Phiên
Ngung thành được người Hán phong mỹ danh đất thần kinh
Giang Nam, cảng Hổ Môn trở thành trung tâm kinh tế và
thương mại lớn nhất Nam Việt, từ cửa Hổ Môn khách bộ
hành chỉ mất hai canh là đến thành Phiên Ngung, đẹp nhất
cảnh thiên nhiên hai bên lề đường, có cánh đồng hoa trải
rộng như thảm chiếu hoa muôn màu, bốn mùa hoa trải dài
từ biên giới tỉnh Quế Lâm đến Nam Hải. Hoa thơm dịu phơi
phới, đưa khách si t́nh lạc lối mê mẩn vào cơi thiên
thai kỳ ảo, không một ai từ chối các loài hoa của thành
Phiên Ngung, v́ nó là một tác phẩm bất hủ của tác giả
Thiên Nhiên. Khách si đắm đuối hương hoa thưởng thức
chưa hết mà đă cuối đời người, tiếc cho một kíp sinh
sống đâu đây c̣n lưu luyến hương hoa Nam Việt.
Đi xuống đất Giao Chỉ cũng không kém sức vùng dậy của
một con Rồng, người và đất thi đua phục hồi cố đô văn
hiến Phong Châu thời Hùng Vương và cố đô Loa Thành, mở
ra một nền đạo học mới cho Nam Việt.
Phong Châu là
trung tâm thứ hai về kinh tế, thương mại và thủ công
nghiệp, được Vũ Đế tặng mỹ danh Giang Nam Phù Đổng. Địa
danh Giang Nam gồm có Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam,
miền đất mở rộng trù phú quan trọng thứ hai của Nam Việt.
Thành Phiên
Ngung tiêu biểu của quốc gia Nam Việt, gọi là Nam Việt
thành Bắc gồm các tỉnh như Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận,
Trường Sa và Hải Nam mỗi tỉnh được triều đ́nh phong
Vương trị chánh. Nam–Bắc Nam Việt thi đua phát triển
trong ba năm qua đưa đất nước trù phú như có phép lạ.
Giang Nam được ca tụng vùng đất "Yêu Người" tuy đă có
Phong Châu, Loa Thành, Cửu Chân, Nhật Nam nhưng dân cư
lưa thưa không bằng Tượng Quận, Trường Sa, Quế Lâm, Hải
Nam và Nam Hải. Nam Việt khởi sắc thịnh vượng người dân
di chuyển sinh sống tự do. Lạc dân đi t́m vùng đất rộng
người thưa, nhất là di cư xuống Giang Nam lập nghiệp với
niềm tin tương lai đầy hứa hẹn, khí hậu cũng ôn ḥa,
thuận mùa sản xuất, sông ng̣i, biển cả đan dày thủy mạch
thuận cho thương thuyền và ngư nghiệp. Từ đất "Yêu người"
Lạc dân Giang Bắc, thi nhau dời cư xuống Giang Nam lập
nghiệp, bỗng nhiên tự nó tập hợp được trăm họ tôn tộc
Bách Việt, sản sinh trí sĩ, anh hùng hào kiệt. Giang Nam
có được ngày nay cũng do ḷng người biến hóa hữu thời.
Một tập hợp
Bách Việt lần thứ hai mà chưa ai suy nghĩ đến, tự nó có
từ lúc đại hội anh hùng Bách Việt tại thành Phiên Ngung.
Một cấu tạo thiên nhiên đă định cho ngày hẹn trở về tộc
Bách Việt, từ Trung Nguyên xuôi Nam hướng về quê hương
xứ sở, họ mang theo những tinh hoa như kỹ thuật thuộc
da, kinh doanh, thương mại, thủ công nghiệp, giao dịch,
lưu hành ngân kim. Họ là nhân tố bồi đắp vào đời sống
văn hóa Giang Nam mỗi ngày phong phú hơn xưa. Họ là
những quyết định hưng thịnh cho Giao Chỉ, Cửu Chân và
Nhật Nam toung lai. Họ trở về trong ḷng Bách Việt như
một khối kết tinh t́nh tự dân tộc, quê hương xứ sở giàu
mạnh không cần "Dụ ngôn nguồn cội". Chỉ cần đất "Yêu
người" thay cho động lực, tức th́ con người xuất hiện để
thi thố khả năng và tinh thần tập hợp Bách Việt, cũng
nhằm chuẩn bị đối đầu với người Hán trong tương lai. Các
nước lân bang thường gọi "Thời đại Bách Việt Phương
Nam".
Thời đại Bách
Việt một nhà, tuấn kiệt, nhân tài thi nhau xuất hiện.
Văn nhân, trí sĩ, vơ hùng mă cường, quyết định vận mệnh
đất nước Nam Việt, Cá nhân trở thành yếu tố làm chủ cuộc
sống từ đó Bách Việt thực hiện được mục chứng tinh thần
tôn tộc "Dân v́ Dân", với một lư trí mới không hề biết
sợ người Hán. Nhờ thiên hạ bá tánh vận dụng sinh tồn mới
có "Thượng ứng thiên mệnh, hạ ứng nhơn tâm".
Trên Vua,
trọng nhất mẫu đồng bào. Dưới Dân trọng Hoàng thượng chí
tôn thiên hạ. Nam Việt c̣n ngoại lệ cơ may xây dựng
giang sơn cẩm tú và đem sự hoan hỷ đến cho Lạc dân, bằng
ư chí quân thần, đúng như câu: "Khói củi sự sống của bá
tánh, khói núi mở giang sơn v́ thiên hạ".
Lúc Nam Việt
đang trên đà thịnh vượng, không ngờ Hoàng Hạc qui tiên,
tin loan truyền một đêm mệt mỏi Người vĩnh viễn ra đi,
hưởng thọ chín mươi chín canh, linh cữu quàn tại tư gia
họ Hoàng tại Cửu Chân, sau ba nhật chuyển về thành Phiên
Ngung. Nam Việt Vũ Đế đứng ra làm chủ lễ an táng đại anh
hùng Bách Việt. Mộ bia vinh danh, "Quốc sư chí minh
Hoàng triều Nam Việt thất thập niên, hiền thần quốc hiếu,
Hoàng Hạc vương thần lưu danh chi mộ".
Nam Việt Vũ
Đế xuống chỉ dụ:– Thành Phiên Ngung và thành Giao Chỉ
treo cờ rũ, triều đ́nh cử hành tang lễ bảy nhật. Quân
quan từ Cửu phẩm đến bát phẩm phải chầu lễ cho đến khi
nhập thổ mới thành. Hoàng Phi Vũ được tín nhiệm đứng đầu
họ Hoàng tại Giao Chỉ. Cả họ cùng một lời thề trước linh
đài Hoàng Hạc: "– Họ Hoàng nay tiếp nối hành tŕnh tiên
phụ để lại, một ḷng v́ sơn hà xă tắc Nam Việt. Quyết
chí cả lập đức, lập công bồi đắp thanh b́nh hưng Nam
Việt, phù trợ đất nước thêm hưng khởi, nuôi dưỡng sinh
lực nhằm phá tan những cản trở phát triển, bài trừ quan
lại tham ô, hoạn quan suy nhược, triệt tiêu những cửa
quan cậy quyền, áp chế Lạc dân, chấp nhận đứng trên mọi
thử thách".
Từ ngày đất
nước hết chiến tranh, Nam Việt thanh b́nh, hưng thịnh
hơn năm năm, toàn dân lúc nào cũng vinh danh Vũ Đế "Vạn
tuế, vạn tuế…" c̣n quốc sư Hoàng Hạc người dân vinh danh
"Anh hùng Bách Việt" Lạc dân thương tiếc, cùng lúc suy
nghĩ về tương lai. Ai là đệ nhị Hoàng Hạc, Hoàng thượng
Vũ Đế sẽ bổ nhiệm ai lo cho dân ấm no ?
Trong những
ngày tang lễ Hoàng Phi Bằng khóc cho tiên tổ nhiều nhất,
chàng khả nghi để ư t́m nguyên nhân tiên tổ qua đời. Đôi
lúc Hoàng Phi Bằng tự hỏi:– Người khoẻ mạnh khi chết da
mặt phải tái, óp lại đôi chút ít, nhưng hiện thời tiên
tổ như người đang ngủ, thi thể cũng như da mặt vẫn đầy
đặn, hồng hào. Nếu người có nhăn lực thâm hậu như Hoàng
Phi Bằng mới khám phá trong thi thể có biến chứng không
b́nh thường. Người của họ Hoàng cho đây là sự ra đi của
Hoàng Hạc trong tư thế b́nh an. Trái lại Hoàng Phi Bằng
nh́n Tiên tổ với một gốc độ khác. Chàng giỏi về mạch lư,
y dược cho nên có ư tưởng khác người. Hoàng Phi Bằng suy
nghĩ thầm:– Chính Nội tổ đă bị kẻ ám hại, bây giờ muốn
cứu Nội tổ cũng đă muộn màn. Chàng tiếp tục tự nhủ:–
Giải pháp hay nhất là âm thầm t́m địch thủ, tuy họ trong
bóng tối cũng có ngày lộ ra dưới ánh sáng mặt trời.
