Ông
nh́n qua tay Trái thấy tranh Thư Pháp chữ tốt lời thơ
trang nhă. Tác giả bỏ thô lấy tinh, bỏ ngụy lấy chân,
Thư Pháp phấn Tiên Ngọc Thỏ kỳ ảo, tranh thạch mạc long
lanh cảnh tiên giới dưới đáy nước hiện ra, qua Thư Pháp
lời lẽ và ư t́nh bên trong, đúng là Thư Pháp Bách Việt
không hổ thẹm văn chương.
Tranh sơn thủy sông núi, cây cỏ, thú vật hài ḥa hùng
vĩ. Trong tranh sống động, tác giả diễn tả cơi đời động
dồn dập, tịnh vô tư. Một bức tranh khác, khảm xa cừ màu
thanh thiên hoành tráng, xem qua mới biết trong tranh
chở t́nh, chứa ư thơ, c̣n lưu lại nụ cười quanh đây, mấy
ai luận nổi phú từ trong thư pḥng này. Lại có một bản
vẻ Công bút Hoa thảo, chọn hoa Lan làm ví như đứng đầu
của các loài hoa trang nhă nhất, đứng trước hoa cúc, hoa
thủy tiên. Đặt tánh của hoa Lan trong nhu có cương, tao
nhă thoát tục, chân dung đoan trinh. Hoa Lan không những
là đẹp mà c̣n vị thuốc, lá Lan chữa trị viêm phong, trị
thận, nhánh Lan trị phong loe loét, trị thoái sanh và
làm dầu thơm.
Ngoài ra c̣n có tranh dân gian phản ảnh sinh hoạt trong
đời sống hằng ngày, từ thời mười tám đời vua Hùng Vương
đến Hoàng đế Câu Tiễn và nói lên trang lịch sử rất đen
tối ấy. Đồng thời là một trang đen tối mà trong đó người
ta đă nói chưa hết sự thật. Nay c̣n lưu lại đâu đây tập
tục của một thời văn minh Bách Việt. Trong những trang
này c̣n động nước mắt.
Đặc biệt năm bộ bản đồ cổ xưa, có ghi lại chiến tranh Âu
Việt–Ân, U Việt, Ngô Việt, Lạc Việt–Sở, Mân Việt–Hán,
Việt Thường–Hán. Những tranh họa cổ "Tứ Thiên Nhân" chưa
bao giờ thấy qua, tuy có Bách Vật kinh nói về tranh họa
này, nhưng không bằng thấy tận mắt, những ai may mắn
nhất đời người mới được thấy.
Hoàng Phi
Biên hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, có thể nói
rằng ngạc nhiên liên miên. Ông xem một hồi tự ḷng nói
thành lời:– Nếu phân tích kỹ càng dân tộc nào cũng sinh
ra nhân kiệt, đời nào cũng có đức lương dân, thời nào
huyền cơ ấy, luôn ẩn tàng trong thịnh suy.
Đặc điểm Nam
Việt ta có một kho tàng văn hóa như Vơ phổ, Binh pháp
phổ, Quốc sách phổ, Thư pháp Thơ Văn phổ, Họa pháp phổ,
Bách Vật kinh, Thuật
in đá
và
Nhạc phổ.
Thư tịch th́ gồm có : Tam tập Kinh sử,
Tử tập, Thiên văn địa chí âm dương, Y bốt, Tăng đạo đa
thần, Từ địa phương, Giang hồ sự, Bát kịch nghệ nam hư,
B́nh thoại, Thư khuê pḥng.
Hoàng Phi Biên chân bước nhẹ theo nhịp tim, vừa đứng
trước bài thơ Tỳ Bà Hành, miêu tả một thời chiến tranh
hai nước Việt Ngô ( Câu Tiễn và Phù Sai ), ông liền
ngâm :
Bến Tầm
Dương canh khuya đưa khách,
Quạnh hơi thu lau lách đ́u hiu.
Người xuống ngựa, khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ti.
Say những luống ngại khi chia rẽ,
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong.
Đàn ai nghe vẳng bên sông,
Chủ khuây khoả lại, khách dùng dằng xuôi.
T́m tiếng sẽ hỏi ai đàn tá?
Dừng dây tơ nấn ná làm thinh
Dời thuyền ghé lại thăm t́nh,
Chong đèn, thêm rượu, c̣n dành tiệc vui.
Mời mọc măi, thấy người bỡ ngỡ,
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa.
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua,
Dẫu chưa nên khúc t́nh đà thoảng hay.
Nghe năo nuột mấy dây buồn bực,
Dường than niềm tấm tức bấy lâu;
Mày chau tay gảy khúc sầu,
Dăi bày hết nỗi trước sau muôn vàn.
Ngón buông bắt khoan khoan d́u dặt,
Trước Nghê Thường sau thoắt Lục Yêu,
Dây to dường đổ mưa rào,
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng.
Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy,
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu,
Trong hoa oanh ríu rít nhau,
Nước tuôn róc rách, chảy mau xuống ghềnh.
Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt,
Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ;
Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ,
Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay.
B́nh bạc vỡ tuôn đầy ḍng nước,
Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao;
Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt ḷng sông;
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong,
Áo xiêm khép nép hầu mong giăi lời.
Rằng: "Xưa vốn là người kẻ chợ,
Cồn Hà Mô trú ở lân la;
Học đàn từ thuở mười ba,
Giáo phường đệ nhất chỉ đà chép tên.
Gă thiện tài so phen dừng khúc,
Ả thu nương ghen lúc điểm tô,
Ngũ Lăng chàng trẻ ganh đua,
Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn.
Vành lược bạc găy tan dịp gơ,
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi;
Năm năm lần lữa vui cười,
Mải trăng hoa chẳng đoái hoài xuân thu.
Buồn em trảy, lại lo d́ thác,
Sầu hôm mai đổi khác h́nh dong;
Cửa ngoài xe ngựa vắng không,
Thân già mới kết duyên cùng khách thương.
Khách trọng lợi khinh đường li cách,
Mải buôn chè sớm tếch nguồn khơi;
Thuyền không, đậu bến mặc ai,
Quanh thuyền trăng giăi, nước trôi lạnh lùng.
Đêm khuya, sực nhớ ṿng tuổi trẻ,
Chợt mơ màng ḍng lệ đỏ hoen".
Nghe đàn ta đă chạnh buồn,
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời:
"Cùng một lứa bên trời lận đận,
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau,
Từ xa kinh khuyết bấy lâu,
Tầm Dương đất trích gối sầu hôm mai.
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích,
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm:
Sông Bồn gần chốn cát lầm,
Lau vàng, trúc vơ, âm thầm quanh hiên.
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối:
Cuốc kêu sầu, vượn hót véo von;
Hoa xuân nở, nguyệt thu tṛn,
Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng.
Há chẳng có ca rừng, địch nội?
Giọng líu lo buồn nỗi khó nghe.
Tỳ bà nghe dạo canh khuya,
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai.
Hăy ngồi lại gảy chơi khúc nữa,
Sẽ v́ nàng soạn sửa bài ca".
Đứng lâu dường cảm lời ta,
Lại ngồi lựa phím đàn đà kíp dây.
Nghe năo nuột khác tay đàn trước,
Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi;
Lệ ai chan chứa hơn người ?
Giang Châu tư mă đượm mùi áo xanh.
