cùng với Ô Mă Nhi từ đường biển đi đến sông Thiên Mạc, muốn đến làm
viện binh cho Thoát Hoan, quân du kích đi đến Phù Ninh, Phụ Đạo là
Hà Đặc lên đóng ở Trĩ Sơn để cố thủ, lấy tre đan thành h́nh người to
lớn, cho mặc áo, cứ đêm th́ dẫn ra, dẫn vào; lại khoét thủng cây
lớn, cắm mũi tên lớn vào đó, để cho giặc nghi sức tên bắn mạnh đến
thế; quả nhiên giặc sợ không dám giao chiến, quân ta nhân thể cố sức
đánh phá được. Em Đặc là Chương lấy trộm được cờ xí trốn về dâng
Vua, xin dùng hiệu cờ giả làm quân giặc, đương đêm đến phá quân
dinh, giặc không ngờ là quân của ta, liền tan vỡ. Vua tiến quân lên
đóng ở Đại Mang, Tổng quản của Nguyên là Trương Hiển đầu hàng, đại
phá quân Nguyên ở Tây Kết, chém được Nguyên súy Toa Đô, bắt được đồ
đảng của chúng 5 vạn người, Ô Mă Nhi phải trốn, dùng một thuyền nhỏ
ra biển được thoát chết. Thoát Hoan cũng phải thu quân chạy về nước,
Lư Hoằng đi tập hậu; đến Sách Giang chưa kịp qua đ̣. Quốc Tuấn mai
phục sẵn trong rừng nứa, dùng nỏ bắn ra, Hoằng bị trúng mũi tên
chết; quân ta đuổi theo, quân Nguyên mất đến quá nữa, tướng sĩ đánh
thù tử mới hộ vệ Thoát Hoan ra được khỏi địa giới, rồi về Tàu. Vua
trông thấy thủ cấp Toa Đô, động ḷng nói "Làm tôi phải như thế này",
rồi sai đem mai táng. Sau lại v́ Toa Đô đốt cung điện, tàn bạo bách
tính, sai tẩm dầu cái đầu ấy mà đốt đi, để răn bảo dân chúng.
Sử thần
bàn rằng: Mỗi lần có tin báo quân Nguyên sang cướp, th́ tất là Vua
thân hành ra ngoài trông coi quân, khi đi đông, đi tây, không đi
nhất định đường nào, khi ở trên bộ, khi ở thủy không đóng nhất định
ở đâu, đó không phải là rát, là v́ Vua ở bên ngoài, th́ dễ hiệu
triệu thiên hạ. Cổ lệ ḷng hăng hái của quân sĩ, chư tướng th́ tiện
việc tâu xin mệnh lệnh, tam quân th́ vui ḷng xông pha, lính tráng
đều là quân của nước, của nhà giàu là của nước, có cơ hội nào th́ cổ
động quân sĩ xông vào trước, gặp t́nh thế không may th́ tùy tiện mà
chống giữ; khi tiến quân th́ nhanh như chớp nhoáng, khi lui về th́
như rồng rắn ẩn thân, giặc không biết đâu mà lường đạc được, nếu chỉ
nấp giữ ở trong thành, th́ địch coi đó là sào huyệt, chúng sẽ chặn
đường không cho vận lương đến, và giữ viện binh không vào được, đến
nỗi lương hết, lực cùng, chả nguy lắm sao. Có tin giặc đến mà Vua
lập tức đi ra ngoài, đó là kỳ kế, liệu sức giặc và tính cách đánh
của nhà Trần.
Vua rước
Thượng hoàng về kinh đô, tuyên công trạng và phong chức tước cho
công thần, trị tội kẻ đă hàng quân giặc. C
ho đưa tù
binh Chiêm Thành trả về nước (người Chiêm Thành bị Toa Đô bắt th́
đều cho về hết).
Vua xuống
chiếu định số nhân khẩu ở trong nước. Triều thần can rằng: "Dân
đương lao khổ, mà định số nhân khẩu, không phải là việc cấp". Vua
nói: "Lúc này chính là lúc nên xét định, để cho chúng đừng ḍ sự
điêu tàn của ta". Quần thần đều phục là phải.
Lúc ấy
quân giặc mới rút lui, dân bị thương đau chưa khỏi, dân lưu tán chưa
kéo về, thôn xóm đồng ruộng điêu tàn xơ xác, chiêu tập vỗ về dân c̣n
chua xong, mà đă vội vàng làm sổ đinh; trong việc làm ấy th́ phải
quan chức tra xét, dân chúng hội họp, phí tổn về ăn uống; con gà,
đùi lợn tránh sao khỏi phí, sổ mới, lệ cũ so sánh khó đều, sau khi
binh lửa, mà phải bỏ nghề nghiệp đi hầu tra cứu nhiễu dân quá lắm;
quần thần biết nói phải để chữa lỗi lầm, Vua trên lại trái lời can
mà đặt điều để che lỗi; thế mà quần thần không cố can gián, mà lại
khen phục, có phải gần như xiểm nịnh không?
Thoát
Hoan thu về nước, vua Nguyên giận lắm, băi quân đánh Nhật Bản, đưa
hết quân sang đánh Nam, hẹn đến tháng 8 th́ xuất quân sang xâm lấn
nước Nam; phong Trần Ích Tắc làm vua nước Nam, sai đưa về nước. Lưu
Tuyên can rằng: "Liền liền năm nào cũng dụng binh, tật bịnh chưa lại
sức, nay lại đưa quân đến viêm nhiệt, tứ dân đều phải bỏ nghề nghiệp
mà đi đánh, không phải là kế sách hay". Vua Nguyên nghe theo, tha
quân tỉnh nào về tỉnh ấy, cho Ích Tắc ở Ngạc Châu, cấp cho khu ruộng
Hán Dương để mà sinh nhai.
Vua hỏi
Quốc Tuấn rằng: "Năm nay quân Nguyên tất lại sang, chưa biết t́nh
thế chúng thế nào?". Quốc Tuấn trả lời: "Nước ta hưởng thái b́nh đă
lâu, dân không biết đến việc binh, v́ thế, năm trước quân giặc đến
có kẻ đầu hàng, có kẻ trốn tránh, may nhờ oai linh tổ tiên và thần
vũ của Bệ hạ, mà đánh đuổi chúng. Nếu lần này chúng lại sang, th́
quân ta đă quen chiến đấu rồi, quân chúng th́ sợ phải đi xa xôi, tất
là phá được".
Nhà
Nguyên lại sai Thoát Hoan đốc suất 7 vạn quân Mông Cổ, Hán Khoản
sang xâm lấn nước ta, Trương Văn Hổ vận tải 17 vạn thạch(3) vạn
lương thực đi theo. Khi ấy hốt nhiên có biên báo, nhà cầm quyền xin
kén tráng đinh xung vào quân ngũ, Quốc Tuấn nói: "Cần luyện tập quân
cho tinh, chứ không cần nhiều; túng xử có 10 vạn quân như quân Bồ
Kiên mà không tinh luyện có làm ǵ được". Vua hỏi: "Giặc đến th́ làm
thế nào?". Quốc Tuấn trả lời: "Năm nay thế giặc dễ đánh, không đáng
lo".
Quân
Thoát Hoan đến Nam Quan, chia ra ba đạo tiến sang. (Tŕnh Bằng Phi
do đạo tây đi vào Vĩnh B́nh, Ô Mă Nhi đi đường biển vào An Bang, Áo
Lỗ Ma đi theo cửa Nữ Nhi Quan). Tướng bộ quân của Nguyên là Bằng Phi
đánh trại Phù Sơn, quân ta đón đánh, bắn bằng tên thuốc độc, quân
giặc hơi phải rút lui, chiến thuyền của Nguyên đến cửa biển An Bang,
quân ta thảng thốt không pḥng bị sẵn, phải bỏ thuyền chạy, bị quân
giặc lấy mất nhiều chiến thuyền; Nhân Đức độc lực cố đánh, quân giặc
chết đuối mất nhiều, lấy lại được thuyền chiến. Thoát Hoan sai Bằng
Phi kéo quân đánh Vạn Kiếp, hợp với quân Ô Mă Nhi thuận theo ḍng
sông xuống phía đông, đến thẳng kinh đô, qua sông Phú Lương, đóng
quân ở bên thành, quan quân ta đến đánh, không được lợi. Vua phải
rước Thượng hoàng đi về phía nam. Khi bấy giờ Quốc Tuấn làm Thống
tướng, nhất thiết các việc ở biên giới đến ủy cho Phó tướng Vân Đồn
là Trần Khánh Dư. Đến lúc này Ô Mă Nhi đưa thủy quân ra cửa biển Đại
Bàng đón thuyền lương của Văn Hổ, nhưng không gặp, Khánh Dư đến đánh
không lợi, Thương hoàng được tin, sai trung sứ khóa tay giải đến nơi
Vua đóng quân, Khánh Dư nói: "Xin chịu nhận quân kỷ, nhưng xin rộng
cho 3 ngày để lo đánh lại", Trung sứ theo lời xin; Khánh Dư đoán
chừng thuyền quân của giặc đi qua rồi, thuyền lương tất phải theo
sau, liền thu thập tàn tốt chờ ở đó, lát sau, quả nhiều thuyền lương
của Văn Hổ kéo đến, đón đánh đại phá được, gạo phải ch́m xuống biển,
bắt được nhiều quân sĩ và khí giới, dâng thư báo tiệp, Thương hoàng
tha tội trước không hỏi đến, và nói: "Quân giặc chỉ trông nhờ vào
lương thực, nay bị ta bắt mất, không thể nào ở lâu được". Mới thả
bọn quân đă bắt được trở về trại quân Nguyên để cho chúng biết. Quân
Nguyên thiếu lương ăn, không c̣n chí chiến đấu nữa, cho nên năm nay
bách tính không bị thảm khốc quá như năm trước, thật là công Khánh
Dư.
Lúc
trước Khánh Dư ở Vân Đồn, tục nơi ấy chỉ có nghề buôn bán để sinh
nhai, ăn mặc đều nhờ vào bọn dân Tàu, nên cái ǵ cũng theo phong tục
Tàu. Khánh Dư hạ lệnh nói: "Quân trấn giữ Vân Đồn, là để ngăn pḥng
giặc Hồ, không nên đội nói của Tàu, sợ khi vội vàng khó phân biệt,
nên đội nón Ma Lôị(4) để cho phân biệt". Khánh Dư đă mua thứ nói ấy
chở đầy thuyền đem về, người trại Vân Đồn tranh nhau đến mua nón,
giá bán cao lắm, 1 cái nón trị giá 1 tấm vải, được lợi kể hàng ngh́n
tấm vải; người Tàu làm thơ mừng ông có câu: "Gà chó Vân Đồn đều phải
sợ", nói thác là người ta sợ oai danh của ông, nhưng thật là chê bai
ngầm đó. Sự tham bỉ của ông đại loại như thế.
Khi
Khánh Dư ở trấn Vân Đồn, có người cáo giác là tham bỉ, quan Hành
khiển đưa sự trạng tâu Vua, Khánh Dư nói: "Tướng là chim ưng, quân
là con vịt, đưa con vịt để nuôi chim ưng, có ǵ là lạ". Việc đánh
lui được giặc trong đời Trùng Hưng, ai cũng khen nhiều về trận thắng
ở sông Bạch Đằng của Hưng Đạo, nhưng không bằng trận thắng ở Vân Đồn
của Khánh Dư, là trương bản của các trận thắng khác đó.
Thoát
Hoan vào chiếm thành Thăng Long, thật ra lấy chỗ Vạn Kiếp làm đại
đồn, mà Phả Lại làm nơi tựa, ngày đêm mong đợi thuyền lương của Văn
Hổ vận theo đường biển đến. Đến lúc này quân tuyệt lương đói, liền
dẫn quân về Vạn Kiếp, sai A Bát Xích đi cướp lương thực của làng xóm
lân cận, được hơn 4 vạn gạo, mưu toan chia cho các đồn, để làm kế cố
thủ; tướng sĩ cấp dưới nhốn nháo kêu rằng: "Không c̣n kho tàng nào
có thể làm lương được, không ǵ bằng kéo quân về là hơn". Thoát Hoan
nghe lời ấy, liền quyết ư kéo quân về, sai Ô Mă Nhi đưa chiến thuyền
đi đường thủy kéo về trước. Trước kia, Quốc Tuấn lấy cớ An Bang(5)
là con đường mà quân Nguên về Bắc tất phải đi qua, sai cắm gỗ sẵn ở
ḷng sông Bạch Đằng che cỏ lên trên, đề chờ quân giặc. Đến khi quân
giặc của Ô Mă Nhi kéo về, Quốc Tuấn thừa lúc thủy triều lên, ra
khiêu chiến, giả thua chạy, quân giặc đuổi theo, mực nước xuống
thấp, thuyền mắc vào cây, Nguyễn Khoái lănh đạo quân Thánh Dực giao
chiến, lại gặp được đại quân của Vua đến theo, tung ra đánh mạnh,
đại phá được quân giặc, nước triều lui rất gấp, thuyền của giặc đều
vướng vào cọc gỗ, lật úp cả, chết đuối vô kể, nước sông đỏ ngầu, bắt
được Ô Mă Nhi dâng lên Thượng hoàng, khi dẫn y lên thuyền ngự, rót
rượu cho uống. Bằng Phi đi đường bộ, hộ vệ Thoát Hoan trốn về, quan
quân ta đă chặn đón trước ở ải Nội Bàng. Người Nguyên tự đắc, không
thoát được, vừa đánh vừa chạy, quân ta đứng trên cao dùng nỏ bắn
xuống; tướng sĩ Nguyên ngă như rạ, Thoát Hoan chỉ một thân đi đường
tắt Đan Ba trốn về.
Sử thần bàn rằng: Ngô Tiên Chúa phá quân Lưu Hoằng Tháo, Trần Hưng
Đạo bắt được Ô Mă Nhi, đều ở sông Bạch Đằng, là vơ công vẻ vang nhất
của nước ta, danh tiếng các vị hào kiệt ấy cùng với non sông ngh́n
đời nhớ măi, dấu vết hôi tanh của Hán và Nguyên, cũng theo măi với
nước non. Giang sơn nước Nam, sách trời định rơ, người Bắc tuy có
cậy trí lực chực chiếm cứ, nhưng dù có lấy được cũng không thể nào
giữ được, vậy th́ tham binh có làm ǵ được. Trương Hán Siêu làm bài
phú sông Bạch Đằng có câu: "Binh khí chôn vùi trong đống cát, xương
khô chất đống thành non cao; trận đại thắng ở sông này là do tự Đại
Vương đă định liệu trước", nghiền ngẫm kỹ lời và ư câu văn, mô tả
được trận thua của Hán và Nguyên, rất là thiết thực.
Vua rước
Thượng hoàng về phủ Long Hưng, dâng tù binh quân Nguyên lên Chiêu
Lăng - Lúc trước người Nguyên đă khai quật Chiêu Lăng, không phạm
vào Tử cung(6); đến khi quân giặc thua, th́ thấy chân ngựa đá ở lăng
đều lấm bùn, cho nên khi yết lăng có câu thơ: "Xă tắc lưỡng hồi lao
thạch mă, sơn hà thiên cổ điện kim âu"(7), đó là cảm thấy thần linh
của ông cha phù hộ ngầm cho mới được thế. Khi xe Vua đă về kinh đô,
cung điện bị giặc đốt phá, vào ở tạm nhà thị vệ. Đại xá cho trong
nước, phàm xứ nào bị binh lửa th́ được tha thuế khóa hoàn toàn,
ngoài ra tha có từng hạng một.
Lệ cũ:
Ṭa Hàn Lâm nghĩ soạn tờ chiếu, quan Hành khiển tuyên đọc chiếu. Nên
dự thảo tờ chiếu th́ đưa đến trước để tập đọc, để khi tuyên đọc hiểu
cả âm và nghĩa, cho dân dễ hiểu. Bấy giờ quan Tả phụ Lê Ṭng Giáo
cùng quan Hàn lâm Đinh Củng Viên bất ḥa với nhau, Củng Viên không
đưa bản thảo trước, Ṭng Giáo đ̣i không được; đến ngày lễ, Vua đă ra
rồi, mới giao tờ chiếu, Ṭng Giáo đọc không được thông, chỉ cúi đầu
lặng yên, Vua bảo Củng Viên đứng đằng sau mách bảo, Ṭng Giáo xấu
hổ. Vua dụ rằng: "Củng Viên là văn sĩ, người là Trung quan sao lại
bất ḥa với nhau đến thế? Người làm quan Lưu thủ ở Thiên Trường có
thổ sản như tôm biển, cam ngọt, tống tặng qua lại nhau, th́ có hại
ǵ". Từ đấy trở đi hai người lại thân mật với nhau lắm.
Sử thần
bàn rằng: Vua tôi triềuTrần thân nhau như một, người ở xa không hiềm
là xa mà kiêng kỵ; người ở gần không dám cậy gần vua mà khen chê
bậy; lại biết kinh lễ sĩ phu, nên các bậc nho được v́ có văn học mà
tự trọng, mà có phong tục tốt của cổ nhân. Có người nói: Vua bảo
Ṭng Giáo như thế, chả là mở lối cho người bày tôi giao thiệp tư đi
chăng? Trả lời: việc làm th́ hơi giống thế, nhưng thật không phải
thế, kia như Xuân Thu chê Tế Bá tư giao, kinh Thi có câu ca: Tặng
cho quả dưa, trả lại quả mận, tư giao ấy không giống việc này.
Vua sai Đỗ Thiên Nghiễn đi sang Nguyên (Thiên Nguyễn là em Khắc
Chung, đă có công về việc đi sứ Nguyên, nay lại tiến cử em). Trong
tờ biểu đem đi, đại lược nói: "Đại quân về rồi, mà thiên sứ chưa
thấy đến, vậy xin sai bồi thần kính dâng lễ mọn, đến trước cửa vua
trần t́nh, lễ thờ nước lớn tôi không dám thiếu. Ô Mă Nhi đă khởi
hành về nước, người trong nước ai cũng biết, đă giúp cho hành trang
và sai người hộ tống đi lối đường biển, sớm muộn sẽ về đến kinh đô".
Đưa Ô Mă
Nhi trở về nước. Dùng kế của Hưng Đạo; kén người thạo nghề đi biển
làm phut huyền, đương đêm đục thủng thuyền cho ch́m, Ô Mă Nhi chết
đuối.
Trả tù
binh Nguyên cho về như lũ Tích Lệ Cơ, Đường Ngột Phản, đồng thời
khởi tŕnh với Ô Mă Nhi, đều được đi thuận tiện cả; duy có Ô Mă Nhi
là người gian hiệt quá, mà lại đa sát, khi quân Nguyên đến, y bảo
người nước ta rằng: "Chúng mày đi lên trời hay xuống đất, ta cũng
đuổi theo; chúng mày trốn lên núi, xuống biển ta cũng theo đi". Nên
người nước ta giận y lắm, duy có một ḿnh y bị chết đuối: mà trả lời
với Nguyên rằng: Nước lớn thuyền ch́m quan Tham chính người cao lớn,
khó vớt lên lắm. Nguyên cũng biết là nói dối, không hỏi vặn làm ǵ.
Chữ tín
là quí báu nhất của nước; đă bảo cho về, lại c̣n dùng kế giết đi,
quỉ quyệt như thế, thủ tín với lân bang sao được. Đến sau này vua Lê
Thái Tổ cũng trả người Minh về nước, có người nói đến sự đục thuyền
cho đắm. Vua không dùng: người Minh cũng không nghi ǵ. Như thế mới
thật là Vương giả có đại tín.
Khi Thoát
Hoan trở về, Vua sai Nguyễn Đức Vinh, Đoàn Khải Khung mang lễ vật
theo đi; Vua Nguyên giận lắm, muốn cho quân sang lần nữa, nên giữ cả
sứ thần ở lại không cho về; đến khi đưa lũ Tích Lê Cơ về đến nơi,
mới cho sứ thần ta về nước, và lại sai Lưu Đ́nh Trực sang tuyên dụ,
giục Vua mau vào chầu, Đ́nh Trực đi đến cửa điện xuống ngựa; Vua sai
Quốc Tuấn mời vào viện Tập Hiền, bảo cho biết duyên cớ Ô Mă Nhi bị
chết đắm và nói là Vua tuổi già không đi xa được. Đến lúc Đ́nh Trực
cáo từ trở về, Hưng Đạo vẫn kính thuận như lời trong tờ biểu đă nói:
Từ đấy hai bên Nam và Bắc lại thông hiếu với nhau.
Định công đánh được Nguyên, tiến phong Quốc Tuấn làm Hưng Đạo Đại
Vương. Đỗ Khắc Chung được đổi là họ Trần, c̣n các người có công tiến
lên trước tiên mà phá trận giặc, đều được ghi họ tên mà vẽ h́nh
tượng; hoặc có người c̣n oán vọng không vừa ư, th́ dụ bảo rằng: "Các
người biết chắc quân giặc không đến nữa, th́ tuy có cho lên đến cực
đẳng, Trẫm cũng không tiếc; vạn nhất chúng lại đến nữa, mà các ngươi
lại có công, th́ lấy bậc ǵ mà thưởng cho được". Ai cũng vui vẻ phục
lời đó. Duy có Phùng Sĩ Chu th́ lúc quân Nguyên đến, Vua sai ông
bói, tâu rằng: Tất đại thắng, Vua mừng rỡ nói: "Nếu quả đúng như lời
người, th́ sẽ có trọng thưởng"; đến khi b́nh được giặc, Vua nói:
"Thiên tử không có đùa", nên cho Sĩ Chu làm chức Hành Khiển; lại có
Trần Khiển, Vua cũng sai bói, bói được quẻ Dự và Chấn, nói rằng: Mùa
hạ sang năm th́ quân Nguyên thua, đến khi Nguyên lại sang, lại sai
bói, được quẻ Quán và Hoán, nói rằng: "Sông Bạch Đằng là nơi quân
Nguyên tẩu tán. Hai quẻ đều ứng nghiệm cả, cho nên cũng cho làm chức
An Phủ". Lại phong Nguyễn Khoái làm liệt hầu, cho một quận để làm
nơi hưởng lộc, gọi là Khoái Lộ (Tức là phủ Khoái Châu, Hưng Yên).
Trị tội
những kẻ đầu hàng giặc, (Trần kiện, Trần Lộng đều bị tước xóa tên
trong sổ họ nhà vua, cải là họ Mai, duy có Ích Tắc v́ cớ anh em ruột
thịt nhà vua, không nỡ phạt, chỉ gọi tên là Ả Trần, ư bảo là nhu
nhược hèn như đàn bà, cho nên thời bấy giờ có tên gọi là Ả Trần và
Mai Kiện).
Lúc quân
Nguyên đến xâm lăng trong bọn thần liêu nhiều kẻ đi lại biếu xén ở
trại giặc, đến khi giặc tan, bắt được nhiều tráp đầy tờ biểu xin đầu
hàng. Thượng hoàng sai đốt tất cả đi, để yên ḷng kẻ phản trắc. Duy
có người đă đầu hàng rồi th́ tuy thân ở triều đ́nh của địch, nhưng
cũng tuyên xử tội lưu đày hay tử h́nh, tịch thu điền sản; c̣n các
quân và dân mà hàng giặc th́ tha cho tội chết, chỉ bắt chuyển chở
gỗ, đá làm cung điện để chuộc tội, có 2 làng Ba Điểm, Bàng Hà khi
giặc đến đă đầu hàng trước, th́ bắt tội dân 2 làng ấy chỉ bị sai
khiến làm tôi tớ, không được vào làm quan.
Vua Thái
Tôn đốt tờ hàng biểu, cũng như vua Quang Vũ đốt văn thư, độ lượng đế
vương rộng lớn đến thế.
Thượng
hoàng trở về Thiên Trường, trông thấy cung khuyết không bị giặc xâm
hại đến, có làm thơ rằng: (
8)"Cảnh
thanh u vật diệc thanh u,
"Thập nhị thần chu thử nhất chu,
"Bách bộ sinh ca cầm bách thiệt,
"Thiên hàng nô bộc quất thiên đầu,
"Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự,
"Thủy hữu thu hàm thiên hữu thu,
"Tứ hải dĩ thanh trần dĩ tĩnh,
"Kim niên du thắng tích niên du".
Từ năm
Thiệu Bảo nổi việc binh đao, hai lần đánh quân Nguyên, may mà xă tắc
lại yên, giang sơn y như cũ, tuy rằng ḷng trời giúp cho, nhưng nhân
sự cũng rất gian nan, họp vương hầu ở B́nh Than, đăi phụ lăo ở Diên
Hồng, không hạng nào là không hỏi đến; khi vào Thanh Hóa, khi ra Hải
Đông, lúc đi Đại Bàng, lúc về Thiên Trường, không nơi nào là không
đi đến. Nhất đán rửa rạch bụi Hồ, lại yên thế nước, về thăm cố
hương, mắt trong cảnh đẹp, tai nghe chim ca, chén rượu dưới trăng,
tiếng đàn trên suối, nghĩ lại khi đi Chí Linh, Vạn Kiếp, trận đánh
Đại Than, Bạch Đằng, những lúc con thuyền lênh đênh, dùng bát cơm
hẩm, vua tôi, cha con vẫn nhất tâm lo sao cho qua cơn sóng gió, sở
dĩ v́ có hoài cảm ấy mà làm bài thơ trên này.
Vua thân đi đánh nước Ai Lao. Triều thần can rằng: "Giặc Hồ mới lui,
vết thương của dân chưa lành, sao lại đă hưng binh". Vua nói: "Chỉ
nên xuất binh vào lúc này; lân bang sẽ bảo ta có bao nhiêu quân sĩ,
voi ngựa mất hết, sắp có sự khinh rẻ ta, nên phải đại cử để thị
oai". Quần thần đều nói: "Thánh nhân lo xa, không ai nghĩ kịp"
Thượng
hoàng mất (Đỗ Quốc Kế nói: thần được biết khi cư tang không làm cho
ai đau thương, xin vua nên cưỡi ngựa thay cho kiệu do người khiêng.
Vua nghe lời, nên chỉ dùng yên ngựa mộc). Cử Phí Mệnh làm quan An
phủ Diễn Châu. Mệnh ở nơi làm quan, có tiếng tham ô, Vua triệu về
đánh trượng, sau lại được tiếng là công b́nh, thanh liêm, dân Diễn
Châu có câu ca: "Diễn Châu An phủ thanh như thủy"(9).
Lập Hoàng
tử Thuyên làm Thái tử.
Nhà
Nguyên sai Trương Lập Đạo đến nói: "Quân sang năm trước không phải
chú ư của vua, là v́ biên thần dèm pha mà sinh ra đó"; nhân tiện lại
yêu cầu Vua phải vào chầu, Vua cáo từ là có tang, liền sai Nguyễn
Đại Phạp dâng biểu lên tạ lỗi: Sứ thần đi đến Ngạc Châu, thấy Ích
Tắc ngồi ở sảnh đường, nói rằng: "Mày có phải là thư nhi nhà Chiêu
Đạo Vương đó chăng?". (Chiêu Đạo Vương là con vua Thái Tôn, anh cùng
mẹ với Ích Tắc). Đại Phạp nói: "Việc đời biến chuyển, ta trước là
thư nhi, nay là vị sứ thần một nước, cũng như quan B́nh Chương (chức
của Nguyên cho Ích Tắc) xưa là con vua này lại là tên giặc đầu hàng"
Ích Tắc xấu hổ lắm, từ đấy khi trông thấy sứ thần nước ta, không dám
ngồi ở sảnh đường nữa.
(Từ khi
Ích Tắc đầu hàng, người Nguyên thường cho quan dẫn về nước, nhưng
không xong, th́ cho ở Ngạc Châu, trải qua các đời vua Thế Tổ, Thanh
Tôn và Vũ Tôn nhà Nguyên, chúng thương tuổi già vẫn trọng đăi, lời
trong tờ chế cáo phong Ích Tắc đại lược có câu: Quân nhà vua đă vài
lần đưa về, cũng như với kẻ chết đuối, cứu kẻ bị cháy, gần 30 năm ở
tỉnh Hồ, được có quan tước và nhà ở, trải qua 4 triều, vẫn một dạ
trung thành. Ích Tắc 76 tuổi th́ mất).
Vua đi
chơi, gặp gia đồng các nhà vương hầu, tất gọi tên đến hỏi: Chủ mày
đâu? Vẫn răn bảo các vệ sĩ không được quát mắng những người ấy, v́
khi có hoạn nạn xưa, chỉ có lũ chúng ở lại, vua cảm công lao đă hộ
tụng, mà cho ân huệ đó.