Chàng tự ḥi tiếp:– Họ dùng thủ pháp nào để hạ độc Tiên
tổ, những dược liệu ǵ ở trong thi thể, có lẽ thủ phạm
không phải là người xa lạ. Dĩ nhiên đây là cao thủ không
phải kẻ tầm thường .
Hoàng Phi
Bằng quyết định khai quan nghiệm thi, lấy một mẩu thịt
trên vai Tiên tổ ngâm vào rượu nồng độ mạnh, rồi theo
liên đài về thành Phiên Ngung. Ngày cũng như đêm Hoàng
Phi Bằng theo tục lệ báo hiếu. Chàng nằm dưới liên đài,
nhờ vậy Hoàng Phi Bằng khám phá trong liên đài có nước
vàng thấm qua khe gỗ Cẩm˗lai. Chàng kết luận chính người
trong nhà sát hại Tiên tổ.
Ngự Lâm Quân
canh gác trước cửa pḥng, nhân tiện một lần nữa Hoàng
Phi Bằng khai quan nghiệm thi, lấy mẩu nước vàng trong
liên đài. Đôi tay chàng vận khí một thành công lực xuất
chiêu thức "Cân vũ thành" liên đài bật nắp không vang
tiếng động. Chàng thấy thi thể của Tiên tổ teo lại chỉ
c̣n da bọc xương, thi thể đă bị ră rữa từ từ, nước màu
vàng đă thấm hết vào vải bọc thi thể, rỉ ra ngoài phần
nhỏ cho nên khó ai phát hiện. Chàng nói thầm:– Mới mấy
ngày thôi mà thân thể Tiên tổ đă biến hóa nhanh như vậy
rồi ư ? Nước mắt của chàng tủa ra như suối, chàng cẩn
thận đậy nắp liên đài trở lại, cảm thấy bần thần, vội
uống vào một viên "Hoàng liên thảo" ngồi xuống định thần,
khi mở mắt ra mới biết chất độc trong liên đài cực mạnh.
Chàng tự hiểu đây là một chất độc chế biến tinh vi. Đến
ngày tang sự viên măn mọi người trở về sinh hoạt b́nh
thường, chẳng ai suy nghĩ lư do nào một nhân vật kỳ tài
bị chết bí ẩn.
Tin Hoàng Hạc
qui tiên, Hán Cao Hậu Lữ Trí gửi sứ thần qua Nam Việt để
phân ưu, đất nước Nam Việt buồn v́ mất một kỳ tài, trái
lại nhà Hán xem đây là một tin vui nhất, lư do đơn giản
người Trung Nguyên thời nào cũng muốn áp phục tôn tộc
Bách Việt, như nhà Tần nhị quốc Tây–Đông cũng bao lần áp
chế Nam Việt, mục đích của họ là tiêu diệt tôn tộc Bách
Việt, ư đồ ấy họ không đạt được bởi Bách Việt thời nào
cũng sản sinh trí sĩ, anh hùng. Thời nay người Hán đă
đồng hóa được các dân tộc khác ở hướng Tây, Bắc, Đông
Trung Nguyên. Chỉ có Bách Việt may mắn vượt ra khỏi tầm
tay tham vọng của nhà Hán, nhà Hán cho rằng trên thế
giang này chỉ có họ là dân tộc văn minh nhất, c̣n tất cả
những dân tộc khác trong vùng Châu-á đều là man rợ chư
hầu.
Ngày nay nhà
Hán có phần e dè tôn tộc Bách Việt v́ một vựa vựa ngũ
cốc trù phú, cho nên ḷng khao khát thèm muốn của người
Hán dâng cao, c̣n ngoài mặt lưng kḥm một ít. Lúc nào
người Hán cũng chuẩn bị đem binh lực để xâm chiếm Nam
Việt, họ măi mơ ngồi chờ thừa dịp là tràng quân vào cướp
bóc tài sản cho bằng được, người Hán khác nào cái bồ
tham vô tận, đă có từ cổ xưa đến nay vẫn thế không nguội.
Tôn tộc Bách Việt hiểu thấu tính sài lang của người Hán,
thực sự người Hán không phải là một dân tộc thông minh,
nhưng họ lại giỏi gió tanh máu lạnh, ḷng tham không bờ
bến, họ là loài động vật có tính chuyên nghiệp cướp, chỉ
biết đi thôn tính những nước lân bang, người Hán là con
trăn ngủ dưới lớp lá khô chờ quốc gia nào suy vong tức
th́ thừa cơ nhảy vào đồng hóa. Ngày nay Nam Việt sống
trong lư lẽ tồn vong, phải vũ trang binh hùng tướng mạnh,
không thể hiếu ḥa trước một con sài lang Hán đói, ăn
thịch người không nhả xương. Sứ thần nhà Hán lần này đến
Nam Việt thăm ḍ người kế tập Hoàng Hạc là ai, phân ưu
chỉ là một cái cớ, trong đôi mắt nhà Hán đang lùng t́m
miến mồi béo bở Nam Việt, cuối cùng sứ thần nhà Hán, họ
Bàng tên Từ Không đi về tay không.
Cuối tháng
chín miền Nam Giao Chỉ nắng ít mưa nhiều, chiều mau tối,
trời vừa xẩm gió thổi mạnh "vi vu" nước sông chảy xiết,
ghe thuyền làng Xá trên sông Hồng ngưng mọi sinh hoạt.
Hoàng Phi Khải thấy từ xa xa trên ḍng sông kéo theo một
người trôi nổi bồng bềnh, đầu hụp lên, hụp xuống, cứ thế
mà trôi măi, xem ra người dưới nước đă kiệt sức, không
c̣n ép được thân thể vào ḍng nước để trôi vào bờ.
Hoàng Phi
Khải thấy cảnh tượng người này c̣n có thể cứu sống,
chàng vội chuyển bộ pháp phi thân trên mặt nước xuất
chiêu "Thủy sơn kiển", gọi là Khảm hiểm trở. Cấn dưới
nước, trên th́ có núi cao chặn đường tiến thủ, dưới chân
vực sâu, đă dừng lại không tiến về phía trước. Nhờ vậy
cứu được người lên bờ, đem nạn nhân vào trước sân nhà lá
cũ bên bề sông, tay búng vào nạn nhân một viên "Đơn bạch
cúc" người thiếu niên thoi thốp tỉnh lại.
Bỗng dưng,
Chàng nghe có tiếng chân từ trong nhà bước ra nói:
― Xin Các hạ
không được đem xác chết ấy vào nhà của mỗ.
Lời nói của
gả chưa dứt đă xuất một chiêu quyền đẩy đến Hoàng Phi
Bằng, Chàng né tránh quyền, hai tay vội ôm thiếu niên
ngất xỉu đi ra bờ sông để chữa trị tiếp. Thiếu niên lạ
mặt được vớt lên từ dưới sông, đang từ từ tỉnh lại mở
mắt ra, nói nhỏ :
― Tại hạ, xin
đa tạ ân công cứu mạng.
Chủ ngôi nhà
tranh cũng là một thiếu niên thân h́nh dị hợm, mặt nặng
lạnh như tiền, thấy hai kẻ đồng canh ở bên bờ sông đang
làm việc ǵ không rơ, nên muốn biết, chân của gă đi từng
bước rón rén, cố ư ṭ ṃ hành tung người khác, rồi ép
thân vào lùm tre bên cạnh, đôi mắt hướng chằm chặp.
Hoàng Ph́ Bằng đếm được từng tiến chân của gă lạ mặt hỏi :
― Các hạ tự
nhiên đến đây mà xem, núp trong lùm tre làm ǵ chứ, lập
tức ra đây, bằng không đừng trách mỗ.
Trong lúc
chàng đang điều trị cho thiếu niên vừa mới vớt dưới sông
lên, liền búng vào trước ngực một viên "Thủy sa hầu".