Ông nói tiếp:–
Ông cha ta để lại một gia tài văn minh đồ sộ và vô giá,
ngày nào đó tất cả vật này sẽ công bố ra để con dân Bách
Việt tự hào, riêng ở Trung nguyên chỉ có Lăo Tử Kinh và
Tứ Thư Ngũ Kinh. Đặc biệt cổ
kim có nói thủy tổ nho gia Khổng Tử, có gương mặt giống
ác Vương Như Quá cho nên bị tuyệt lương ở Trần Thái.
Suy cho cùng những
bộ kinh này không phải của người Hán, thế mà họ rêu rao
to tiếng cho là gia tài của Hán, của ăn cướp lại tự nhận
của ḿnh, có quá đáng không, như vậy ta cần phải bảo vệ
Văn Minh của ḿnh, đừng để người Hán cướp đi rồi họ cho
là của họ.
Cũng lạ thay ở đây có cả
báo vật Việt Quốc là Hải Hồng Đậu Châu, trong truyền
thuyết dùng để khử nước. Có từ thời Việt vương Khuẩn
Thường, Người lập ra nước Việt Quốc lấy niên hiệu Đại Vũ
Trung Hầu. Vua cha của Câu Tiễn.
Ông thấy hiện vật trong động, hoa mắt ngoài tưởng tượng,
ông động ḷng luận tiếp về học thuật để cho vợ chồng
Hoàng Phi Chỉnh cùng nghe :
― Ở trong
động này, theo huynh hiểu được tuổi thọ của người tài tử
sáng tạo. Như một tiểu thuyết gia thọ được lục thập niên
dư, bởi v́ những tiểu thuyết gia vận dụng trí tuệ sáng
tạo thành một cơi thế giới riêng cho chính ḿnh. Tiểu
thuyết gia là đấng vô h́nh, họ cho ra đời một xă hội,
tạo ra hỷ, nộ, ái, ố theo mỗi cá tính của từng nhân vật,
cuối cùng là sinh tử. Xă hội đó tồn tại bao lâu c̣n tùy
vào giá trị của tiểu thuyết. Có thể nói những tài tử này,
tuy đă chết vẫn c̣n nói chuyện với người sống, nghĩa là
tác phẩm văn chương được nhiều kiếp người cùng nhau đối
thoại cho đến một thời gian dài nào đó, rồi cả hai đồng
vĩnh biệt.
Về hội họa
tuổi thọ bát thập niên dư, họa gia dùng màu sắc biến hóa
h́nh tượng theo nội tâm và đôi mắt, để lưu lại trên tấm
vải bố v.v... Mỗi họa phảm chỉ dấu cho người đời thấy
một tư tưởng mới, không phải để suy nghĩ mà để luận
thuật, những tác phẩm đó giá trị hay không là do cung
cách sáng tạo của tác giả, c̣n những tác phẩm có tính đồ
lại hay theo bước chân người trước đó chỉ là ghi dấu
cảnh vật để lưu lại.
C̣n về Thư Pháp th́ tuổi thọ cao nhất, Thư Pháp mượn bút
mực truyền t́nh cảm tự nhiên, tự họ khởi động tâm ư để
ḥa vào vạn vật đồng nguyên, Thư Pháp đỉnh cao nhất chỉ
một màu đen, biến đổi từ đen đậm, nhạt đến trắng, sau đó
chỉ c̣n một không gian vô ảnh.
Hôm nay đáng
chú ư nhất là những Thư Pháp đều dùng bằng bút đặc biệt
bởi từ lông đuôi của con Sói. Huynh chỉ luận về những
tác phẩm ở động này, c̣n những tác phẩm khác đang lưu
lạc ở khắp nơi. Huynh có biết vài tác phẩm vừa ồn ào
buổi sáng đến buổi chiều đă khuất núi, không để lại
trong nhân sinh.
Hoàng Phi Chỉnh tiếp nhận luận học thuật của đại huynh,
ông vui mừng thưa :
― Tiểu đệ
nghe qua lời đại huynh luận về sáng tạo trong học thuật
rất lư thú, có ở gần đại huynh mới thấu suốt học thuật.
Quả là chân trời văn học nghệ thuật cũng rộng như biển
khơi không khác nào vơ thuật là bao, chỉ có khác sự việc
sẩy ra tại hiện trường và trên giấy trắng mực đen, c̣n
âm nhu, cương cường th́ như nhau.
Từ lúc cả bốn
người vào động chú ư không bỏ qua sinh họat của Hoàng
Phi Khải, nhất là xem qua trang trí sảnh đường thể hiện
tính nhu thuận, khi đến thư pḥng xem tranh, thư họa
biểu hiện được tâm hồn dân tộc trong ḷng của Phi Khải.
Cả bốn người lần lược đi vào vơ pḥng đồng ngạc nhiên
thấy toàn là vũ khí lạ và có cả Vơ phổ, chứng minh kiến
thức Vơ học đảm lược khí khái của con cháu họ, khi đến
những pḥng ngủ thấy ở đâu cũng ngăn nắp.
Bốn người
đồng tự hỏi:– Phi Khải vốn đă có kiến thức vơ lược, văn
thông, có đến gần mới biết Hoàng Phi Khải lỗi lạc văn vơ.
Điều chú ư nhất là giờ này trong gia đ́nh cũng không
biết thân thế của sư phụ Phi Khải là ai, theo Hoàng Phi
Chỉnh cho biết Thư Pḥng là sư phụ của Phi Khải, cũng
như Phi Bằng người sư phụ ấy đang ở đâu. Những câu hỏi
này không ai giải đáp, khó hiểu về Phi Khải và Phi Bằng
như một ẩn vi, cả bốn chỉ biết Hoàng Phi Khải là đứa con
hiếu thảo, hiền hậu, ôn ḥa không tự thị.
Hiệp Phương
Yến trong ḷng vui mừng thấy con ḿnh đă lớn khôn, biết
tự lập thân, văn vơ hơn người trên môi bà múm mím cười
hỏi :
― Hài nhi à
tương lai sẽ sống thế nào ?
— Thưa, Mẫu
thân hài nhi trọn kiếp sống b́nh thường dù thời gian và
xă hội có thay đổi cũng vẫn như hôm nay.
— Mẹ biết, tuy hài nhi đă lớn và tự lập thân, nhưng Mẹ
nuôi con trăm tuổi, lo hết chín mươi chín năm. Mẹ thương
chúng con là vậy, con làm người như nhan đèn soi sáng
cho mọi người dù đốt cháy ḿnh. Con làm quan như dây
pháo thà hủy ḿnh để thiên hạ vui.
Hoàng Phi Khải cúi đầu tỏ ḷng thành ư :
— Thưa, Mẫu thân hăy an tâm, chúng hài nhi là nhị thể của
Mẫu thân th́ làm sao mà bất hiếu được.
Hiệp Phương Yến hỏi tiếp :
— Chúng ta ở
đây bao lâu mới xuống núi ?
Chàng không
ngần ngại đáp :
― Thưa, Mẫu
thân, nếu thích ở đây cả đời cũng được, lương thực lưu
trữ có khả năng nuôi sống ba mươi người, sau động có một
con suối nước chảy quanh năm, đủ loại cá, trước sân có
nhiều cây ăn trái bốn mùa, cứ năm mười ngày muội Lữ Thư
và hiền đệ Phi Bằng đến đây thăm hài nhi, chúng hài nhi
thường khơi lại chuyện của Gia gia và Mẫu thân để làm đề
câu chuyện.