Lời bàn:
Khi nước rút th́ bờ bến mới hiện ra, gặp vận cùng th́ ḷng tiết
nghĩa mới rơ rệt; khi vô sự và khi lâm nạn, hoàn cảnh khác mà ḷng
người thường thay đổi mới biết những kẻ mồm mép, sốt sắng không bằng
người lăo thực mà chuyên nhất. Hai lần đánh lui quân Nguyên, trèo
non lội biển, gối giáo nằm sương, thật là công lao to lớn của chư
thần, yên người mà yêu lây cả chim quạ đậu nóc nhà, quen mặt nhớ
tên, gặp ở đường cũng ân cần thăm hỏi, có t́nh chủ bộc thân yêu
nhau. Vua Nhân Tôn như thế thật là khoan hậu.
Vua
truyền ngôi cho Thái tử, Thái tử Thuyên lên ngôi Vua, cải niên hiệu
là Hưng Long.
Vua Nhân
Tôn 16 tuổi làm Thái tử, đă có chí đi tu, xin nhường ngôi vua cho
em, vua Thánh Tôn không cho, đến khi nhận truyền ngôi, ban ngày th́
làm việc nước, ban đêm vẫn tụng kinh, đến đây lại cùng các vị tăng
Pháp Loa (Đồng Kiên Cương), Huyền Quang (Lư Đạo Tái) vân du các núi
An Tử, Lôi Âm, giảng cứu nội điển nhà Phật.
Khi trước
Nguyên Đại Phạp sang sứ Nguyên, vị từ thần làm tờ biểu, làm các lời
kéo dài lời văn, có ước hẹn sang năm sẽ đến cửa vua Nguyên; đến lúc
ấy Nguyên lại sai Lương Tăng đến trách, giục phải vào chầu. Thượng
hoàng từ chối là bị đau, lại sai Đào Tử Kỳ đưa tờ biểu sách bằng
vàng chúc tụng vạn thọ dâng Nguyên, vua Nguyên giận, câu lưu Tử Kỳ ở
Giang Lăng, nghị lại đem quân sang, sai Quốc Kiệu, Cát Ải chia 2
đường thủy và bộ cùng sang, mà cho Ích Tắc đi theo quân đến Tràng
Sa, gặp lúc vua Thế Tổ nhà Nguyên mất, vua Thành Tôn lên nối ngôi,
mới xuống chiếu băi việc sai quân ấy, liền cho Tử Kỳ về nước. Nguyên
lại sai Lư Hán làm tờ chiếu dụ, đại lược nói: "V́ vua Nguyên mới lên
ngôi, khoan tha cả mọi việc, đă có sắc băi quân An Nam rồi, từ nay
trở đi th́ nên nghĩ kỹ về việc sợ oai trời, thờ nước lớn". Bà Khâm
Từ Hoàng Thái hậu mất (Thượng hoàng làm chuồng hổ, sai quân sĩ bắt
hổ, Vua ở trên lầu xem, v́ thềm lầu thấp, con hổ thoát ra khỏi
chuồng, rồi nhảy lên lầu, Hoàng hậu cùng thi nữ lấy chiếu che cho
Thượng hoàng, con hổ vội vàng nhảy xuống, không động chạm ǵ đến
Thượng hoàng. Lại một lần xem đấu voi ở sân rồng, con voi đột nhập,
tả hữu chạy cả, duy chỉ c̣n một Thái hậu ở lại, xem thế đủ biết Thái
hậu cũng là bậc anh hùng trong nữ lưu).
Bà Khâm Từ Thái hậu mất rồi, bà Truyền Từ Hoàng hậu mới được chủ
việc trong nhà; tính bà thẳng mà dạy bảo th́ nghiêm, vua Anh Tôn lại
phụng thừa rất cẩn trọng, Thượng hoàng khen lắm, nói bằng tên gọi
vua là Hiếu Hoàng, không thẹn ǵ với tên đó, th́ nên lấy tên ấy mà
gọi Quan gia(10) sau này.
1) Phá giặc mạnh, báo ơn Vua.
2) Ông nên nhớ việc trận Cối Kê xưa, vua Việt Câu Tiễn bị quân Ngô
đánh thua bắt đem về giam ở Ngô. Ở Thanh và Nghệ c̣n có 10 vạn quân.
3) Tức như tạ của ta bây giờ, nhưng không biết bao nhiêu cân hay
lạng.
4) Không rơ kiểu nón nào.
5) An Bang. Nay là tỉnh Quảng B́nh.
6) Quan tài của vua.
7) Hai lần yên được xă tắc, ngựa đá cũng khó nhọc, sơn hà bền vững
ngh́n đời như cái âu bằng vàng.
8) Vịnh cảnh vật Thiên Trường, mừng rằng đă b́nh được giặc, lần đi
này vui hơn lần đi trước.
9) Quan An phủ Diễn Châu trong sạch như nước.
10) Khi Thượng hoàng c̣n sống th́ gọi Vua là quan gia.
Anh Tôn
Hoàng Đế
Tên là
Thuyên, Thái tử của Vua Nhân Tôn, ở ngôi vua 21 năm. Vua khéo thừa
kế nghiệp vua, làm cho nước thịnh trị, thái b́nh, cũng là vị vua anh
minh trong đời Trần. Niên hiệu Hưng Long thứ hai. Thượng tướng là
Quang Khải mất.
Quang
Khải có học thức, thông hiểu các thứ tiếng Mán mọi, và ngoại quốc
mỗi khi có sứ nước Tàu sang, tất cử ông xung vào bạn tiếp. Khi xưa
theo vua Thánh Tôn đánh giặc, vua Thái Tôn triệu Quốc Tuấn muốn cho
làm chức Tư đồ, ông từ chối nói: "Vua đi xa, Quang Khải hỗ giá, mà
Bệ hạ tự tiện cho thần quan chức, e có điều không tiện, Thần không
dám nhận, đến khi vua Thánh Tôn trở về kinh đô, việc ấy mới thôi
Quốc Tuấn và Quang Khải vẫn không hiệp ư với nhau, đến sau th́ lại
thân mật với nhau, đồng tâm mà giúp nhà vua, hai ông là có công đầu
hơn cả. Khi mất, ông 54 tuổi, con ông là Văn Túc có tiếng về văn học
thời bấy giờ, cháu là Oai Túc, tằng tôn là Nguyên Đán cũng đều có
tiếng; phúc trạch sâu dày, cùng với nhà Vua lâu dài măi măi.
Khen
thưởng tiết phụ là Lê Thị (chồng là Phạm Mưu sang sứ Nguyên rồi mất)
Lê Thị được tin, thương xót không ăn, chết theo, Vua xuống chiếu cho
vàng và lụa để an ủi.
Trần Thời
Kiến làm quan An Phủ sứ Thiên Trường, có người dân quê đem biếu ông
mâm cỗ, hỏi lư do, th́ người ấy trả lời; v́ ở gần công đường của
ông, chứ không thỉnh cầu điều ǵ, được vài hôm, quả nhiên người ấy
nhờ ông có việc, ông móc họng thổ ra. Đến lúc ấy làm quan kiểm pháp,
có việc kiện, lấy lư do mà đoán quyết, có việc ǵ th́ ứng phó theo
phép, người ta đều khen là người xử kiện giỏi, sau làm chức Gián
nghị Đại phu (Thời Kiến người làng Cự Xạ, huyện Đông Triều, tính
cương trực, là môn khách nhà Hưng Đạo). Vua cho ông cái hốt, ngự chế
bài minh khắc vào cái hồi ấy rằng(1) "Thái Sơn tinh cao, tượng hốt
trinh liệt, linh trĩ chăi gốc, vĩ hốt nam chiết".
Cử Đoàn
Nhữ Hài làm Ngự sử Trung Tán. Khi bấy giờ Thượng hoàng về kinh đô,
các người trong và ngoài không ai biết, đi bách bộ xem khắp cung
điện, không thấy Vua đâu, lấy làm lạ, mới hỏi, biết rằng Vua uống
rượu xương bồ say quá, cung nhân vào gọi không dậy được, Thượng
hoàng giận
lắm, lập
tức về Thiên Trường, xuống chiếu cho bách quan phải họp để điểm mục,
đến quá trưa, Vua mới tỉnh, sợ lắm, đi bộ qua chùa Tư Phúc, trông
thấy học sinh Đoàn Nhữ Hài, bảo rằng: "Ta v́ quá say rượu, đắc tội
với Thượng hoàng, muốn có tờ biểu tạ lỗi, ngươi thảo cho ta". Nhữ
Hài phụng chỉ làm xong ngay, lập tức dùng thuyền nhanh đương đêm về
Thiên Trường, sai Nhữ Hài mang tờ biểu đi theo. Thượng hoàng hỏi đó
là người nào, nội thần tâu là người của quan gia dâng biểu, Thượng
hoàng không trả lời. Đến chiều, gió mưa to kéo đến, Nhữ Hài vẫn quỳ
không đứng lên. Thượng hoàng hỏi người quỳ ở giữa sân c̣n đó không,
sai đưa tờ biểu vào xem, thấy từ ư rất khẩn thiết, mới triệu Vua vào
bảo rằng: "Trẫm c̣n có con khác có thể nối ngôi vua được, trẫm c̣n
sống mà c̣n như thế, sau này c̣n biết đến thế nào". Vua cúi đầu tạ
lỗi, Thượng hoàng lại hỏi ai làm bài biểu đó, Vua trả lời: "Người
học tṛ là Đoàn Nhữ Hài" Thượng hoàng triệu Nhữ Hài bảo rằng: "Tờ
biểu của người soạn ra đó, rất vừa ḷng ta". Liền cho quan gia lại
được phục vị, bách quan lại trở về triều đ́nh như cũ. Vua cho Nhữ
Hài làm chức Trung Tán, khi ấy Nhữ Hài mới 20 tuổi, có kẻ chế giễu
rằng: "Phong hiến luận đàm truyền cổ ngữ, khẩu tồn nhũ xú Đoàn Trung
Tán"(2).
(Nhữ Hài
người làng Trường Tân huyện Gia Lộc, là cận thần nhà Vua, một lời
nói hay một cử chỉ của Vua đều biết rơ. Xem thực lục có chữ nào lầm
liền cải chính ngay).
Nhữ Hài
là người học tṛ, được Vua biết đến trong khi bất ngờ, thảo bài
biểu, theo Vua đi, một ḿnh săn sóc bên vua, trong lúc làm bày biểu
bày tỏ hết được ư của vua Anh Tôn, suốt một ngày đứng ngoài trời,
văn hồi được ḷng Thượng hoàng. Trong chỗ cha con có điều rất khó tả
được, thế mà làm Thượng hoàng hồi tâm một cách dễ dàng như thế, có
phải là bậc kỳ tài đời ấy và có duyên sẵn đó chăng? Câu giễu cợt
miệng hơi sữa chả bôi xấu được nào?
Thượng
hoàng đi tu hành ở Long Động núi An Tử, từ biệt các cung tần, cho
được tự tiện hoặc đi hoặc ở lại người nào không muốn về quê th́ cấp
cho nhà ở và ruộng ở chân núi mà sinh nhai. Một hôm Thượng hoàng về
đến Thiên Trường, Vua và Quốc Tuấn đến triều, Thượng hoàng nói: "Nhà
ta vốn thuộc hàng làm nghề chài lưới, đời nào cũng chuộng hùng dũng
cứ thích h́nh con rồng vào đùi". Lúc ấy thợ thích chữ đă chờ sẵn,
vua thừa lúc Thượng hoàng nh́n đi nơi khác, liền lẻn chạy, Thượng
hoàng cũng không bắt ép phải thích vào đùi. Vua nhà Trần không thích
h́nh rồng vào đùi, từ việc này đầu tiên. Thích vào đùi như đây, cũng
là loài thích chữ vào trán kẻ có tội; vua Chu Cao Tổ nói: Có lẽ đâu
Vua lại c̣n vẽ xanh vào người; tuy là câu nói để giải sự nghi ngờ
hoặc của người ta, cũng là câu nói cương quyết không nên làm như
thế. Tục thích rồng vào đùi của nhà Trần, theo măi không biết đổi,
tự hạ ḿnh bằng người mọi rợ vẽ ḿnh thật hủ lậu quá.
Vua thích
đi vi hành, thường đêm ra xóm quân lính ở, có lũ vô lại ném gạch
ngói trúng vào trán Vua, Thượng hoàng thấy vết thương hỏi biết duyên
cớ, tấm tắc lâu lắm (Việc này như việc vua Hán Vũ Đế ở Bách Cốc; đi
như thế cũng nguy hiểm lắm).
Nhũ Lâm
vâng mệnh đi sứ sang Nguyên, mật vẽ đồ bản cung điện và giấu mang
theo cấm thư; việc phát giác, vua Nguyên không nỡ trị tội, chỉ sai
đuổi về, và dụ bảo từ nay trở đi có sai sứ thần phải kén chọn cẩn
thận. (Đi sứ mà không cẩn thận, gần làm lỡ việc nước, đó là gương
sáng cho các vị sứ thần, và cũng được biết nhà Nguyên đối với nước
ta xử hậu quá thật).
Tục nhà
Trần người cùng họ lấy làm vợ chồng lẫn với nhau, có một người tên
là Quốc Khang v́ làm quan quản Diễn Châu, lấy con gái người trong
châu làm vợ, sinh ra con là Tư Nghĩa, Quốc Trinh. Từ đấy đều cho con
cháu Quốc Khang làm chức Tri châu.
Hưng Đạo
Đại Vương Trần Quốc Tuấn mất ở tư đệ tại Vạn Kiếp. Vua có đến hỏi
thăm bệnh ông và nói: "Nếu quân Tàu lại sang xâm lấn, th́ dùng kế
sách nào?". Ông tâu:" Xưa kia Triệu Vũ Đế cho tiểu dân yên tĩnh, dọn
quang đồng ruộng, đại quân mới ra đánh Tràng Sa; nhà Đinh và Lê đắp
được thành B́nh Lỗ mà phá được quân Tống, thời thế bấy giờ khác, nhà
Lư dùng Thường Kiệt đánh châu Khâm và Liêm, là v́ có thế. bản triều
ta vua tôi họp sức, mà Toa Đô bị bắt, là trời xui khiến nên thế. Đại
khái lũ chúng cậy có lối đánh bằng binh khí dài, ta th́ cậy có đoản
đao, đem binh khí ngắn chống với thứ dài, là lối thường của binh
pháp. Nếu thấy quân chúng đến mạnh như gió và lửa, thế đó dễ chống;
nếu chúng lối lấn dần như tằm ăn, không cần chóng được, th́ phải xem
xét cơ biến như thế cờ, tùy thời mà hành động, cần nhất là dùng ít
sức của dân, giữ vững căn bản, đó là thượng sách.
Quốc Tuấn
là con An Sinh Vương, có tài lược cả văn và vơ, xưa An Sinh Vương có
sự hiềm khích với vua Thái Tôn, lúc sắp mất, dặn Quốc tuấn rằng:
"Mày không lấy được thiên hạ cho ta th́ ta chết không nhắm mắt
được". Quốc tuấn thưa vâng, nhưng trong ḷng vẫn không cho là phải.
Đến khi trong nước bị giặc cướp, binh quyền ở cả tay ông, ông đem
việc ấy ra hỏi hai gia nô là Giă Tượng, Yết Kiêu, th́ hai người cùng
nói: "Đại vương đă phú quư rồi, c̣n chúng tôi th́ thề đến già vẫn
làm gia nô, không muốn làm như thế, để tiếng xấu ở ngh́n đời". Quốc
Tuấn cảm động phát khóc.
Lúc bấy
giờ quân Nguyên có thế rất mạnh, vua Thánh Tôn hỏi thử Quốc Tuấn:
"Hay là ta hăy đầu hàng đi?". Ông tâu: "Trước hết chém đầu thần đă,
rồi hăy đầu hàng". Vua Thánh Tôn khen lắm, đă làm bài văn bia ở sinh
từ của ông, coi là Thượng phụ. Lại cho ông được tự tiện cho ai tước
vị ǵ cũng được, rồi sẽ tâu sau, nhưng ông giữ phận người bầy tôi,
không dám cho một ai (có người nhà giàu bỏ thóc ra cấp cho quân
lính, ông chỉ cho tên lang tướng giả, nhưng vẫn đợi tâu có được,
nhiên hậu mới cho). Ông lại c̣n tiến cử người hiền tài cho nước (Dă
Tượng, Yết Kiêu đều là gia thần của ông, có công to vào việc bắt
được Toa Đô. Các ông Trương Hán Siêu, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế
Trực, Phạm Ngũ Lăo, Trần Thời Kiến đều là môn khách của ông, đều có
văn chương, chính sự nổi tiếng đời bấy giờ) khi sắp mất có dặn con
phải hỏa táng, đem tro tàn chôn ở trong vườn An Lạc lấp đất, trồng
cây lại như cũ, để không cho ai biết chôn ở đâu. Ông có đem việc cha
ông dặn ra hỏi các con ông, Hưng Vơ Vương nói: "Họ khác c̣n không
nên, huống chi người cùng họ". Quốc Tảng nói: "Tống Thái Tổ là ông
làm ruộng, mà biết thừa thời ấy thiên hạ". Quốc Tuấn cho lời Hưng Vơ
là phải, rút gươm kể tội Quốc Tảng. Khi châu Lạng Sơn bị có tật
dịch, người ta phần nhiều cầu đảo ở đền thờ ông. Khi có giặc, th́
đến đền thờ ông mà cầu xin, hễ nghe thấy tiếng kêu ở hộp kiếm, th́
tất đại thắng.
Hưng Đạo
đă soạn một bộ sách Chư Gia binh Pháp gọ ilà sách Binh thư yếu lược,
do tập Chư gia binh pháp làm ra Bát quái cửu cung đồ, gọi là
Vạn Kiếp
tôn truyền, Khánh Dư đă làm bài tựa. Ngoại truyện có nói: Nguyễn Sĩ
Thành chết rồi lại được sống lại, tự nói ra việc trên thiên đ́nh
rằng: Đông triều có người con gái là vợ tên khách buôn Phúc Kiến,
nằm mộng giao cấu với con long tinh, đẻ ra con làm loạn tặc nước
Nam, Thượng đế nghe thấy thế, lập tức sai thanh y đồng tử xuống trần
để trị giặc đó. Bấy giờ bà Phu nhân Trần Liễu nằm mộng thấy đứa bé
mặc áo xanh chạy vào trong bọc mà sinh ra Quốc Tuấn. Đến khi quân
Nguyên sang xâm lấn nước Nam, có tên Nguyễn Bá Linh làm tướng, là
con của người con gái Đông Triều, quả nhiên bị Quốc Tuấn bắt được ở
An Bang rồi giết đi. Tên ấy chết rồi làm yêu quái, đàn bà con gái
tiếp xúc với nó là bị bệnh, gọi là Phạm Nhan, phù chú không trị nổi
nó, chỉ xin được cái chiếu ở đền thờ Hưng Đạo đem về nằm, th́ nó
phải chạy xa, không dám phạm đến. Hiện nay ở Vạn Kiếp ở đền thờ Hưng
Đạo, ở sông Nam Sách có đền thờ Phạm Nhan.
Thông
luận bàn rằng: Hưng Đạo cũng như Phần Dương(3), mà cảnh ngộ lại khó
hơn, là người họ nhà vua, giữ binh quyền, bị tiếng ngờ vực, có tài
văn ,vơ, mà không dám cậy tài; anh hùng lừng danh hai nước, mà không
dám khoe công; thế lực có thể lật núi lấp sông mà lúc nào cũng kính
cẩn như có vua ở trước mặt, xem đến việc làm của ông, th́ đại nghĩa
chứ không theo lời cha, chỉ biết có nước chứ không biết đến nhà, bỏ
cái sắc nhọn đầu gậy để đi hỗ giá, rút gươm mà kể tội con, sự trung
thành ấy tỏ như mặt trời. Ví với Phần Dương c̣n cao hơn một bậc.
Hoàng tử
tên là Chiếu mới sinh, khi bấy giờ hậu cung khó khăn về sự nuôi con
trẻ, Vua ủy cho Nhật Duật nuôi hộ.
Vua định
thể chế mũ áo các quan văn vơ (quan vơ đội khăn và áo lối mới, quan
văn đội mũ đen chữ Đinh, quan hầu th́ đội mũ xanh có hoa như lối cũ.
Áo các quan văn, vơ vạt trước dài 1 thước làm chuẩn đích; các quan
văn vơ không được mặc áo tay rộng, quan hầu không được mặc xiêm. Lại
xuống chiếu cho các quan văn vơ toàn dùng mũ chữ Đinh, thêu hoa tía
có xen lẫn sắc biếc). (Trong đời Bảo Thái nhà Lê mới chế: Quan vơ
đội mũ "đan diệp", quan văn đội mũ "trùng diệp", mùa thu, đông th́
dùng bằng đoạn, mùa xuân và hạ dùng the, là do Tể tướng Nguyễn Công
Hăng chế ra, phân biệt quan văn và vơ, cùng với lối mũ Bộc đầu buộc
lấy tóc, bắt đầu từ Vũ Văn chế ra, là thể chế nhất định không thay
đổi).
Đạo sĩ là
Hứa Tôn Đạo theo thuyền buôn từ nước Tàu sang, vua xuống chiếu cho ở
bến An Hoa. Khoa môn phù thủy có từ lúc này.
Đoàn Nhữ
Hài vâng mệnh đi sứ nước Chiêm Thành. Theo tục xưa, sứ thần nước ta
đến, trước hết lạy quốc vương Chiêm rồi mới mở tờ chiếu, cứ theo tục
ấy không thay đổi. Lần này Nhữ Hài nghĩ cách thay đổi lệ ấy, liền
đến thẳng nơi đặt bàn, để tờ chiếu của vua lên bàn, bảo vua Chiêm
phải lạy tờ biểu, rồi sau mới tuyên đọc; tuy ở trước mặt quốc vương
nhưng lấy tiếng là lạy chiếu của Vua, tỏ ra là sứ thần không chịu
khuất. Sau này các sứ thần ta không lạy vua Chiêm, từ Nhữ Hài trước
tiên. (Trong sử chép: Con trai đẻ ra có 2 đầu và con gái mới đẻ ra
cũng có 2 đầu, là v́ nhà Trần lấy vợ người cùng họ, âm dương không
phải lứa đôi, nên có tai biến lạ như thế). Thi cống sĩ, lấy Mạc Đĩnh
Chi đỗ trạng nguyên, (Đĩnh Chi người Chí Linh, tổ là Hiển Tích đỗ
khoa Thái Học sinh năm Bính Dần đời vua Lư Nhân Tôn). Bùi Mộ đỗ bảng
nhăn (người Thanh Oai), Trương Phóng (người Thanh Hóa) đỗ Thám hoa.
Cách thi: Thơ th́ dùng ngũ ngôn trường thiên, phú th́ 8 vần, kỳ thứ
3 thi chế, chiếu biểu, kỳ thứ 4 thi văn sách. Lấy đủ 3 vị đầu, được
dẫn ra Long môn, Phượng thành chơi phố phường 3 ngày (Đĩnh Chi thông
minh tuyệt vời, mà tướng người th́ thấp và xấu, vua hiềm rằng mặt
quá xấu, ông liền làm bài phú Ngọc tỉnh liên để tự ví ḿnh với sen).
Thể lệ
cũ: Người cầm quyền đều dùng người tôn thất, duy đến đời vua th́
không kể ǵ đến thân hay sơ, nếu không có tài th́ không dùng làm
chấp chính. Như Đoàn Nhữ Hài là người học tṛ, có tài mà không hiềm
cất lên mau chóng, được làm chức Trí khu mật viện.
Trước Thượng hoàng đi sang Chiêm Thành c̣n hứa gả Công chúa cho vua
Chiêm là Chế Mân, đến lúc ấy vua Chiêm sai Chế Bồ Đài dâng biểu,
tiền vàng và lấy 2 châu Ô và Lư làm lễ cưới, Vua gả Huyền Trân Công
chúa cho vua Chiêm (Việc này các triều thần đều nói là không nên,
duy có Đạo Tài chủ trương là phải, nên người đời bấy giờ lấy việc
Chiêu quân mà làm thơ chế giễu).
Nhà Trần
quen làm lối này, cốt được lợi trông thấy, đưa má phấn đánh đổi lấy
tràng thành, việc gả Ngoạn Thiềm cho Nguyễn Nộn, gả Thiên Tư cho
Thoát Hoan, đều lối gả ấy cả. Nhà Trần được Ô Châu và Lư Châu, đổi
tên là Thuận Hoá, La Thủy đổi là Hồng Đà Bồng, người dân nơi ấy
không phục, mới sai Nhữ Hài đến tuyên báo cho biết đức ư nhà vua, để
vỗ về cho yên.
Sau vua
Chiêm Thành mất, theo tục nước ấy, bà Hoàng hậu phải vào hỏa đàn
chết theo, vua sai Khắc Chung đến viếng, nói thác là Hoàng hậu phải
ra bờ biển chiêu hồn, rồi rước linh về, th́ khi vào hỏa đàn mới có
người chủ trương, người Chiêm tin là thật; đến khi ra ngoài biển,
Khắc Chung đem thuyền cướp rất nhanh bà Huyền Trân về. Nhân v́ thế
hai người tư thông với nhau, đi đường biển cho thật chậm, hơn một
năm mới về đến nơi. Hưng Nhượng thấy thế ghét lắm, mắng rằng: "Người
này để trong nước là không hay, tên nó là Khắc Chung có lẽ nhà Trần
ta hết đời v́ người này chăng?".
Ngày sóc
tháng 11, mặt trời có vầng tṛn hai ṿng trong 3 ngày. Thượng hoàng
mất ở am Ngọ Vân (tự hiệu là Trúc Lâm Đầu đà Điều ngự Giác hoàng),
xưa kia Thượng hoàng xuất gia, ở ngọn Tử Tiêu Phong núi Yên Tử (tự
hiệu là Trúc Lâm Đại sĩ), chị gái là Thiên Thụy đau nặng, tự đi
xuống thăm và nói nếu chị ở cơi âm, xin hăy đợi em. Rồi về núi, đem
hậu sự dặn Pháp Loa, ngồi yên lặng hóa đi. Quả nhiên mất cùng ngày
với bà Thiên Thụy, Pháp Loa rước lên hỏa đàn, cháy c̣n lại 1000 hột
xá lỵ, rước về kinh đô, vua lấy làm ngờ, quần thần xin bắt tội Pháp
Loa; Thái tử Chiêm (9 tuổi) hầu ở bên, hốt nhiên trong bọc có vài
hột đưa ra xem, kiểm lại trong hộp thiếu số hạt ấy, Vua cảm động
khóc, không có ư nghĩ ǵ nữa.
Thượng
hoàng học thức yên bác, rất uyên thâm đạo Phật, có làm ra sách:
Thiết chủy ngữ lục, Tăng già toái sự, Thạch Thất ngũ ngữ, c̣n truyền
lại ở đời. Vua Nhân Tôn đề câu kệ ở chùa Cổ Chân rằng: "Thế số nhất
tức mặc thời t́nh lưỡng hải ngân, ma cung hồn quản thậm, Phật quốc
bất thăng xuân". Có một hôm, ở am Ngọc Vân Thượng hoàng giục triệu
ngay Bảo Lỵ, khi Bảo Lỵ đến Doanh Tuyền, thấy hai con rồng vàng, lấy
làm lạ, vua Nhân Tôn nói: "Ta sắp đi đây, sao ngươi lại đến muộn
thế"? Ngày sóc tháng 11 trời đất âm u, mưa to, vượn kêu gào, chim
hót thảm thương, đến nửa đêm, sao sáng vằng vặc, vua Nhân Tông hỏi
là giờ ǵ? Trả lời là giờ Tư, Vua nói đó là giờ ta đi; lấy tâm ấn
trao cho Pháp Loa, liền nằm hóa ở am Ngọa Vân. Lại trong năm Trùng
Hưng, tạc bia ghi chép các việc, thế là qui mô đi tu có ước định
sẵn, xếp đặt yên cả. Vả trong văn bia nói tiên đế thế nhà Trần vốn
người An Sinh, huyện Đông Triều, sau di cơ đến Tức Mặc, cho nên lấy
đất An Sinh làm nơi tu hành, đó là tâm pháp truyền đời của nhà Trần.