Tức th́ trong bụng của nạn nhân "ào ào" nước trào ra,
chàng nhặt lên một viên sỏi, búng xuống dưới đôi chân
đang có tảng đá nặng hơn ba mươi cân, tức khắc tảng đá
tan ră hơn trăm mảnh vụn. Thiếu niên được thoát nạn qú
xuống đất, hai tay chấp lại xin một lạy tạ ơn ân công.
Chàng vội vă đỡ đôi tay, người thiếu niên ngơ ngác nói :
― Tại hạ xin
đa tạ ân công cứu mạng sống, ơn này trời đất chứng ḷng,
nguyện từ nay nhớ đời đời. Một tiếng thở dài rồi phân
bua nói:– Tại hạ không biết có tội ǵ, đang ngủ trưa th́
có sáu người bịt mặt ám hại, trói mèo cả hai tay chân,
dưới chân c̣n lại buộc thêm một tảng đá, rồi quăng xuống
nước thử hỏi làm sao sống được. May thay c̣n trôi nổi
được vài canh giờ, nhờ dây gai gặp nước nở ra, hai tay
mới tuột khỏi chân, nhưng c̣n tảng đá dưới chân vô t́nh
cứ kéo thân thể xuống sâu, sức lực đă cạn kiệt, vẫn phải
nương theo ḍng nước hụp lên, hụp xuống cố ngấc đầu lên
t́m hy vọng sống trong hơi thở cuối cùng, nhưng không
may nước lại chảy quá xiết, lúc này xem ra hoàn toàn
thất vọng.
Người thiếu
niên núp trong lùm tre đi ra, cũng cao hứng nói về ḿnh
:
― Tại hạ,
sinh ra từ bao giờ, không cha mẹ, quê quán cũng không,
sống bằng hành khất độ nhật từ khi nào cũng không biết,
hôm nay vừa vô nhà chưa đầy hai khắc, ngó ra thấy quư
huynh đài tưởng rằng bọn cướp đến, bởi trước một thờ
thần tại hạ có đụng độ với bọn cướp, sợ chúng đến thăm
cho nên đề pḥng, xem cáo lỗi.
Hoàng Phi
Khải ngồi trệt dưới đất, yên lặng không để ư lời nói của
người thiếu niên lạ, chàng để tay xem mạch của thiếu
niên bị ngợp thở vừa phục hổi sức khỏe. Lúc này chàng
mới chú thiếu niên chủ nhà ven sông. Xem ra kẻ này nói
không thực, với thân h́nh này gọi là là hành khất ư, nếu
căn cứ vào bào phục cũng đủ chứng ḿnh thiếu niên này là
con nhà quan hay thương gia, da dẻ thân tṛn trịa, đương
nhiên phải c̣n cha mẹ. Chàng quan sát rất kỷ thấy trong
nhà tranh, đơn sơ nhưng vật dụng sinh hoạt rất gía trị,
đối với một nông dân hay người hành khất, th́ hẳn nhiên
không phải là hành khất b́nh thường. Chàng đánh giá
thiếu niên này có ḷng gian trá. C̣n thiếu niên trôi
trên ḍng sông do người đời hăm hại, đă b́nh phục đứng
nghiêm chỉnh, hai tay để trước ngực thi lễ nói :
― Thưa ân
công, thân thế của tại hạ họ Đinh tên Anh Thi, mười bốn
tuổi quê quán Phong Châu, nay xin theo hầu hạ ân công
cho trọn kiếp sinh.
Hoàng Phi
Khải đưa tay ra phất nhẹ, lời từ chối :
― Tại hạ sống
không nơi ổn định, cũng không muốn nhận ân nghĩa, hôm
nay t́nh cờ gặp các hạ ở đây xin chia tay, hy vọng có
ngày tái ngộ.
Đinh Anh Thi
khẳng khái nói :
― Thưa ân
công, nếu không được ư nguyện th́ tại hạ quyết định thà
chết tại đây, làm người mà không biết ân nghĩa th́ nói
chi chí khí nam nhi, sống như vậy có ích ǵ đâu .
Hoàng Phi
Khải thấy ḷng người chân thực, cảm thông hoàn cảnh ôn
tồn :
― Thôi được,
tại hạ tạm nhận kết nghĩa với các hạ, như vậy được chứ ?
Đinh Anh Thi
vui mừng đáp :
― Tiểu đệ
được kết nghĩa cùng ân công, tuy rằng không hợp lễ,
nhưng ít nhất trọn đạo t́nh người, xin đại huynh chọn
ngày lành tháng tốt định phần cho tiểu đệ.
Hoàng Phi
Khải gật đầu tỏ ḷng hoan hỷ tiếp nhận, chàng xưng danh
tánh của ḿnh :
― Tại hạ họ
Hoàng tên Phi Khải, đi qua đây gặp lúc cứu người hoạn
nạn th́ có ǵ đâu mà ân với nghĩa, nếu tại hạ không cứu
th́ cũng có người khác cứu, các hạ chưa phải là người
vắn số, hôm nay huynh kết nghĩa với đệ cũng là khởi điểm
thân thích sau này, hy vọng cùng nhau sống hết t́nh thủ
túc, vậy huynh cùng đệ thi lễ nhá ?
― Dạ đại
huynh ân công.
Thiếu niên
chủ nhà nghe họ tên của Hoàng Phi Khải vội vă lom khom
đứng lên giới thiệu danh tánh.
― Thưa nhị vị
huynh đài, tại hạ tuy không họ nhưng có tên là Độ Thiếu,
hy vọng xin được kết nghĩa .
Hoàng Phi
Khải đă hồ nghi Độ Thiếu, liền cằm tay của Độ Thiếu xem
mạch, thấy gân cốt ít nhất đă có hai năm luyện vơ học,
thân thể béo khỏe không phải là kẻ hành khất, da thịt
trắng trẻo không có một dấu vết nào chân tay lam lũ.
Chàng thở dài, suy nghĩ thầm: – Tuy ta đă phân biệt được
cả hai người trẻ này, họ khác nhau hoàn cảnh. Đinh Anh
Thi là thực của vô t́nh, c̣n Độ Thiếu là cố ư giả. Ḷng
tính vị tha của Chàng tiếp nhận Độ Thiếu bằng cử chỉ gật
đầu, cả hai thiếu niên chưa hề biết nhau đồng qú đa tạ
Hoàng Phi Khải. Độ Thiếu đứng thẳng người thưa :
― Thưa đại
huynh, tiểu nhân tên Độ Thiếu nghĩa là thiếu ăn thiếu
mặc, do người đời đặt cho, sống vô gia cư, căn cḥi lá
này là gia tài duy nhất của gia gia mẫu thân để lại.
Hoàng Phi
Khải nhân diện Độ Thiếu cố ư che mắt dối người. Chàng
nghĩ thầm:– Đúng là loài thú sau này nó sẽ quay lưng lại
chăm sóc riêng cho bộ da của nó. Tuy nhận diện được đối
phương, nhưng chàng vẫn lấy lễ đối ḷng Độ Thiếu, chàng
tự nhủ thầm:– Dù đây là cây đèn lu mờ nhưng đến vời ḿnh
sẽ sáng .
Chàng cười
kín đáo, miệng khen :
― Tuy tiểu đệ
không họ, nhưng tên rất có ư nghĩa, hy vọng mai này tên
Độ Thiếu đổi thành Độ Sinh.
Đinh Anh Thi
kể lại trong sự chết có sự sống của riêng ḿnh cho Hoàng
Phi Khải nghe :
― Thưa đại
huynh, lúc tiểu đệ tuyệt vọng nhất, thân thể đă thực sự
thả lỏng, chỉ chờ ch́m lỉm xuống nước là chết theo ḍng
sông, bỗng đâu có một luồng khí linh thiêng kéo lên khỏi
mặt nước, khi tỉnh lại mới biết đại huynh cứu sống, đó
là sự thực nếu không có đại huynh th́ không thể c̣n ai
cứu sống được, mạng này c̣n ở cơi đời, ắt ḷng chẳng
không bao giờ quên ân công .
Hoàng Phi
Khải thừa hiểu ḷng người, khi gặp hoạn nạn th́ vái trời
xin đất, đến lúc b́nh an không c̣n nhớ ǵ hết, tuy
thường đời là vậy nhưng thấy người hoạn nạn th́ phải cứu,
không chừng trong hai người sẽ có một người tốt, chàng
trấn an :
― Tại hạ xin
quư đệ quên ơn nghĩa đi, có thế mới sống thoải mái hơn,
đừng cột ḿnh vào ơn nghĩa sẽ thêm khổ.