Hiệp Phương
Yến lo ngại cho sinh hoạt và đời sống trên núi cách thị
tạp quá xa, liền hỏi :
― Khải nhi ở
đây hoài không thấy chán hay sao ?
Chàng thi lễ,
đáp :
― Thưa Mẫu
thân, chán làm sao được, nếu ở đây là nơi ẩn cư không
phải thích hợp hay sao, nếu muốn lăng du th́ xuống núi
viếng thăm tạp thị, đi động Lạc Việt thăm hiền đệ Phi
Bằng, đi động Nam Khê Sơn thăm muội Lữ Thư hay đi Phiên
Ngung thành thăm Trí Túc khi nào chán th́ về lại động
này.
Hiệp Phương
Yến lo ngại hỏi tiếp :
― À th́ ra là
thế, c̣n về việc thành hôn với Công chúa, theo ư hài nhi
thế nào, c̣n nữa hài nhi mỗi ngày lên xuống núi, c̣n mẫu
thân làm sao đi lên đây được ?
Hoàng Phi
Khải cười và có ư khuyến khích cả bốn người thân nhất
trong đời chàng, đáp:
― Thưa, Thúc
Bá, Thúc mẫu, Gia gia và Mẫu thân, chỉ năm hôm thôi, cả
nhà ḿnh đồng di chuyển lên, xuống núi không khó, nhưng
phải tập luyện theo phương pháp của hiền đệ Phi Bằng đă
hướng dẫn hôm qua tại động Nam Khê Sơn, sau năm ngày
luyện tập gian khổ sẽ có kết quả như ư. C̣n về thành hôn
với Công chúa hài nhi đă lo liệu hết rồi, sau khi lập
phủ Công chúa là tiến hành "Tam Thư Lục Lễ" do Nam Việt
Vũ Đế ấn định ngày lành tháng tốt, cả nhà ḿnh chỉ tuân
khẩu dụ mà thực hiện cho đúng. Quan trọng nhất là ngày
lễ "Thân Nghinh" trong phủ Công Chúa có phủ Pḥ Mă, ở
đây có nhà thờ Tổ họ Hoàng, di chuyển từ đó vào Hoàng
cung và ngược lại. Họ nhà trai thân bằng, quyến thuộc
không thiếu một ai để "Thân Nghinh".
Hiệp Phương
Yến ḷng phấn chấn, từ lâu ư của bà đă muốn có Trưởng
Tức "Dâu hiền hơn con gái" bà rất thích Hương Trí Túc ở
điểm thận phận Công chúa mà yêu đời sống Lạc dân, bà và
Công chúa xem nhau như t́nh Mẫu Tử, bà ước mê khi cao
tuổi chỉ ở với Hoàng Phi Khải, nay nghe con nói vậy bà
háo hức luyện tập nội công, c̣n Hoàng Phi Biên, Hà Thanh
Phụng, Hoàng Phi Chỉnh là những vơ hiệp cầu tiến không
ngại luyện tập. Hoàng Phi Khải an ḷng lấy phổ "Bát Quái
Lĩnh Nam" dâng cho bốn đấng sinh thành, thưa :
― Thưa quư
đấng, Hài nhi kính dâng lên tứ đấng, phổ "Bát Quái Lĩnh
Nam" chỉ cần công phu năm ngày, hài nhi sẽ trở lại, bây
giờ hài nhi kính xin tạm biệt, chúc thành công.
Đôi chân
chàng vừa rời khỏi động, phi thân biến dần h́nh bóng
trong sương tỏa mờ mờ. Chàng đến động Lạc Việt báo tin
cho Hoàng Phi Bằng biết tin vui bốn đấng sinh thành đang
luyện tập tại động Gia Phong Sơn, trước khi vào động
theo Phi Bằng cho biết qui luật tự nhiên, lúc nào cũng
đi một ṿng quanh từ trên xuống dưới động để xem qua
t́nh h́nh, dù Phi Bằng đă phối trí trận đồ vẫn phải cẩn
thận trước khi vào động.
Bầy hạc báo
động cho Phi Bằng biết, có Phi Khải đến và trong yên
tĩnh như mọi ngày, chàng ra sân động gặp Phi Bằng huynh
đệ vui mừng, lúc này bầy hạc xem Phi Khải như người thân
thứ ba, hạc bay xuống động đón mừng, Phi Khải cùng Phi
Bằng vuốt lên đầu từng con một, t́nh giữa người và thú
trở thành tŕu mến khắng khít có nháu.
Mỗi lần Phi
Bằng về động bầy hạc làm nhiều tṛ vui, đặc biệt lần này
động sạch sẽ, ngoài sân không c̣n cỏ mọc bừa bải, chàng
thấy bên trái động dưới gốc cổ thụ có hai con hạc nhỏ
đang nhổ cỏ, chàng cười lấy tu hú ra hiệu, hạc bay đến
nằm dưới chân chàng, tay vuốt trên ḿnh hạc, chàng ra
hiệu tất cả hạc bay về tổ.
Huynh đệ Phi
Bằng vào sảnh đường thấy mười bốn giản biên viết toàn là
ẩn tự, ghi dấu thứ tự, chàng suy nghĩ thầm:– Đúng là
giản biên này của đại huynh Bạch khẹc đem về, chàng mở
ra xem từng giản biên một, đọc từng chữ mới hiểu được
toàn ư. Bạch khẹc viết nội dung trong giản biên về
chuyện đi Trường Sa :
― Huynh đă
khám phá nhiều bí mật khó hiểu của Mân Việt Vương, thông
đồng với gian tế Hán. Khi huynh vào được Vương phủ tại
thành Nhạc Dương mới biết sự thật không đơn giản, gian
tến Hán giả dung mạo Chu Thông Được ngồi trên ngai Mân
Việt Vương, ṭng đảng Việt Hán nghị thảo rằng:– Khó lắm
mới áp tải Chu Thông Được đến cửa nam Dương Tử Giang,
ngày mốt thuyền khỏi hành có thể nửa tháng sau mới đến
Thiết Giang, cái khó hiện nay thuốc mê công hiệu được
bao lâu. Một tên Hán đứng bên phát biểu:– Thuốc mê công
hiệu chỉ năm ngày, nhưng đừng lo phải lấy gông c̣ng tay
chân y trước khi thuốc mê hết công hiệu, khi đến Thiết
Giang xem như cuộc áp tải hoàn tất, phần c̣n lại không
biết ai tiếp tục áp tải về Lạc Dương cũng hết tháng. Tên
gian Hán dung mạo y như Chu Thông Được truyền lệnh:–
Khẩn cấp, báo tin cho thuyền khởi hành vào ngày mai.
Phi Bằng đọc
tiếp giản biên thứ hai, Bạch khẹc kể :
― Huynh tiếp
tục đi theo các tên Hán, sau đó đột nhập vào thuyền, đi
đến Trường An, họ giam Mân Việt Vương Chu Thông Được một
nơi sang trọng có người hầu, người hạ, binh Hán canh
pḥng cẩn mật.
Huynh thấy
ông ta lúc nào cũng buồn phiền, ít ăn ít ngủ, nhiều
người đến thăm, ông không nói chuyện chỉ lắc đầu. Cẩn
bút Bk.