Vua Nhân
Tôn lấy thân người ta là h́nh thể của trời đất tạo cho, không luyến
tiếc ǵ, nên lúc sắp hóa mọi việc giao phó cho các tăng, không một
lời nào nói với Tự Hoàng. Lại có chỗ nói: "Vị Chân Nguyên Thượng
nhân xếp hàng 3 vị tổ là: Vua Nhân Tôn là Thích Già tái thế, Pháp
Loa là Già Diệp, Huyền Quang là A Nàn(4).
Điều
Ngự(5) trút áo rồng, bỏ ngai vàng mà thế phát tu hành ở trên núi,
tịch tĩnh mà chứng được nhân thừa dứt trần tục mà thành được chính
giác; cùng Pháp Loa có duyên từ mấy đời, từ khi gặp được nhau ở Nam
Sách, rồi cho tên là Thiện Lai, đi theo thụ giới là thuyết pháp,
tham thiền văng cảnh ở các nơi Linh Sơn, Long Động, Sùng Nghiêm, Vân
Mộng, thoát hết phiền năo mà đến cơi thanh tĩnh, giữ được phẩm hạnh
cao, ngộ được chân lư, hết thẩy vinh hoa phú quư ở đời không vật ǵ
làm cho động tâm; thế nên vua Nhân Tôn xuất gia lên ở núi, vui về sự
hóa thân ở am Ngọa Vân; Pháp Loa th́ quên hết lợi thế di chúc, hỏa
ḥa rồi mới tâu vua biết, người đời đều khen là đạo đức cao mà tin
ḷng, vua Anh Tôn cũng phải kính trọng mà không nỡ bắt tội.
Mạc Đĩnh
Chi đi sứ sang Nguyên mừng vua Nguyên mới lên ngôi (Nguyên Vơ Tôn
mới lên). Đĩnh Chi người thấp bé, người Nguyên khinh bỉ. Trong phủ
Tể tướng nhà Nguyên có bức tranh thêu chim sẻ vàng đậu trên cành
trúc. Đĩnh Chi kéo con chim sẻ xuống xé nát ra, người Nguyên hỏi cớ
sao? Ông nói: "Cổ nhân có vẽ mai và tước, chưa thấy vẽ trúc và tước
(sẽ). Trúc là quân tử, tước là tiểu nhân, bức trướng thêu này là đưa
tiểu nhân đặt lên trên quân tử, nên tôi v́ Thánh triều mà trừ mối tệ
ấy đi. Đến khi vào chầu, có người ngoại quốc dâng cái quạt, ông
phụng mệnh làm bài minh vào cái quạt, sứ thần nước Triều Tiên làm
xong trước, có 4 câu, 16 chữ, Đĩnh Chi trông thế bút viết, biết được
bài của sứ thần Triều Tiên rồi, liền theo ư mà làm phiên câu văn đi,
lại dẫn thêm 3 câu ở trong truyện làm câu kết, được khen thưởng hơn,
đủ biết ông có tài và nhanh lắm, người Nguyên càng thêm thán phục.
Bài minh
của sứ Triều Tiên:
Uẩn long
trùng trùng, Y Doăn, Chu Công.
Vũ tuyết thê thê, Bá Di Thúc Tề(6).
Bài của Đĩnh Chi:
Lưu Kim
thước thạch thiên địa vi lô, nhĩ ư tư thời hề Y Chu cự nho;
Bắc phong
kỳ thê vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư thời hề Di Tề ngă phu.
Y, dụng
chi tắc hành, xả chi tắc tàng, duy ngă dữ nhĩ hữu thi phù(7).
Khi rước
di hài vua Nhân Tôn về táng ở Đức Lăng, lúc tử cung(8) sắp đưa ra,
người xem chật cả cung, lấy roi mà mở lối đi cũng không được, vua
sai
Trịnh
Trọng Tử dẹp mở đường. Trọng Tử đến sân rồng gọi đạo quân Long Dực
hát khúc Long Ngâm, dân chúng kéo đến đó xem, cung điện mới rộng chỗ
đi được, lại lấy những câu hát ở dọc đường, phổ vào khúc hát, làm
cho có tiếng hát liền măi, không cần phải truyền bảo ǵ, mà khi đi
lên, đi xuống, quanh chuyển, không c̣n lo nghiêng lệch nữa. Người
đời bấy giờ khen là có xảo tứ.
Xá lỵ của
vua Nhân Tôn chia làm hai phần: một đưa về táng ở Đức Lăng, một th́
để ở tháp An Tử. Có thày tăng chùa Siêu Loại là Trí Thông đốt tay
cháy từ bàn tay đến cánh tay, cứ ngồi nghiễm nhiên không đổi sắc
mặt. Vua Nhân Tôn hỏi, trả lời rằng: "Thần đốt đèn đó", lửa tắt rồi
về tăng viện ngũ kỹ, đến khi thức dậy chỗ phỏng lên đều khỏi cả. Đến
lúc ấy xá lỵ vua Nhân Tôn đưa để ở bảo tháp, thày tăng ấy liền lên
núi hầu hạ.
Vua đặt
ra đạo binh Tỏa Kim Cương đô, thích 3 chữ tên đạo quân vào trán,
theo lệ đạo binh Chân Thượng (binh mà gọi là đô, là theo lệ cũ của
nhà Lư).
Vua lấy
con gái thày tăng người Hồ vào cung (thày tăng này vẻ mặt già, cổ
kính, tự nói là đă 300 tuổi, đi được ở trên mặt nước, lại có thể thu
gọn cả ngũ Lạng lên trên lồng ngực, để cho trong ruột trống rỗng,
chỉ ăn lưu hoàng, mật, rau cải và hẹ). V
ua thân
đi đánh Chiêm Thành. Lúc trước vua Chiêm là Chế Chi sai người vào
cống (Người ấy là chủ trại Câu Chiêm). Vua sai Nhữ Hài mật ước hẹn
với người ấy; đến khi vua thân đi đánh, sai Nhữ Hài đến trước chiêu
dụ; đến Câu Chiêm, nhắc lại chủ trại lời ước hẹn khi trước, y bảo
Chế Chí đưa cả gia quyến đi đường biển đến đầu hàng. Khánh Dư thừa
cơ theo ở sau muốn cướp công. Nhũ Hài nghe biết, tâu lên Vua, Vua
giận xuống chiếu bắt cắt chân giám quân là Nguyễn Ngỗi, Khánh Dư sợ
tạ lỗi và nói: "Thần sợ lũ chúng ra ngoài biển lại đổi ḷng chăng,
nên đi theo đó thôi". Việc này không phí một mũi tên mà b́nh được
Chiêm Thành là công Nhữ Hài (Khi bấy giờ Vua đóng quân ở Câu Chiêm,
Minh Hiến Vương bàn luận làm cho ḷng quân hoang mang, Vua giận,
đuổi ra ngoài dinh, xuống chiếu cho Chư quân không được thu nhận,
Minh Hiến phải nằm ngoài cánh đồng, Phạm Ngũ Lăo mới vào trong trại
quân, nói rằng: "Vua trách mà đuổi Minh Hiến, vạn nhất bị quân giặc
bắt được, chúng sẽ nói là bắt được thân vương của ta, sợ nhục đến
quốc thể. Tôi đành chịu tội trái mệnh Vua, chứ không nỡ để cho quân
giặc lợi dụng". Vua biết chuyện cũng không xét đến việc ấy nữa).
Vua về
đến sông Thâm Thị, hốt nhiên gặp trận gió to, dây thuyền đều đứt cả,
thuyền ngự trôi ra giữa ḍng sông, Vua lên đầu mui thuyền xảy chân,
được (tên nữ quan) bám vào cùng lên được trên mui, các thuyền khác
đều mắc vào băi cát. Vua xuống chiếu sắp chỉnh lại nghi trượng rồi
về kinh đô (Khi Vua đi thân chinh, đến cửa Cầu Hải, ban đêm nằm mộng
thấy vị thần nữ khóc nói: "Thiếp là cung phi nhà Tống, bị giặc bức
bách, khốn khổ v́ sóng gió, Thượng đế thương cho làm Hải thần. Nay
xin giúp Vua để lập công". Khi tỉnh dậy, Vua triệu các cố lăo đến
hỏi kỹ sự thật, sai tế rồi mới kéo quân đi. Chuyến đi này biển yên
lặng không sóng, lại c̣n bắt được quân giặc, Vua sai lập đền thờ ở
của biển, tứ thời cúng tế).
Vua
truyền ngôi cho Thái tử Chiếu, Thái tử lên ngôi vua, đổi niên hiệu
là Đại Khánh. Vua đă nhận ngôi rồi, có sứ thần nhà Nguyên đến, Vua
mặc áo giao lĩnh lụa vàng, khăn vàng. Sứ giả khen rằng: "Phảng phất
nhu người trong làng tiên". Sau có sứ giả nào đến cũng nói: "Ta nghe
nói Thái tử vẻ người thanh tú, như thần tiên có phải không?".
Trả lời:
"Có thật như thế. Đó cũng là phong vận, tiêu biểu của nước".
Vua tiến
tôn Chiêu Vương lên làm Nguyên tổ, Cung Vương lên làm Ninh tổ, Ư
Vương lên
làm Mục
tổ, Vương th́ tôn lên làm Đế, Phu nhân th́ tôn lên làm Hậu.
Vua Chu
Vũ làm vua, th́ truy tôn hai vị Tổ lên làm Vương; vua Tống Tổ được
nước, cũng truy tôn bốn đời làm Đế, là lễ phải vậy đó. Nhà Trần được
thiên hạ, cho phong tổ tiên làm Vương, đă là việc mà nhân tâm bất
an. Đến lúc ấy đă qua bốn đời vua, mới gia tôn hiệu làm Đế, là lỗi
để chậm. Nhưng mà vua Anh Tôn cũng c̣n cử hành việc tiến tôn ấy, chả
c̣n hơn không làm, cứ bỏ đó măi hay sao?
1) Ư nói
cái hốt cứng rắn như núi Thái Sơn, khó ai bê nổi; ngụ ư khen ông.
2) Quan Trung Tán họ Đoàn miệng c̣n hơi sữa, mà đă làm chức quan
trọng.
3) Quách Tử Nghi, danh tướng đời Đường.
4) 3 vị
này gọi là Trúc Lâm tam tổ.
5) Tên
vua Nhân Tôn khi xuất gia.
6) Khi
nóng bức th́ quạt đắc dụng như Y Doăn, Chu Công, khi mùa đông giá
rét th́ xếp xó như Bá Di, Thúc Tề bị chết đói.
7) Ư đoạn
trên cũng như bài của sứ Triều Tiên, có thêm được đoạn chữ ở sách
Luận Ngữ, ư là: Ai dùng ta th́ ta làm, ai không dùng ta th́ ta để
đó. Điều ấy chỉ mày với ta mới có được thôi. Hay hơn về câu này mà
lại được là chữ sách cổ nhân, dùng rất đắt.
8) Quan
tài của Vua gọi là tử cung.
Minh Tôn
Hoàng Đế
Tên là
Chiếu, con thứ tư vua Anh Tôn, ở ngôi vua 15 năm, tốn vị 28 năm,
hưởng thọ 85 tuổi. Vua biết sửa sang chính trị tiến đến văn minh,
làm sáng tỏ công nghiệp của tiền nhân; có ḷng trung hậu, mở đường
lối cho con cháu theo; duy chỉ tiếc rằng không xét rơ sự gian của
Khắc Chung đến nỗi Quốc Chân phải chết, đó là kém sáng suốt. Niên
hiệu Đại Khánh thứ hai, Vua xuống chiếu: "Cha con, chồng vợ và gia
nô không được thưa kiện lẫn nhau".
Đế nhà
Hán có điều luật trong người họ (5 bậc để tang) phải dung thứ, che
chở lẫn nhau, đời vua Thái Tôn nhà Đường có lệ cấm các gia nô cáo
giác chủ nhà; v́ đó có quan hệ đến luân thường, làm cho phong hóa
được thuần hậu. Vua Minh Tôn vốn là người ở hậu với họ hàng, người
dưới có trùng tên với người tôn trưởng, tất phải cải tên đi; ngày
giỗ các bà cô, ông chú đều có cái thiếp nhỏ kê ra để giao cho Hoàng
tử, suy ḷng tốt ấy ra, nên mới có lời chiếu này. Nhưng mà Quốc Chân
là họ nhà vua, v́ có tên gia nô Trần Phẫu tố cáo mà bị giam vào
ngục, điều này th́ c̣n dạy dân sao được?
Nguyên sử
chép: Năm ấy quân nước ta đến châu Trấn Yên, lấp sang 2 châu Quy
Thuận và Dưỡng Lợi; nói đổ rằng Tri châu là Triệu Giác bắt người
buôn nước ta lấy một khối vàng, xâm lấn một ngh́n khoảnh đất, cho
nên đến để báo thù, sứ giả nhà Nguyên là Lưu Nguyên Hanh xét hỏi
việc này, đưa điệp dụ nước ta, đại lược nói: "Hán đặt ra 9 quận,
Đường lập ra 5 quận, An Nam thuộc vào trong số ấy, đă dâng bản đồ
sang và cống, phận trên dưới đă rơ ràng, hai bên đi lại vẫn có ân
huệ, làm sao lại không yên phận, mở đầu sự xâm lược đất đai, tuy
việc xâm lược này là nhỏ, nhưng có y mưu toan lớn lắm. Ai bày ra mưu
này, ai chủ trương việc này, nên xét rơ người ấy, đem đến mà trừng
phạt ngay ở nơi đất này". Nước ta phúc điệp nói: "Lũ chuột ở biên
giới tự chúng gây nên lên việc không hay này. Bản quốc biết sao
được?". Việc đó đến triều đ́nh Nguyên, vua Nguyên xuống chỉ phải chờ
sứ thần An Nam đến sẽ hiểu bảo. Đó là việc lớn thuộc về bờ cơi, mà
không thấy trong sử chép, có lẽ nhà làm sử bỏ sót, vậy biên chép lên
đây để biết rơ ư của nhà Nguyên cốt muốn yên không muốn động đến
binh đao.
Đài quan dâng sớ nói: Trần Khắc Chung làm tướng không làm cho âm
dương điều ḥa, đến nỗi có nước lụt và đại hạn. Không làm được công
trạng ǵ, xin băi chức Khắc Chung. Khắc Chung nói: "Tôi làm chức
quan gần Vua, chỉ biết làm điều ǵ đáng làm, c̣n như đại hạn th́ nên
hỏi long vương, qui cữu cho tôi thế nào được?". Sau nước sông lên
to, Vua thân đi sửa trị đệ, Đài quan nói rằng: "Bệ hạ nên sửa sang
đức chính". Khắc Chung nói: "Dân đương bị nạn nước lụt, việc cứu
chữa cần cấp lắm, c̣n có đức chính nào lớn hơn việc ấy nữa. Tất phải
ngồi yên định thần mới gọi là tu đức chăng?".
Lời bàn:
"Quan Tể tướng đỗ lỗi cho Long vương, Đài quan chê trách việc nhỏ
nhặt; hai bên đều có lỗi cả. Xưa kia Bính Cát hỏi việc con trâu ho,
mới nghe th́ là viển vông, nhưng c̣n biết trọng chức vụ của ḿnh.
Nay Khắc Chung đỗ lỗi cho Long vương, vậy th́ chức vụ của y là ǵ?
C̣n dùng y để làm ǵ nữa.
Nguyễn
Bính là một người thanh liêm, thẳng thắn, khi đi sứ Nguyên trở về,
không mua một vật ǵ; đến lúc ấy đi Nghệ An làm sổ đinh dân, khi về
triều, đem bao nhiêu tiền bổng thu được tiến nộp lên, Vua sai thu
nhận, nói rằng: "Để tỏ ra Bính không gian dối". Lại có Phí Trực là
người sáng suốt, lúc bấy giờ ở Thiên Trường có trộm cướp nổi lên như
ong, tên Văn Khánh làm đầu đảng, có kẻ nhận là bắt được, giải lên
quan, tra hỏi đều thú nhận, ai cũng cho là thật, duy có Trực hỏi vặn
măi, việc án ấy lâu không xử được. Thượng hoàng nói: "Nó đă thừa
nhận rồi, c̣n nghi ǵ nữa?". Trực tâu: "Không bị roi vọt tra khảo mà
tự nhiên nó thú nhận, thần nghi lắm". Độ một tháng sau, quả nhiên
bắt được tên Văn Khánh thật, từ đây Thượng hoàng khen Trực là giỏi.
Thượng
hoàng mất, Thượng hoàng có tính khiêm tốn, yêu mến người cùng họ;
phụng thờ vua Nhân Tôn rất kính cẩn, năm trước ham uống rượu, vua
Nhân Tôn răn bảo, th́ tuyệt không uống nữa. Ban quan tước cho nhiều
người, vua Nhân Tôn nói: "Có một nước bằng bàn tay, sao quan triều
nhiều đến thế"; từ đấy trở đi rất tiếc tước phẩm. Khi vua Nhân Tôn
mất, bà Tuyên Từ Thái hậu c̣n sống, dặn Thượng hoàng rằng: "Ngày sau
sẽ coi là d́ mà phụ táng ở bên lăng, có vẽ địa đồ về huyệt táng mà
trao tay Thượng hoàng, đến khi Thái hậu mất, Thượng hoàng theo di
mệnh phụ táng ở Đức Lăng, bách quan tâu: "Lăng tẩm không nên động
nào". Thượng hoàng nói: "Mệnh của tiên đế, ta không dám trái; nếu có
sự ǵ bất lợi th́ ta tự nhận cả". Đến mấy năm nay, lại càng cẩn thận
việc h́nh án, có kẻ gia nô nhà quan là Hoàng Hộc bị người làng kiện,
dùng kế gian xảo được khỏi tội. Thượng hoàng biết việc ấy, bảo vị
H́nh quan rằng: "Người giỏi xét án phải dùng cả t́nh và lư; t́nh
ngay lư gian, không nên lấy lư mà bỏ t́nh, đă biết t́nh ngay hay
gian rồi, lại c̣n phải xét đến lư ngay hay gian nữa, th́ gian trạng
sẽ bày ra. Tên Hộc gian và c̣n kiệt hiệt, được tránh khỏi h́nh phạt,
đó là quan không làm hết chức vụ". Sau khi tốn vị, vẫn c̣n tự xét xử
mọi việc, lúc nhàn hạ th́ lưu tâm sách vở, có làm ra bài tập "Thủy
Vân tùy bút", đến khi mất sai đốt hết đi.
Gốc thiên
hạ ở tại gia đ́nh, có dạy bảo được gia đ́nh, nhiên hậu mới dạy được
người trong nước. Kinh Thư khen vua Nghiêu trong nước được thái b́nh
thịnh trị, tất do thân mến cửu tộc làm đầu; Kinh Thi khen vua Văn
Vương
được hiệu quả trị gia bang, tất phải làm khuôn phép cho vợ trong nhà
trước đă. Xem như vua Anh Tôn thờ cha mẹ kính cẩn, xử với họ hàng
ḥa thuận, vua Nhân Tôn khen là có hiếu, vua Minh Tôn noi theo nếp
ấy, trong nước được văn minh thịnh trị, dân được giàu có, thuần hậu;
đó chả phải là gốc bởi tu thân tề gia là ǵ?. Gia pháp nhà Trần rất
nghiêm về danh phận trên dưới, Hoàng phi Huy Tư là vợ vua Anh Tôn và
mẹ Minh Tôn; đương thời vua Anh Tôn, cái kiệu của Hoàng phi đi là
của Bảo Từ Hoàng hậu ban cho, vua Anh Tôn cho là không phải phép
chưa đáng được đi, không cho dùng. Đến lúc tử cung của vua Anh Tôn
từ Thiên Trường đưa đi, thuyền của Bảo Từ Thái hậu có 8 thuyền kéo
dây dắt, thuyền của Huy Tư Hoàng phi có 2 thuyền dắt, có kẻ chiều ư
lấy thêm dây buộc vào thuyền Hoàng phi Trần Hựu nói: "Thuyền của
Thái hậu có 8 thuyền kéo dây là đúng phép tắc, phận kẻ trên người
dưới rơ ràng lắm, sao c̣n được thêm dây kéo vào thuyền của Hoàng
phi?", nói rồi rút gươm cắt dây kéo thuyền của Hoàng phi, thế mà
Hoàng phi không giận, vua Minh Tôn lại c̣n khen, khuyến khích người
có khí tiết như thế, lo ǵ không có bầy tôi trung thực.
Thượng
tướng là Phạm Ngũ Lăo mất. Khi Ngũ Lăo mới ngoài 20 tuổi, Hưng Đạo
trông thấy làm lạ, gả con gái nuôi cho. Ông xuất thân trong hàng
ngũ, mà h́nh như không lưu ư vào nghề vơ lắm,nhưng trị quân rất có
kỷ luật, đối đăi với tướng hiệu như người trong nhà, nên các đạo
quân của ông tất là quân lính thân nhau như cha con, đánh đâu cũng
thắng; ông lại thích ngâm thơ, có câu rằng:
"Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thu (hay châu),
"Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu;
"Nam nhi vị liễu công danh trái,
"Ta thích nhân gian thuyết Vơ Hầu".
Ông người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, vị là danh tướng đời bấy
giờ, khi mất đă 66 tuổi, chỗ nhà ông ở nay làm đền thờ, có liệt vào
hàng quốc tế. (Danh tướng đời Trần như Hưng Đạo có bài hịch, Ngũ Lăo
thích làm thơ, không phải chuyên về vơ mà thôi đâu).
Con gái Ngũ Lăo là thứ phi vua Anh Tôn, khi Anh Tôn mất, về chùa
Đăng Bảo Sơn, làng Phù Ủng, than rằng: "Chùa này do Tiên quân lập
ra, làm nhà ở nơi đây có thể ở để thờ phụng Tiên quân, toàn cả trung
và hiếu là ư nguyện của tôi", liền sửa lại chùa mà đến ở đó.
Bầy tôi nhà Trần có Đặng Tảo, Lê Chung người th́ bưng cái hồ ở trong
cung cấm, người th́ xách cái túi ở trong dinh trại, chức quan c̣n
nhỏ chưa được ngôi cao sang như Tam Công, giàu có đến vạn chung, duy
được có vinh hạnh tri kỷ, chỉ một ḿnh biết thôi; cho nên có tấm
ḷng nhớ mến vua, đến ở nơi lăng tẩm mà thờ phụng, để báo ơn tri ngộ
đến trọn đời cũng là một cách tỏ ḷng trung với vua, cũng đáng khen.
Đời bấy
giờ các quan trong triều như là: Trần Thời Kiến, Đoàn Nhữ Hài, Độ
Thiên Lư, Mạc Đĩnh Chi (Vua biết Đĩnh Chi là người liêm khiết, sai
người đem 10 vạn quan tiền để trong cửa nhà ông, Đĩnh Chi đem việc
đó tâu Vua biết, Vua nói: "Không ai nhận tiền ấy, th́ cho khanh lấy
mà chi dùng"), Nguyễn Dũ, Phạm Mại, Phạm Ngộ (2 ông này họ Chúc, Vua
lấy cớ họ Chúc không phải là phong tộc, cho đổi là họ Phạm. Các ông
này làm quan có phong độ, ngạnh trực dám nói thẳng, có phong độ đại
thần).
Nguyễn
Trung Ngạn (nguyên tên là Cốt, vua Anh Tôn cho đổi tên là Trung
Ngạn), Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Lê Duy (người làng Cổ Đinh, huyện An
Khang), Lê Cư Nhàn, là lúc nhân tài thịnh nhất hơn triều các vua
khác. (Thời bấy giờ sứ giả nhà Nguyên là Ô Hợp Mưu đến báo vua
Nguyên mới lên ngôi, cưỡi ngựa đi đến tận cầu Tây Thấu mà không
xuống ngựa, người bạn tiếp tranh biện không được; Vua sai Trung Ngạn
ra đón, lấy lư mà biện chiết, Hợp Mưu lập tức xuống ngựa đi bộ).
Trần Bang
Cẩn làm quan Đại Hành khiển, là người nho nhă có thao thủ, giản dị,
trầm tĩnh không ḷe loẹt, Vua cho bài thơ vào bức tượng vẽ của ông
rằng:
"H́nh
dung cốt cách nại đông hàn.
Tướng mạo
đường đường riệc khả khan,
"Phong
lưu nhất đoạn hồn miêu tận,
Tân lỳ
nan miêu cảnh cảnh đan"(1)
Niên hiệu
Khai Thái thứ nhất, Vua đúc tiền kẽm rồi lại cấm liền.
Cải chức
Hành khiển làm chức Môn Hạ sảnh, chức Nội thư Hỏa cục vẫn theo cũ
gọi là Nội Mật viện.
Nguyễn
Trung Ngạn làm chức Tri Thánh Từ Cung sự, tính ông sơ lược, bấy giờ
có Bảo Vơ Vương được ban áo đen ở vào hàng Thượng vị hầu, Trung Ngạn
lại để vào hàng áo tía. Vua thương người có tài, việc ông làm đó chỉ
là lầm lẫn, nên cho ra làm chức An Phủ sứ Thanh Hóa. Ông có bài thơ
tự phụ rằng:
"Giới hiên tiên sinh lang miếu khí,
"Diện linh dĩ hữu thôn ngưu chí,
"Niên phương thập nhị Thái Học sinh,
"Tài đăng thập lục xung Đ́nh Thí.
"Nhị thập hữu từ nhập gián quan.
"Nhị thập hữu lục Yên Kinh sứ"(2)
Người ta bàn tán là khoe khoang. Sau ông vào làm quan trong triều
chính cũng giữ được tiếng tốt trọn đời.
Trương Hán Siêu làm quan Hành khiển, hạch Phạm Ngộ làm h́nh quan mà
nhận hối lộ, Vua sai khám xét ra sự thật. Hán Siêu nói tư với người
rằng: "Tôi ở trong triều chính, được Vua tin, nên phải nói, biết đâu
c̣n có khám xét nữa", Vua biết, nói: "Hành khiển là quan ở Sảnh
(Hành chính), Thẩm h́nh là quan ở Viện (tư pháp) đều do ta ủy nhiệm,
có đâu lại tin người này mà nghi người kia. Đến khi khám xét, th́
Hán Siêu bị lư khuất, bị phạt 300 quan tiền, thăng Ngộ lên chức Tham
tri, ngang hàng với Hán Siêu.
Giết quan Thượng tể là Quốc Chân, khi ấy tuổi Vua đă cao, mà chưa
định người nào để nối ngôi, Quốc Chân tự cho ḿnh là cố mệnh đại
thần (mệnh Vua trước để lại), và là cha bà Hoàng hậu, nhất quyết
phải đợi Hoàng hậu sinh ra con cả rồi hăy lập; Văn Hiến muốn lật đổ
Hoàng hậu mà lập Hoàng tử Vượng, mới đem vàng hối lộ Trần Phẫu là
gia thần Quốc Chân, bảo phải vu cáo Quốc Chân mưu phản, Vua lại tin
lời, đem việc ấy hỏi Trần Khắc Chung: Khắc Chung là đồ đảng với Văn
Hiến, và cùng mẹ Hoàng tử Vượng đều là người ở Giáp Sơn, liền thưa
rằng: "Bắt hổ về, tha hổ ra th́ khó"; v́ thế Quốc Chẩn bị tội, sau
vợ cả, vợ lẽ tên Phẫu ghen tuông đem việc Văn Hiến nhận hối lộ tâu
lên Vua, cứu xét ra sự thực, xử tên Phẫu phải lăng tŕ; chưa kịp đem
hành h́nh, th́ gia nô của Triệu Vơ (là con Quốc Chân), cắt thịt tên
Phẫu mà ăn sống gần hết; Văn Hiến bị giáng làm thường dân, tịch thu
cả gia sản.
Sử thần bàn rằng: Chưa sinh con cả mà có con thứ đă lớn, lẽ nào lại
bỏ trống ngôi Thái tử mà để đợi? Huống chi việc Hoàng hậu sinh con
sớm hay muộn, có hay không, chưa biết chắc được, tôn xă là trọng, kể
ǵ con cả với con thứ nữa; lại nữa, đă lấy người nối ngôi rồi, bấy
giờ mới sinh con cả, tai mắt thần dân đă quen rồi, có lẽ nào đưa một
đứa trẻ mới lọt ḷng mà thay giữ quyền giám phủ, thay đổi cả sự
ngưỡng vọng của thần dân hay sao? Xưa kia vua Đế Ất tin lời quan
Thái sử mà ḍng dơi nhà Thương bị mất, những việc đó đủ để làm gương
cho đời sau.
Sách lập Hoàng tử Vượng lên làm Thái tử, liền truyền ngôi vua cho,
Thái tử Vượng lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Khai Hựu.