Đinh Anh Thi
nghe lời dẫn giải rất mới lạ, nghĩ thầm:– Thời nay người
đức hạnh hiếm có, c̣n kẻ độc ác th́ đếm quá nhiều, ở nơi
nào cũng thấy. Nay vốn ḿnh vô thân thuộc, gia gia th́
lưu lạc nơi nào không biết, c̣n mẫu thân cự tuyệt hăm
hiếp, đem thân thủ tiết để rồi tự vận, nay mẫu thân đă
qua đời, chỉ ḿnh ta thân cô, thế độc mà cũng tránh
không khỏi tử thần. May được cứu sống cũng không phải là
kẻ thừa thế gian, thôi th́ ḿnh tiếp tục sống. Đinh Anh
Thi lấy một hơi thở dài nén sâu vào ḷng bụng, thở ra
như để xả hết nổi ḷng u uất, chàng nói :
― Thưa đại
huynh, tiểu đệ sống như thế này là nhờ người cứu, bây
giờ người từ chối th́ xem như không c̣n đất sống, bởi
tiểu đệ sống vô gia cư cả năm nay, gia gia bị người ta
bách hại không biết lưu lạc phương nào, c̣n mẫu thân bị
người quyền thế hăm hiếp đă tự vận, gia sản bị người
cướp sạch, nay tiểu đệ cũng bị người ta trói thả trôi
sông, nếu không được theo hầu ân công th́ tiểu đệ mượn
ḍng sông Hồng này làm phương tiện siêu thoát lần thứ
hai.
Hoàng Phi
Khải nghe lời nói có chất tính chân thành, không biết
phải từ chối bằng cách nào, chàng đành nhận lời kết
nghĩa bên đường, nhưng để ḷng hậu ư nói :
― Tại hạ năm
nay tuổi thập Thất, tiếp nhận kết nghĩa huynh đệ với
Đinh Anh Thi và Độ Thiếu.
Đinh Anh Thi
vui mừng qú xuống bái một bái. Hoàng Phi Khải cùng động
tác, riêng Độ Thiếu cũng bắt chước theo động tác bái kết
nghĩa. Đinh Anh Thi thay mặt Độ Thiếu thưa :
― Thưa, chúng
đệ gặp đại huynh như trời cao mưa thấm đất, được kết
nghĩa với người chí khí là phúc họ Đinh và Độ Thiếu, tuy
không cha không mẹ nhưng xem đại huynh như quyền huynh
thế phụ, nhị tiểu đệ xin một ḷng trọn dạ giữ chữ hiếu
hiền, không thay đổi hai ḷng. Hoàng thiên tại thượng,
hoàng thổ tại hạ làm chứng.
Hoàng Phi
Khải nhận thấy có thể Độ Thiếu là kẻ hai long, chàng
chấp nhận tương cảnh, chứ không thể tương ái nói :
― Thôi được
bây giờ tại hạ đưa nhị hiền đệ về nơi tạm trú, sống với
người thân như một gia đ́nh.
Đinh Anh Thi
vui mừng xúc động ra nước mắt, không biết nói ǵ hơn
bằng một lạy tạ ơn.
Hoàng Phi
Khải thấy vậy để ḷng riêng nói :
― Từ đây về
sau nhị hiền Đinh, Độ đệ đừng nói đến tạ ơn nữa, chỉ cần
một lần là đủ rồi .
Chàng liền
điểm huyệt cho hai hiền đệ rồi phi thân về đông Nam Khê
Sơn, chàng cặp bên hông phải Đinh Anh Thi, bên trái Độ
Thiếu biến vào không gian, cả hai không dám mở mắt, gió
thổi "vù...vù..." rát da mặt. Hoàng Phi Khải cho biết :
― Tam khắc nữa là đến nơi, chúng ta đi qua hướng Bắc,
theo lộ tŕnh này là vào núi.
Thực ra vào động Nam Khê Sơn đi theo hướng Tây–Bắc,
người chưa quen đi trong rừng già đưng nhiên không biết
phương hướng, tâm lư người đi theo miễn làm sao đến nơi
là an toàn. Hoàng Phi Khải ngờ vực Độ Thiếu cho nên đề
pḥng trước, chàng hướng dẫn đi hướng Bắc rồi đổi lộ
tŕnh qua hướng Tây–Bắc. Cả ba huynh đệ Hoàng Phi Khải
về đến động gặp Trần B́nh Thành, Đào Phụng Thương, Đào
Phụng Hiệp, Đào Phụng Anh, Đào Phụng Châu, Đào Phụng Anh
Tuấn, Đào Trần Mẫn Trâm. Chàng kể lại từng chi tiết để
cùng nhau chia sẻ cảnh đời đồng khổ:
― Tại hạ trên đường đi về động, gặp lúc hai hiền đệ này
đang bị tai nạn, không c̣n cách nào mới đưa về động, xim
quư tiền bối và quư huynh đệ cùng nhau đùm bọc họ, nhân
đây hậu bối có đề nghị, tương lai xin sử dụng động này
làm nơi tụ tập thanh thiêu niên không biết có chấp nhận
không. Nếu được tại hạ xin đa tạ trước.
Hai lăo Đào Trần tán đồng ư kiến của Hoàng Phi Khải.
Riêng, Trần B́nh Thành kính trọng Hoàng Phi Khải xem như
là sư Bá nhưng không biết vơ học hơn kém ra sao v́ chưa
hề nghe sư phụ Hoàng Phi Bằng luận bàn, thưa :
― Thưa sư Bá, đệ tử nghĩ rằng Đinh, Độ sư thúc sẽ là
thân nhân trong gia đ́nh ḿnh, c̣n ngày sau điểm vơ học
cho Đinh, Độ đối với sư Bá th́ không khó.
Hoàng Phi Khải hiểu tâm tư của Trần B́nh Thành, chàng
suy nghĩ:– Chuyện đời đôi khi có ảnh hưởng của thân
thuộc th́ việc nào cũng thông qua, dù vậy cũng t́m cách
cho hai thiếu niên này được kết nghĩa với sáu huynh đệ
học Đào.
Trần B́nh Thành suy nghĩ một lúc, thưa :
— Thưa sư Bá an tâm, mọi việc ở đây rồi sẽ tốt, nhân dịp
này sư thúc Đinh, Độ vận dụng hết khả năng luyện tập vơ
học, hy vọng tương lai quư sư thúc thăng tiến vơ học như
lấy vật trong túi áo. Vơ học ở trong động này do sư phụ
Hoàng Phi Bằng truyền thụ, bởi vậy tất cả xem như đồng
môn.
Đinh Anh Thi ngạc nhiên suy nghĩ:– Trần B́nh Thành thân
cốt to lớn, khỏe mạnh, nói về canh niên cũng hơn đại
huynh Hoàng Phi Khải cả hai giáp, thế mà xưng hô một hai
vẫn là sư Bá, sư Thúc, trên thực tế vơ học của ḿnh
không có miếng nào để đáng gọi là sư Thúc! Mỗ quá ngại
ngùng nhưng không biết phải nói lời nào cho đúng, mỗ chỉ
đáng làm đệ tử của đại huynh mà thôi ! Đinh Anh Thi
tŕnh bày cảm nghĩ của ḿnh cho tất cả mọi người trong
động đồng nghe :
― Thưa Trần đại huynh, tại hạ không biết phải xưng hô
như thế nào cho phải đạo nghĩa, v́ vốn vơ nghiệp và canh
niên của tại hạ chưa đủ sức để quét lá trong động này,
vậy xin đại huynh cho tại hạ kết nghĩa cùng quư Đào đệ.
Trần B́nh Thành miệng cười trả lời :
― Thưa Đinh sư thúc, quư Đào là sư Thúc của tại hạ,
người trên của đệ tử. Trong gia đ́nh thế hệ thứ ba có
sáu huynh, đệ, muội họ Đào gọi tại hạ là Cậu, c̣n giang
hồ th́ ngược lại, tại hạ phải gọi cháu của ḿnh bằng
Thúc thúc, việc xưng hô này là thiên kinh định nghĩa, có
một ví dụ để quư Thúc thúc hiểu: Trong gia đ́nh nọ, có
một người con tu Tiên làm Đạo sĩ, khi cha mẹ gặp người
con ấy ở trong nhà hai ngoài ngơ cũng phải xưng hô cung
kính, đôi khi c̣n qú lạy Đạo sĩ, đó cũng là một sinh
hoạt bị bệnh thái quá. C̣n giang hồ vơ học dù sao nữa
xưng hô cũng khá hơn tu Tiên nhiều, hy vọng mai sau
không có tín ngưỡng nào đạp theo lối đi của tu Tiên, đạo
sĩ, đạo cô.