Chàng đọc
tiếp giản biên thứ ba Bạch khẹc viết :
― Huynh ở đây
được mười ngày, thấy họ chuyển Mân Việt Vương Chu Thông
Được vào thành nội Trường An, ngôi dinh thự này bố trí
rất cẩn mật. Họ đề nghị nếu Chu Thông Được đồng ư hợp
lực th́ năm sau về Trường Sa tiếp thục giữ chức Mân Việt
Vương. Chu Thông Được thái độ vẫn b́nh thản như cũ.
Người quan Han nói tiếp:– Nơi này là tài sản riêng của
Mân Việt Vương kể cả lănh thổ Trường Sa. Huynh viết vắn
tắt để hiền đệ am tường, chuyện c̣n dài sẽ kể sau. Cẩn
bút Bk.
Chàng xem
tiếp những giản biên c̣n lại, nội dung trùng hợp những
tin chàng đă biết, chỉ có giản biên thứ mười ba nội dung
đặc biệt hơn. Bạch khẹc viết :
― Hiền đệ,
huynh đă đến Sông Vị vào dinh trại quân binh Hán, biết
rất rơ lực lượng quân binh Sông Vị là kế hư binh, dành
sẵn cho một cuộc chiến thứ nh́. C̣n lực lượng đóng ở
Hàng Châu, Tràng An, Trùng Khánh là chính, bốn tháng nữa
họ sẽ khởi binh đánh Trường Sa. Hiền đệ lo liệu việc
trước sau cho tốt nhé. Cẩn bút Bk.
Chàng suy
nghĩ:– Hán dụng binh "Thực chi hư", đó là lẽ thường t́nh
trong binh pháp, c̣n nếu "Hư chi thực" đồng nghĩa với
pḥng bị binh pháp, sự việc này người Hán có mưu lược
chiến tranh từ lâu, ngày nay Nam Việt khó tránh, đây
chính là nguy cơ ngày này và trong tương lai của Nam
Việt.
Chàng suy và
luận tiếp với Phi Khải:
— Thưa, Khải
đại huynh, Nam Việt muốn thắng địch th́ dụng binh pháp
đối lực "Thực chi hư" cấp thiết dùng đến kế sách phản
tướng, trước nhất phải t́m cho được một người dung mạo
tốt, văn vơ song toàn, chữ viết và giọng nói như Chu
Thông Được, riêng khuôn mặt giả mạo th́ chính tay đệ
thực hiện "Dung Dịch Thuật", c̣n về "Hư chi thực" đương
nhiên phải lập đồ trận để tránh tổn thất binh mă. Đai
huynh có ư kiến ǵ không ?
Phi Khải đáp :
— Theo mưu lược của nhà Hán, đến bốn tháng nữa mới khai
chiến, như ta biết Thái Tử Hồ đă nói: "– Dù ba tháng nữa
nhà Hán khai chiến cũng bị quân ta đánh tơi bời bỏ chạy
quay đầu về cố quốc" lư do đơn giản quân ta có chuẩn bị
trước, c̣n địch tự đi vào đồ trận để khai chiến.
Hoàng Phi
Bằng đắc ư nhận định của Phi Khải. Chàng lấy một giản
biên mới, viết gấp gửi cho Vũ Thư Minh nội dung:– Tin
khẩn cấp, bí mật, t́m một nhân vật có những yếu tố giống
hệt như Mân Việt Vương, nhằm thực hiện kế phản tướng.
Cẩn bút HP.
Hoàng Phi
Khải viết một tấu chương gửi về Triều:
— Muôn tâu
Hoàng Thượng điện hạ. Hạ thần vừa tiếp nhận được tin
giám binh từ Hán cho biết, ư đồ của người Hán từ nay đến
bốn tháng tới sẽ tiến quân vào Trường Sa khai chiến,
hiện nay Mâm Việt Vương là sản phẩm giả dạng do Hán dựng
lên, nhằm tiến quân như vũ bảo theo kế lược "Thực chi hư",
ngoài ra c̣n kế lực thứ hai "Hư chi thực" đó là kế lược
"Con Quay" đối phương không cho Nam Việt biết đầu đuôi
kế lược nhà của Hán. Muôn tâu Hoàng thượng điện hạ sau
khi nhận được giản biên này, tức tốc âm thầm chuyển quân
đến nội địa và biên giới Trường Sa. Hạ thần kỉnh tấu
điện hạ hiểu thấu. Cẩn bút HPK.
Những ngày
c̣n lại, huynh đệ họ Hoàng tung tăng trên dưới động rất
hồn nhiên như ngày đầu mới vào động Lạc Việt, riêng kư
ức của Phi Bằng về lại với thời gian như lồng đèn kéo
quân, chàng nô đùa với bầy hạc, bắt cá thảy lên cao để
chúng tranh nhau mồi, chàng cùng hạc ca múa, về đêm
chàng ngồi lập kế lược trận "Thực chi thực", rồi viết
giản biên gửi cho Cần Lĩnh Nam Phân Bộ Giang Bắc nội
dung:– Tin khẩn, bí mật, Hài nhi đề nghị nhị Cô Mẫu lập
dịch trạm bí mật khắp Trường Sa. Tổ chức hoàn chánh cứ
sáu nhà có một Khán thủ phân nhiệm cai quản, mười hai
nhà có một Bảo chủ cai quản, lập giao thông hào, dự trữ
lương thực, củng cố binh pḥng, luyện tập binh mă cường
tráng th́ mới có khả năng thắng địch, mới hy vọng bảo vệ
được Trường Sa, nhị Cô Mẫu khi tiếp nhận được chiếu chỉ
của triều đ́nh th́ âm thầm tổ chức di cư để tránh Lạc
dân bị khổ và thất thoát tài sản, nhất là lúc chiến
tranh tránh nhiễu loạn đến ḷng dân. Cẩn bút HPB .
Chàng viết
tiếp gửi Vũ Thư Minh:– Thưa, Thúc Thúc, tin khẳn, bí mật
lập dịch trạm cương giới Việt Hán trải rộng từ Tượng
Quận đến Nam Hải. Tổ chức hoàn chánh cứ sáu nhà có một
Khán thủ chủ cai quản, mười hai nhà có một Bảo chủ cai
quản, lập giao thông hào, dự trữ lương thực, luyện tập
vơ nghiệp bảo vệ Tượng Quận, Quế Lâm, Nam Hải. Thúc thúc
chú ư đừng xem thường khí thế háo cường của địch. Tiếp
đến chúng ta dụng binh theo kế lược trận "hư chi hư"
phản công bằng phương thức ít thắng nhiều, đương nhiên
phải lập đồ trận trước, tùy nghi thúc thúc lập đồ trận.
Cẩn bút HPB .
Cùng lúc
Hoàng Phi Khải gửi tấu chương về Triều, tâu lên Vũ Đế
hai kế lược điều binh khiển tướng "Thực chi thực" và "Hư
chi hư" nhằm để đối lực với quân nhà Hán.
Sáng sớm hai
huynh đệ họ Hoàng trở lại động Gia Phong Sơn, thấy tứ
đấng thân sinh đang luyện tập nhăn lực, cả hai đáp xuống
sân thủ lễ bái, Phi Khải thầm nghĩ:– Chỉ mấy hôm mà da
mặt Bốn thân sinh hồng hào.
Hoàng Phi
Biên vừa thấy Phi Khải trong ḷng vui lên, miệng tươi
cười nói đùa :
― Điệt nhi đi
vắng, không sợ tứ huynh đệ mỗ phá động này hay sao ?