Các Hoàng
tử ngồi hầu, Thượng hoàng bàn đến nhân vật dạy Hoàng tử, chỉ nên lấy
người thiện, không nên dùng đến người ác, sợ rằng Hoàng tử bắt
chước. Thượng hoàng nói: "Nghe biết điều thiện th́ bắt chước, điều
ác th́ nên tránh. Vậy th́ thiện và ác đều là thầy ḿnh cả". Thượng
hoàng xuất gia đi tu, thường ăn chay, Văn Bích vốn bài xích đạo
Phật, nhân nói rằng ăn chay th́ có ích lợi ǵ. Thượng hoàng nói: "Tổ
khảo ta thường ăn chay, nên ta bắt chước, c̣n lợi ích ǵ th́ không
biết đến" Hiệu Khả khen Thượng hoàng hơn vua Anh Tôn, Thượng hoàng
đổi sắc mặt mà nói: "Khen người ta mà bảo người đó hơn cha, có thể
biết người nói ấy là bất hiếu". Hiệu Khả xấu hổ lạy phục xuống đất.
Thượng
hoàng đi tuần thú Đà Giang. Quân Mán Ngưu Hống làm phản, Thượng
hoàng định đi thân chinh, Trần Khắc Chung nói "Sông Đà nhiều khí
độc, nước chảy mạnh, không lợi cho sự hành quân, Chiêm Thành không
chướng khí độc, các triều trước đă có đánh, bắt được chúa nó, nay
không ǵ bằng đưa quân ấy đi đánh nước Chiêm Thành". Thượng hoàng
nói: "Giặc quấy nhiễu biên dân, nên cứu gấp ngay, sao lại so sánh
t́nh thế khó với dễ, đương giận người này lại sang giận người kia
bao giờ". Khắc Chung cúi rạp xuống tạ lỗi (Thượng hoàng đi đến sông
Bạch Hạc, có đống đá ở giữa ḍng sông, các thuyền phần nhiều mắc cạn
ở đó, cầu đảo vị thần sông ấy. Phụ Vơ Đại Vương nói: "Thuyền ngự đi
được yên lành, th́ sẽ có khen thưởng". Sau nằm mộng vó vị thần nói
chưa được phong thưởng ǵ, liền phong thêm cho 2 chữ).
1) H́nh
dung là cốt cách, tướng mạo đẹp, vẻ được hết, duy có trong tâm tốt
khó vẽ nổi.
2) Tự kể
hành trạng: Khi ít tuổi đă có chí lớn; 12 tuổi là Thái học sinh; 16
tuổi đỗ thi Đ́nh, 24 tuổi đi sứ sang Yên Kinh.
Hiến Tôn
Hoàng Đế
Tên là
Vượng, con thứ của vua Minh Tôn, ở ngôi vua được 12 năm, Vua có
thiên tư sáng suốt, lại gặp lúc nước thái b́nh, tiếc rằng làm vua
không bao lâu, chưa thấy làm được việc ǵ.
Niên hiệu
Khai Hựu thứ hai, Bảo Từ Thái hậu mất. Tính bà rất nhân từ, yêu con
các thứ thiếp cũng như con ḿnh sinh ra, đối đăi phi, tần rất có ân
huệ; ức chế các tư gia, không đem ân điển cho bậy ai bao giờ. Đời
bấy giờ khen là hơn cả các vị mẫu hậu.
Chiêu Văn
Vương là Nhật Duật mất (77 tuổi). Ông thông hiểu khắp thư sử, biết
rơ âm luật, đời bấy giờ khen là người uyên bác, các chế tác ở triều
đ́nh đều do tay ông làm ra. Có sứ thần Chiêm Thành hay sứ Mán đến,
th́ ông nói chuyện bằng tiếng Chiêm hay tiếng Mán, vua Nhân Tôn khen
là người phiên lạc thác sinh, sứ giả nhà Nguyên đến, không cần ai
phải phiên dịch, ông tiếp chuyện vui vẻ như thường, sứ Nguyên ngờ
ông là người Chân Định (nước Tầu) sang làm quan ở nước Nam. Ông rất
giỏi về liệu t́nh thế của bên địch, trận đánh Chương Dương, là chiến
công của ông to nhất trong năm Trùng Hưng. Cao sang vị thân vương,
thờ 4 triều vua, 33 lần chuyên giữ một trấn quan trọng; ở trong nhà
không ngày nào là không có chèo hát vui chơi, người ta ví ông cũng
như Quách Phần Dương đời Đường.
Trần Khắc Chung mất, Khắc Chung là người kiểu mà tâm địa nhỏ nhặt,
làm ra bộ cẩn thận, mà vẫn không giấu được bản tính. Thường cùng Sĩ
Cố đánh cờ bạc, suốt ngày không hề nghỉ, có được hay thua một vài
quan tiền, lấy làm khổ tâm lắm. Bạn bè có tiệc đầy tuổi con, khánh
thành nhà mới, mời đến là đi liền; nhà lang thuốc có món ăn ngon
cũng đến; quân lính có biếu món ăn, th́ khen nịnh vợ nó; người thức
giả khinh y lắm.
Khắc
Chung đă vô lễ làm ô nhục bà Huyền Trân, mưu đồ giết Quốc Chân vô
tội, cười đùa với thiên tai không ḷng kính trời; đại hạn mà đổ lỗi
cho Long vương, khinh khi cả quỉ thần; chỉ việc xiểm nịnh luồn cúi,
mà các vua đời bấy giờ không biết là kẻ gian tà.
Khi phụ
táng Bảo Từ Thái hậu ở Thái Lăng, Vua sai bách quan chọn ngày tốt,
có người nói năm nay bất lợi, bác bỏ ngày đă chọn ấy đi. Thượng
hoàng hỏi rằng: "Người biết sang năm ta chết hay sao?". Thưa rằng:
"Không
biết". Lại hỏi: "Nếu sang năm chưa chết th́ nên hoăn việc hỏa táng;
nếu sang năm chết mà đă táng được Mẫu hậu, chả hơn chết mà không làm
được việc hay sao? Trong lễ có sự chọn ngày là trọng việc đó mà
thôi, sao lại câu nệ việc họa hay phúc thế được". Việc táng vẫn thi
hành. Xưa kia: Khi đưa đám tang vua Đại Tôn đời Đường, vua Đức Tôn
thấy xe tang không đi chính đường đă đặt sẵn lại đi tránh sang hướng
Đinh và Vị, hỏi cớ tại sao? Các quan thưa: "V́ bản mệnh Bệ hạ tại
hướng Ngọ, nên xe tang tránh hướng Ngọ". Vua nói: "Có lẽ nào mưu đồ
tư lợi cho ḿnh, mà bắt xe tang đi không chính hướng như thế", liền
truyền lệnh cứ thẳng hướng Ngọ mà đi. Nay vua Minh Tôn bác lời chọn
ngày, đều là có hiếu tâm, không mê hoặc về hủ tục.
Thượng
hoàng thân đi đánh nước Ai Lao, cử Nguyễn Trung Ngạn làm Phát Vận
sứ, thanh thế quân lừng lẫy, quân nước Ai Lao trông thấy phải trốn
xa, Vua xuống chiếu cho Trung Ngạn mài vách núi đá ghi chép chiến
công vào đó, rồi kéo quân về, chưa được mấy lâu, lại kiến nghị vua
thân đi đánh nữa, nhưng bị chứng đau mắt, có người xin hoăn việc ấy,
Vua không nghe; đi đến Nghệ An, nghe tin nước Ai Lao xâm lấn Nam
Nhung, đương đau cũng cố đi, sai Đoàn Nhữ Hài làm đốc tướng, các đạo
quân đều do ông điều khiển, Nhữ Hài nghĩ rằng quân Ai Lao yếu thế,
đánh tất phải được, muốn lập kỳ công để kiêu ngạo với đồng bối; đến
khi đánh nhau, quân giặc phục sẵn voi mà đánh giáp vào, quan quân to
thua to, Nhữ Hài cũng ngă xuống nước, Thượng hoàng nghe tin nói:
"Không phải Nhữ Hài không biết liệu t́nh thế quân giặc, chỉ v́ làm
to quá mà đến nỗi". Thế mới biết người ta không nên mong ước quá
phận hạn của ḿnh.
Trong
việc này, Đỗ Thiên Lư cũng đương đau mà cố xin hỗ giá, nói rằng:
"Thà chết ở ngoài quân dinh, chứ không chịu chết ở trên giường đệm".
Thượng hoàng khen là khí khái, cho đi theo, cũng bị chết ở đất giặc.
Vua th́
gượng đau mà xuất quân, Tướng th́ gượng đau mà đi hỗ giá, lấy sự
chết ở trên giường đệm là hèn, lấy sự chết bọc thây bằng da ngựa làm
hùng tráng; ở đời có người mang chăn vào trúc trực, mới có một đêm;
vắng nhà, đă tự kiêu ngạo với bọn tỳ thiếp, thật đáng cười.
Cử Nguyễn Trung Ngạn làm Tao Vận sứ, kiến nghị lập ra kho chứa thóc,
chức các thóc thuế điền để pḥng chẩn cấp cho dân bị đói, vua xuống
chiếu bắt các lộ phải thi hành.
Đó là di
ư kho Thường B́nh đời cổ, đến mùa th́ bán và đong, khi chẩn cấp đă
có sẵn, không đến nỗi lâm sự mới hốt hoảng đi làm, dân không phải
dắt nhau đi lại khổ sở, quan không phải đốc thu phiền bận, phát ra
được chóng chia ra khắp, cũng là một chính sự hay.
Hưng Hiếu
Vương đi đánh quân Mán Ngưu Hống b́nh được. Khi kéo quân về, viện lệ
cũ khi Nhân Huệ định được Nam Nhung, mà xin thưởng cho kẻ giữ
thuyền. Thượng hoàng nói: "Khi xưa Khánh Dư đánh Nam Nhung, phải lấy
gỗ đóng lấy thuyền, đó là thuyền coi giữ ở đất giặc, không phải
thuyền giữ Nghệ An của ḿnh. Việc này nay khác với việc trước". Thưa
rằng: "Nếu không có thuyền để giữ, th́ chiến sĩ giữ lâu thế nào
được?" Thượng hoàng nói: "Nếu thế, trước hết phải thưởng người ở
trong triều đ́nh; Kinh đô không giữ được yên, quân sĩ đi đánh giặc
thế nào được?". Hưng Hiếu không trả lời được. Vua đổi quyển lịch Thụ
thời gọi là Hiệp kỷ lịch. Bấy giờ Đặng Lộ là quan Hậu Nghi Lang, làm
ra "Linh lung nghi", để khảo nghiệm h́nh tượng ở trên trời, đều được
phù hợp.
Vua mất,
(hiệu là Hiến Tôn) Hoàng tử Cao lên ngôi, Vua cải niên hiệu là Thiện
Phong.
Cử Nguyễn
Trung Ngạn làm chức Tri Khu mật viện sự. Quy chế cũ: Cấm quân thuộc
vào Thượng Thư sảnh đến khi ấy đặt ra viện Khu mật quản lĩnh đạo
quân ấy. Trung Ngạn kén đinh tráng xung vào số khuyết trong cấm
quân, lập ra sổ sách. Viện Khu Mật quản lĩnh cấm quân từ Trung Ngạn
trước nhất.
Dụ Tôn
Hoàng Đế
Tên là
Cao, con thứ 10 của vua Minh Tôn, ở ngôi vua 38 năm. Việc văn vơ đều
sửa sang chu đáo, trong nước b́nh yên, ngoại bang mến phục, khi nước
được đại trị rồi, th́ sinh ra ham mê chơi bời, cơ nghiệp nhà Trần từ
đấy suy dần.
Phụ chép:
Hôn Đức Công Dương Nhật Lễ.
Niên hiệu
Thiệu Phong thứ hai, sửa lại ṭa Ngự sử đài đă xong. Thượng hoàng
đến thăm, về cung rồi quan Giám sát Doăn Định mới đến, dâng sớ kháng
nghị: Thượng hoàng không nên đến Ngự sử đài, lời lẽ rất kích thiết,
Thượng hoàng nói: "Đài cũng là một ở trong cung điện, sao lại không
vào được? Vả lại trong đài trước kia có chỗ Thiên tử giảng học, đó
là lệ cũ được vào Ngự sử đài". Định c̣n cố sức tranh chấp, bèn bị
mất chức (Định cũng là điên cuồng, nói điều không đáng nói, cốt để
che lỗi ḿnh không ở công sở, bị mất chức là phải).
Bấy giờ đói kém, mất mùa, phần nhiều dân tụ họp làm trộm cướp, cũng
có nhiều người làm thầy tăng và làm đứa ở cho các thế gia; gia nô
các nhà Vương hầu càng nhiều lắm.
Đặt ra 20
đô phong đoàn ở các lộ để bắt trộm cướp (Dân bị cùng khổ đi làm trộm
cướp, không phát thóc kho để chuẩn cấp cho dân lưu vong, chỉ nhờ vào
sức Phong đoàn để lùng bắt bọn giặc cỏ, thật là cùng kế).
Thi Thái
học sinh. Cách thi: ám tả cổ văn, kinh nghĩa và thơ phú.
Nhà
Nguyên sai Vương Sĩ Hành đến hỏi việc lập đồng trụ, Vua sai Phạm Sư
Mạnh đến biện luận.
Xưa kia,
thuyền buôn nguời nhà Tống đến nước ta, tiến người Tiểu Nhân Quốc
(thân dài 7 tấc, tiếng như ruồi nhặng, không hiểu tiếng nói) lại
tiến vải Hỏa cán (giặt bằng lửa, giá mỗi thước 300 quan tiền, chế ra
áo ngự dụng để ở Nội Phủ). Bảo Oai Vương tên là Nghiễn tư t́nh với
cung nữ, ăn trộm thứ áo ấy; một hôm mặc vào trong mà vào chầu, khi
tâu việc lộ cửa tay áo ra, Thượng hoàng trông thấy lấy làm nghi, sai
kiểm duyệt lại, quả nhiên có bị mất, cung nhân bí mật lấy lại, đem
vào cung tiến lên, Nghiễn v́ việc ấy mà bị tội.
Cho người
học sinh Đỗ Tử B́nh làm chức Thị giảng.
Lời bàn:
Nước đến khi sắp mất, th́ trời tất sinh ra một người để phá hoại.
Từ đây
trở đi, việc hấn khích ở biên giới Nhật Nam ngấm ngầm mở ra dần, tai
họa của Duệ Tôn đă phục sẵn, cho nên đem chuyện một người học sinh
mà chép lên sách, là đánh dấu bắt đầu loạn từ đấy.
Vua đặt
ra trấn Vân Đồn. Xưa đời Lư các thuyền buôn do các cửa biển thuộc
Diễn Châu đi đến, đến lúc bấy giờ đường biển đổi rời dần, cửa biển
th́ nông cạn, phần nhiều các thuyền buôn đến đậu ở Vân Đồn buôn bán,
cho nên mới có lệnh đặt ra trấn này.
Làng
Thiên Cường, trấn Nghệ An, có người con gái biến thành con trai.
Trâu Canh
có tội, được tha khỏi chết. Xưa Vua mới lên 4 tuổi, đêm trung thu
chơi thuyền trên Tây hồ, bị ch́m xuống nước, t́m thấy ở trong cái đ̣
đánh cá, gần tắt thở, Thượng hoàng sai lang thuốc là Canh cứu chữa,
Canh nói: "Châm chích th́ sống lại, nhưng chỉ bị dương nuy thôi".
Đến khi Vua lớn lên, Canh lại tiến phương thuốc lấy mật người đồng
nam ḥa với Dương khởi thạch mà uống, rồi tư thông với người con gái
cùng cha mẹ, th́ ứng nghiệm; V́ thế Vua tư thông với Thiên Ninh Công
chúa, quả nhiên kiến hiệu; Canh v́ cớ ấy được ra vào trong cung
trông nom thuốc, liền tư thông với cung nữ; việc phát giác, v́ có
công chữa Vua sống lại, nênđược miễn tội chết.
Tên Canh
là người nước Tàu, con Trâu Tôn, khi quân Nguyên sang xâm lấn nước
ta, v́ có nghề làm thuốc được theo quân lính đi, đến lúc quân Tàu
thua, ở lại núi Long Châu, làm nghề thuốc nên giàu, và cũng nhân v́
đó mà thất bại, người ta truyền lại v́ nơi ở có núi đá bức áp, nên
giàu có không được lâu).
Chế Mỗ
nước Chiêm Thành chạy sang nước ta, dâng một con kiến lớn dài 1
thước 9 tấc, và voi trắng, ngựa mỗi thứ một con.
Lúc trước
chúa Chiêm là A Nan c̣n sống, con là Chế Mỗ làm con rể Bố Điền; Bố
Để và Bố Đề bề ngoài tuy thân với nhau, nhưng bên trong vẫn tranh
quyền, đến khi A Nan chết, Bố Để đuổi Chế Mỗ đi mà tự lập làm vua,
Chế Mỗ phải chạy sang nước ta, xin cho quân đưa về nước. Khi bấy giờ
Hưng Hiếu Vương trấn ở Hoá Châu, phải đảm nhận việc ấy, nhưng để
chậm trễ ngày này sang ngày khác; chưa biết bao giờ được có thời kỳ
về nuớc. Chế Mỗ nhân kể chuyện cũ Chiêm Thành: Xưa quốc vương nuôi
một con khỉ, rao hỏi người trong nước có ai dạy khỉ biết nói, th́
cho vạn bạc, có một người đến xin nhận, nói rằng phải dùng hết 100
bạc thuốc mới kiến hiệu, quốc vương mừng mà nhận lời. Ư người đó
nghĩ rằng trong thời gian 3 năm, quốc vương , chính ḿnh và con khỉ,
tất có một người chết, thế là chỉ nhận bạc mà bất tất phải thành
việc. Chế Mỗ sang cầu xin, mong được về nước, cũng giống như thế.
Triều đ́nh nghe biết chuyện ấy, mới nghị cất quân đi, sau ngăn trở
về việc vận tải lương, quân lại kéo về, Chế Mỗ liền sau đó cũng
chết.
Sử thần
bàn rằng: Nước nhỏ phụng sự nuớc lớn, là v́ nước lớn làm yên được
hoạn nạn mà giữ cho nước nhỏ khỏi bị mất nước; sao lại không đem
quân cứu giúp, làm mất ḷng thành của Chế Mỗ qui thuận, cho bố đẻ
được thành tội ác giết nghịch; để cho chúng thấy ḿnh bất lực, tỏ
ḷng coi khinh; chưa mấy lúc mà nước Chiêm vào cướp Hoá Châu, quan
quân bị thua, đến nỗi chúng kéo quân bức bách đến kinh đô, đuổi xe
Vua. Nước Chiêm quấy rối măi đến khi nhà Trần mất nước, thật là tại
việc này làm cho chúng coi khinh đó, Trung Ngạn không nhận lỗi được,
khi bấy giờ binh quyền ở tay
Trung
Ngạn, mà không biết mưu tính việc nước, cho nên bị chê trách.
Trần Hữu
Lượng khởi binh ở Giang Châu, sai sứ giả sang nước ta xin ḥa. (Hữu
Lượng là con của Ích Tắc, cuối đời Nguyên cùng vua Minh Thái Tổ khởi
binh).
Cháu Hưng
Đạo Vương tụ họp các gia nô trốn chủ của các nhà Vương, Hầu làm trộm
cướp bóc các xứ Lạng Sơn và Nam Sách.
Lúc nhà
Trần đương thịnh, đánh được nhà Hồ, nhờ sức các gia nô của Vương,
Hầu nhiều lắm; đến khi nhà Trần gần suy, chúng tụ tập làm trộm cướp,
bị tai hại về gia nô của Vương, Hầu lại càng nhiều; có người nói v́
nhà Trần cho Vương, Hầu được mở phủ đệ riêng, nuôi riêng gia nô cho
nên di hại về sau đến thế, nhưng không phải. Lúc mới đầu có nhiều vị
tôn thất hiền tài như là Quốc Tuấn, Nhật Duật, ông nào cũng sáng
suốt tri nhân, biết chế ngự người dưới, người lớn người nhỏ ai cũng
tỏ hết tài năng, người lương thiện, người hạ tiện ai cũng được ḷng;
hơn th́ như Phạm Ngũ Lăo kém th́ cũng được như Dă Tượng, Yết Kiêu
nhờ vào sức các người ấy rất nhiều c̣n đến các ông Huệ Túc, Bảo Oai
th́ kém cỏi, gian tà, chỉ biết đua ngựa, chơi chim và thích ăn ngon,
bọn môn khánh mới có câu ca nghĩ đến cá ngon, gia nô mới có ước
nguyện được miễn roi vọt; cho nên kẻ thác thỉ(1) th́ thích nghêu
ngao trong phong trần, kẻ hèn kém th́ chỉ nghĩ đến cái miệng bụng,
như thế không xoay ra làm trộm cướp sao được? Ôi! Ví khiến, Phàn
Nhược Thủy được một chức quan, th́ không ai qua vượt nổi nơi hiểm
Thái Thạch; Vương Đ́nh Tấu được thuộc vào đạo quân nào, th́ chưa đến
nỗi phát ra cái nạn Lư Long. Người làm việc nước phải biết rơ những
việc đó.
Trương
Hán Siêu mất. Siêu có tài văn chương và chính sự, rất thích bài kích
di đoan. Vua chỉ gọi ông là thầy chứ không gọi tên, nơi ông ở là
Phúc Am, cách An Đăng có một bến sông, ông yêu mến sơn thủy núi Dục
Thúy, dựng nhà ở đó, nay hăy c̣n di tích khắc vào đá, ai trông thấy
cũng mến chuộng. Có điều sở đoản là: không cho giao du với người
đồng liệt, chỉ quen thân bọn trung quan (hầu cận vua); như tên tù
trưởng Lạng Giang, tên thày tớ chùa Quỳnh Lâm, đều mộ chúng giàu mà
gả con gái cho bọn phi loạn, đời bấy giờ chê lắm. Lê Cư Nhân đă gọi
ông là người nhà quê đá cầu, v́ người thôn quê đá cầu phần nhiều
không trúng, để ví với ông tính việc nhiều điều không đúng lẽ phải.
Lê Cư
Nhân mất, Cư Nhân làm H́nh quan, xét việc án ở nhà riêng, bị Đài
quan hạch, Vua hỏi đến, ông tâu thật, Vua nói: "Sao không hồi hộ nói
tránh đi". Ông thưa: "Thà rằng thần bị tội, chứ không dám bưng bít
vua, làm quan mà nói dối quân thượng, th́ c̣n làm gương mẫu chi liên
thuộc sao được?".
Chu Đức
Dụ khởi binh (người làng Thái B́nh nước Tầu, sau đổi tên là Chu
Nguyên Chương, là vua Minh Thái Tổ).
Thượng
hoàng đi chơi núi Kiệt Đặc, khi trở về, trong thuyền ngự có con ong
vàng đốt vào má bên tả, bị đau rồi mất, (người đời nói là Quốc Chân
hóa yêu mà làm ra thế đó).
Vua Minh
Tôn lên ngôi vua đă lâu, rồi bà đích mẫu mới sinh ra con trai, đến
ngày đầy năm, có người xin hành lễ theo Thái tử, các quan lấy làm
việc khó xử. Vua Minh Tôn nói: "C̣n lễ nghi ǵ nữa? Trước v́ chưa
sinh con cả, nên tạm ơ ngôi vua thôi, nay đă sinh rồi, đợi lớn lên
th́ ta trả lại ngôi, có khó ǵ đâu". Nói rằng: Việc như thế từ tiền
cổ đến giờ sinh nhiều sự nguy hiểm. Vua Minh Tôn nói: "Cứ thuận
nghĩa phải mà làm, có ǵ đáng lo" rồi phải làm theo lễ Thái tử,
nhưng chưa được bao lâu th́ con vị con cả ấy chết.
Vua Minh
Tôn khuyên bảo các con rằng: "Biển lận mà được giàu, chả thà tán tài
cho nghèo, dù có bị thiếu thốn, nhưng không mất hạnh kiểm của quí
nhân".
Đến lúc
Vua đau nặng triều đ́nh nghị làm chay, muốn đem thân thay cho Vua,
nhưng Vua không nghe. Bà Thái hậu thả các sinh vật cầu cho Vua b́nh
phục, Vua nói: "Thân ta không thể đem dê, lợn ra mà đổi được".
Trâu Canh xem mạch, nói là chứng phiền muộn; lập tức Vua đọc ra bài
thơ:
"Chẩn mạch hưu ngôn phiền muộn đa,
"Y sinh lương lễ yếu điều ḥa,
"Nhược ngôn phiền muộn vô hưu yết,
"Chỉ khủng trùng chiêu phiền muộn đa"(2).
Vua lại sai lấy tập thơ của Vua làm ra mà đốt đi, thị thần chần chờ
măi, Vua nói: "Vật đáng tiếc ǵ c̣n chả tiếc được, th́ c̣n tiếc ǵ
cái ấy nữa". Các con đến thỉnh giáo, Vua nói rằng: "Chúng mày xem cổ
nhân, điều thiện th́ theo, c̣n phải dạy ǵ".
Thời bấy
giờ liền năm đói kém, một thăng gạo giá một tiền đồng. Vua đại xá
cho thiên hạ, cải niên hiệu là Đại Trị, xuống chiếu cho các người
giàu ở các lộ bỏ thóc ra cho người nghèo, các quan sở tại ước lượng
giá tiền mà phát cho.
Ngô Bệ tụ
tập dân chúng ở núi Yên Phụ, kéo cờ yết bảng rằng: "Chẩn cứu bần
dân" từ Đại Liêu đến Chí Linh thuộc về y hết. Vua xuống chiếu cho
các lộ phải bắt nă tên ấy, đưa về kinh đô chém đầu. Vua Minh Thái Tổ
đánh nhau với Trần Hữu Lượng sai sứ sang nước ta thông hiếu, Vua sai
Lê Kính Phủ đi sứ sang nước Tàu để xem t́nh h́nh hư thực thế nào.
Vua ngủ
ngày ở Lương Phong Đường, chỉ một ḿnh Tạ Lai hầu ở bên, rút gươm ra
xem, Vua
thức dậy,
sai đem chém Tạ Lai.
Vua bắt
các nhà Vương, Hầu làm các tṛ hát vặt, Vua duyệt định, người nào
hơn th́ thưởng. Khi trước lúc đánh phá Toa Đô, bắt được con hát là
Lư Cát hát giỏi, các thiếu niên, con hầu đều tập lối hát Bắc, thuật
tích cổ Tây Vương Mẫu hiến đào, 12 người mặc áo gấm đánh trống, thổi
tiêu, thay nhau trở ra, trở vào làm tṛ vui (Tiếng hát rất thê thảm,
làm cho ai cũng động ḷng cảm khái). Nước ta có truyện tích hát chèo
trước đây. Lại họp các nhà giàu như là làng Đ́nh Bảng, ở tỉnh Bắc
Giang, làng Nga Đ́nh ở Quốc Oai, vào trong cung đánh bạc làm vui,
một tiếng bạc ngh́n quan tiền. Lại sai trồng vườn hành, làm cái quạt
đem bán để lấy lợi. (Có những khúc hát Giáng Hoàng Long, Yến Giao
Tŕ, âm và điệu gần đều như cổ).
Làm vua
một nước mà mở ṣng đánh bạc để lấy hồ, trồng rau bán lấy lợi, ví
với Tây Viên đời Hán, th́ càng đáng bỉ hơn nữa.
Có tên
Ngô Dẫn là Trại chủ Đại Lại, cha tên ấy được viên ngọc con rết, mang
sang Vân Đồn bán cho thuyền buôn, nhân v́ thế mà giàu, vua Minh Tôn
gả Nguyệt Sơn công chúa cho nó, tên Dẫn cậy giàu, chỗ nó ở đặt riêng
có tỳ thiếp, lại c̣n có nhiều câu khinh khi Công chúa, công chúa tâu
lên Vua, tịch thu gia sản của nó. Lúc trước th́ mộ nó giàu mà gả con
gái cho, đến sau nhân cái lỗi của con rể si ngốc mà tịch thu tài
sản; ḷng thích của nặng quá lắm.
Vua khởi
làm các viện thổ mộc lớn, đào ao ở vườn rau, xếp đá làm núi, 4 mặt
đều khơi sông lưu thông, trồng hoa cỏ khắp nơi, nuôi nhiều giống cầm
thú; phía tây ao trồng hai cây quế. Dựng cung điện đặt tên là Lạc
Thanh Điện, lại đào riêng cái ao nhỏ, bắt người Hải Đông trở nước
biển mặn về chứa ở đó, để nuôi con đồi mồi, cá, thuồng luồng và các
giống hải vật; bắt người Hóa Châu chở cá sấu về thả ở đó. (Chứa nước
mặn, nuôi cá sấu, lại là kỳ tưởng, vua Tùy Dưỡng Đế, Tống Huy Tôn
cũng có núi có biển, lại không được cái chân thú này).