Đinh Anh Thi khó hiểu về giang hồ rồi tự suy:– Chi bằng
ở lâu mới biết mọi sự, không cần giải thích, hôm nay tạm
gửi thân ở đây đă, rồi nói :
― Th́ ra cuộc đời trên giang hồ này cũng lắm chuyện khó
giải thích và không thể biết trước được nếu bất ngờ đến,
lần đầu tiên mới biết chuyện này, thay v́ con phải cung
kính cha mẹ, trái lại cha mẹ cung kính con cái, cũng v́
chữ đạo phi lư ấy mà ra.
Hoàng Phi Khải hiểu được nổi ḷng đứng trước xă hội của
Đinh Anh Thi, chàng ôn tồn :
― Đinh đệ ở đây không đến nổi phải cung kính thái quá,
cách cư xử và sống b́nh thường, nhất là không lo sự
thiếu thốn, chỉ cần quư hiền đệ châm chỉ luyện tập vơ
học mỗi ngày, khi ngu huynh trở lại sẽ có nhiều việc để
hiền đệ hiểu đời sống ở đây. Hoàng Phi Khải nói tiếp:–
Trần đệ chuẩn bị đón tiếp tất cả sư Thúc sẽ về đây nay
mai.
Trần B́nh Thành cúi đầu vâng lời sư Bá. Hoàng Phi Khải
cáo biệt, phi thân đến động Lạc Việt để gặp hiên đề
Hoàng Phi Bằng, vừa đến động chàng đi một ṿng không
thấy Hoành Phi Bằng liền đi thẳng xuống suối có ḍng
nước lạnh, thấy hiền dệ đang để lưu tồn mẫu thịt và máu
chứa trong chai lấy từ thi thể của Nội tổ Hoàng Hạc.
Chàng nỏi:
— Có phải hiền đện chuẩn bị thử nghiệm chất độc phải
không ?
Hoàng Phi Bằng đáp:
— Thưa đại huynh đúng vậy, đă năm ngày miệt mài ôn lại
"Dược Giới Lĩnh Nam" và khám phá được công thức chế biến
thuốc giải độc, t́m được độc liệu cần thiết gồm có: Chín
con rết mun, sống trên bảy năm tuổi, lấy vảy bỏ thịt.
Mười hai lưỡi rắn rung chuông, sống trên mười hai năm
tuổi, lấy lưỡi bỏ thịt. Công thức bào chế: Vảy rết, lưởi
rắn, chu b́ con đỉa, hắc ngọc đoạn, mă tiền, chu dịch,
rượu một phần tư lít nồng độ mạnh, ướp với thủy ngân,
chôn dưới ḍng nước lạnh, trên một tháng mới công hiệu.
Sau đó lấy trái lười ươi chín quết nhừ, vo tṛn thành
viên nhỏ bằng hạt bắp, bỏ vào hủ chất độc, viên lười ươi
sẽ tự động hút chất độc vào, lấy ra phơi khô ba nắng,
sau cùng bọc một lớp bột gạo, thế là thành phẩm gọi là
"Thiên thu sa". C̣n màu sắc của "Thiên thu sa" tùy ở
người sử dụng, chỉ cần búng vào đối thủ là lấy được mạng
sống, nạn nhân chết như ngủ, lấy độc trị độc chỉ có "Hạc
Chu Thảo" mới giải được "Thiên thu sa", những tiên đơn
khác đều vô hiệu, thế mới gọi là "Thiên thu" cơi chết
vĩnh viễn ngh́n năm không ai biết. Hoàng Phi Bằng an tâm
tự hứa chính ḿnh t́m thủ phạm ra tay hại tiên tổ.
Hoàng Phi Khải cảm động nói :
— Hiền đệ chú ư, thời gian c̣n lại để luyện tập đại hạc
nhé, và đi về hướng dăy Gia Phong Sơn thuộc thị trấn
Chung Du, Giao Chỉ xem lại địa thế của động này, tương
lai huynh sẽ ở đó.
Hoàng Phi Bằng vân lời đáp:
— Dạ, nay mai đệ sẽ đến đó xin địa thế.
Từ khi Hoàng Phi Bằng về động Lạc Việt cho đến nay,
chàng thường xuyện sinh hoạt với hạc từ trưa đến chiều,
có khi ngủ và dùng bữa chiều với hạc.
Huynh đệ họ Hoàng tính t́nh khác biệt, Hoàng Phi Bằng
tháo vát nhờ năng tính động khám phá vơ học. Hoàng Phi
Khải tính tịnh, sở thích chu du phiêu bạch đó đây, lấy
kinh phổ luyện vơ học, một hôm chàng đến thị trấn Ba Ba,
bỗng nghe từ xa vọng lại tiếng đàn cung thương, giốc,
chủy, vũ và âm từ như Ḥ, xự, xang, xề, cống, liếu. Âm
giai rất trẻ đậm nét man mác quê hương thanh tú, mở rộng
tâm cảm một nhà Lĩnh Nam, trong ca từ có tiếng gọi về
quê hương đất tổ, lời ca mênh mông âm pháp nặng trĩu
thân thương ḷng người. Ngoài ra c̣n nghe được những
tiến đàn trào phúng, có ư giễu cợt để răng và chê trách
kẻ sống vô tích sự, như ư từ ca Con Ḅ Đầu To chỉ những
kẻ Trí có ḷng lan dạ sói, những quan trường bán nước
phản dân, những quyền thế tham ô, những bạc phận và bị
sĩ nhục bởi cường hào ác bác.
Hoàng Phi Khải tận hưởng được lời ca thâm thuư và cảm
xúc, chàng bước đến gần t́m hiểu, mới biết chính đôi
thiếu niên này là tác giả tấu nhạc khúc, đôi bạn trai
gái này cùng t́nh tự yêu đất nước, họ quyện nhau trong
lời ca và yêu nhau cùng tâm tư, hoài băo.
Lần đầu tiên chàng chú ư nghe từng lời ca và âm sắc,
chàng đứng tựa lưng vào gốc cây cổ thụ chiêm ngưỡng,
ḷng xúc cảm:– Chính hiền đệ Bằng đă từng sử dụng âm
pháp để thu hút mọi người, quả nhiên âm nhạc có chất
liệu của tạo hóa, bởi thế trước đây hiền đệ của mỗ mới
cảm hóa được thanh thiếu niên và thôi thúc họ lớn lên
trong tổ chức Thiếu Quân. Nay khiến mỗ đến gần với nhạc
và lấy quyết định kết nghĩa với tâm hồn trong sáng này,
chính đôi nhạc sĩ này làm cho mỗ chảy theo ḷng suối
liên miên trong ḷng họ.
Đôi thiếu niên dừng lời ca, tiếng đàn, cắt đứt hẳn suy
tư của Hoàng Phi Khải.
Chàng nhạc sĩ trẻ ngạc nhiên hỏi :
― Thưa đại huynh, lời và nhạc có khó nghe không ?
Hoàng Phi Khải tế nhị trả lời :
― Tại hạ đến đây để chiêm nguỡng âm pháp, nhạc từ, có
thể nói trong bản nhạc vừa rồi ẩn hiện t́nh tự tôn tộc
Bách Việt, chính âm hưởng này thôi thúc tại hạ đến với
núi sông. Tại hạ mạo muội muốn kết thân cùng nhị vị có
được không ?
Người nhạc sĩ trẻ suy nghĩ, quả thực tiếng nhạc, lời ca,
đi t́m tương đắc, tương tư. Âm nhạc đến với mỗi người
qua tư duy, đây là lần đầu tiên có một gă qua đường cảm
nhận được mỗ với Lệ Thanh, cũng là đồng tâm huyết đến
với nhau, chàng nhạc trẻ đáp :
― Thưa đại huynh, tại hạ sáng tác hôm qua một tác phẩm
mới, xin mời muội Lệ Thanh tŕnh bày ca khúc "Quê Hương
Ta Đó" kính tặng đại huynh vào buổi sơ giao :
"Bầu trời quê ta nắng ấm sáng tươi
Tiếng hát líu lo chim gọi yêu cuộc đời
Cuộc t́nh hôm nay thêm vui tiếng cười
Và người yêu dấu cùng ta chung với người
Quê hương đó người t́nh đó
Và đất nước làng quê đây luỹ tre
Đây gió núi trăng bên suối
Ngồi vây quanh lửa ấm quê hương
Cười rộn ràng chung vai vang tiếng ca
Sánh bước, bước đi quên là kiếp tha hương
Đời v́ mai sau vươn lên với người
Dù đời vẫn khó ḷng ta không bước lui
Nhịp đập hôm nay tim ta réo vang
Cất tiếng hát ca vang rộn xóm thôn làng
Ḱa người phương xa chân bước ngút ngàn
Về quê hương có mẹ cha vui với người".