Hoàng Phi
Bằng nghe nói vậy liền cúi đầu thi lễ thưa :
― Thưa Thúc
Bá, ở đây là nơi cư ngụ sau này của tứ đấng đó ạ. Nếu tứ
đấng mà phá hết th́ lấy nơi nào để tạm cư chứ, ở đây rất
lư tưởng xin quư đấng đừng phá nó nhé, cả nhà đồng cười.
Chàng hỏi tiếp:– Thưa tứ đấng ăn ngủ có tốt không ?
Hoàng Phi
Biên cười "ha hà…" đáp :
― Thế à, động
này đẹp thật, không khí trong lành, hai huynh đệ nhà
ngươi tặng tứ huynh đệ mỗ đi ? Ở đây ăn ngủ lâu ngày sẽ
ph́ ra có khả năng hết phi thân xuống núi.
Hoàng Phi
Khải nói :
— Thưa, quư
đấng, chúng hài nhi đă ŕnh thấy hết rồi quư đấng luyện
thập thoải mái, mau tiến triển hơn mọi khi.
Hoàng Phi
Biên vui miệng nói đùa :
— Lúc đầu
chúng tại hạ đến đây, cứ tưởng nơi này là nhà giam bí
mật của quư hài nhi, xin lỗi nói bậy "ha hà…"
Lần đầu tiên
Hoàng Phi Bằng thấy Thúc Bá vui, trong ḷng chàng cảm
nhận t́nh thâm gia đ́nh sâu đậm, thưa :
― Thưa Thúc
Bá, điệt nhi chỉ giam tạm bảy ngày mới thả ra, nếu giam
đến mười ngày th́ điệt nhi sẽ bị đỉnh Gia Phong Sơn nhốt
lại không khác nào "Tề Thiên" thuở trước. Cả sáu người
hiểu ư đồng cười và những người lớn có đồng một suy nghĩ
thầm:– Chứng tỏ Hoàng Phi Khải và Phi Bằng không c̣n là
trẻ thơ như ngày xưa. Hoàng Phi Biên cười nói tiếp:
— Thúc Bá Mẫu,
Gia gia, Mẫu thân sau năm ngày luyện tập "Bát Quái Lĩnh
Nam" thân cốt có đổi thay nhiều, nhăn lực cũng thế, hôm
nay quư điệt nhi đến đây đă thấy vơ học của mấy người
già thế nào ?
Hoàng Phi
Bằng thi lễ đáp :
― Dạ thưa có
ạ, đề nghị tứ đấng thân sinh cùng luyện tập nội công, ba
canh giờ mỗi buổi sáng, chỉ hai ngày nữa th́ có khả năng
ra ngoài động một cách dễ dàng, không cần phải phá nhà
giam Gia Phong Sơn nữa ạ.
Hoàng Phi
Biên tinh thần sảng khoái cười nói :
― Thế th́
chần chờ ǵ nữa mà không luyện tập.
Đôi mắt của
Hoàng Phi Khải rất tinh tế, biết thân cốt của tứ đấng
thân sinh vốn cao thủ đă nhất nguyên chân khí, chí âm
chí dương thuần nhất, chàng dụng thuật pháp luyện tập
theo thế qú gối, lưng thẳng, chuyển hóa tinh, khí, thần.
Đă đến lúc mời tứ đấng lấy kết quả chàng mời :
― Kính tứ
đấng, luyện tập theo thế qú gối, lưng thẳng, phóng tạp
niệm, cho nội công thông bát mạch, chuyển hóa khí vào
cửa Nơ hoàng cung, nhập thần, động chuyển tinh.
Hoàng Phi
Khải vận nội công xuất "Thiên lôi vô vơng" chiêu số trên
dưới phân trời đất, hóa ánh sáng tạo ra chuyển động tự
nhiên, Tinh khí thần chảy vô tận, theo ḷng tự dục "Tư
kỷ khí".
Chàng xuất
chiêu thứ hai "Thủy hỏa kư tế" chiêu sự hoàn sinh, từ
hỗn mang biến trật tự, mọi vật vô vi ở đúng chỗ, tự biến
không thay đổi. Thời gian trôi qua ba canh giờ đúng Ngọ,
tứ nhân cảm nhận, thân thể nóng hừng hực nội lực đầy ấp
lục phủ ngủ tạng.
Chàng búng
liền tám "Thanh Long đơn" lập thức thân thể tứ nhân ḥa
khí. Qua ngày thứ hai cùng một thuật pháp luyện tập, lần
này chàng búng thêm bốn "Thanh Long đơn" tổng cộng tứ
nhân tiếp nhận được mười hai viên.
Hoàng Phi
Bằng đứng ngoài thấy Phi Khải chuyển động nội công phi
thường, không khác nội công của Chàng đă học trong động
Lạc Việt, Chàng để ư thấy thân cốt bốn thân sinh cùng
chuyển động như đại huynh Phi Khải, ḷng vui mừng chàng
nói :
— Cơi nhân
sinh vô thường, điệt nhi mới biết tứ đấng là sinh nhân
kỳ ngộ, vơ nghiệp tuyệt kỷ nguyên tánh đă kết quả hoàng
mỹ. Xin mới quư đấng phi thân xuất động, để ứng nghiệm
sự kỳ diệu trong bảy ngày cực khổ.
Hoàng Phi
Biên cảm nhận được thuật pháp luyện tập của Hoàng Phi
Khải, ông mừng thầm:– Đúng là một tĩnh mộng phi thường
có thực, liền hỏi vợ :
― Nào nương
tử, hiền đệ, hiền muội phi thân theo huynh, tứ lăo hai
ông, hai bà phi thân biến vào sương mù xuống núi, rồi
phi thân lên động không khác nào bốn đại hạc khổng lồ
vào động Gia Phong Sơn, tất cả vui mừng.
Hoàng Phi
Chỉnh c̣n nghi ngờ nội công của minh, ông hỏi :
― Hai hài nhi,
thử phân giải nội công của Gia gia như thế nào ?
Hoang Phi
Bằng khoanh tay cúi đầu xuống thấp rồi đáp :
― Thưa nội
công của Gia gia chỉ là một, bởi trong thân thể có nhiều
khả năng khác như bát mạch thông thương, tự trị bệnh, bế
mạch khi cần, độc chất bất sâm, c̣n nữa trí tuệ lại
thông thoáng, cầm kiếm như lông hồng, tuy vậy kiếm pháp
càng luyện mới thấy sở đoản, sở trường càng thấy sơ sót
mới bồi đắp chiêu thức mới, kiếm pháp trở thành tinh vi
hơn, nói chung "Bát Quái Lĩnh Nam" vận hành khí vào kinh
mạch phối hợp tinh, khí, thần phân làm tứ phương xuất
phát nội công, mỗi chiêu phối hợp sáu mươi bốn cộng sáu
mươi bốn, nội lực vô cùng uy lực, nhưng trước hết bát
mạch phải thông, mới hội tụ được chân khí vào ḷng bàn
tay hay chân phát huy hết vơ học "Bát Quái Lĩnh Nam" Gia
gia thử xuất chiêu kiếm họ Hoàng của nhà ḿnh th́ biết
tức th́.
Hoàng Phi
Biên và Hoàng Phi Chỉnh nghe nói không tin, hỏi lại
Hoàng Phi Khải :
—
Khải nhi,
hiền đệ của con giải như vậy có đúng không ?