Nước
Chiêm Thành cướp biên giới Hóa Châu. Tục Hóa Châu hàng năm cứ đầu
mùa xuân th́ hội cả trai gái chơi đánh đu ở Bà Dương. Người Chiêm
phục ở ngọn nguồn, nhân ngày hội ập đến, bắt người chơi xuân đem về
nước.
Quan
Pḥng Ngự sứ ở Lạng Giang là Thiều Thốn (người Thanh Hóa) khéo vỗ về
quân sĩ, ai cũng vui vẻ, sau v́ có em kiêu ngạo bị tội lây, mất
chức, quân sĩ làm câu ca rằng: "Trời không rơ oan, Thiều Công mất
quan". Khi xếp hành trang sắp về, lại có câu: "Thiều Công tây qui,
ḷng ta thương bi". Triều đ́nh nghe biết chuyện, lại cho phục chức,
lại có câu: "Trời đă rơ oan, Thiều Công phục quan". Thiều Thốn là vị
biên tướng, mà trong quân ngũ nhớ tiếc và vui mừng rơ ra ở ba câu ca
như thế, v́ khi ở trong quân một ḷng vỗ về an ủi, cùng nhau cam khổ
mà không đẩy chúng vào nơi đau buồn. (Lê Quát là quan Hữu Bộc Xạ,
người Thanh Hóa, khi nhỏ tuổi du học ở kinh đô, có người bạn đi sứ
sang Yên Kinh, Quát có thơ tiễn rằng:
(3)"Dịch lộ tam thiên quân cứ yên,
"Hải môn thập nhị ngă hoàn sơn,
"Trung triều sứ giả yên ba khách,
"Quân đắc công danh ngă đắc nhàn".
Thức giả biết ngày sau Quát tất được sang. Quả nhiên đỗ cao làm quan
đến sử tướng, hơn cả
ông bạn).
Vua ngự thuyền nhỏ đến chơi nhà Trần Ngô Lang ở làng Mễ Sở đêm về
kinh đô, đến sông Chử Gia, mất cả bảo kiếm và bảo tỷ; thấy thế tự
biết rằng đời ḿnh ngắn, lại càng buông ḷng vui chơi. Vua Thái Tổ
nhà Minh lên ngôi, sai Dịch Tế Dân sang hỏi thăm nước ta, vua sai
Đào Văn Đích sang nhà Minh đáp lễ lại.
Vua sai
triệu Huyền Vân là đạo sĩ ở Chí Linh đến kinh, hỏi phương pháp tu
luyện, đặt tên cái động của Huyền Vân ở là Huyền Thiên động.
Trước khi
Vua mất, nhân v́ vua chơi trăng, hóng gió, uống rượu say quá, triệu
Bùi Khoan đến cùng uống, Khoan dùng kế giả tảng uống hết một trăm
thăng rượu, được thưởng lên hai bậc. Vua thân ra tắm ở sông, liền bị
đau, rồi mất, tên hiệu là Dụ Tôn. Thời bấy giờ sứ nhà Minh là Ngưu
Lượng mang ấn mới sang, đến nước ta, th́ vua Dụ Tôn đă mất, Lượng có
thơ viếng. Cung Định Vương Chân ra đón tiếp và có thơ tiễn Lượng, có
câu rằng:
"Viên Tản
sơn thanh Lô thủy bích,
Tùy phong
trực nhập ngũ vân phi"(4)
Lượng
đoán rằng ngày sau tất lên ngôi vua, quả đúng như lời.
Bà Hiến
Từ Thái hậu đưa con thứ của Dục, (Cung Túc Vương) là Nhật Lễ lên làm
vua, cải niên hiệu là Đại Định (Nhật Lễ là con người hát chèo Dương
Khương, mẹ y đóng tấn hát Tây Vương Mẫu hiến đào, lúc ấy đương có
thai, nhan sắc kiều diễm, Dục yêu v́ sắc đẹp lấy làm vợ, đến khi đẻ,
nhận làm con ḿnh. Bà Thái hậu lấy cớ Dục là đích trưởng mà mất sớm,
nên lập con làm vua). Nhật Lễ đă lên ngôi, có người nói là hát chèo
vô loài, giám mạo nhận để được ngôi báu, Thái hậu hối hận lắm, Nhật
Lễ ở trong cung bỏ thuốc độc cho bà, bà mất. Thái hậu có tính nhân
hậu, tuy là phận vợ cả, vợ lẽ khác nhau, nhưng vẫn ăn ở nhân từ,
trong t́nh cốt nhục không điều ǵ đáng chê trách, ở hết đạo làm mẹ,
đời gần đây chưa được người nào được như bà. Khi xưa vua Minh Tôn
ngự ở Bắc Cung, người giữ cửa bắt được con cá trong giếng Nghiêm
Quang, trong mồm có vật ǵ, móc ra, có lời chú yểm tên húy vua Dụ
Tôn, Cung Túc và Thiên Ninh, xét hỏi kín biết rằng bà thứ phi mua
con các đó. Cung Tĩnh Vương Nguyên Trác là con thứ phi. Vua Minh Tôn
muốn xét cho ra mà trị tội, Thái hậu xin bỏ việc đó đi; đến đời vua
Dụ Tôn, có người lại đem việc ấy ra, Thái hậu cố sức cứu, nhiều
người can vào việc đó mới khỏi tội).
Nghệ Tôn
Hoàng Đế
Vua Nghệ
Tôn tên là Chân, con thứ ba vua Minh Tôn, ở ngôi vua được ba năm.
Vua b́nh được nạn ở trong triều, lấy lại được ngôi báu, có công dựng
nền Trung Hưng, sáng tỏ trong trời đất, mà vẫn để tâm về sự điềm
đạm, không cho sự được ngôi làm vui thích, cũng là vị hiền quân đời
Trần. Tiếc rằng đức nhân từ th́ có dư, mà tính cương đoán th́ không
đủ, để cho nước ngoài xâm lấn, trong triều có kẻ gian thần, nḥm ngó
ngôi báu, dần dà đến nỗi mất nước.
Niên hiệu
Thiệu Khánh thứ nhất, Nhật Lễ được ngôi vua rồi, chỉ chăm chơi bời
yến tiệc; lại quay lại họ Dương, bách quan và tôn thất đều thất
vọng, quan Thái tể là Nguyên Trác cùng Thiên Ninh Công chúa đương
đêm đưa các tôn thất vào trong thành giết Nhật Lễ. Nhật Lễ trèo qua
tường phục ở dưới Tân Kiều, t́m không được, liền tan tác kéo về. Đến
khi trời gần sáng, Nhật Lễ vào cung, chia người lùng bắt 18 người
chủ mưu; Nguyên Trác bị hại, Thiên Ninh Công chúa mật bảo Cung Định
Vương rằng: "Thiên hạ của tổ tiên ta, sao lại bỏ cho người khác, ông
nên tránh đi, tôi đưa gia nô đi b́nh cái nạn này". Nguyễn Nhiên cũng
biết Nhật Lễ muốn hại Cung Định Vương khuyên ông phải đi ngay, Cung
Định Vương liền đi Đà Giang, ước hẹn kín với em là Kính hội với quân
Thanh Hóa mà khởi binh. Lúc ấy Nhật Lễ tin dùng tên Ngô Lang, Ngô
Lang âm mưu với Cung Định Vương. Mỗi lần đem quân đi đánh, th́ lại
mật bảo phải theo Cung Định Vương, nên bao lần cho quân đi không có
người nào trở về cả. Ngô Lang làm nội ứng, bách quan cũng thứ đệ đi
theo, cố nài xin Cung Định Vương trở về triều, để quét sạch nội nạn.
Quân của Cung Định Vương đi đến Kiến Hưng, hạ lệnh phế Nhật Lễ làm
Hôn Đức Công; rồi làm lễ cáo Thái miếu, nói rằng: "Việc ngày nay
thật ư tưởng tôi không có ngờ, v́ để cho xă tắc khỏi rối loạn mà tôi
không tránh được, thật tự hổ thẹn lắm". Ngay hôm ấy lên ngôi vua,
đổi niên hiệu, xuống chiếu các xe kiệu đều dùng sơn đen, không được
sơn son thếp vàng. Quân tiến đến đóng ở bến Đông Bộ Đầu, Ngô Lang
bảo Nhật Lễ phải tự tay viết thư kể tội ḿnh, bỏ ngôi ra đón. Vua
trông thấy Nhật Lễ úy lạo măi, các tướng đều có ḷng phẫn, rút gươm
hô to rằng: "Kẻ có tội đă bắt được rồi, sao lại lấy nhân đức đàn bà
mà bỏ mất ư nghĩa việc đánh giặc này". Liền đuổi Nhật Lễ ra, bắt
giam ở phường Giang Khẩu. Nhật Lễ triệu
Ngô Lang
đến, nói dối rằng: "Có lọ vàng chôn cất ở trong cung, nhờ lấy hộ";
Ngô Lang quỳ xuống nghe lời. Lễ liền đánh Lang đến chết, việc đó đến
tai Vua, Vua sai đánh bằng tay chân không giết Nhật Lễ và truy tặng
cho Ngô Lang chức Nhập nội Tư mă, tên thụy là Trung Mẫn. Nhất thiết
các chế độ đều theo như cũ.
Vua nói:
"Tiên triều ta lập quốc cũng đă có pháp độ riêng, không theo chế độ
nhà Tống, v́ rằng Nam và Bắc mỗi bên làm vua một nước, không nên rập
theo của họ, trong năm Đại Trị, bọn thư sinh làm việc nước, không
hiểu rơ sơ ư khi lập pháp, liền bỏ cả pháp độ cũ của tổ tiên, theo
về tục Bắc. Nay là lúc sơ chính, nhất thiết theo thể lệ trong năm
Khai Thái". Vua lấy cớ Nguyễn Nhiên có ơn với ḿnh, cho làm chức
Hành khiển, Nhiên không biết chữ, phê phó việc ǵ phải vạch chữ rơ
mà bảo cho y viết. Quan Quốc tử Tư nghiệp là Chu Văn An mất, Vua sai
quan dụ tế, cho tên là Văn Trinh, được thờ ở Văn Miếu theo hàng tiên
hiền.
Văn An là
người thanh tĩnh, giữ tiết hạnh rất khắc khổ, không cầu ǵ lợi lộc
cao sang, chỉ ở nhà đọc sách, có nhiều học tṛ làm nên to, như các
ông Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát đă làm đến chức Hành khiển, cũng phải
giữ lễ thày tṛ, lạy ở dưới giường ông ngồi; có điều ǵ không phải
là trách mắng ngay; ông là người nghiêm nghị đáng sợ là thế. Vua
Minh Tôn cử làm quan Tư nghiệp, dạy Thái tử; vua Dụ Tôn ham chơi
nhiều quyền thần làm phạm pháp, ông dâng sớ xin chém 7 tên nịnh
thần, không có trả lời, ông liền treo trả mũ áo rồi trở về quê. Ông
mến cảnh núi Chí Linh, đến làm nhà ở đó. Vua Dụ Tôn muốn ủy thác
chính quyền cho ông, nhưng ông không nhận. Thái hậu nói: "Bậc hiền
sĩ thanh cao, vua cũng không bắt người ta làm tôi được, giao chính
quyền cho ông ta thế nào được". Thiên hạ ai cũng khen là có khí tiết
cao. Khi b́nh xong nội nạn, ông mừng lắm, chống gậy lên yết mừng
Vua, rồi lại trở về núi.
Chu Văn
An người làng Quang Liệt, huyện Thanh Đàm(5), chỗ ông ở liền với
trường Đại học, ông xây một nhà đọc sách ở g̣ lớn, trước là cái đầm
nước trong, hiện nay có đền thờ ông ở nơi đó. Ông ẩn cư ở núi Phượng
Hoàng, huyện Chí Linh. (Đền thờ có bài văn bia là Nguyễn Công Thái,
tiến sĩ triều Lê, soạn ra. Ở núi Phượng Hoàng có bia và bài kư, do
tiến sĩ Lê Duy Đản lập lên).
Lê Quát hiệu là Mai Phong học tṛ cao của Chu Văn An.
Sách Xưu Dị Kư: Long vương có con út ham học, nghe biết Chu Văn An
dạy học tṛ, liền lên ở cơi trần để vào học, mà không ai biết, gặp
lúc nắng hạ, nhà làm ruộng mất mùa, tiên sinh giảng xong bài, ngồi
yên có vẻ lo buồn, mới đến hỏi tiên sinh cớ sao lại buồn, Tiên sinh
nói: "V́ gian thần cầm quyền, không biết việc điều ḥa âm dương, đến
nỗi có đại hạn, người có ḷng nhân đều phải đau xót, ta cũng không
sao quên được", liền đứng ra thưa rằng: "Tiểu sinh có tài ǵ đâu,
làm thế nào kéo được máy tạo hóa được, nhưng cũng xin thử làm chút
ít, may ra cũng đủ sức" bèn cầm hồ nước đổ vào nghiên mực, một lúc
có cơn mưa như giội; rồi lạy tạ thầy, từ đây xin thôi học. Khi về
đến bên sông Nhuệ Giang, chợt gặp vị thiên sứ hỏi cớ làm mưa đó;
liền ngă xuống đất hóa ra con giao long, người trong làng đào đất
lấp lên, gọi là "giao long hạc túc", đối ngạn với Quán sở, hơn tháng
sau thấy có linh ứng, người làng đó lập đền thờ, nay vẫn hăy c̣n.
Vua trừ bỏ cách cắt chân ruộng băi cát bồi, bỏ lệnh điểm duyệt tài
sản.
Trước kia, vương hầu có ruộng ở ven sông th́ băi cát mới bồi ở liền
ruộng, đều thuộc quyền sở hữu; đến thời bà Chiêu Từ Thái hậu mới lập
ra pháp luật cắt chân, chận lấy ruộng mới bồi, để thu lấy thuế. Nhà
quyền quư nào chết hay bỏ đi, th́ tài sản thuộc về con cháu, đến đời
vua Dụ Tôn mới có lệnh phải kiểm duyệt, châu báu nộp hết vào công,
đều là những người bầy tôi chỉ thu nhặt mở mào ra đó.
Nay đều
bỏ hết cả lệ ấy đi.
Nước
Chiêm Thành vào cướp kinh đô, do cửa biển Đại An, theo chiều gió đi
một đêm đến thăng cửa biển Thái Tổ (nay là phường Phục Cổ huyện Thọ
Xương). Vua đi thuyền sang sông Đông Ngàn để đánh giặc. Khi bấy giờ
thái b́nh đă lâu, biên giới và các thành không có quân pḥng giữ,
nên giặc đến không có quân lính để chống cự, quân giặc vào thành
cướp của bắt người, cung điện rỗng không. Trước, mẹ Nhật Lễ trốn
sang nước Chiêm Thành, dụ chúng vào cướp, để phục thù cho Nhật Lễ,
người Chiêm đắc chí, hàng năm làm lo cho biên giới, quốc gia từ đấy
mới sinh ra nhiều việc.
Nước
Chiêm từ đời Dương Mại, Phạm Chí trở về sau, vẫn làm mối lo cho nước
ta, thời gian nhà Lư và Trần tuy có bị nhiều trận thua to, cũng vẫn
khi phục, khi phản vô thường, đến cuối đời Trần th́ chúng lại quật
cường lắm.
Vua lập
em vua là Kính (Cung Tuyên Vương) là Thái tử chế ra 14 chương Hoàng
Huấn cho Thái tử, đến khi truyền ngôi, lại làm bài châm 150 câu mà
cho.
Vua lấy
người họ ngoại là Lê Quư Ly làm Khu mật Đại sứ (2 người cô và chị
Quư Ly đều là cung nhân của vua Minh Tôn, một th́ sinh ra vua Duệ
Tôn, nên lúc sơ chính Vua càng tin dùng, lại gả Công chúa cho nữa).
Vua
truyền cho Thái tử Kính lên làm vua. Vua Nghệ Tôn là người hiếu hữu,
b́nh xong loạn Nhật Lễ mà không có ḷng tham vị, bỏ con mà lập em,
làm cho người Minh khen là có ḷng coi thiên hạ là công như Nghiêu,
Thuấn.
Vua cho
Trương Hán Siêu được ṭng tự vào đền thờ Khổng Tử.
Nhà Trần
cho 3 người được ṭng tự vào đền thờ Khổng Tử: Chu Văn An là hơn cả,
Hán Siêu là nhầm; c̣n đến Tử B́nh th́ chặt bỏ xác ra từng tấc một
cũng chưa hết tội, sao lại được xen vào hàng cung đ́nh lễ nhạc. Nay
ở nhà phía tây Văn Miếu vẫn c̣n bài vị thời Chu Văn An. C̣n Hán Siêu
và Tử B́nh th́ đă tước bỏ đi rồi, không biết từ đời nào, xem thế có
thể thấy ḷng người ta cùng một nhân tâm, thiên lư.
Duệ Tôn
Hoàng Đế
Tên là
Kính, con thứ 11 vua Minh Tôn, em vua Nghệ Tôn, khi vua Nghệ Tôn
chạy loạn, th́ quân lính và binh khí đều do tay vua thu nhặt, cho
nên mới được truyền ngôi.
Niên niệu
Long Khánh thứ nhất, Vua bổ sung quân ngũ, sửa sang chiến thuyền để
pḥng có việc đánh Chiêm Thành.
Thi Tiến sĩ, lấy đỗ: Trạng nguyên: Đào Sư Tích, Bảng nhăn: Lê Hiếu
Phủ, Thám hoa: Trần Đ́nh Thâm. Và có các hạng xuất thân. Lệ cũ: 7
năm một lần thi, c̣n thi Đ́nh không có lệ nhất định. (Học sinh Tam
quân thuộc quan, học sinh thị thần, học sinh tướng phủ, đă có phẩm
tước rồi, đều được dự thi).
Tuyển dân đinh xung vào quân ngũ, xưa kia quân túc vệ chỉ có đạo
quân Tứ Thiên, Tứ Thánh, Tứ Thần, sau đặt thêm đạo Oai Tiệp, Bảo
Tiệp, Tả Ban, Hữu Ban đều có đặt ra quân hiệu, có chức Đại Đội
trưởng và phó.
Vua định
ngạch quan hầu, đặt ra 6 cục Cận thị Chi hậu, lấy các vị vương hầu,
tôn thất làm chức Chánh chưởng.
Vua cấm
quân nhân không được mặc lối áo quần người Tàu và bắt chước tiếng
nói nước Chiêm và Lào.
Vua đại
duyệt cả quân thủy và quân bộ ở sông Bạch Hạc, xuống chiếu cho Thanh
Hoá, Nghệ An vận lương đến Hoá Châu, đợi Vua sẽ thân đi đánh Chiêm
Thành, quan Trung tán là Lê Tích nói: "Việc đem quân đi đánh là việc
lớn nguy hiểm, về phần tướng súy thí không nên muốn được công trạng
mà muốn đánh lúc nào cũng được; huống chi mới b́nh xong nội nạn, vết
thương đau của dân, của nước chưa lành, thần trộm nghĩ không nên
hưng sử". Vua không nghe, khi kéo quân đi đến sông Bát Tràng, có
người dân quê đương cử hành đám tang, vua xuống chiếu bắt phạt 30
quan tiền.
Trước kia
chúa Chiêm Thành là Chế Bồng Nga quấy nhiễu biên giới, Vua sai Đỗ Tử
B́nh đem quân trấn giữ ở Hoá Châu, người nước Chiêm đem vàng dâng
Vua, Tử B́nh lấy vàng ấy làm của riêng ḿnh, mà nói rằng người Chiêm
vô lễ, nên đánh, Vua mới quyết ư thân đi đánh Chiêm, quan quân đi
đường biển đến Nhật Lệ, th́ đóng quân ở đó thao luyện, rồi lại tiến
đóng ở động _ Mang; người Chiêm lập đồn lũy ở ngoài thành Đồ Bàn,
nơi ấy đường núi th́ hẹp, tứ vi đều là rừng rậm; quân giặc phục
trong rừng
Tượng
Lâm, quan quân ta không biết, giặc sai dâng thư trá hàng, nói rằng
Chúa nó đă trốn đi rồi, chỉ c̣n thành trống không, nên tiến mau vào,
không nên để lỡ cơ hội; Vua tin lời, lập tức cưỡi ngựa vẫy quân tiến
lên. Đỗ Lê can rằng: "Chúng đă xin đầu hàng, th́ ta hăy sai một
người biện sĩ đưa thư vấn tội, để ḍ xét t́nh h́nh hư hay thực của
chúng, như kế của Hàn Tín phá quân nước Yên khi xưa, mới được". Vua
nói: "Quân ta đă đi vào sâu rồi, không một người nào dám xung phong;
việc binh cần phải thần tốc, chần chờ thế nào được; người thật gan
dạ đàn bà", bèn cho mặc áo đàn bà, rồi quan quân như đàn cá nối nhau
kéo đi, đội trước đội sau xa cách nhau, bị phục binh giặc xông ra
chặt đứt làm đôi, quân ta vỡ, Vua mất ở trong đám loạn quân, Đỗ Tử
B́nh thống lĩnh toán hậu quân không ứng cứu, chạy thoát lấy thân; Lê
Quư Ly đốc vận lương, được tin trốn về trước. ngày hôm ấy ở kinh đô
ban ngày mà mờ tối, chợ và phố xá phải đốt đuốc để buôn bán. Khi kéo
quân về, Đỗ Tử B́nh bị bắt xuống làm lính.
Việc hành
binh này, họ Lê và Đỗ 3 lần dâng sớ can ngăn, mà Vua không nghe,
liền treo trả mũ bỏ đi. (Đỗ là người Phù Đới, tính thích thảng, có
chí khí lớn; khi nhỏ tuổi sang học ở Tây Hồ, xem các tướng tập bắn,
nói rằng: "Nghề này làm không khó ǵ". Các tướng nói: "Mày có bắn
trúng được không?", trả lời: "Xin bắn thử"; bắn ba phát trúng cả ba.
Một tướng muốn đem về nuôi, nhưng ông không chịu theo, cứ du học,
sau đỗ Tiến sĩ, làm quan thanh liêm và nghèo, không tậu nhà, ruộng;
con cháu nối đời làm quan, vẫn giữ được nề nếp nhà, có tiếng ở đời
bấy giờ).
Lời bàn:
Vua Duệ Tôn mật mưu việc nghĩa cử, quét sạch nội nạn, không phải tài
anh hùng không làm được thế; đến việc này th́ nhận lời đầu hàng của
giặc mà không xét là thật hay giả, vào nơi hiểm trở mà không ḍ xét
cẩn thận, cứ kéo quân lũ lượt đến, đến nỗi mắc nưu trá hàng, ba quân
tan hết, làm tṛ cười cho quân Mán, thật là lỗi khinh địch, cự gián,
rước lấy tai vạ vào ḿnh.
Thượng
hoàng lấy cớ Vua bị chết v́ quốc nạn, mới lập con Vua là Nghiễn nối
ngôi vua, cải niên hiệu là Xương Phù. Nước Chiêm Thành lại vào cướp,
do cửa biển Thiên Phù kéo vào, thẳng đến kinh đô.
Sử thần
bàn: Lúc nhà Trần đương thịnh, mỗi lần quân Nguyên sang là bị thua
kéo về; đến lúc nhà Trần suy, mỗi lần quân Chiêm đến, cướp bóc no
chán rồi về; quân Nguyên là giặc mạnh, quân Chiêm là mán rợ nhỏ, sao
nhà Trần đối với quân Nguyên th́ mạnh thế, đối với quân Chiêm th́
yếu thế, chả qua là tại người cả; Vua Nghệ Tôn, rút rát, không được
bằng vua Nhân Tôn có hùng tài; mà bầy tôi càng kém nữa, không bàn
mưu kế với ai được, không giao phó biên giới cho ai được, cửa biển
không có quân pḥng, trên sông không có đồn canh giữ, quân giặc đến
th́ mê man, quân giặc đi th́ lại cô tức; thậm chí đem cả thần tượng
chạy đến An Sinh, đem hết của báu giấu ở Thiên Kiện, không kế ǵ để
tự thủ, thấy giặc đi làm mừng; nếu mà Bồng Nga chưa chết, không biết
nhà trần lúc ấy chống đỡ bằng cách ǵ. Tử B́nh giỏi về nghề ăn cắp
vàng, không biết trù liệu việc binh, Quư Ly giỏi về ăn cướp nước,
không biết cách làm tướng , đáng than phiền cho thời vận và nhân tài
khi bấy giờ nhiều lắm.
Vua sai
Trần Đ́nh Tham sanh nhà Minh báo tang, nói rằng vua Duệ Tôn đi tuần
về biên giới bị chết đuối. Nhà Minh từ chối rằng: "Theo lễ có 3 điều
không nên viếng là: Bị khiếp sợ mà chết, bị áp bức mà chết và bị
chết đuối". Đ́nh Tham tranh biện măi, nói rằng: "V́ Chiêm Thành bạn
nghịch, vua Duệ Tôn vị việc nước mà bị nạn, thế là có công với dân,
sao lại không viếng?". Nhà minh lại phải sai sứ sanh viếng thăm.
Thời bấy
giờ nhà Minh đương nḥm ngó nước ta, chỉ muốn t́m cớ, Lư Thiện
Trường nói: "Nước người ta em chết v́ quốc nạn, mà anh lập ngay con
người em làm Vua, nhân sự như thế, th́ có thể biết thiên mệnh thế
nào"; việc ấy mới bỏ đi.
Phế Đế
Phế Đế
tên là Nghiễn, con trưởng vua Duệ Tôn. Vua Duệ Tôn đi đánh miền Nam
mà bị mất, vua Nghệ Tôn mới lập làm vua, sau bị giáng làm Linh Đức
Vương, ở ngôi vua 12 năm, là người hôn ám, hèn kém không làm được
việc, để quyền về tay kẻ dưới, làm cho xă tắc nghiên đổ, đến thân
cũng không giữ được, đáng thương lắm.
Niên hiệu
Xương Phù thứ hai, nước Chiêm Thành lại vào cướp, Vua sai Đỗ Tử B́nh
chống cự, quan quân tự tan vỡ, quân giặc thứa kế đến kinh đô, Lê
Giác bị giặc bắt, chúng bắt phải lạy chúng, Giác nói: "Ta làm đại
thần một nước lớn, đâu phải lạy chúng mày", quân giặc giận đem giết
đi. ( Giác là con Lê Quát, được truy phong là Trung Vơ Hầu; con là
bính làm chức Cận thị Chi hậu cục Chánh chưởng).
Thời bấy
giờ đương có việc quân, mà phủ kho trống rỗng; Đỗ Tử B́nh kiến nghị
theo phép đánh thuế dong của nhà Đường, mỗi một hộ phải nộp 3 quan
tiền, từ đấy thuế mới nặng thêm. ( Lệ cũ: ruộng cấy hay băi dâu mới
đóng thuế, không cấy trồng th́ miễn thuế. Ruộng phải nộp thóc, băi
dâu phải nộp lụa, đă định sẵn thành nghạch, sinh thêm ra th́ không
tính đến, chết đi th́ không trừ; đến bây giờ lại bắt phải cung rao
dịch ( bắt đi làm việc).
Quư Ly
tiến cử Nguyễn Đa Phương làm Tướng quân. ( Quư Ly khi nhỏ học Sư Tề,
dạy cho nghề vơ, Đa Phương là con Sư Tề, đă bị quân Chiên bắt, nay
mới trốn về, được Quư Ly tiến cử, người đời bấy giờ bảo là đáng lo
v́ chúng gây nên vây cánh).