Chàng nhạc sĩ cao hứng hỏi :
― Đại huynh nghe ca khúc này thế nào ?
Hoàng Phi Khải đắc ư, cười ḥa hiếu đáp :
― Về nhạc phổ tại hạ chỉ hiểu biết một phần nhỏ, khi
nghe thường chú ư nhạc và lời có quấn quít vào nhau
không, chính ở điểm này chuyên chở được ư của tác giả,
c̣n ca từ có đậm âm sắc hay không chỉ một từ thêm hay
bớt là đủ trở thành ca khúc lưu danh. Tương lai của quư
các hạ sẽ sáng ngời khó ai biết trước, tự nó đă có cái
thế cao thổ, hoài bảo lớn của đấng anh hùng nữ kiệt, đố
ai biết được là hào kiệt chứa biết bao hận thù đă qua
trải. Quư hữu nắm sức mạnh của âm nhạc làm ư nguyện dâng
hiến cuộc đời cho dân tộc, đó là âm nhạc không gian sống
thực. Nếu là kẻ tầm thường lợi dụng âm nhạc, tưởng tượng
ra cái phú quư đó là tim không đập, bởi thế mới có loại
âm nhạc bả đậu .
Nói về nhạc khúc "Quê Hương Ta Đó" trong âm sắc có gió
lùa tâm tư lớn, t́nh trong âm, nghĩa trong khúc, âm điệu
liên miên bất tận, như hơi thở con người, như nước suối
reo không ngừng, âm chính và phụ âm không cách, không
sai một khoản cung bật nào, thủ pháp ḥa một, ngũ âm
hiệp nhất, tùy ư đáo cung đàn.
C̣n ca từ giống như một bức tranh chuyên chở nội dung
chứa cố hương, từ đồng nội hương thơm thanh b́nh, một
quê hương t́nh yêu hạnh phúc, nói lên chí khí làm trai
thời loạn, bốn bề náo động cờ bay phất phới, hứa hẹn
ngày về xây dựng quê hương, đúng là một khúc nhạc hay
chứa được tính bao la.
Lệ Thanh nghe Hoàng Phi Khải giải thích âm nhạc rất là
lưu loát, luận âm nhạc cũng tài t́nh, nhân cao hứng nàng
hỏi :
― Thưa đại huynh có biết cây đàn tranh này ( ba mươi
chín dây cung ) truyền thuyết thế nào không ạ ?
Hoàng Phi Khải với đôi mắt chiêu diệu nh́n vào không
gian đáp:
― Tại hạ chưa đọc qua cuốn phổ nào nói về truyền thuyết
của cây đàn này .
Lệ Thanh vốn là cô chiêu trong gia đ́nh doanh gia, biết
định nhạc cụ và đă học qua âm nhạc với các danh sư, cho
nên luận về âm nhạc nhất là nhạc cụ, nàng đứng đầu nữ
giới, nàng nói :
― Thưa, Hoàng huynh, đàn tranh này có vào thời Thuấn.
Xưa kia gia đ́nh nọ có hai chị em gái thích âm nhạc,
nhưng trong nhà chỉ có một cây đàn tranh ( ba mươi chín
dây cung ) rồi một ngày, hai chị em dành giật cây đàn đó
để chơi riêng, họ không chịu nhường nhịn nhau. Mỗi người
giật qua đẩy lại, kéo tới kéo lui, kết quả cây đàn đứt
ra làm hai đoạn, người chị được đoạn ( mười ba dây cung
) người em được đoạn ( mười sáu dây cung ). Từ đó thế
giang có thêm hai nhạc khí đàn tranh mới. Mười sáu dây
cung và ba mười dây cung.
Hoàng Phi Khải khen :
― Lệ Thanh hiền muội, thông thái lắm. Trong sự bất ḥa
đó mà ngày nay thế giang mới có đến ba loại đàn tranh,
đương nhiên mỗi loại có âm sắc tuyệt hảo của nó, truyền
thuyết đàn tranh được ghi vào sử âm nhạc thời Thuấn lưu
măi đến nay. Cảm ơn kiến thức của muội cho huynh mở rộng
tầm mắt, do đó sách có câu: "Đi một quăng đàng học một
sàng khôn" .
Xuân Giao hướng đôi mắt nh́n Hoàng Phi Khải, đắc ư đứng
lên cười "ha hà" :
― Đúng là tri kỷ, chúng tại hạ xin kết nghĩa với đại
huynh nhá ?
Hoàng Phi Khải ḷng rộn ràng tự hỏi:– Xưa nay mỗ thường
kết nghĩa trong giới văn học, lại thiếu âm nhạc. Hôm nay
quả là một thú vị, lấy thi ca kết nghĩa vơ học cũng là
một việc nên làm, chàng nói :
― Tri kỷ kết nghĩa tri âm, âm nhạc cũng là một vơ học
thượng thừa, nếu biết sử dụng sẽ cho chúng ta những
chiêu thức tuyệt kỷ. Tại hạ họ Hoàng tên Phi Khải c̣n
bách nhật đúng mười chín canh, người Lạc Việt, hiện sống
Cửu Chân đồng ư kết nghĩa với quư hiền.
Hai người nhạc sĩ trẻ không ngần ngại cũng giới thiệu :
― Tại hạ họ Xuân tên Giao mười sáu canh dư bách nhật.
Muội họ Lệ tên Thanh mười sáu canh tṛn, quê quán Thanh
Mai thuộc tỉnh Trường Sa. Hôm nay được kết nghĩa với đại
huynh cũng là một vinh dự lớn.
Hoàng Phi Khải ngỏ lời mời Xuân và Lệ về núi Nam Khê Sơn
:
― Nhân dịp này ngu huynh muốn mời Xuân đệ, Lệ muội về
Nam Khê Sơn cùng chung luận âm nhạc và vơ học nhé ?
Xuân Giao đưa đôi mắt hội ư với Lệ Thanh, đáp:
― Thưa đại huynh nơi nào có anh hùng trừ gian diệt bạo,
cứu nhân, độ khó th́ nơi đó có đệ và Lệ muội.
Hoàng Phi Khải cười nói :
― Tốt lắm huynh đệ cùng thực hiện tam Thi nhé, như thi
Việt đạo, thi Ân đức, thi Cứu nhân. Chính trong nhạc
cũng có tam Thi, Nhân khí anh hùng xuất hiện, Tâm khí lộ
diện thi ca, Đức khí không bỏ nhân t́nh. Hoàng Phi Khải
nói tiếp:– Huynh mời đệ, muội cùng về Nam Khê Sơn.
Cả ba lên đường, Xuân, Lệ lần đầu tiên gặp được một
người thân thủ phi thân như gió, bên trái Xuân, Lệ nghe
tiếng gió thổi vi vu, có nhạc trong gió, tiếng ca trong
mây, trong ḷng phơi phới. Trên không gian Hoàng Phi
Khải cất lên khúc Lĩnh Nam Ca do Hoàng Phi Bằng sáng
tác, có ư tặng Xuân đệ, Lệ muội. Lời ca vừa chấm dứt,
đôi chân đă đáp xuống động Nam Khê Sơn.
Cùng lúc Xuân Giao hỏi :
― Thưa đại huynh, đệ cùng Lệ muội tâm đắc ca khúc Lĩnh
Nam Ca. Đúng như khí hùng ca, một liều thuốc thúc đẩy
mỗi cuộc sống vươn lên.
Xuân, Lệ không ngờ ở rừng núi mà cũng có người bạn đường
yêu âm nhạc, ḷng cảm kích vô cùng. Vào đến động tất cả
thập lục tú đón chào hai bằng hữu mới đến.
Hoàng Phi Khải giới thiệu Xuân, Lệ cho gia đ́nh Đào Trần
làm quen, cùng lúc Hoàng Phi Bằng đến, đồng giới thiệu
người cũ người mới, Hoàng Phi Khải thưa :
― Thưa quư tiền bối, quư huynh, tỷ, đệ, muội hôm nay
trong động Nam Khê Sơn có nhị thập nhất tú nhân, tại hạ
xin giới thiệu thứ tự huynh tỳ đệ muội như sau. Đại
huynh Trịnh Đ́nh Thông trưởng nam của cô trượng Trịnh
Đ́nh Thao, Hoàng Lữ Thư muội muội, Hoàng Phi Bằng hiền
đệ, Chu Thông, Chu Thiện, Chu Hào, Xuân Giao, Lệ Thanh.