Hoàng Phi
Khải thầm khen Phi Bằng và đáp :
— Thưa, Thúc
Bá, Gia gia, Bằng hiền đệ giải thích rất đúng không sơ
suất chiêu thức nào cả, chính hài nhi cũng luyện tập như
vậy.
Hoàng Phi
Biên tháng phục huynh đệ Phi Khải, nói :
― Quư điệt
nhi nói đúng lắm, không sai, nếu là người siêu quần th́
thấy sơ hở chiêu bái tổ. Quư điệt nhi có thể xuất kiếm
pháp nhà ta được không ?
Hoang Phi
Bằng cúi đầu thi lễ đáp :
― Thưa Thúc
Bá, hài nhi vâng lời.
Chàng xuất
kiếm đă thấy hoa kiếm pháp bay trong không gian, kiếm
không van động gió, tứ phía trên dưới đều có ánh kiếm,
từ chiêu bái tổ đếm cho thật kỷ đúng một trăm tám chiêu
không thiếu không thừa, đường kiếm tinh vi, tuyệt ảo.
Hoàng Phi
Biên vỗ tay khen :
― Quả là điệt
nhi không hổ danh họ Hoàng nói được là làm được, ḷng
Thúc Bá đă bừng sáng rồi, Thúc Bá thử xuất chiêu một lần
nữa nhé ?
Hoang Phi
Bằng vui mừng đáp :
― Dạ, xin quư
đấng tự nhiên xuất kiếm vơ học họ nhà ta.
Hoàng Phi
Biên và Hoàng Phi Chỉnh xuất kiếm pháp đúng như Hoàng
Phi Bằng đă khai rộng, cả hai huynh đệ vui mừng, không
ngờ kiếm họ Hoàng có pháp khí như vậy, thức kiếm nối
liền không sơ hở, biến thế nhanh cực kỳ, như gió thổi
không lọt qua thức kiếm, như nước suối chảy quanh năm mà
không ước trung tâm tảng đá ngầm.
Hoàng Phi
Bằng đem việc quân Hán chuẩn bị mở cuộc chiến vào đất
Trường Sa, cho Hoàng Phi Biên, Hoàng Phi Chỉnh, Thúc Bá
Mẫu, Mẫu thân cùng nghe, chàng nói :
― Hài nhi đề
nghị, năm ngày sau Thúc Bá đi cùng với Nguyễn Cự B́nh
đến chân núi phía Nam, Nam Khê Sơn.
Hoang Phi
Biên hiểu ư, khen :
― Rất may,
hài nhi đă biết trước âm thầm nghinh chiến và chuẩn bị
phản công, đó là kế sách tốt, nếu ở vào trường hợp của
Thúc Bá cũng làm kế sách này. Thúc Bá cũng phải khẩn
trương lập dịch trạm đề pḥng phía Nam, kế tiếp gửi binh
viện theo đường thủy vào phía Bắt, ông liền viết tấu
chương gửi cho Tổ phụ Phùng Nam.
Giờ dậu sau
bữa cơm tối, kế đến tuần trà, chuẩn bị chia tay. Hoàng
Phi Khải thưa :
― Thưa Thúc
Bá, Thúc Bá Mẫu, Gia gia, Mẫu thân khi nào đến động thăm
hài nhi th́ dùng loại đá "Bạch
ố"
hay đá
"Lân quang"
này, viết vào giản biên treo trước động sẽ có hài nhi và
Bằng hiền đệ đến hầu hạ. Hoàng Phi lấy tu hú gỗ ra hiệu,
bốn đại hạc bay xuống động cách sân một trượng. Huynh đệ
họ Hoàng tiển đưa bốn người thân xuống núi xuôi về hướng
Nam. Tay vẫy chào hẹn tái ngộ.
Trên đường về
động Nam Khê Sơn, huynh đệ họ Hoàng mỗi người một suy tư
riêng, ư tưởng của Phi Bằng tự hỏi:– Nơi chốn ải địa đầu
Dương Tử giang vốn đất Lĩnh Nam, cái nôi anh hùng năm
xưa c̣n lảng vảng bóng phù tŕ Bách Việt, nơi đó lúc nào
cũng linh thiên. Đă bao lần con người và tài vật Trường
Sa rưng lệ v́ sinh tử chiến tranh, vui buồn theo thăng
trầm vận nước của tôn tộc Bách Việt, nay sương gió cất
tiếng hào hùng của những lương tướng binh mă vang danh
tại thế, từ ấy nhân gian vẻ đậm nét biên cương Bách Việt,
dấu ấn chỉ làm trai đứng trước binh đao không hề nao
núng, như c̣n động lại tiếng gọi của không gian rằng:–
Non sông c̣n đó, người trước kẻ sau đồng ǵn giữ nước
non, không thể đem ḷng đổi xót xa mất nước.
Chàng hy vọng
chiến tranh không đến nổi lạnh lùng, bạc ḷng trước quân
dân Nam Việt, dẫu một phần hy sinh vật chất để đổi lại
thanh b́nh v́ tổ quốc. Chàng liền cười "ha hà…".
Chàng về đến
Nam Khê Sơn, phi thân xuống sân động, đi thẳng vào sảnh
đường tức khắc tụ tập huynh, tỷ, đệ, muội kiểm tra chiêu
thức "Bát Quái Lĩnh Nam" và nội lực. Chàng rất vui mừng
chỉ trong bảy ngày đă thành thuộc hơn trước, riêng có Đỗ
Trọng Kha c̣n non tay chiêu số, về nội công th́ tạm dủ
pḥng thân.
Chàng lắng
tai nghe và chờ phản ứng của từng huynh đệ, rồi liền lên
tiếng :
― Theo tại hạ
suy nghĩ, thập bát huynh, tỷ, đệ, muội đă trải qua nhiều
trận chiến, cũng như am thông giang hồ, nếu trao một
trách nhiệm làm tướng soái cầm binh ra chiến trường th́
phải thế nào ?
Tất cả đồng
im lặng để chờ ai là người phát biểu trước. Lữ Thư cầm
thanh kiếm đưa lên, miệng tươi cười dơng dạc đáp :
― Tay cầm
soái kỳ, binh phù thà chết chứ không khuất phục địch,
ngoài chiến trường không sợ quan địch, mà chỉ sợ quân ta
quản hốt, chưa kể đến kế mưu của địch làm lung lạc ư chí,
bởi vật trong binh pháp có câu "Binh đến tướng đỡ, nước
đến giữ bờ", đứng trước chiến trận phải mưu cầu thắng
trận yên dân. Đáng chú ư nhất là khi lâm trận phải biết
dụng tinh thần "Bất úy tử" của Bách Việt, như ngày xưa
Hoàng đế Câu Tiễn đă đánh Ngô cũng dùng đến chiến thuật
này. Nhớ chúng ta không chấp nhận kẻ giết gà lấy trướng.
Tiếng vỗ tay
thôi thúc tinh thần tuổi trẻ của Hương Việt Xă. Chu
Thông nắm chặt kiếm, cánh tay hờn giận đưa lên phát biểu
:
― Phận làm
tướng, tay cầm soái kỳ thà mất mạng chứ không để mất mặt.
Tổ tiên Bách Việt có di ngôn có xuất trận không màng trở
lại. Tay ta quân hùng mă cường, lương thảo định phân
chiến sách thắng địch, c̣n về nhân lư th́ ta có thêm một
chiến hữu c̣n hơn có một kẻ thù.