Vua sai
quân dân chuyển vận của cải của nước đến giấu ở nước Thiên Kiện, các
thần tượng ở lăng cũng về rước về An Sinh, pḥng khi có quân Chiêm
Thành lại vào cướp Diễn Châu, vua sai Lê Quư Ly thống lĩnh thủy
quân, Tử B́nh thống lĩnh bộ quân để pḥng ngự. Khi giao chiến,
Nguyễn Toàn Ngao quay thuyền trở lại tránh tên đạn của giặc, Quư Ly
chém đầu đem rao các trại quân. Các trại quân thúc trống reo ḥ mà
tiến lên, chúa Chiêm là Chế Bồng Nga thua trận trốn chạy. Từ đây Tử
B́nh kêu là có bệnh, xin giải binh quyền ( rồi chết liền), Quư Ly
một ḿnh lĩnh chức Nguyên nhung. Vua sai đốc xuất các người tăng
chúng cường tráng ở thiên hạ tạm làm
lính, để
đánh Chiên Thành. Bấy giờ quân Chiêm cướp Thanh Hóa, quan quân đóng
ở núi Long Đại; Nguyễn Đa Phương cắm gỗ ngăn giữ cửa biển Thần Đầu,
người Chiêm đưa cả quân thủy và bộ lên trên núi, lấy đá ném xuống,
thuyền quân bị tổn hại nhiều, Đa Phương không đợi lệnh của Quư Ly mở
gỗ cắm ở cửa biển ra mà đánh, quân Chiêm thua to, tản mát vào núi.
Đa Phương đốt hết cả rhuyền của giặc, lại đốc quân vây núi, giặc
chết đói nhiều, dư chúng phải bỏ chạy, quân ta đuổi theo đến Hóa
Châu rồi mới về. Được tin thắng trận, Vua cho Đa Phương làm Kim Ngô
Vệ Đại Tướng quân.
Khi Lê
Quư Ly lĩnh chiến thuyền đi đánh Chiêm Thành, mới đóng thuyền lớn có
hiệu là Diêm Dă, Ngọc Đột, Nha Tiệp, khi ra biển bị sóng gió đánh bể
nát nhiều, liền trở về; người Chiêm nghe tin, dẫn quân đi đường bộ
theo chân núi đường Quảng Oai mà đến kinh đô, Thượng hoàng sai Lê
Mật Ôn chống giữ, đi đến chân Tam kỳ (thuộc Quảng Oai), quân giặc đă
phục sẵn, lính và voi đều xông ra, quan quân ta thua chạy. Được tin
báo, Thượng hoàng đi Đông Ngàn để tránh giặc, một người học tṛ là
Nguyễn Mộng Hoa kéo thuyền ngự xin ở lại để đánh giặc, nhưng Thượng
hoàng không nghe.
Từ đời
nhà Lê và Lư trở lại, quân Chiêm Thành rất hèn nhát, hễ quân ta đến
th́ giặc chạy hoặc hàng; đến bấy giờ Bồng Nga nghĩ thay đổi tục cũ,
dạy cho biết phương pháp đánh trận, người Chiêm từ ấy mới dũng mănh
chịu quen khổ sở, nên thường làm mối lo cho biên giới của ta. Thượng
hoàng ở cung Bảo Ḥa, các bầy tôi chia phiên trực ở bên, hỏi các
việc cũ, biên tập thành tám quyển, nhan đề Bảo Ḥa dư bút. Nhà Minh
đánh Vân Nam, sai Dương Bàn đến đ̣i quân lương, Vua sai Trần Nghiêu
Du vận lương đến đầu địa giới Thủy Vũ đưa cho; nhà Minh lại yêu cầu
20 thày tăng. Xưa kia nước ta đưa Nguyễn Tôn Đạo (hoạn quan) đến Kim
Lăng, Tôn Đạo nói thầy tăng người Nam là đạo tràng khoa cúng lễ hơn
thày tăng người Bắc, nên bấy giờ mới cầu xin. Tôn Đạo lại nói phương
nam nhiều hoa quả tốt, nên nhà Minh cầu xin các cây cau, vải, mít,
long nhăn, nước ta có đưa cho, nhưng v́ không chịu được rét, chết
khô cả. Tôn thất đại thần là Nguyên Đán thấy quyền bính ngày một
xuống tay kẻ dưới, biết rằng Quư Ly tất cướp nước, mưu đồ tránh hậu
họa, bèn xin cáo lăo, về Côn Sơn vui cùng trúc đá, tự hiệu là Băng
Hồ, ngầm ủy thác con là Mộng Dữ cho Quư Ly, sau này tôn thất nhà
Trần đều bị giết hại, duy có con cháu Nguyên Đán là c̣n. (Nguyên Đán
hay thơ, có tập thơ Băng Hồ phát hành ở đời, có thơ gửi cho liên hữu
nói ư những việc hưng vong cổ kim có thể để làm gương, các ông sao
nỡ không can gián ǵ. Lại gửi cho Trang Định, đại ư nói đêm nay cáo
vào chuồng gà, chả xơi được mẹ tất là xơi con. Trang Định chỉ c̣n
biết than thở). Minh sứ đến mượn đường đi đánh Chiêm Thành, đ̣i 50
con voi, từ Nghệ An đặt nhà trạm cấp lương cỏ, đưa đến Vân Nam. Lời
bàn: Từ khi Tôn Đạo đưa t́nh h́nh trong nước mách cho nên nhà Minh,
cực ngôn nhân vật thịnh, vàng ngọc giàu, cho nên nhà Minh mặc ư yêu
cầu, nào đ̣i lương đ̣i voi, không năm nào ngơi. Quân gian nịnh kéo
phùng nghênh dễ được ḷng người. Nhà Trần sai Tôn Đạo sang Bắc mà
hỏng việc nước, nhà Minh tin Tôn Đạo lấn đất Nam mà mở ra hấn khích
ở biên giới, đến cả gia đ́nh Tôn Đạo cũng tan nát theo, đáng lấy đó
làm răn. Hồ Tôn Thốc làm quan An Phủ, có xâm đến của dân, vua Nghệ
Tôn lấy làm lạ mà hỏi, th́ tạ lỗi rằng: "Một người được ân vua, cả
nhà được hưởng thiên lộc. " Vua tha tội cho (Tôn Thốc người ở Diễn
Chân, Nghệ An, nhỏ tuổi đă đỗ, chưa có tiếng, gặp tiết Nguyên tiêu,
có vị pháp quan họ Lê mở hội treo đèn, Tôn Thốc ở ngay trên đám tiệc
làm 100 bài thơ, từ đấy tiếng lừng kinh đô). Vua cho Quư Ly là cờ và
thanh kiếm: (là cờ đề rằng: "Văn vơ toàn tài, quân thần đồng đức").
Quư Ly lấy dụ chỉ của Thượng hoàng phế Vua làm Linh Đức Vương. Khi
trước có sao chổi, Vua cùng Thái úy Thích bàn mưu nói: "Thượng hoàng
yêu dùng họ ngoại, Quư Ly muốn làm ǵ được nấy; nếu không tính
trước, tất sau này khó chế ngự được". Mưu ấy tiết lộ, Quư Ly biết,
Đa Phương khuyên nên ra ở núi Đại Lại, để chờ biến chuyển, Cự Luận
nói: "Không được, đă ra ngoài rồi, th́ khó ḷng giữ được toàn". Quư
Ly nói: "Túng xử không phương kế ǵ, th́ ta phải tự tận, không thể
nhờ tay người khác được". Cự Luận nói: "Thượng hoàng có nhiều con
trưởng đích xuất, mà lại lập cháu làm vua, tục ngữ có câu: "Chưa
thấy ai bán con để nuôi cháu" đem câu ấy động đến tai, rồi cải lập
Chiêu Định, trở tai họa thành ra phúc, dễ như trở bàn tay. Quư Ly
mật tâu, Thượng hoàng cho là phải. Sáng sớm hôm ấy, nói thác rằng
Thượng hoàng đi An Sinh, triệu Vua đến bàn việc nước, Vua chưa ăn
cơm đă đến ngay, lập tức bị dẫn ra chùa Tư Phúc giam kín, rồi ra nội
chiếu nói: "Vua Duệ Tôn mất không trở về, th́ lấy con đích làm Vua,
là theo lối cổ đó, những v́ quan gia lên nối ngôi, hăy c̣n tính trẻ
con, đức tính thất thường, không thể làm chủ một nước được", nên
giáng làm Linh Đức Vương, rước Chiêu Định vào nối ngôi Vua. Chưa
được mấy lâu, lại đem buộc cổ cho chết.
Cung nhân
của vua Duệ Tôn, là mẹ Linh Đức Vương là em gái họ của Quư Ly. Vua
Duệ Tôn đi đánh miền Nam bị chết, bà này đă cắt tóc làm ni cô, đến
khi vua Nghệ Tôn lập Linh Đức làm vua, bà cố từ chối không được, lại
vào ở trong cung, nói chuyện với Thái úy Thích có vẻ lo lắm: "Con
tôi bạc phúc, khó kham được trách nhiệm to. Tiên hoàng mất đi, tôi
không chết theo được, không c̣n muốn trông đến việc đời nữa, huống
chi c̣n nỡ trông thấy con nguy đến thân hay sao". Rồi bà mất. Con út
vua Nghệ Tôn là Chiêu Định Vương Ngung được lập lên làm vua, cải
niên hiệu là Quang Thái. Lời bàn: Vua Nghệ Tôn già lẫn quá lắm,
trước kia đă nhường ngôi cho em, lại lập cháu làm vua, không coi
ngôi vua là của riêng, ḷng đó sao quang minh thế. Đến khi tuổi già,
mê hoặc về câu bán con nuôi cháu, chia ra khinh và trọng trong chỗ
con cháu, không nghĩ rằng: xă tắc là trọng, người nào hiền đức th́
lập lên, c̣n phân biệt con với cháu làm ǵ. Vả lại trong hàng con
vua Nghệ Tôn duy chỉ Trang Định lớn tuổi mà hiền đức, Quư Ly vẫn sợ
xưa nay, thanh ngôn rằng tất phải lập ông ấy làm vua, để cho ông có
lời từ chối; ông đă từ chối rồi; liền khen ông là đại đức, để ngăn ư
Nghệ Tôn không định kiến ǵ, lầm tin sự giả dối của nó làm cho thật.
Lăo già 60 tuổi, trao ngôi vua cho đứa trẻ 10 tuổi; gửi con cho quạ
già, mà dặn nó: "Đừng thịt con ta, đừng phá hủy nhà ta", không biết
rằng con quạ già có tin được đâu. Than ôi! Ḷng người muốn làm mất
nước của người ta, tất phải làm hôn mê trí lự của kẻ đương cực, như
có vật ǵ che mất mắt đi, người đứng xem bên ngoài tuy có sáng suốt,
nhưng v́ hoàn cảnh dở dang trái ngược, không làm ǵ được, nên mới
đến nỗi thế đó.
Thuận Tôn
Hoàng Đế Và Thiếu Đế
Thuận Tôn
tên là Ngung, con út của vua Nghệ Tôn, ở ngôi vua 9 năm, bị Quư Ly
giết. Tuy làm vua mà chỉ giữ hư vị, làm vị vua bù nh́n. Năm đẻ và
ngày chết đều bị tà thần cầm vận mệnh, thật đáng thương.
Niên hiệu
Quang Thái năm thứ hai, người ở Thanh Hóa là Nguyễn Thanh mạo xưng
là Linh Đức, lánh nạn vào Lương Giang, dân hưởng ứng theo.
Người
Chiêm Thành vào cướp Thanh Hóa, Quư Ly đem quân chống cự; quân giặc
đắp ngăn thượng lưu sông, quan quân ta cắm gỗ ở Bàn Nha đối lũy với
nhau. Quân giặc phục voi, giả tảng nhổ trại về, Quư Ly kén dũng sĩ
đuổi theo, thủy quân mở cây gỗ ra đánh nhau, quân giặc tháo đập
nước, đưa voi ra xông vào trận, quan quân ta thua to, Quư Ly trốn
về, xin thêm chiến thuyền để chống cự. Thượng hoàng không cho, v́
thế y xin trả lại binh quyền, không đi đánh nữa.
Thượng hoàng sai Trần Khát Chân đi đánh giặc, quân ra đến Hoàng
Giang, gặp quân giặc, Trần Nguyên Diệu kéo quân đầu hàng giặc trước.
Việc này Quư Ly trốn trước, Đa Phương trốn theo, thế mà c̣n cho
rằng: toán quân đi giữ ǵn sau cùng, là công của ḿnh, có vẻ kheo
khoang, thế là những người thua bỏ chạy 50 bước cười người chạy 100
bước, lại không xấu hổ với quân lính buộc thuyền giữ cây gỗ đó hay
sao? C̣n tài cán ǵ mà khoe khoang.
Quư Ly
nói dèm pha với Thượng hoàng rằng mỗi trận ở Bàn Nha, v́ Đa Phương
mà đến nỗi thua. Thượng hoàng nói nên trừng phạt bằng tội nhỏ; Quư
Ly nói: "Đa Phương dũng mănh, thôi sợ nó sẽ bỏ đi sang Minh hay sang
Chiêm mất, thả hổ di hoạn, không bằng giết đi là xong" liền bắt phải
tự tử. Đa Phương than rằng: "V́ có tài mà được sang cũng lại v́ có
tài mà đến chết, ta chỉ tiếc rằng không chết ở trong chiến trận
thôi". Yêu tăng là Phạm Sư Ôn chiêu tập bọn vô lại tụ ở Quốc Oai, 2
vua phải đi về phía bắc để trị nạn; Sư Ôn vào ở trong cung khuyết 3
ngày; Thượng hoàng sai Phụng Thế đánh bắt được, Sư Ôn chịu tội chết,
các tên bị bắt phải theo, được tha chết không hỏi ǵ.
Cuối đời
Trần, hễ quân giặc đến là lánh đi, đành rằng bọn cuồng khấu khó
chống cự, đến lũ giặc đói ở thôn quê cũng vào được cung khuyết, mà
cũng không dám kháng cự, sao lại nhát đến thế. Vua Nghệ Tôn trị quốc
th́ không sửa sang vơ bị, Quư Ly giữ chủ b́nh th́ không quen tướng
lược, các thành tŕ, đồn canh chả lưu ư ǵ đến, một tên yêu tăng
khởi lên mà vua phải chạy vất vả, thế c̣n gọi là trong nước có người
tài sao? Trước kia vua Nhân Tôn không ngồi trong thành mà giữ, ra
ngoài mà liệu cách đánh giặc, có hèn nhát như thế đâu?
Chúa
Chiêm Thành Chế Bồng Nga cùng tướng là La Khải đem quân đến xâm lược
nước ta, vua sai Trần Khát Chân chống cự, gặp nhau ở Hải Triều;
người Chiêm chưa tụ quân được hết, Bồng Nga ra trước để xem t́nh
thế, tiểu thần của y là Bỉ Lậu Kê bị tội, chạy về với quan quân ta,
chỉ thuyền sơn màu xanh mà bảo rằng: đó là thuyền quốc vương; Khát
Chân sai hỏa súng cứ nhằm thuyền ấy mà bắn đến một lúc, bắn suốt qua
Bồng Nga, quân giặc tan vỡ cả. Nguyên Diệu lấy xác Bồng Nga chạy về
với quân ta, Khát Chân đóng ḥm thủ cấp dâng lên Vua, Thượng hoàng
nói: "Ta và quân Chiêm giữ nhau măi, nay mới được trông thấy đầu
này, khác ǵ Cao Tổ trông thấy đầu Hạng Vơ". Bách quan đều hô mừng
"vạn tuế". Tướng Chiêm là La Khải thu tàn quân đi đường bộ theo ven
núi chạy về nước, giữ nước tự lập làm vua, con Bồng Nga là Ma Nô sợ
bị giết, chạy về nước ta.
Mở kho
tàng ở núi Thiên Kiện lấy các của cải bán giấu ở đó khi trước, bị
núi lở, không khai được, liền bỏ đó. Quan Tư đồ Nguyên Đán mất.
Thượng hoàng đến hỏi thăm và hỏi về hậu sự, ông đều không nói ǵ,
chỉ xin kính nhà Minh như cha, yêu nước Chiêm như con, th́ nước được
vô sự; ông có làm thơ rằng: "Nhân ngôn kư tử dữ lăo nha. "Bất thức
lăo nha liên ái phần"(6). Là ư khuyên can Thượng hoàng việc gửi vua
Thuận Tôn cho Quư Ly.
Nguyên
Đán có cô con gái tên Thái, sai nho sinh Nguyễn Ứng Long dạy học,
Ứng Long tư t́nh với cô Thái, Nguyên Đán liền gả cho, sau sinh ra
con là Nguyễn Trăi khai quốc công thần đời Lê. Nguyên Đán ở động
Thanh Hư, núi Côn Sơn, cháu ngoại là Nguyễn Trăi có làm bài ca.
(Chép ở Hoàng Việt vặn tuyển).
Lời bàn:
"Nguyên Đán là tôn thất nhà Trần, gặp vận nước không may, chỉ lấy sự
rút lui để toàn thân là đắc sách, biết chơi thắng cảnh ở động Thanh
Hư, mà không hỏi đến xă tắc ở Thiên Trường an hay nguy; chỉ mưu tính
cho anh em Mộng Dữ, mà không nh́n ǵ đến cha con vua Nghệ Tôn được
lợi hay bị hại; đến khi vua hỏi đến hậu sự, cũng không nói rơ; không
biết rằng: Quư Ly đă không che chở ǵ cho ḿnh, th́ sao c̣n đưa Mộng
Dữ gửi nó? Vua đă mất nước, bầy tôi toàn một ḿnh thế nào được? Lời
răn dạy của cố nhân đúng lắm.
Trang
Định Vương xưa cùng Linh Đức mưu tính giết Quư Ly, việc tiết lộ, bị
nó oán, vẫn để ḷng nghi và lo sợ, phải trốn đi, đến Vạn Ninh, người
trại đó không cho ở, Thượng hoàng sai Nhân Liệt chạy theo gọi về;
Quư Ly ngầm sai người giết đi.
Lời bàn:
Trang Định là con Vua mà trốn đi, gặp phải người trại đó có dă tâm,
tên tướng mọn hạ độc thủ; trên có vua cha không xét cho cái cớ phải
bỏ đi, cũng không biết đến nguyên do đến nỗi chết. Vua Nghệ Tôn già
lẫn đến thế, thật đáng giận lắm.
Mùa hạ
đại hạn, Vua xuống chiếu cầu có người nói thẳng việc triều chính bấy
giờ. Bùi Mộng Hoa dâng thư: "Thần nghe câu trẻ con hát rằng: "Thâm
tai Lê sư", tất nhiên Quư Ly có dị chí. Thượng hoàng đem lời ấy bảo
Quư Ly, v́ thế Mộng Hoa đành ẩn lánh không dám ra.
Không rơ Mộng Hoa xuất thân là hạng thế nào, túng xử ở nơi giang hồ
mà có ḷng lo cho Vua, lại càng tỏ là khí tiết chi sĩ, tự cao như
chim hồng bay ở lưng trời, Quư Ly làm thế nào mà lưới bẫy được. Thật
đáng là hào kiệt Đặt chức Giang quan Tuần thủ ở các xứ, để trông coi
việc lùng bắt giặc cướp. Mông Trang bàn rằng: Kẻ ăn trộm cái ṿng
th́ bị giết, kẻ ăn trộm cả nước th́ được phong tước hầu; đặt ra chức
pḥng giữ giang quan, chả qua là kẻ bắt trộm nhỏ móc túi cướp níp đó
thôi. Trong dân gian không có việc đào tường, lẻn cửa, mà nhà Trần
đă có mối lo đổi ngọc thay vạc rồi. Quư Ly làm ra 14 thiên minh đạo
dâng lên Vua; để Chu Công làm tiên thánh, ngồi hướng mặt phía nam,
Khổng Tử làm tiên sư, ngồi hướng mặt phía bắc. Trong sách Luận Ngữ
có 4 chỗ đáng ngờ, như là: Yết kiến Nàng Nam Tử, khi ở nước Trần bị
Tuyết Lương và Công sơn Phật Mật mời. Khổng Tử muốn đến v.v... cho
Hàn Dũ là đạo Nho, bọn Châu, Tŕnh, Chu tử th́ học bác tạp mà tài
hèn, chỉ chăm trộm cắp ư nghĩa cổ nhân. Thượng hoàng khen ngợi lắm.
Đoàn Xuân Lôi trợ giáo trường Quốc Tử chống lại nói là không nên làm
thế, bị lưu đày ra châu gần. Lời bàn: Nhan Uyên nói: đạo của Phu tử
lớn lắm, thiên hạ không chỗ dung nạp nổi, cho nên ở Lỗ bị trục, ở Tề
bị cùng khốn, ở Vệ bị thiệt hại, ở Thái bị vây, bị Yến Anh dèm pha,
bị Vơ Thúc chê trách, là lời người đồng thời, lại có kẻ truất xuống
làm trung hiến, giáng làm tiên sư, thật là người mù chê mặt trời,
mặt trăng không ánh sáng, có làm tổn hại ǵ được các v́ sáng đó. C̣n
đến bảo Xương Lê(7) là đạo Nho, Liêm, Lạc(8) là trộm cắp. Đạo học
các vị này khi ở Bắc, đă bị khuất trong thời bấy giờ, sang đến Nam,
lại cũng bị đời sau bài bác, các ông thật là gặp ách vận, đáng than.
Quư Ly t́m kín được ḍng máu họ Hồ, muốn trở lại họ cũ, bèn lấy tên
Hồ Cương làm người tâm phúc.
Thượng
hoàng sai vẽ h́nh tượng Chu Công, Hoắc Quang, Chư Cát Lượng, Hiến
Thành làm bức Tứ phụ đồ (4 vị giúp vua) cho Quư Ly, lại dụ rằng:
"Nếu vua có thể giúp được th́ giúp, nếu hèn kém quá th́ cứ tự nhận
lấy". Quư Ly thề rằng: "Đâu dám có mưu đồ khác, nếu có th́ trời
không chứng". Bấy giờ Thượng hoàng nằm mộng thấy vua Duệ Tôn đưa
quân lính đến, miệng đọc thơ rằng:
Trung
gian duy hữu xích chủy hầu,
"Ân cần tiềm thượng bạch kê lâu,
"Khẩu vương dĩ định hưng vong sự,
"Bất tại tiền đầu tại hậu đầu".
Thượng
hoàng chiết bài thơ này rằng: Thượng hoàng sinh năm Tân Dậu là bạch
kê (gà trắng), Quư Ly là mỏ đỏ (xích chùy), khẩu vương là chữ quốc,
hưng vong sau này sẽ thấy. V́ thế nghĩ lo lắm, nhưng quyền binh đă
về tay nó rồi, không thể làm ǵ được nữa, Thượng hoàng liền mất,
hiệu là Nghệ Tôn.
Sử thần
bàn rằng: Vua Nghệ Tôn lúc trước lầm cho rằng Quư Ly là người gửi
con cháu được, đến lúc mất hết quyền, mới biết là trúng kế của nó,
đến năm tàn sắp chết mới tỉnh ngộ, xem trong đồng tính, vây cánh tôn
thất không có ai, xét ngoài triều thần, thân đảng của tên gian thần
đă bền chắc, không c̣n sao được, hối th́ đă muộn. Cho nó bức tranh
tứ phụ, là mong c̣n kéo lại phần nào chăng? Cân nói: khả phụ, khả
thủ, mặc nó muốn sao th́ làm, chứ có phải thật bụng mong nó giúp Vua
như 4 vị ở trong bức tranh đâu. Đến chuyện nhà Trần lấy vợ người
cùng họ, là răn sợ bị họ ngoại lấy mất nước như nhà Lư, thế mà con
cái họ Hồ vào làm phi tần nhà Trần sinh hai vị vua, để làm cái mầm
Quư Ly nắm quyền, con gái họ Trần gả về họ Hồ, sinh một cháu ngoại,
để làm câu nói cho Hán Xương xin quyền nhận việc nước; thật là trời
mượn việc đó mà làm nhà Trần mất nước, báo thù cho vua Lư Huệ Tôn,
con tạo xoay vần khéo đến thế. V
ua xuống
chiếu, cho Quư Ly vào ở trong sảnh đài, gọi là Họa lư. Quư Ly biên
tập thiên Vô Dật để dạy Quan gia; có lệnh ǵ th́ xưng là Phụ chính
Cai giáo Hoàng đế.
Ngày xưa
nhà Lương có Hầu Cảnh tự hiệu là Vũ trụ Tướng quân, nay Hồ Quư Ly tự
xưng là Cai giáo Hoàng đế, thật là một khoáng điển của bọn tà thân
từ thiên cổ đến giờ.
Cấm bách
quan không được dùng lối áo tay lớn, đồ dùng dân gian không được sơn
son thếp vàng.
Nhà Minh
sai Hanh Thái đến xin giúp cho quân, và voi, cùng lương thực cấp cho
quân. Thời bấy giờ nhà Minh đánh quân Mán làm phản ở Long Châu, nên
âm mưu đặt ra kế đó, muốn mượn tiếng để bắt người nước ta, Hanh Thái
mật bảo cho Tri châu, v́ thế nước ta không cho quân lính và voi, chỉ
cấp cho lương, cũng không được nhiều, đưa đến Đồng Đăng rồi trở về.
Mới ban
hành tiền giấy "Thông bảo hội sao". P
hương
pháp làm tiền giấy: giấy 10 đồng vẽ rau tảo, giấy 30 đồng vẽ sóng
nước, giấy một tiền vẽ mây, giấy hai tiền vẽ con rùa, giấy ba tiền
vẽ con lân, giấy năm tiền vẽ con phượng, giấy một quan tiền vẽ con
rồng. In xong, cho dân đổi lấy tiền; cấm không được chứa tư dùng tư
thứ tiền bằng đồng.
Định thể
cách thi cử nhân. Năm trước thi Hương, năm sau thi Hội, thi trúng,
lại phải thi một bài văn sách, rồi định thứ bậc, chia ra kinh và
trại, có tuyển đủ tam khôi (ba vị đỗ đầu).
Thể cách
thi: kỳ thứ một: một bài kinh nghĩa, có phá đề, tiếp ngữ, tiểu
giảng, đại giảng, tiểu kết, hạn 500 chữ; kỳ thứ hai: Thơ Đường luật,
phú cổ thể, hoặc là tao, tuyển, cũng từ 500 chữ trở lên; kỳ thứ ba:
Bài chiếu như thể của đời Hán, bài Chế, Biểu như thể tứ luc đời
Đường; kỳ thứ tư: một thiên văn sách hỏi về kinh, sử và thời vụ, hạn
1.000 chữ trở lên
Phương
pháp khoa cử của nhà Trần đến đó mới đủ; các nhân tài thu dụng được,
trong đó có Nguyễn Ức Trai là giỏi hơn cả, c̣n th́ để giúp cho đầu
đời Lê như là: Lư Tử Tấn, Vơ Mộng Nguyên, Phan Phu Tiên, Nguyễn
Thiên Túng đều là cự phách trong làng văn. Duy có kính nghĩa th́ từ
Minh có trước, cùng lư trí dụng không thiết ǵ yếu bằng, cũng có thể
suy rộng ra mà thi hành được.
Định cách
chức mũ và phẩm phục các quan văn và vơ. (Nhất phẩm áo màu tía, nhị
phẩm màu đại hồng, tam phẩm màu hoa đào, tứ phẩm màu lục, ngũ phẩm
trở xuống màu xanh biếc). Quư Ly làm thơ và kinh nghĩa bằng quốc
ngữ. Sai các thày đàn bà dạy các cung nhân. Các ư nghĩa th́ theo ư
kiến của ḿnh, không theo tập truyện của Chu Tử.
Quư Ly
lúc trước đỗ thi Hương, lại thi trúng khoa Hoành từ, cho nên mới dám
xính thông minh, không biết rằng lối học chương cú của ḿnh, đă biết
thế nào chỉ qui của thánh hiền, như là 4 điều ngờ sách Luận ngữ, tự
nghĩ ra thi nghĩa, thật là con ếch ngồi trong giếng nước, không thể
nói chuyện biển cả được; cũng như con vượn xé trộm áo Chu Công.
Sai quan
Thượng thư Đỗ Tĩnh xem xét và đo đạc động An Tôn ở Thanh Hóa, xây
thành đào hào, lập nhà miếu và xă tắc để sẽ thiên kinh đô vào đó.
Phạm Cự Luận can ngăn. Quư Ly nói: "Chí ta đă quyết định rồi, nhà
ngươi c̣n nói ǵ?". Nhữ Thuyết nói: "Xưa kia nhà Chu và Ngụy thiên
đô, đều có sự không may; đất Long Đỗ của ta có núi Tản, sông Lô, cao
sâu, phẳng rộng; nước Việt ta mở nghiệp lấy nơi đó làm căn bản,
người Nguyên chịu phục tru, giặc Chiêm nộp đầu, những việc trước có
thể kinh nghiệm rơ, vậy xin nghĩ lại".
(Cự Luận
đi đánh giặc cỏ Hồng y ở Tuyên Quang bị giặc vây hăm rồi chết).