Đinh Anh Thi, Đào Phụng Thương, Đào Phụng Hiệp, Đào
Phụng Anh, Đào Phụng Châu, Độ Thiếu, riêng Đào Phụng Anh
Tuấn, Đào Trần Mẫn Trâm gọi tại hạ là nghĩa phụ, đặc
biệt c̣n bốn huynh tỷ đệ muội c̣n ở ngoài động chưa về
đây, sẽ giới thiệu sau.
Hiện nay trong động có người đă gặp và chưa hề biết tên
họ của bốn người ở ngoài động đang sống ở đâu, như Lư
B́nh Trung, Trần Kiều Oanh, Trịnh Trường, Quách Tuyết
Băng.
Hoàng Phi Bằng nhờ đệ tử Trần B́nh Thành đến Thương Nhân
Bang trao giản biên cho tổ phụ Đào–Trần.
Nội dung:– Kính gửi Tổ phụ. Phi Bằng nhi, thay mặt đại
huynh Phi Khải xin sử dụng động Nam Khê Sơn làm nơi sinh
sống cho nhị thập nhất tú, hy vọng tổ phụ đồng ư.
Kư tên Hoàng Phi Bằng.
Trần B́nh Thành nhận tiếp giản biên của Thương Nhân Bang
của Đào˗Trần phúc đáp:
— Phi Bằng nhi mến. Tổ phụ đă tiếp nhận giản biên vội
hồi âm đến hiền nhi. Tổ phụ quyết định tặng quư hiền nhi
động Nam Khê Sơn. Kể từ đây và măi măi quư hiền nhi làm
chủ quyền động, chúc sức khỏe quư thiếu hiệp.
Kư tên Đào–Trần.
Ngày tháng trôi qua Tam Thanh Kiếm vẫn chưa rút ra khỏi
vỏ để phát huy khả năng của nó. Nhân dịp Hoàng Phi Bằng
về thành Phiên Ngung, một hôm Trịnh Trường hỏi :
― Thưa đại huynh, đệ lo măi việc ngoài đời quên lửng,
nay xin đại huynh cho phép "Tam Thanh Kiếm" xuất hiện.
Hoàng Phi Bằng nhớ lại liền đáp :
― Như thế Lư đại huynh, Trịnh đệ chuẩn bị thế nào để làm
lễ tái xuất "Tam Thanh Kiếm"
Lư B́nh Trung không ngại đề nghị thẳng với Hoàng Phi
Bằng :
― Mời Hoàng đệ tiếp nhận "Ngọc Thanh kiếm".
Hoàng Phi Bằng cười đáp :
― Sao Lư huynh, Trịnh đệ không lựa người khác để trao
"Ngọc Thanh kiếm".
Trịnh Trường xét thấy không có ai đủ khả năng tiếp nhận
"Ngọc Thanh kiếm" ngoài Hoàng Phi Bằng nói :
― Thưa Hoàng đại huynh, tuy đă có nhị thập nhất tú nhân,
nhưng không ai có khả năng để trao "Ngọc Thanh kiếm" cả.
Hoàng Phi Bằng cười ồ, rồi nói :
― Trịnh đệ nói vậy là chưa am tường trong nội bộ, hiện
nay có người có thể trao được "Ngọc Thanh kiếm" khi vào
tay người nào th́ người ấy phải tự xét ḿnh để lănh hội,
vă lại một khi đă kết nghĩa huynh đệ rồi th́ đừng coi
thường lẫn nhau, ḿnh phải tôn trọng tất cả.
Lư B́nh Trung ái ngại trao kiếm cho người khác, hai nữa
chính "Ngọc Thanh kiếm" do Hoàng Phi Bằng lấy về, nay
không tiếp nhận th́ phải có nhân vật thứ tư hỏi :
― Hoàng hiền đệ, theo Trịnh đệ và ngu huynh suy nghĩ
"Ngọc Thanh kiếm" nên trao cho tỷ tỷ Hoàng Lữ Thư là hay
nhất.
Trịnh Trường chưa hề có ư nghĩ trao kiếm cho Hoàng Lữu
Thư v́ rất ái ngại đáp :
― Trao kiếm cho tỷ tỷ Lữ Thư th́ đệ không an tâm v́ ngại
tính t́nh ngạnh bướng, lỡ mà đi ngược lại th́ khác nào
La Đức sống lại, thế là chết cả đám.
Lư B́nh Trung hiểu được ư của Trịnh Trường cười "há hà"
:
― Theo ngu huynh thấy tỷ tỷ tính t́nh có nghịch ngợm,
nhưng trong nghịch chứa đựng t́nh thương, nghịch của lư
trí nhân đạo, chứ không phải nghịch ác như La Đức, Trịnh
hiền đệ ở trong nhà mà không biết tính của tỷ tỷ như thế
nào hay sao ?
Trịnh Trường "ồ..." th́ ra là thế, đáp :
― Ngu đệ v́ lo ngại quá cho nên bị che lư trí không hiểu
thấu, nhờ hiền huynh giải thích mới tỏ tường, đa tạ đại
huynh.
Lư B́nh Trung xoay qua hỏi Hoàng Phi Bằng :
― Hoàng hiền đệ làm lễ bái kiếm ở đây được không ?
Hoàng Phi Bằng nói đùa :
― Cuối cùng rồi cũng nhận bà la sát tiếp "Ngọc Thanh
kiếm" huynh đệ không sợ bà ấy ư ?
Trịnh Trường, Lư B́nh Trung đồng cười :
― Kiếm đă chọn mặt gửi vàng, th́ chúng ngu huynh đệ
không c̣n sợ gí nữa v́ ngày trước không có ai trị được
La Đức, c̣n ngày nay có Hoàng đại huynh trị nghịch kiếm,
mười bà la sát chúng đệ cũng há sợ hay sao.
Hoàng Phi Bằng cười "hà hà" lên tiếng :
― Cuối cùng rồi cũng đem mỗ ra làm nhân chứng, thôi được
hẹn ba ngày nữa quư vị theo mỗ đến động Gia Phong Sơn
làm lễ bái kiếm, động chủ Gia Phong Sơn là Khải đại
huynh. Trước khi hành lễ phải hỏi ư của tỷ tỷ trước. Sau
đo mọi sinh hoạt ở động Nam Khê Sơn do tỷ tỷ Lữ Thư
chưởng quản, c̣n kinh doanh Phiên Ngung thành do Lư
huynh, Trần Tỷ, Trịnh đệ và muội Quách Tuyết Băng chưởng
quản.
Lư huynh, truyền tin này lại cho tỷ Lữ Thư, bảo từ nay
mọi người trong động phải ra sức luyện tập mỗi ngày,
xuất hết năng lực đạt đến trăm thành nội ngoại công lực,
bảy ngày sau tại hạ trở lại, kiểm tra năng lực, xin chào
tạm biệt.
Hoàng Phi Bằng phi thân lên đại hạc bay thẳng hướng Nam,
về động Lạc Việt chàng sống với bầy đại hạc, nghiên cứu
bộ vơ học trên ngũ giác đài, chàng trầm mặc với sơn
động, thường đời không quấy nhiễu, tinh thần thoải mái,
thời gian rảnh tập luyện tiếp "Bát Quái Lĩnh Nam" chỉ
trong một ngày là đă hoàn tất bộ vơ học mới, bộ pháp của
chàng nay tinh diệu hơn trước.
Bảy mươi hai chiêu thức vừa luyện tập hoàn chỉnh chàng
ứng dụng ngay, chân xoay nhẹ xuất bộ pháp, phi thân ra
khỏi động, nhân tiện kiểm tra lại nội ngoại lực. Chân
chàng vừa đáp xuống đất là xuất Nhất chiêu "Thủy sơn
kiển" chiêu thức này vị trí của Khảm hiểm trở trong Cấn
dưới là nước và núi, tính của núi là đậu, núi cao chặn
đường tiến thủ, dưới chân là vực sâu. Chàng nhận ra mọi
vật dừng lại không thể tiến đến gần chàng.
Chàng xuất Nhị "Bát thuần cấn" chiêu Càn là đậu dừng
lại, Cấn trên Cấn dưới, mỗi Cấn là dương đậu một âm, một
dương là vật động tiến tới tột đỉnh th́ dừng, âm là im
lặng như cơi hồng hoang, với nội lực của chàng đứng
trước động tĩnh của không gian, tùy ư phát huy theo hoàn
cảnh.
Tam "Địa sơn khiêm" chiêu khiêm Tốn, Khôn là đất, Cấn là
núi trong đất có núi, chịu hạ ḿnh ở với đất nhờ thế mọi
sự hành thông vô bờ. Chiêu thức này tuôn ra như nước
chảy, địch thủ sẽ bị chôn vùi thân xác dưới đất.