Một lần nữa
tiếng vỗ tay không ngừng. Đinh Anh Thi thù nước thù nhà
chưa trả, đứng lên phát biểu :
― Tay cầm
binh phù soái tướng, cần chú ư khí dũng, hảo cường giữa
ta và địch, điều cấm kỵ trong trận chiến quân binh không
được mệt mỏi, tránh thiếu ăn, tránh quân binh chán nản,
nhiễu loạn ḷng dân, thua trận không nản chí, thắng trận
không tự hào. Sách có câu: "Đại ái vô t́nh, đăi nghĩa là
hy sinh". Đă làm tướng mà hồn bất phụ thể, th́ sau này
chén cơm Hương Việt Xă làm sao ăn cho nổi.
Tất cả huynh
đệ đồng nói :
― Tất nhiên
là phải thế, mới nói lên được hai tiếng "Chiến thắng"
chứ .
Trần Kiều
Oanh đứng lên phát biểu trong suy nghĩ của nàng :
― Bổn phận
làm tướng phải có mưu kế, cắt đứt lương thảo của địch để
bóp yết hầu của chúng. Lập giám binh nội ứng, làm nhiều
cạm bẩy để sát địch, dù rồng xa bải cạng, hổ xuống đồng
bằng cũng phải làm cho địch thần bất trí, quỉ bất giác.
Nhất là huy động lương dân hiểu rơ thù nhà nợ nước là
chi, có thế sau này mới rảo bước trong giang hồ mà không
ái ngại, dù ta sống trong kiếm ảnh phong đao cũng vẫn là
thân cư tại miếu đường, tướng soái và anh hùng là một,
khi lâm trậng tránh được binh quă, mă loạn là thắng.
Tiếng vỗ tay
gịn tan đủ biết sức mạnh của tuổi trẻ ngày nay. Trịnh
Đ́nh Thông vốn gia gia qua đời sớm tại trận biên giới
Việt Hán, mối căm gan ôm ấp trong ḷng, nay miệng cười
thù chưa trả, chàng phát biểu :
― Gia gia của
tại hạ qua đời sớm v́ giặc Hán, nay tuy "Rách lũy cũng
c̣n bờ tre" nhờ gần núi ăn núi, gần sông uống nước sông,
cho nên thấu hiểu được ít nhiều đạo lư thù nhà nợ nước.
Tại hạ nguyện lấy thân này làm danh môn chi hậu, đứng
trước mặt trời chưa xuống không gian vẫn phải sáng.
Tiếng vỗ tay
liên hồi của bầu nhiệt huyết thanh xuân. Đỗ Trọng Kha
tuy mới gia nhập động, ḷng cũng nôn nao, háo hức tỏ bày
nghĩa cử đền đáp Lữ Thư và trong động dành cho chàng
t́nh thân huynh đệ vô bờ bến, chàng phát biểu :
― Trong binh
pháp có nói: "Đa ngă kiến kết tụ duy nhất kiến" để tránh
tâm khí quân binh sanh tạp ư, không thể bỏ qua lập dịch
quán, quân binh mă giả. Hôm nay tại hạ gặp anh hùng cùng
chí khí v́ mưu cần an dân, chỉ xin một ước nguyện "Vạn
tử bất từ". Quư huynh đệ muốn dùng tại hạ vào chỗ nào
cũng đặng, há sợ chi tướng địch mạng, đă có binh hùng
tướng mạng, thân này sống chết phú số cho trời.
Tiếng vỗ tay
ḷng thôi thúc có sự quyết tâm và hứa hẹn trách nhiệm
của người làm trai. Quách Tuyết Băng đưa tay phát biểu :
― Thưa quư
huynh, tỷ, đệ, muội tại hạ xin nói lên đôi lời mộc mạc
và chân ngôn. Về học thuật binh thư đă là thiên binh vạn
mă, cho nên ngươi phàm phu tục tử phải biết linh hoạt
biến hóa tinh thông. Khi học ngàn cuốn sách không bằng
ngoài chiến trận, bởi vậy binh thư của huynh đệ xuất
phát từ từng mănh gian sơn ghép lại, biết lợi dụng địa
h́nh, vô thức mới có hóa dụng binh chi sách, đó mới là
quan trọng nhất. Quân đồ của huynh đệ là do kinh nghiệm
đi khắp nơi mới vẻ ra được. Tại hạ chỉ đôi lời thô thiển
này xin gửi đến huynh đệ từ từ suy tư.
Tiếng vỗ tay
náo động cả động Nam Khê Sơn v́ lần đầu tiên huynh đệ
trong động nghe Quách Tuyết Băng phát biểu về kinh
nghiệm học thuật binh thư, cũng là lần đầu tiên thấy một
nữ tướng sắc, âm, lư trí hơn người, cho nên Trịnh Trường
sẽ "Bước xuống ruộng cà hái nụ tầm xuân".
Tiếp theo Lư B́nh Trung phát biểu :
― Kẻ làm tướng am tường ngũ tài, tức là trí, nhân,
nghĩa, dũng, trung. Trí là lâm nguy bất loạn, nhân là
thân ái nhân, nghĩa là bất phụ kỳ vọng, dũng là bất tạp
hội quá, trung là bất hai long. Biết tiếp nhận khổ đau
để vượt nhục làm sống đó là hùng tráng của người tướng
soái đă nh́n xa một bước thấy biển rộng trời cao, có thế
dù Nam chinh, Bắc chiến cũng bền vững ḷng tin để chiến
thắng.
Nói chung người thống soái phải có chí cao minh biết
chọn thiên thời địa lợi, nhân sinh.
Biết ḿnh
biết người, dùng binh tướng đúng nơi, hiểu sự như thần,
thuộc ḷng binh pháp trong đời sống thống lănh tam quân,
dưỡng binh thiên nhật dụng nhất thời. Đạo làm tướng soái
phải có kiến thức lớn, như kỳ môn độn giáp, binh mă thần
cơ diệu toán, biết nhật nguyệt phong linh khí, trên tay
không cầm cung kiếm mà phá được địch đó là trí sĩ và
biết tiếp nhận ư kiến của tập thể để nấu thành một ư chí
chung phù trợ đất nước.
Lại một lần
nữa tiếng vỗ tay lớn, nói lên ḷng tin anh hùng vào
chiến trận. Trịnh Trường thay mặt Hương Việt Xă đúc kết
:
― Tại hạ thay
mặt Hoàng đại huynh đồng tiếp nhận những ư kiến của quư
tỷ, huynh, đệ, muội, ư kiến nào cũng có lợi nước v́ dân
đều dùng được tất cả. Như ư kiến của quư vị vừa phát
biểu đă cho chúng ta một căn bản chân lư và hành động.
Hy vọng tất cả trên tay cầm thần binh tuyệt thế, dây mới
thực sự giải quyết được các vấn đề sống c̣n của Hưng
Việt Xă .
Tại hạ xin
công bố kể từ hôm nay động Nam Khê Sơn là trung tâm sinh
hoạt mưu lược của Hưng Việt Xă gồm bốn điều luật.
1 – Nhân
Chánh : Pháp luật vô tư, Lệnh vô t́nh, Qui nghiêm chính.
2 – Cắm Quân
Binh : Khinh binh, Mạng quân, Đạo quân, Nối quân, Loạn
quân, Ngộ quân, Khinh địch, Lộ quân cơ.