Thành Tây
Đô của Quư Ly ở tại các ấp Hoa Giai, Phương Giai, Tây Giai thuộc
huyện Vĩnh Phúc(9), ra vào có 4 cửa thành, là các đường phố khi
trước, nên đặt tên như thế, hiện nay c̣n vết xây đá; tả và hữu thành
bách cận với núi đá, một con sông từ Ai Lao chảy đến là Lương Giang
hợp lưu ở trước mặt; một cha con họ Hồ ở đó, thân bị bắt, nước bị
mất, đành là ăn ở bất nghĩa nên tội, nhưng cũng là t́nh thế nơi này
mà đến nỗi.
Đổi tên
Nghệ An là Lâm An, Trường An là Thiên Quan, Lạng Giang là Lạng Sơn,
Diễn Châu là Vọng Giang. Xuống chiếu rằng: Đời cổ nước có nhà học,
hương đảng có nhà Tự, xóm ngơ có nhà Tường, đều là nơi để tỏ rơ giáo
hóa, hậu phong tục; ngày nay đă lập ra quốc học mà ở các châu huyện
hăy c̣n thiếu, nên phải đặt ra học quan, cho học điền; phủ th́ được
15 mẫu, để cung cấp việc lễ ngày sóc và đèn sách; các giáo, Huấn
sinh viên, hàng năm kén người ưu tú cống lên triều đ́nh, sẽ thân
hành thi để kén chọn. Lời bàn: Quư Ly th́ phiền mà vụn vặt giống như
Vương Măng, xính học thuật th́ lại quá hơn, thích việc đời cổ giống
như Vũ Văn, tài kinh tế th́ không bằng. Tự lúc đảm đương việc nước,
đổi hết chế độ cũ, đặt ra Thượng Lâm tự mà băi sở Đăng Văn, phát
hành tiền giấy thông bảo, mà cấm dùng tiền thực chất, định lễ khoa
cử lập quy chế học, đổi tên châu trấn, phân biệt cấp bậc mũ áo, để
sửa sang nên đời thái b́nh; nhưng mà gốc đă lỗi rồi, c̣n thi hành
điều ǵ được nữa? Huống chi nhà Minh đương chăm chú xâm miền Nam,
lại không biết pḥng bị, quên mất sự giữ vững cửa ngơ, chăm thay đổi
ḥn ngói, cái xà nhà hư nát, làm như thế chỉ chóng mất nước thôi.
Xuống chiếu hạn chế người đứng tên ruộng. - Người thường dân không
được có quá 10 mẫu, thừa ra phải tiến vào của công. Thời bấy giờ các
nhà tôn thất cho gia nô riêng ra đắp đê ở miền duyên hải, ngăn nước
mặn, khai khẩn thành điền, lấy làm trang ấp riêng; nên khi ấy mới có
lệ hạn chế ruộng. Nhà Minh đưa 2 người họ Nguyên là Đại Hồ và Tiểu
Hồ sang an trí ở nước ta, cho tên Đại Hồ là Địa Phục Cơ, tên Tiểu Hồ
là Địa Bảo Lang. Lũ trẻ con hát rằng Thâm lai Lê sư, mà nhà Minh lại
đưa tên Hồ sang an trí, đó là triệu chứng cha con Quư Ly phải bỏ
nước mà đi, và lời sấm vua Lê Thái Tổ hưng sư.
Quư Ly
bức bách Vua phải thiên đô. Ngự giá đi đến đồn Đại Lại, 2 người cung
nhân là Trần Ngọc Cơ, Trần Ngọc Kiểm nói mật với Vua rằng: "Thiên đô
tất có sự cướp ngôi, cướp nước". Quư Ly nghe biết, giết 2 cung nhân
ấy đi; v́ cớ đă trót có lời thề với vua Nghệ Tôn, (câu t́nh nguyện
giúp con Vua) nhưng vẫn muốn trái lời thề đă lâu, mới ngầm sai đạo
si Nguyễn Khánh thuyết với Vua rằng: "Nơi đó cảnh đẹp thanh u, khác
chốn trần gian, bản triều chỉ sùng Phật giáo, chưa có theo tiên chân
du, Chúa Thượng mệt nhọc về việc nước, không ǵ bằn truyền ngôi cho
Đông Cung, để giữ lấy sức khoẻ", liền lập nên Bảo Thanh Cung ở phía
nam núi Đại Lại, rước Vua đến ở đó, truyền ngôi cho Hoàng tử Án, đổi
niên hiệu là Kiến Tân, Quư Ly lấy là Quốc Tổ nhiếp chánh, đề cái
bảng rằng: "Cai giáo Hoàng đế thánh chỉ" ngay ngày hôm ấy lên ngự
điện ở kinh đô mới.
THIẾU ĐẾ
Tên là
Án, con trưởng vua Thuận Tôn, ở ngôi vua được 2 năm, Quư Ly phế làm
Bảo Ninh Đại Vương.
1) Phóng đăng không giữ đức hạnh.
2) Xem mạch không nên nói phiền muộn, chỉ nên điều ḥa thuốc mà
chữa, nếu cứ nói đến phiền muộn măi, e rằng sinh măi phiền muộn
không hết.
3) Đại ư: Ông đi sứ, tôi về ẩn dật, ông làm nên công danh, tôi được
nhàn rỗi.
4) Theo luồng gió sẽ đưa tới nới có mây ngũ sắc.
5) Nay là xă Thanh Liệt, huyện Thanh Tŕ, Hà Nội.
6) Người ta bảo gửi con cho quạ già, biết quạ già có thương không?.
7) Tên Hàn Dũ.
8) Chu Đôn Di và Tŕnh Tử.
9) Nay thuộc xă Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh
Hóa.
HẬU TRẦN
VUA GIẢN
ĐỊNH ĐẾ
Vua tên là Ngỗi, con thứ vua Nghệ Tôn, hiệu là Giản Định. Cuối đời
Hồ, Vua khởi binh phục hưng nhà Trần, ở ngôi vua hai năm, bị quân
Minh bắt, đó tuy là ḷng trời, nhưng cũng tại người làm hỏng việc.
Tháng 2, niên hiệu Hưng Khánh thứ nhất, Hồ Trừng tiến quân đến Lỗi
Giang, người Minh chiếm cứ hai bên bờ sông đánh giáp lại, quân Trừng
thua, Quư Ly, Hán Thương cùng về Thanh Hóa, dân chúng kinh đô và các
lộ, phần nhiều theo giặc Minh mà phản họ Hồ, rồi đầu hàng quân Minh,
người Kinh và người các lộ bị người Minh xử tàn khốc, ai cũng có dị
chí mưu phản lại Minh.
Nhà Minh
xuống chiếu t́m con cháu họ Trần, kỳ lăo nói: "Bị Lê Quư Ly giết hết
cả, không c̣n ai nối dơi họ Trần được. An Nam vốn xưa là đất Giao
Châu, xin phục lại quân huyện như xưa, để đổi mới cho dân". Nhà Minh
bèn đặt ra quận Giao Chỉ, có chức Bố chính Án sát và các phủ huyện
nha môn. (Nhà Minh cầu con cháu nhà Trần, đâu phải là chân tâm, cốt
để che tai mắt người nước Nam đó; quốc dân cũng biết như thế, chẳng
là thuận theo chúng cho xong, chứ có thích ǵ lập ra phủ huyện).
Quư Ly
chạy ra cửa biển Điển Canh, người Minh đuổi theo, quân Hồ bỏ thuyền
tự tan vỡ, Ngụy Thức xin 2 cha con Hồ tự đốt ḿnh, nói rằng: "Vua
nước đă mất, không chịu chết ở tay người khác". Quư Ly giận chém
Thức; lại chạy đi Kỳ La(1), dân nơi ấy có bô lăo đến yết kiến, nói:
"Nơi này tên là Cơ Lê, có điềm không hay, xin đừng ở lại đây" (Bô
lăo này không muốn cha con Hồ ở đấy, nên phiên vận đi, để dọa y đó),
Quư Ly lại chém người này. Người Minh kéo thẳng đến Nhật Nam, bắt
được Quư Ly ở băi biển Chỉ Chỉ, bắt được Hán Thương ở cửa biển Kỳ
La, bắt được Quốc Trưng ở núi Cao Vọng, ngoài ra c̣n bao nhiêu người
đều bị bắt hết; duy có quan Hành khiển Ngô Miễn nhảy xuống nước
chết, vợ y là Nguyễn Thị nói: "Chồng tôi tử tiết, thế là đắc sở rồi;
nếu tôi c̣n sống là phụ chồng tôi, tôi không nỡ thế"; rồi cùng nhảy
xuống nước mà chết.
Kỳ La có
núi Thiên Cầm(2), là nơi 2 cha con Hồ bị bắt, nên gọi tên là Thiên
Cầm. Lại trong cựu sử: Khôi thường chơi ở đó, nghe tiếng sáo trời,
nên gọi tên là Thiên Cầm, chữ Cầm là đàn viết lầm chữ cầm là bắt.
Người
Minh tính lấy được 48 phủ, châu, 3.169.500 hộ, 121 con voi, 420 con
ngựa, 35.700 con trâu, 8.865 cái thuyền.
Trước
Hoàng Hối Khanh trấn Thăng Hoa, lấy thổ quan là Đặng Tất, Phạm Thế
Căng làm người tâm phúc. Tất cùng Châu Phán, Nguyễn Lỗ, v́ công
trạng mà ghét nhau, gặp lúc ấy cha con Hồ bị người Minh bức bách,
viết thư cho Hối Khanh sai Lỗ thống lĩnh dân thiên cư, làm quân cần
vương, lại sắc phong Ma Nô làm quận vương, để vỗ về dân chúng Chiêm
Thành; Hối Khanh đều ẩn giấu không bảo cho dân chúng. Đến khi Chiêm
Thành ra quân muốn lấy lại đất cũ, Hối Khanh bỏ về Hóa Châu, có một
ḿnh Ma Nô kháng cự với Chiêm, sức kiệt bị hại. Lúc Hối Khanh trở về
Hóa Châu, có lời thề với dân chúng, Lỗ biết Tất cùng Hối Khanh có dị
đồ, lánh mặt không dự thề; Lỗ đưa dân thiên cư đi đường bộ hơi chậm,
Tất đi đường thủy đến trước, quan trấn phủ Thuận Hóa là Nguyễn Phong
cự không nhận. Tất cố sức đánh giết Phong rồi vào thành, lại đánh
nhau với Lỗ, Lỗ bị thua, chạy đi Chiêm Thành, Tất nghe tin người
Minh đă đến Nghệ An, xin đầu hàng Trương Phụ. Phụ sai người đưa Hối
Khanh về, đi đến cửa biển Đan Thai, Hối Khanh tự vẫn, Phụ bêu đầu ở
chơ Đông Đô.
Hối Khanh
là quan Hành khiển ra làm Đốc trấn, ủy nhiệm không phải là không
trọng, người Minh xâm phạm nước Nam, cha con Hồ chạy lang bạt, Hối
Khanh nhận được thư mà không phó cứu, chỉ nghêng ngang ở Ô Lư lập bè
đảng làm việc riêng, chết ở Đan Thai là muộn rồi.
Trương Phụ sai Liễu Thăng giải Quư Ly và Hán Thương về Kim Lăng, đến
nơi, vua Minh nói: "Trung Quốc như thế, sao dám kháng cự". Rồi đem
giết cả. (Xét trong sử Minh và Toàn Việt th́ chép rằng: Quư Ly bị
giam ở nhà ngục, con y là Trừng dâng phương pháp làm súng thần, được
chức Lễ bộ Thượng thư, Trừng xin ân xá, Quư Ly đuợc tha, rồi sau mới
chết, cùng với lời sử chép của nước ta hơi khác, vậy lục ra đây để
sau khảo cứu).
Người
Minh lấy cớ c̣n nhiều người ẩn dật ở sơn lâm, bèn đặt ra các khoa
Minh kinh, Lực điền, Thư toán, Thợ thuyền; để sưu tầm các người ấy
đến, mà đưa về Kim Lăng cho làm quan, những người hơi có tiếng tăm
đều ra ứng tuyển; duy có Bùi Ứng Đẩu, Lư Tử Cấu kiên gan không chịu
ra; bấy giờ có câu ca dao rằng: "Dục hoạt ẩn lâm san, dục tử tố Bắc
quan"(3).
Nguyễn
Đại cậy có công bắt họ Hồ, rút lại vẫn bị Trương Phụ giết.
Sử thần
bàn rằng: Người Minh cấp về cầu nhân tài như thế, có phải thật có
ḷng hiếu hiền đâu; chỉ sợ người anh hùng không bao giờ hết, cuộc
nội thuộc đă thành rồi, tất sẽ có người ra phá hoại mất, cho nên đưa
lời nói ngọt, dử cho tước vị để ràng buộc lấy, làm cho loài kiến ham
mỡ, con sâu thấy lửa đỏ, th́ lăn vào, rồi chúng một mẻ bắt hết cả,
xem như việc Nguyễn Đái và Bá Kỳ th́ thấy rơ, c̣n Ứng Đẩu và Tử Cấu
không bị phồn hoa bó buộc thân, thật là bậc kiệt sĩ.
Trương Phụ kéo quân về, để Hoàng Phúc ở lại làm Trấn thủ, (Phúc
người Xương Ấp, tỉnh Sơn Đông). Phúc có tài ứng biến, hiểu cách trị
dân, ai cũng khen là giỏi.
Vua Giản
Định lên ngôi ở Mô Độ, thuộc đất Tràng An(4). Trước Trương Phụ yết
bảng bắt tôn thất nhà Trần đem về, vua Giản Định trốn tránh đi đến
Mô Độ, ngườ Thiên Trường là Trần Triệu Cơ xuất dân chúng lập lên làm
vua. Người Minh đánh vào hành cung, quân mới tụ tập, chưa đánh đă
tan vỡ, liền đi về phía tây chạy vào Nghệ An. Đại Tri châu Hóa Châu
là Đặng
Tất được
tin, giết quan của Minh, rồi đưa quân đến hội với quân Vua, Giản
Định phong cho Tất làm Quốc công, cùng mưu toan việc khôi phục, bắt
được Tri phủ của địch Phạm Thế Căng ở cửa biển Nhật Lệ, nhân thế
điều động các lộ quân Thuận Hóa, Tân B́nh, Nghệ An, Thanh Hóa, tiến
lên đánh Đông Đô. Quân đi qua Phúc Thành (nay là Phúc Am) gặp Tổng
binh Mộc Thạnh của Minh ở Vân Nam đi đến, vừa đến Bô Cô, gặp khi
thủy triều to, gió lớn, cho quân giữ các cây cắm sẵn, đắp lũy cả hai
bờ sông. Thạnh cũng chia quân thủy và bộ ra giữ nhau, vua Giản Định
cầm dùi đánh trống cho quân tiến, quân Minh thua chạy, Mộc Thạnh chỉ
c̣n một thân thoát chết, chạy vào thành Cổ Lộng. Vua Giản Định bảo
chư quân thừa thế đuổi dài, tiến đánh Đông Quan, tất là phá được,
Tất nói: "Hăy đánh bọn giặc lẻ tẻ ở ngoài, chớ nên để có hậu loạn".
Tất do dự không quyết định. Quân ở Đông Quan đến cứu viện, tiếp đón
quân Mộc Thạnh; Tất chia quân vây các thành, truyền hịch cho quân
các lộ phải đánh quân giặc. Vua đóng quân ở Hoàng Giang, bọn hầu ở
trong cung là Nguyễn Quư, Nguyễn Trang mật tâu Vua rằng: "Cảnh Chân
và Đặng Tất chuyên quyền, sợ sau này khó chế ngự nổi". Vua Giản Định
triệu hai người đến, sai lực sĩ chẹt cổ giết chết.
Lời bàn:
Bô Cô ở sông Thanh Quyết, theo thủy triều, đi thuyền 3 trống canh có
thể đến Lạc Tràng, đi thẳng lên Đông Đô không đến một ngày, thừa
trận được to ấy, mà không tán thành lời quyết định của vua Giản
Định, ai chả biết là thất cơ. Nhưng mà Tất đă vất vả ở Bố Chính, bị
Trương Phụ đuổi ở phía sau, Thế Căng ngăn ở mặt trước, mà phá được
Thế Căng, lấy lại Tân B́nh, mới điều động được quân ở các trấn
Thuận, Quảng, Hoan, Ái, để có quân tiến đánh Đông Đô; lặn lội hàng
tuần đến được Bô Cô, may mà bẻ găy được gươm giáo của quân Điền và
Kiềm. trương thanh thế quân Thanh, Nghệ, c̣n một bước nữa th́ đến
Thăng Long, ṇn xa ǵ nữa mà phải dùng dằng không tiến. Tất cả trù
tính kỹ lắm rồi, Mộc Thạnh mới sang, xa xôi ngh́n dặm, quân bị đói
khát mỏi mệt, thoát chết ở Bô Cô là may lắm. C̣n Trương Phụ là tay
cáo già, như con hổ ngồi nh́n ở Đông Đô, bây giờ là toán quân cô độc
của ta xa xôi kéo đến, chưa kể thủ tắng, vạn nhất trước mặt, sau
lưng đều có quân địch, ta không có quân, lương cứu viện, có phải là
dẫn thân đến chỗ chết không ? Cho nên thà nghỉ ngơi để mà điều độ,
mới là kế vạn toàn. Tất cũng là trí tướng đấy chứ. Nếu được dùng hết
mưu đồ của ông, th́ người Minh cũng phải có phen khốn đốn, quyết
không dám bảo nước ta vô nhân. Tiếc thay ! Vua Giản Định tự phá hủy
bức trường thành của ḿnh đó !
Con Cảnh
Chân là Cảnh Dị, con Đặng Tất là Đặng Dung đều giận rằng cha chết
không đáng tội, lĩnh quân về Thanh Hóa rước Trần Quư Khoách đến Nghệ
An lập làm Vua, đổi niên hiệu là Trùng Quang. Nguyễn Xuất làm chức
Thái phó, Cảnh Dị làm Thái Bảo, Đặng Dung làm Tư mă, vua Giản Định
giữ thành Ngự Thiên, lũ Xuất hội quân đến đánh úp bắt được. Lê
Nguyên Đỉnh ngầm khởi binh ở Hát Giang, lập mưu đánh úp vua Trùng
Quang, việc bị tiết lộ, vua Trùng Quang giết đi. Lũ Xuất liền dẫn
vua Hưng Khánh(5) đến sông Chế thuộc Nghệ An, vua Trùng Quang ăn mặc
hạ bậc ra đoán rước, khi ấy trời có mây tối âm, hốt nhiên có con
rồng vàng hiện ra, dân chúng đều lấy làm kinh dị, bèn tôn vua Hưng
Khánh làm Thượng hoàng, đồng góp sức đánh giặc. Vua Hưng Khánh tiến
quân đến Hạ Hồng, vua Trùng Quang tiến quân đến B́nh Than, các người
hùng kiệt ở các lộ đều hưởng ứng; gặp lúc Trương Phụ dẫn quân đến,
vua Hưng Khánh bỏ thuyền lên bộ, Trương Phụ chia quân đi đằng sau,
bắt được vua Hưng Khánh giải về Kim Lăng, c̣n độc vua Trùng Quang
giữ nhau với Trương Phụ ở B́nh Than, chia cho Đặng Dung giữ cửa Hàm
Tử, v́ thiếu lương thực, quân tan vỡ, vua Trùng Quang được tin, tự
liệu không chống nổi, lại về Nghệ An, Phụ đuổi theo, đến đâu cũng
chém giết nhiều lắm.
VUA TRÙNG
QUANG
Vua tên
là Quư Khoách, con Mẫu Vương Thích, cháu vua Nghệ Tôn, hàng cháu vua
Giản Định, ở ngôi vua 5 năm, v́ trời không pḥ nhà Trần, có chí mà
không làm được, nuốt giận mà chết, đáng thuơng.Niên hiệi Trùng Quang
thứ hai. Vua đốc xuất tướng là Cảnh Dị tiến quân đến Hạ Hồng. Phá
được quân của Giang Hiệu nhà Minh, đốt cháy gần hết thuyền của quân
Minh; bấy giờ hào kiệt ở các nơi khởi lên hưởng ứng; Đồng Mặc người
Thanh Hóa, Lê Nhị người Thanh Oai, Lê Khang người Thanh Đàm, Đỗ Cối
người Nghệ An, giết và tàn phá quân Minh vô kể; lại có Nguyễn Ngân
Hà, cũng là người hơn hết trong đám hào kiệt, cầm quân ra kháng cự
với địch, nhưng v́ sự tiết chế không thống nhất, không người sai
khiến được quân, nên đều không được công ǵ.
Nhà Minh
xuống chiếu, đại lược nói: "Giao Chỉ đă thuộc về bản đồ nước Tàu,
dân đều là con của trẫm, v́ nhất thời không nghĩ mà theo giặc, đến
nỗi phải bị giết chóc, nhưng mà chả qua chỉ có vài người gian ác,
nhân dân phải hiếp bức mà thôi, không phải là bản tâm. Nếu biết hối
cải, th́ cho được duy tân cùng vạn dân. Trong đó nếu có người kiến
thức, bắt được lũ gian ấy đem dâng nộp, không những tha tội cho, lại
c̣n cho làm quan chức nữa".
Vua Trùng
Quang sai Hồ Ngạn Thần, Búi Nột ngôn làm sứ thần đi cầu phong. Trước
đă sai Lê Ngân sang triều Minh xin phong, bị giết mất, đến khi ấy
Ngạn Thần đến Yên Kinh, vua Minh hỏi sự thật quốc vương mạnh yếu thế
nào. Ngạn Thần nói hết các việc; nhà Minh giả dối cho vua Trùng
Quang chức Bố Chính Sứ, Ngạn Thần chức Tri phủ. Đến khi trở về nước,
Nột Ngôn tâu rơ việc Ngạn Thần tiết lộ việc nước với Vua, Ngạn Thần
liền bị giết.
Giải Tấn
là Tham nghị của nhà Minh nói: "Chia Giao Chỉ ra làm phủ huyện,
không bằng nhân theo lối phong kiến cũ". Vua Minh giận giam vào tù.
Người
Minh bắt Giáo thụ Lê Cảnh Tuân đưa về Kim Lăng. Trước Cảnh Tuân là
vạn ngôn thư đưa cho Bùi Bá Kỳ, có 3 kế sách: thượng, trung và hạ,
đại lược nói: "Nhà Minh trước có sắc cho Bá Kỳ theo quân đi đánh
giặc, hứa chờ khi bắt được cha con Hồ rồi, th́ kén cho cháu nhà Trần
mà lập làmVua, cho ở lại nước mà giúp Vua. Nay đen chia nước ta làm
quận huyện, chỉ cấp cho tên xái phu để coi miếu thờ của nhà Trần.
Nếu chấp lời trước mà tâu, biện bạch là kỳ lăo nói vu, họ Trần chưa
tuyệt tự, cố xin lại phong vương cho nhà Trần, đó là thượng sách.
Nếu không được thế, th́ xin làm quan coi từ đường nhà Trần, đó là
trung sách. C̣n đến làm chức Tham nghị của Minh, tham tước lộc th́
là hạ sách. Làm được thượng sách th́ xin đưa thân để ông dùng, như
sâm quế trong tủ thuốc của ông; nếu trung sách nhận rơ người; phụ
vội sang thuyền nhỏ chạy trốn, quân Minh tan vỡ mất nữa, lũ Xuất
không góp lực th́ xin để ông sai bảo cầm cái mâm, cái nâm rượu,
trong khi tế lễ ở từ đường; không được thế, th́ xin về quê nhà, nhàn
tản cho qua tuổi già". Khi tịch biên nhà Bùi Bá Kỳ, bắt được thư ấy,
sai bắt tra hỏi; gặp khi loạn không biết Cảnh Tuân đi đâu; đến khi
đặt nhà học ở Giao Châu mới bắt được, giải về giam vào ngục.
Lời bàn:
Bá Kỳ lặn lội ngh́n dặm đi cáo nạn với Minh, có ḷng trung như Thân
Bao Tư đứng khóc ở sân nước Tần; Cảnh Tuân nghĩ ra 3 kế sách mong
phục lại nhà Trần, có chí như Đào Uyên Minh vẫn giữ niên hiệu Nghĩa
Hy; nhưng mà một người th́ không từ bỏ quan, v́ chức thổ ty mà thay
đổi tiết tháo; một người không biết trốn ẩn, v́ một giáo chức mà mất
thân danh. Mới biết giữ được chí khí, giữ được tiết tháo khó là thế.
Trương
Phụ, Mộc Thanh dẫn quân vào xâm Nghệ An, gặp Nguyễn Xuất, Cảnh Dị ở
Mô Độ, hai bên đánh nhau chưa phân thắng phụ, v́ Mô Độ đường xá hiểm
trở, kỵ binh không tiến được, Phụ đi lẩn vào trong rừng nứa, nữa đêm
đánh úp quân Nguyễn Xuất, Xuất không địch được, phải dùng thuyền ra
biển để trốn. Phụ đuổi bức bách quá, Nghệ An, Diễn Châu đều bị hăm.
Nhà Minh
sắc dụ đại lược nói: "Vâng mệnh trời mà thống trị, chỉ muốn dân
thiên hạ đâu cũng được yên; Giao Châu là đất cũ của Trung Quốc, nay
lại trở về; kén chọn người hiền để mà phủ trị, c̣n lo rằng nhân
trạch chưa ra khắp mọi nơi. Lũ các ngươi phải thể ư trẫm, hưng lợi
cho dân, dạy dân biết lễ nghĩa, biết chăm nghề nông trang, để cho
yên nghiệp làm ăn, hưởng hạnh phúc thái b́nh".
Lời bàn:
Người Minh thống trị nước ta, tự nghĩ có thể lấy oai lực mà áp chế
được; nhưng từ tháng 5 Đinh Hợi bắt được Hồ rồi, tháng 10 vua Giản
Định lại lên ngôi, nói đến vua Trùng Quang, trong 5, 6 năm, chiến
tranh không thôi, mới biết là khó b́nh được. Bấy giờ cần quyền ban
chiếu sắc, nghĩ cách úy dụ dân; nhưng mà Trương Phụ đi đến đâu, dữ
hơn hổ cái, Hoàng Phúc ra mệnh lệnh rối như lông lươn, vua Minh ở xa
cách, không biết dân thuộc quốc khốn khổ đến thế, bảo sao mà dân chả
nhớ nước cũ, mà coi Minh là cửu thù.
Nông Văn
Lịch ở Lạng Sơn tụ tập quân chiếm cứ đất ấy, chận đường đi lại của
người Minh; Nguyễn Liễu ở Lư Nhân cũng chiêu tập người các huyện Lục
Na, Vơ Lễ, đánh cướp quân Minh. Vua Trùng Quang lại sai Nguyễn Xuất
đem quân ra biển đến Vân Đồn, Hải Đông, đánh các đồn canh của Minh,
chưa bao lâu, lại về Nghệ An, quân lính chỉ c̣n 3 hay 4 phần 10.
Trương
Phụ nhà Minh vào cướp Hóa Châu, vua Trùng Quang đi hóa Châu, sai
Nguyễn Biễu mang sản vật trong nước đến Nghệ An, Trương Phụ giữ lại,
Biểu mắng Trương Phụ rằng; "Về ngoài giả dạng là quân nhân nghĩa,
trong ḷng vẫn ngấm ngầm tính kế đánh lấy nước người, đă hứa lập con
cháu họ Trần, lại đặt ra quận huyện, cướp của hại dân, thật là quân
ngược tặc". Phụ giận lắm, giết Biểu.
Trương
Phụ cùng Mộc Thạnh bàn kế đánh lấy nước. Thạnh nói: "Hóa Châu núi
cao biển rộng, chưa dễ đánh lấy được". Phụ nói: "Ta sống là tại Hóa
Châu, chết cũng v́ Hóa Châu; chưa b́nh được Hóa Châu, c̣n mặt nào
trông thấy Chúa thượng nữa". Bèn hạ lệnh tiến đánh Hoá Châu, đánh
nhau với Nguyễn Xuất ở cảng Thái Giá. Đặng Dung đương đêm đánh úp
dinh quân Trương Phụ, lên được thuyền của Phụ, muốn bắt sống, mà
không lượng với nhau mà đánh. Phụ thấy có một đạo quân của Dung,
quay trở lại đánh, quân Dung tan vỡ chạy, từ đấy chỉ ẩn nấp ở hang
núi, (trận đánh Thái Giá, Dung có một toán cô quân chống với giặc
mạnh, không phải tay tướng giỏi không làm được, mà vẫn chịu thua, đó
là tại trời ). Trương Phụ sai Hoàng Trung đi trước ḍ thám, Nguyễn
Xuất sai 3 tên thích khách lẻn vào thuyền Trương Phụ, Phụ biết, lùng
bắt được 2 người, buộc cho Hoàng Trung không pḥng bị cẩn thận, đem
chém; nhân v́ thế lùng t́m khắp trong rừng bắt được Cảnh Dị, và Đặng
Dung; hai người mắng Phụ rằng: "Ta muốn giết mày, lại bị mày bắt
chúng ta, đó là ḷng trời", Phụ giận giết cả, moi gan mà ăn.