Tứ "Thiên địa bỉ" chiêu bế tắc lập Kiền, Khôn dưới ánh
sáng, đất dưới trời cao, trời đất chia rẽ không liền
nhau gọi là bĩ trái với thái, địch thủ trúng chiêu này
thân thể tan tác.
Ngũ "Trạch địa tụy" chiêu kết kợp, hi tụ Đoài là đầm, hồ
nước với Khôn là đất, đầm là nơi tụ của nước, tượng
trương cho sự hợp. Địch thủ tiếp nhận chiêu thức này nội
tạng phân ră nhiều đoạn.
Lục "Hỏa địa tấn" Ly-Khôn mặt trời càng sáng càng phát
huy. C̣n gọi là chiêu "Tiên bồ", khi xuất chiêu đôi tay
phát ra ánh sáng với sức nóng có nhiệt độ đốt chảy thân
cây cổ thụ.
Thất "Thủy địa tỷ" chiêu gần gũi thân thiết Khảm-Khôn
nước đất không thể cách ngăn, kết liên làm một. Chiêu
thức hóa thành nước và đất tấn công địch thủ, kết quả
địch thủ như tôm lăn bột.
Bát "Lôi địa dư" chiêu yên ḥa, sấm động với đất, sấm
xuất từ đất khí dương giao ḥa khai phát. Chiêu thức
xuất ra từ dưới đất đi lên, nổi sấm sét giận dữ địch thủ
khó tránh, thể xác cháy như cây đuốc rơm.
Cửu chiêu "Sơn địa bắc" trên núi dưới đất, bích núi cao
lấy đất làm điểm đứng, bám đỉnh cao để không suy rụng
của đất. Chiêu xuất lấy lộc địch thủ.
Thập "Phong địa quan" xuất khí minh quan, xét quán tồn
gió dưới đất đi vào khắp muôn sự muôn vật. Hai tay xuất
chiêu gió lồng lộng từ đất đánh vào địch bay trên không
trung.
Thập nhất "Bát thuần khôn" đất hợp lại che chở trung
giới và trời, tạo ra mọi hiểm trở. Chiêu này địch thủ
đứng trên pháp trướng chờ xử trảm.
Thập nhị "Địa lôi phục" sấm sét trở về đầm nước, thịnh
đă đến chỗ cùng cực khí dương bắt đầu ló ra áng sáng,
áng sáng trởi lại. Chỉ xuất một chiêu khiến địch thủ
phải qui phục, v́ chiêu số biến hóa khôn lường.
Thập tam "Sơn lôi di" nuôi sấm dưới chân núi tịnh động
nương nhau mà sinh ra muôn pháp. Hai tay tạo ra sấm sét
lấy không gian làm vũ khí, địch thủ sẽ bị gió giục mây
vần chết trong lạnh lẽo.
Thập tứ "Thủy lôi truân" đẩy vật mới sinh vào khó sống,
ḍ hiểm dưới nước, mưa và sấm đầy trời, qua cơn mọi vật
b́nh thường. Chiêu thức này phá trận chiến thành b́nh
địa .
Thập ngũ "Phong lôi ích" chiêu tăng trưởng trên dưới gió
sấm càng lớn bổ túc cho nhau. Nội lực phi thường tạo ra
sức mạnh của gió, dịch thủ trở thành con bông vụ.
Thập lục "Bất thuần chấn" dương âm phát động khôn lương,
dương động mănh liệt. Chiêu xuất âm dương, dịch thủ kinh
sợ v́ bị phế nội lực.
Thập thất "Hỏa lôi phệ hạp" hợp tinh khí thần hóa lửa,
sánh sáng chớp đánh tan những sự ngăn cách căng thẳng
của trời đất. Xuất chiêu này miệng bặm môi, răng cắn lại
để ngăn cách hỏa trong thân thể, chỉ dùng hai tay hợp
khí thiên nhiên, đánh vào địch thủ sẽ bị tan tành thể
xác.
Thập bát "Trạch lôi thủy" sấm động trong đầm, chuyển
theo ư đng thủ. Chiêu xuất chấn động lục phủ ngũ tạng
địch thủ phát điên chết từ từ.
Thập cửu "Thiên lôi vô vơng" trên dưới phân thành lưới
trời, chuyển động theo lẽ trời sáng tạo, tự nhiên không
ǵ cản trở, phóng tâm không c̣n quấy phá, không tự dục,
tư kỷ khí. Chiêu cơi giới thượng thừa, chưa xuất chiêu
mà làm cho địch thủ phải bỏ chạy.
Nhị thập "Địa hỏa minh di" kết Tổn trời đất sáng, lửa
rơi vào đất sinh ra tối tăm, kẻ hôn mê khiến cho sáng.
Chiêu thức cứu người.
Nhị thập nhất "Sơn hỏa bí" cửa nê hoàng cung chuyển khí
dương, làm lửa sinh từ ḷng đất huyền nhiệm, ánh sáng
hỏa chiếu núi non trời đất. Chiêu này lửa sinh từ ḷng
đất, thân thể vận động hỏa cháy thiêu hủy mọi vật .
Nhị thập nhị "Thủy hỏa kư tế" mọi sự đă xong, từ hổn
mang biến thành trật tự, mọi vật ở đúng chỗ và biến
không nguy hiểm. Chiêu thức này rất lợi trong trận
chiến, đả thương địch nhưng không làm địch tử thương,
phương pháp cầu ḥa.
Nhị thập tam "Phong hỏa gia nhân" Tốn tượng theo phong,
phong từ hỏa sinh ra, hỏa mạnh th́ phong sinh. Chiêu
thức xuất phong hỏa đồng sinh, đốt cháy mọi vật thể.
Nhị thập tứ "Lôi hỏa phong" sự lớn nhỏ ánh sáng nhờ
thịnh suy của lửa. Thu nhỏ nội lực hay xuất chiêu mạnh
mẽ tùy nghi đối phó trước địch thủ.
Nhị thập ngũ "Bất thuần ly" hăm vào chỗ hiểm nạn và giải
tỏa hay bám vào, thấy trống không mà nùi lực phi phàm.
Dẫn dụ địch thủ bám chặt không rời, xuất chiêu quần địch
như mùt quả tṛn rơi vào lỗ đánh đáo.
Nhị thập lục "Trạch hỏa cách" biến đổi từng thời gian
mùt, lấy lửa nấu nước cạn, tạo ra nước lửa khắc chế và
ngược lại. Chiêu thức khi xuất có khả năng đốt cháy
thành tro bụi và thành cây nước đá lạnh dưới tam thập độ
âm.
Nhị thập thất "Thiên hỏa đồng nhân" lửa người lửa trời
bốc lên đồng nhau, tạo ra thể cân đối. Chiêu mựng lửa
trời thiêu hủy địch.
Nhị thập bát "Địa trạch lâm" tiến sát tới, chứa chấp bao
dung, trên đầm có đất, bờ giáp với nước, đầm trong rừng.
Tạm dung địch thủ, dù có sát phụ chi thù.
Nhị thập cửu "Sơn trạch tổn" bớt những thiệt hại, núi
cao th́ đầm sâu, đầm ở dưới núi khí thông lên nhuần với
cỏ cây vật. Nương chiêu không hại địch thủ.
Tam thập "Thủy trạch tiết" chừng mực, tiết độ hạn chế,
khôn ḍ hiểm trở, tự ḿnh biết chứa nước vào đầm. Vị tha
không hại địch, dẩu cho đất thổ cũng chi hận.
Tam thập nhất "Phong trạch trung phu" báo tin trong
long, phong đi trên đằm, sinh ra mọi biến hiện. Cảnh cáo
địch thủ, nếu địch thủ cố chấp chiêu thức tự nhiên phản
công như rồng hút nước dưới hồ, đến lúc phải ân đoạn
nghĩa tuyệt.
Tam thập nhị "Lôi trạch qui mui" sấm dậy đằm động, theo
nhau như đôi âm dương. Chiêu xuất thân chính không ngại
mây khuất, bảo gió nghiêng thành.
Đến đây chàng dừng lại, hẹn ngày sau tập luyệt tiếp ba
mươi mốt chiêu c̣n lại, ḷng vui mừng đă đạt được kết
quả, chiêu số biến đổi khôn lường, c̣n theo ư của riêng
ḿnh để phát huy vơ học, đúng là vơ học "Bát Quái Lĩnh
Nam", có nói "Vươn chiêu số sung măn vô tận". Chàng xem
lại th́ thấy cảnh vật tứ hướng như cây cỏ đất đá ngổn
ngang hóa thành b́nh địa. |