Lời bàn:
Chính khí ở trong trời đất, sấm sét, gió băo cũng không sợ, quỉ thần
không dám gần, xem như lời Nguyễn Biểu, Cảnh Dị, Đặng Dung mắng quân
giặc, như tiếng sét đánh tan mọi vật, sương mùa thu làm sém cỏ, coi
sống chết là tầm thường, dù gươm giáo cũng không tan chí khí băng
sương, nát tấm ḷng vàng đá được.
Vua Trùng
Quang chạy sang Lăo Qua, Trương Phụ sai người đuổi theo bắt được
Vua, nhà Trần mất nước từ đấy. Trương Phụ được vua Trùng Quang về
Yên Kinh, đến giữa đường. Vua nhảy xuống nước chết, Nguyễn Xuất cũng
nhảy theo xuống nước.
Hậu Trần
khởi binh, bầy tôi cũ nhà Trần là Phan Quư Hựu có công tán thành.
Đến khi Trương Phụ vào cướp Nghệ An, vua Trùng Quang phải đi Hóa
Châu, Quư Hựu đầu hàng quân giặc, con y là Liêu đem cả số quân nhiều
hay ít, núi sông chỗ hiểm hay không, bảo hết Trương Phụ, nên Phụ mới
quyết tâm lấy Hóa Châu.
Nhà Trần có 12 vua, khởi từ năm Bính Tuất đến năm Kỷ Măo, cộng 174
năm, và Hậu Trần 7 năm.
Vua Giản Định và Trùng Quang đều là con cháu vua Nghệ Tôn, Trần
Triệu Cơ lập lên để nối ngôi vua đă bị mất, Nguyễn Cảnh Chân dắt díu
đi đánh chống bọn giặc mạnh; trận thắng ở Bô Cô, thanh thế cũng đă
lừng lẫy, mà vội nghe lời dèm pha của 2 đứa hoạn quan, bỏ mất vị
tướng trụ cột, tự chuốc lấy bại vong, chả đáng nói nữa. Đến vua
Trùng Quang quật khởi lên được, duy chỉ 2 tướng Nguyễn và Đặng phụ
tŕ hai bên, ngoài ra đều là người chắp tay xem thế sự; chỉ có một
xó Nghệ và Diễn là nơi ra vào công thủ, ngoài ra không c̣n mảnh đất
nào để dụng vơ; lặn lội ở góc biển chân non, trận thắng ở La Tân,
B́nh Than không bù lại được những trận thua ở Linh Trường, Nguyệt
Thường; tuy lũ Dung và Xuất có chí không chịu lùi, nhưng mà quân
giặc vẫn chiếm phần tiện nghi hơn; đất Quảng, Thuận hiểm trở coi như
có thể tựa nương được, nhưng t́nh thế đất ấy nào đă bị quân phản bội
chỉ rơ cho giặc rồi, tai nạn bị bắt ở Lăo Qua thật cũng đáng thương!
1) Núi Thiên Cầm, nay thuộc xă Cấm Long, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà
Tĩnh.
2) Núi Thiên Cầm, nay thuộc xă Cấm Long, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà
Tĩnh.
3) Muốn sống th́ cứ ẩn ở sơn lâm, muốn chết th́ làm quan Tàu.
4) Thuộc Yên Mô, Ninh B́nh (c̣n gọi là Trường Yên).
5)
Hưng Khánh là niên hiệu vua Giản Định.
NGOẠI THUỘC NHÀ MINH
Bắt đầu từ năm Giáp Ngọ
đến năm Đinh Tỵ cộng 14 năm.
Năm Giáp Ngọ niên hiệu
Vĩnh Lạc nhà Minh thứ mười hai, Trương Phụ chiêu phủ dân Tân B́nh và
Thuận Hóa, chia đặt quan thống trị, khám nhân khẩu, lập hộ tịch.
Trước kia các quan ở kinh và lộ có người nào theo vua Trùng Quang ở
Hóa Châu th́ nay đều đem cả gia quyến hoặc đi Lăo Qua, hoặc đi Chiêm
Thành, từ đây người trong nước đều là tôi đ̣i của Minh, mà cả nước
thuộc về Minh.
Nhà Minh thiết lập Văn
Miếu, Xă Tắc, đàn tế thần Phong Vân, Sơn Xuyên, mở nhà học. Bắt mỗi
phủ hàng năm phải cống sinh viên để xung vào Quốc Tử Giám. Cầu t́m
các người nho, y, âm dương tăng đạo.
Nhà Minh cấm trai gái
không được cạo bỏ tóc. Đàn bà, con gái mặc áo ngắn, dài tay, theo
lối mặc của Tàu.
Dân khai khẩn ruộng lấy
lương, trồng dâu lấy tơ. Về ruộng: mỗi hộ 10 mẫu ( 3 sào gọi là mẫu,
thật chỉ có 3 mẫu), mỗi mẫu lấy 5 thăng thóc: mỗi hộ 1 mẫu thu 2
lạng tơ (mỗi 1 cân tơ, dệt được 1 tấm lụa). Khám trường lấy vàng,
bạc, khởi dụng phu đi lọc lấy vàng bạc. Lập ra phương pháp nấu muối,
đặt công trường để nấu. Lại đốc thúc dân bắt voi trắng, ṃ lấy trân
châu. Thuế thu rất nặng, dân không sao chịu được.
Nhà Minh mở ra nhà trạm
thủy Vĩnh An, Vạn Ninh thẳng đến Khâm Châu; nhà trạm mă thẳng đến
Hoành Châu.
Nhà Minh duyệt sổ tên thổ
quan, 3 hộ dân th́ lấy một đi lính, chia ra mà cho thuộc vào các vệ,
sở; không phải là vệ, sở mà là nơi xung yếu cũng lập ra đồn trại,
lấy dân binh đóng giữ. Nội quan là Mă Kỳ tâu rằng: "Trương Phụ ở
Giao Chỉ tuyển người bản thổ tráng dũng làm quân Vi tử thủ". Vua
Minh ngờ, triệu Phụ về, sai Lư Bân sang làm Tổng binh thay để trấn
thủ.
Ông Lê Lợi, người Thanh
Hóa, khởi binh ở Lam Sơn xưng là B́nh Định Vương. Vương khởi gia là
Phụ đạo (tên gọi thổ tù), nối đời làm hào trưởng Lam Sơn, trước theo
vua Trùng Quang, làm chức Kim ngô Tướng quân, sau Hoàng Phúc chiêu
dụ đến cho làm Thổ quan Tuần kiểm; Vương thấy người Minh hà ngược,
khẳng khái nói "Trượng phu sinh ở đời phải nên cứu nạn lập công, sao
lại chịu khổ làm tôi tớ người ta". Bèn dựng cời khởi nghĩa, cử cháu
là Lê Thạch làm Tướng quốc, truyền hịch đi các nơi kỳ cho
diệt được giặc Minh. Minh sai Mă Kỳ đánh, Vương tung phục binh ra
đánh, đại phá quân Minh, bắt được quân và khí giới vô kể; v́ Vương
có tên tướng phản bội, dẫn quân Minh đến tập hậu, Vương phải lui về
Lam Sơn, Lư Bân dẫn quân lùng bắt. Vương phục binh ở Mang Vấn bắn
tên độc, Lư Bân thua chạy.
Nhà Minh bắt các phủ huyện trồng cây hồ tiêu, đến kỳ hái quả th́
sai quân đi hái mà tiến vua, lệnh đốc thúc rất nghiêm cấp, mỗi gốc
cây trị giá 5 quan tiền, bách tính rất khổ.
Nhà Minh ban cấp hộ thiếp, 110 hộ là một làng (mỗi năm một người Lư
trưởng, 10 người giáp trưởng ứng hậu, rơi vọt đánh đập không kể hết
nỗi khổ).
Lê Hành là thổ hào ở Hạ Hồng, Phạm Thiện ở Tân Minh, Nguyễn Tŕ ở
Khoái Châu, Trần Nhuế ở Hoàng Giang, đều khởi binh, các châu huyện
nhiễu loạn, duy c̣n Tam Giang, Tuyên Hưng hơi yên mà thôi. (Có tên
Lê Ngă người Thủy Đường, trá xưng là huyền tôn vua Duệ Tôn, từ Lăo
Qua trở về, Bế Thuấn gả con cho nó mà lập lên, tiếm xưng là Thiên
Thượng Hoàng đế, niên hiệu là Vĩnh Thiên, có tên Tri Cơ là gia nô
của Trần Thiên Lại đến xem quả có thật, liền bị Lư Bân nhà Minh đánh
phá).
B́nh Định Vương đại phá quân Minh ở Mang Thôi. Trước Vương khởi
binh ở Lam Sơn, thế quân kém và ít, người Minh lùng bắt măi, bèn mưu
cùng tướng tá rằng ai có thể đem thân ra thay ta, để cho ta đi ẩn
nấp, giấu tông tích mà cho quân nghỉ, để mưu đồ cử binh lần sau. Lê
Lai xin đem thân nhận lấy việc ấy, Vương lạy khấn trời nói: "Lê Lai
đem thân thay chúa, nếu sau này không nhớ đến công, nguyện cung điện
hóa thành rừng núi, bảo ấn hóa thành đổng, thần kiếm hóa thành dao
cùn". Lê Lai liền tự xưng là B́nh Định Vương, khiêu chiến với quân
Minh rồi chết. Đâu cũng truyền đi là B́nh Định Vương chết rồi, người
Minh cũng tin là thật, không lưu ư. Đến lúc này Vương rời đồn đến
Mang Thôi; Lư Bân, Phương Chính đem 10 vạn quân đến vây, Vương phục
binh ở Thi Lang tập kích, Bân và Chính chỉ chạy thoát được thân, bỏ
hết đồn lũy, lui về Tây Đô, từ đấy xa gần nghe tin hưởng ứng, quân
thế nổi lên lớn lắm.
B́nh Định Vương chiếm cứ Ba Lẫm, tham tướng nhà Minh là Trần Trí
ước hội với Ai Lao đến đánh, Vương bảo tướng tá rằng: "Thắng hay bại
tại tướng, không phải tại số quân ít hay nhiều; quân chúng ở xa đến,
ta thư thả ngồi chờ quân của chúng đi vất vả, tất là phải thắng".
Lập tức đương đêm đánh úp quân dinh của Trí, quân Trí hơi lùi, vừa
gặp tù trưởng Ai Lao là Măn Sát kéo quân đến, Vương thân ra đốc
chiến, chém và bắt được rất nhiều. Trước Vương kết hiếu với Ai Lao,
từ đây tuyệt giao.
Trần Trí lại đưa quân Ai Lao sang chia làm 4 đạo quân đánh quân của
Vương ở cửa Ngọc Gia; Vương bảo chư tướng rằng: "Ta bốn mặt đều có
quân địch, binh pháp gọi là tử địa, đánh mau th́ c̣n, không đánh mau
th́ chết". Tướng sĩ đều đánh thù tử, đại phá được quân Minh, quân Ai
Lao cũng trốn chạy, quân của Vương đến Linh Sơn tuyệt lương, hàng
ngày phải ăn rau và măng tre; sai người đến quân Minh xin ḥa, Mă Kỳ
v́ đánh bất lợi măi, cũng cho ḥa.
Năm ấy là năm Quư Măo, Vương sinh được con trưởng là Nguyên Long
(sau là vua Thái Tôn). Vua Minh thân đi đánh Mông Cổ, mất ở sông Du
Mộc, di mệnh truyền ngôi vua cho Thái tử Cao Xí, cải niên hiệu là
Hồng Hi. Thời bấy giờ vua Minh mới lập, quần thần phần nhiều nói đến
sự lợi và hại về việc lấy hay bỏ An Nam, vua Minh không quyết định
được, mới triệu Phúc về, hỏi việc biên giới. Phúc nói: "Nếu được
người giỏi phủ ngự An Nam, th́ có thể giữ được vô sự". Vua Minh cho
là phải.
B́nh Định Vương đưa quân đi tuần Nghệ An, lấy được phủ Trà Lân.
Tướng Minh là Trần Trí và Phương Chính kéo quân đến cứu viện, Vương
phục quân và voi ở trong rừng, đánh phá được; Trí chạy về Nghệ An,
Vương thừa thế dẫn quân vây thành Nghệ An. Khi bấy giờ người Nghệ An
đương khổ về chính sự bạo ngược của người Minh, thấy Vương đến,
tranh nhau mang trâu ḅ và rượu đến rước khao quân, nói rằng không
ngờ hôm nay lại trông thấy uy nghi của cố quốc. Gặp khi tướng Minh
là Lư An từ thành Đông Quan kéo quân đến cứu viện. Trương Hùng lĩnh
300 thuyền lương thực cũng từ Đông Quan kéo đến. Vương chia các
tướng phục binh ở hai bờ sông cửa Chuyết Giang đánh mạnh, quân Minh
thua to; Trần Trí chạy về Đông Quan, Lư An cùng với Hùng lại vào
thành Nghệ An cố chết giữ. Vương bảo chư tướng rằng: "Binh pháp nói:
bỏ chỗ mạnh đánh chổ yếu, tránh nơi thật lực đánh nơi hư, th́ ít
dùng sức mà công gấp bội. Nay quân Minh cố chết giữ thành Nghệ An,
tuyệt hẳn tin tức với Đông Đô đă lâu, Thuận Hóa và Tân B́nh th́
đường rất xa, không có thể thông tin với nhau được. Nay ta đem đạo
quân khác đến đánh, tất là thắng". Bèn sai Trần Hăn, Lê Nỗ kéo quân
đến thẳng Tân Thuận, Lê Ngân, Lê Bôi đem chiến thuyền đi đường biển
mà tiếp ứng; quân và dân Tân Thuận hết thảy quy thuận với Vương,
tướng Minh là Nhâm Năng đánh không lại, vào thành cố thủ, trong và
ngoài cách tuyệt nhau, hiệu lệnh của Minh không thi hành được. Từ
Tây Đô đến Tân Thuận đều vào tay B́nh Định Vương, chư tướng tôn
Vương là Đại Thiên Hành Hóa, sau có bảng dụ việc ǵ, đều dùng 4 chữ
đó.
Vua Minh mất, Thái tử Chiêu Cơ lên nối ngôi, cải niên hiệu là Tuyên
Đức, xuống chiếu đại xá, đại lược rằng: "Phương pháp thống trị nhất
là yên dân; có ḷng thương dân, trước hết phải tha lỗi lầm. Giao
Châu thuộc vào nước Tàu đă 20 năm, vẫn giữ ḷng bạn nghịch, để phải
dùng đến quân. Nhân t́nh ai chả muốn yên, dùng đến binh cũng không
bản chí triều đ́nh; đều bởi người cầm quyền, phủ tuy không phải
đường, mới sinh ra nguy biến, đó là bất đắc dĩ, bắt tội thật cũng
đáng thương. Nay ra ân khoan tha, phàm các nghịch phạm đă bắt được
hay chưa bắt được, đă làm tội hay chưa, th́ ngày chiếu thư này đến,
vô luận tội lớn hay nhỏ, đều khoan tha hết. Ngoại trừ thuế chính
cung quân lương, c̣n nhất thiết các việc ṃ châu, đăi vàng, nấu
muối, lấy chè đều phải đ́nh băi, trong nước được giao dịch với nhau,
không cấm đoán". Đông Đô đều hưởng ứng với Vương, hiệu lệnh của Minh
không thi hành được nữa.
Vương chia các lộ thuộc Đông Đô làm 4 đạo, đặt ra quan thuộc, và
tuần kiểm cửa biển, để bắt quân Minh chực mang thư trốn về Bắc.
Thời bấy giờ thành Đông Quan cùng quẫn quá, Vương muốn nhân lúc
chúng khốn đốn bắt hiếp chúng phải ḥa kéo quân về Bắc. Vương Thông
kế cùng, quân viện tuyệt, cũng phải sai người cầu ḥa, mà lại sợ vua
Minh bắt tội, xin theo chiếu thư năm Vĩnh Lạc, bảo phải lập con cháu
nhà Trần, khuyên Vương t́m lấy con cháu nhà Trần mà lập lên. Gặp lúc
bấy giờ có
Hồ Ông là con đứa ăn mày, giả xưng là cháu 3 đời Trần Húc tên là
Du, Vương muốn nhờ vào đó để hưởng ứng với người Minh, mới lập tên
ấy lên, đổi tên là Cao (niên hiệu Thiệu Khánh), từ đấy đưa thư cho
người Minh lấy tên Trần Cao làm Thống quốc. Thông cũng mượn cớ đó
cho chóng thành ḥa nghị. Người trong nước có lũ tên Trần Phong đă
nhận quan tước của Minh, sợ ḥa nghị mà thành th́ tất chết, đưa lời
phản gián, viện dẫn việc Trần Hưng Đạo sai đục thuyền để cho người
Nguyên chết ch́m mà dọa Vương Thông, Thông tin lời đó, lại đào hào,
đặt đồn canh, làm kế cố thủ, Vương giận, liền tuyệt giao với Vương
Thông, sai chư tướng đánh thành Tam Giang. (Chỉ huy của Minh là Lưu
Thanh đầu hàng, quân thổ có kẻ nói lời khinh mạn, Thanh mắng rằng:
thằng Mán vô lễ, đấy là Hoàng đế của lũ mày) các thành lần lượt đưa
tin xin qui thuận. Vương tiến đóng ở Bồ Đề (bờ bắc sông Nhĩ, có 2
cây bồ đề, nên lấy mà gọi tên đấy ấy), xây tầng lầu ở bờ sông, cao
ngang tháp Báo Thiên, để xem động tĩnh của người Minh. Hào kiệt ở
các lộ vốn ghét sự hà ngược của người Minh, tranh nhau đến dâng kế
sách xin Vương đánh gấp (có Vơ Cự Luyện, người Đường An dâng kiểu xe
có mui gọi là Phi mă, Vương sai theo mẫu ấy mà chế ra). Thông ở
trong thành không biết làm cách nào được, lại sai sứ cầu ḥa, mà sai
Phương Chính lén đem quân ra tập kích; Vương sai Lê Lễ, Lê Xí đưa
quân thiết đột xông ra đánh quân Minh ở My Động (nay là Hoàng Mai);
Thông đem hết quân tinh nhuệ ở trong thành ra giáp công, voi của Lễ
và Xí sa xuống lầy, bị quân Minh bắt được (Lễ không chịu khuất, bị
hại; Xí trốn thoát, đến yết kiến Vương ở Bồ Đề, kêu lên 3 lần sinh
hoàn). Vương nói: "Lỗi tại Lễ quen thắng rồi khinh địch, ta đă nhiều
lần răn bảo rồi, quả nhiên bị hại". Lại càng thúc quân vây cửa
thành. Thông lại đưa thư cho Vương xin băi binh mà cầu phong cho
Trần Cao, sai sứ sang cống nhà Minh. Vương bằng ḷng nghe theo.
Trước kia trận thua ở Tốt Động, Thượng thư Trần Hợp tử trận, việc
đến tai vua Minh, đ́nh thần Minh tranh nhau nói: "Từ khi Hoàng Phúc
bị triệu về, trung quan Mă Kỳ sang thay, khích thành biến loạn ở
Giao Chỉ, xin lại cho Hoàng Phúc sang nhậm chức cũ, th́ loạn ở Giao
Chỉ tự nhiên yên được, vua Minh nghe lời, sai Liễu Thăng đem quân
cứu viện thành Đông Quan, và sai Phúc đi ṭng quân, chia làm 2 đạo
quân: Liễu Thăng đi ra cửa Pha Lũy (Lạng Sơn) là chính binh, Mộc
Thạnh đi ra cửa Lê Hoa (Tuyên Quang) làm quân ứng cứu cho Liễu
Thăng, B́nh Định Vương nghe tin viện binh của Minh sắp đến, tướng sĩ
đều khuyên Vương đánh gấp thành Đông Quan, để tuyệt quân nội ứng.
Vương nói: "Đánh thành là hạ sách; không bằng dưỡng lực súc nhuệ để
chờ viện binh của chúng, phá tan viện binh, tất chúng phải hàng: thế
là nhất cử lưỡng đắc, mới là kế vạn toàn". Vương bèn đặt quân pḥng
thủ nghiêm mật, chuẩn bị đối phó với địch; lấy cớ thành Xương Giang
là con đường mà người Minh đi hay về tất phải qua, trước hết sai
Trần Hăn đánh lấy thành đó, và bắt các đạo Lạng Sơn, Bắc Giang,
Tuyên Quang, Tam Đới dọn quang cánh đồng để tránh viện binh của
địch. Vương lại bảo chư tướng rằng: "Quân giặc vốn khinh ta dút dát,
chúng nghĩ rằng đại quân chúng kéo đến, ta nghe tất sợ, không bàn
đến t́nh h́nh được hay thua, quân cứu cấp chỉ cần đến mau chóng là
hơn. Đi gấp một ngày bằng hai ba ngày, chính là phạm vào binh pháp,
trong binh pháp nói: "Đi hàng 500 dặm để xu lợi là thượng tướng
què". Nay ta nhàn rỗi, đợi đối phó với quân chúng đi vất vả, khó
nhọc, th́ làm ǵ mà không thắng. Bèn sai Lê Sát, Lê Nhân đem quân
mai phục ở ải Chi Lăng đợi quân địch. Bấy giờ Lê Lựu là tướng giữ
cửa Pha Lũy bỏ quân ải lui về giữ ở Chi Lăng, Liễu Thăng thừa thắng
đuổi theo, đi đến đâu cũng không ai dám kháng cự, càng tỏ ra mặt
kiêu ngạo; Vương lại sai người đến quân môn của Thăng xin lập Trần
Cao, Thăng nhận thư không thèm mở xem, cứ dẫn quân thẳng tiến. Trần
Dong nói với Lư Khánh rằng: "Chí của Thống binh kiêu lắm rồi, quân
địch quyệt trá lắm, biết đâu chúng không làm ra thế yếu để dử ta;
huống chi trong sắc thư dặn rằng Lê Lợi chỉ chuyên dùng cách mai
phục mà thắng, ta không nên khinh địch", Khánh bảo với Thăng, Thăng
không hề để ư, đi thẳng đến chỗ mai phục, Lê Sát tung phục binh ra
đánh giáp bốn mặt, chém Liễu Thăng ở núi Mă Yên. Thôi Tụ nghĩ rằng
thành Xương Giang chưa bị phá, thu nhặt dư chúng kéo đến, khi đến
nơi biết thành bị hăm rồi, liền đắp lũy ở giữa cánh đồng ruộng để tự
vệ, gặp lúc có mưa gió to, người và ngựa chỉ trông nhau không đi
được bước nào; Vương sai chư quân đến vây kín, bắt sống được Thôi
Tụ, Hoàng Phúc và vài vạn tù binh. Tụ không chịu khuất, Vương truyền
giết đi. C̣n Phúc v́ trước đă nhậm chức Bố chính, hơi được ḷng dân,
không nỡ gia hại. Phúc nhân xin tương kiến với Vương Thông để điều
đ́nh việc giảng ḥa băi binh.
Lúc bấy giờ quân Minh chạy trốn đều bị bắt về tay trẻ mục đồng,
hoặc tay người tiều phu, không sót được mống nào.
Tổng binh Vân Nam là Mộc Thạnh giữ nhau với Lê Khả ở cửa Lê Hoa,
Vương liệu tính Mộc Thạnh tuổi già từng trải nhiều, tất là ngồi xem
Liễu Thăng thành bại thế nào, chưa chịu khinh tiến, bàn mật bảo Lê
Khả cứ đặt phục binh mà chờ, chớ có đánh; đến khi quân Thăng bị hại,
Vương lấy sắc thư, ấn tín đă bắt được đưa đến cho Thạnh biết, quân
Thạnh sợ tan vỡ, Lê Khả thừa thế đại phá Thạnh ở ng̣i Lănh Thủy,
Thạnh chỉ chạy được một người một ngựa. Vương đưa Hoàng Phúc đến
thành Đông Quan, Thông lo sợ, tập họp tướng sĩ bàn luận rằng: "Thành
không thể giữ được, mà đánh không thể thắng, không ǵ bằng toàn quân
trở về Bắc". Bèn sai Sơn Thọ đưa thư cầu ḥa, xin mở cho con đường
về nước, Vương ưng cho, tướng sĩ và quốc dân phần nhiều oán giận
quân giặc, xin với Vương giết hết đi, duy Nguyễn Trăi ở trong văn
pḥng của Vương, thấy thư bọc sáp của Thông nói rằng không nên v́
một mảnh đất, mà bắt quân lính đi xa xôi vạn dặm, túng xử có lấy
được, cũng không thể giữ được; cho nên Trăi chủ ḥa nghị. Sau cùng,
Vương cũng theo lời ấy, sau giải vây, cùng Vương Thông thề ở phía
nam thành, hẹn đến ngày 12 tháng 12 th́ ban sư.
Vua Minh
xuống chiếu băi quân Nam chinh.
Trước kia
B́nh Định Vương sai Nguyễn Trăi làm bức thư đứng tên Trần Cao trần
t́nh cầu phong (1 bản đưa vàio quân môn Liễu Thăng, 1 bản đưa quân
môn Mộc Thạnh), thư đó đưa lên vua Minh họp quần thần bàn định.
Trương Phụ nói: "Quân sĩ khó nhọc đến vài năm, mới lấy được đất ấy,
sao lại nghe lời xin xảo quyệt của Lê Lợi, xin cứ cho quân đi đánh".
Kiển Nghĩa, Hà Nguyên Cát cũng nói: "Không có danh nghĩa ǵ mà bỏ
đất, chỉ để thiên hạ thấy sự suy yếu của ḿnh". Chỉ có một ḿnh
Dương Sĩ Kỳ nói: "Từ năm Vĩnh Lạc đến nay, quân mỏi mệt, dân cùng
khốn, không ǵ bằng theo y lời xin của địch, có thể chuyện họa ra
phúc được, vả lại vua Thành
Tổ sơ tâm
là lập con cháu họ Trần, đó là việc thịnh đức, sao lại bảo là vô
danh? Đời Hán bỏ Châu Nhai, tiền sử cho là vinh, sao lại bảo là thị
nhược?". Vua Minh nghe theo lời này. Đến khi Liễu Thăng bị hại, báo
tin đến, liền sai La Nhũ Kính mang thư sang phong cho Trần Cảo làm
An Nam Vương, mà triệu Vương Thông về Bắc. Chiếu thư chưa đến nơi,
Vương Thông đă thiện tiện cùng Vương làm lễ ở dưới thành. Vương sai
bồi thần Lê Cảnh Quang mở tờ biểu cùng gia nô của Thông đưa về Yên
Kinh, và giả cả ấn Hổ phù bằng bạc của Liễu Thăng, cùng sách kê số
mục quan quân và ngựa đệ đến Yên Kinh.
Vương
Thông giải binh quyền về Bắc, quân bộ đi qua sông trước, quân thủy
nối theo, quốc dân oán người Minh tàn khốc, xin Vương giết đi, Vương
hiểu dụ rằng: "Phục thù báo oán là thường t́nh của dân chúng, nhưng
không muốn giết người là ḷng người có nhân; dữ kỳ thỏa ḷng căm
giận một lúc, để chịu tiếng giết người đă đầu hàng; sao bằng để sống
mạng ức vạn người để tắt được nỗi khổ chiến tranh". liền truyền lệnh
cấp cho thuyền, do Phương Chính nhận lĩnh, đường bộ cấp lương ăn, do
Hoàng Phúc nhận lĩnh, đều đến dinh Bồ Đề bái biệt, lũ Phương Chính
xấu hổ và cảm động đến chảy nước mắt. Vương Thông về Bắc, tính số
tổn thương, c̣n sống trở về có 2 phần 10. Vua Minh hỏi tội Vương
Thông bỏ đất mà ban sư, rồi giam vào nhà ngục Cẩm Y, tha khỏi chết,
xóa bỏ tên trong quan tịch, và gửi tờ dụ sang nước ta, về việc triều
cống nhất thiết phải theo lệ cũ năm Hồng Vũ.
Hết |