3 – Cắm Binh
: Lời nói sai sự thật, Không khi dân, Thưởng phạt không
vị t́nh, Tội nặng khai trừ.
4 – V́ Dân :
Bảo vệ văn hiến và tài sản Bách Việt, thành lập dịch
trạm đổi lấy mồ hôi, nghèo khó đi đầu để Lạc dân ấm no,
bảo vệ kẻ yếu và người hoạn nạn.
Sau khi nghe
Trịnh Trường đúc kết và công bố lệnh, trong ḷng huynh
đệ họ Hoàng vẫn chưa an, Phi Bằng phát biểu :
― Thưa quư
huynh, tỷ, đệ, muội trước mắt tại hạ thấy quả là những
kỳ trí xuất ngôn tự đáy ḷng, kỳ năng tự xuất hành động,
mỗi phát biểu là tâm huyết có suy tư để thể hiện đồng
một tiếng nói, không khác nào phổ thư Bách Việt có lưu
truyền kim ngôn vạn ngữ. Cho nên phổ có viết: "Liệt nữ
giá phu, quân thần trung nghĩa v́ dân v́ chúa" có như
thế Hưng Việt Xă mới đúng là kim chỉ nam trong thiên hạ,
cho nên quư vị đồng đứng lên thi thố khả năng và lấy tư
tưởng biến thành hành động.
Tiếng vỗ tay
một hồi lâu cho thấy tuổi trẻ v́ lư tưởng, những anh
hùng dân tộc xuất hiện trong những môi trường tương tự.
Cùng lúc Hoàng Phi Bằng mời những hiền đệ chưa nhận "Thanh
Long đơn" đứng lên chuẩn bị tặng mỗi người một viên,
nhân dịp này chàng khuyến khích Đỗ Trọng Kha luyện tập
vơ học mỗi ngày.
Hoàng Phi
Bằng đă có ư tặng bảo kiếm từ lâu nhưng chưa phải lúc,
nhân có dịp này chàng tuyên bố :
― Thưa, quư
huynh tỷ đệ muội, tại hạ muốn gửi thác một chí nguyện
này trên thanh danh của quư vị, bằng những thanh bảo
kiếm cho những ai đă khởi ḷng v́ Bách Việt. Trước hết
kính mời đại tỷ Lữ Thư là người có trách nhiệm lớn nhất,
phải chăm nom thật tốt cho tất cả huynh, tỳ, đệ, muội
của ḿnh, mời tiếp Bí Phương Cổ Kiếm .
Lữ Thư hai má
đỏ bừng, cười tươi như hoa, giương mi đáp :
― Tỷ cảm ơn
quư hiền đă chiếu cố, tại hạ tiếp nhận kiếm là thấy trên
vai có nhiều khó khăn trước mặt, hy vọng trọng trách này
sẽ làm tṛn ḷng tin tưởng của quư hiền.
Hoàng Phi
Bằng công bố tiếp :
― Nhu Long
bảo kiếm, đúc trong lửa cực nóng và cực hàn, có thể đoạn
đá phân kim, chẻ sắc như đất, lệ khi xuất kiếm vạn kiếm
phân mảnh, tính của đại huynh hợp về sau này gặp thế
thái nhân t́nh xem mây trôi ngoại cảnh, phú quư chỉ là
danh lợi không đủ nặng nhẹ t́nh người, đại huynh có khí
khái nhân kiệt, nặng xử sự t́nh cảm, trước khi tiếp kiếm,
đệ xin tặng hiền huynh ba chữ Lợi, Tư, Nghĩa mời Lư đại
huynh tiếp kiếm.
Lư B́nh Trung
không ngờ Nhu Long bảo kiếm lại có một lịch sử phi thiên
như vậy, chàng tiếp nhận, rồi nói :
― Từ đây thà
chết chứ không để kiếm nhục.
Tiếng vỗ tay
vang động một góc rừng, Hoàng Phi Bằng tuyên bố tiếp :
― Nội Thiên
bảo kiếm, c̣n có tên là Vương bảo kiếm, được đúc ra thời
đại Hoàng đế Câu Tiễn, ở giai đoạn lịch sử này chỉ có U
Việt mới đúc kiếm đến tŕnh độ kỹ thuật kỳ tích, cũng
chính Vương bảo kiếm này khuyến khích Đại Đế Câu Tiễu
đứng lên phục quốc, nhà Ngô Phù Sai thất trận, chàng ngó
sang Trịnh Trường nói:– Mời hiền đệ đứng lên tiếp kiếm.
Trịnh Trường
nh́n Nội Thiên bảo kiếm tự ḷng phải tự phát khởi nói :
― Đa tạ Bằng
đại huynh, đệ xin hứa kể từ nay sẽ là tâm can nghĩa đảm,
dù bước chân nhiều thủ thách cũng vượt qua, nay làm thân
huynh đệ có xá chi gian nan, một lần nữa xin hứa một
ḷng làm đẹp lư tưởng Hương Việt Xă.
Hoàng Phi
Bằng tươi cười nói với tỷ, huynh, đệ :
― Trịnh đệ là
mẫu người tính t́nh thẳng thắn không nhượng việc ǵ ba
phân cho người khác, nay huynh tặng Nội Thiên bảo kiếm,
nhớ kỷ việc ǵ cũng có phải trái khi xử trí lấy quả
quyết làm đầu, có lúc then chốt vẫn phải phân trái trắng
đen.
Chàng xoay
người về hướng Trần Kiều Oanh nói :
― Đệ xin tặng
Kiêm Châu bảo kiếm c̣n gọi là Băng Thanh Ngọc Tuyết Kiếm,
kính mời Trần tỷ tiếp kiếm, Trần tỷ đại chí, kiếm pháp
bất lộ đúng là kiếm để trong kiếm.
Trần Kiều
Oanh tiến tới tiếp kiếm rồi đáp :
― Đa tạ hiền
đệ, tỷ hiểu rơ xin hứa từ đây một ḷng v́ Hưng Việt Xă .
Sau khi Lư
B́nh Trung đeo thanh kiếm vào bên hông, miệng tươi cười
hài ḷng. Hoàng Phi Bằng nói với Đinh Anh Thi :
― Đinh hiền
đệ, chuyện xưa gia đ́nh để trong ḷng nay dứt bỏ, không
t́m kiếm nó cũng phải đến, ngày đó đương đầu không khó,
nay đại huynh tặng cho đệ một bộ Canh Tinh bảo kiếm,
huynh nhắc nhở đệ kiếm pháp không thể biến phu.
Đinh Anh Thi
luôn luôn xem Hoàng Phi Bằng là ân công và sư phụ, không
đặt ḿnh vào t́nh huynh đệ, bởi vậy chàng ít nói lại
vâng lời nhiều, khi nghe tặng kiếm cũng không ngờ từ đây
bỏ oán t́m đức, bỗng chàng tĩnh ngộ dật ḿnh thưa :
― Dạ, đa tạ
đại huynh, đệ vâng lời ạ .
Trong tâm cảm
của Trịnh Trường, khi tiếp được Nội Thiên bảo kiếm.
Chàng thấy tin mừng phát ra như một luồng khói thiên từ
trên núi cao bay ra, rồi chàng suy nghĩ:– Nay mỗ sử dụng
kiếm cho thỏa đáng th́ sẽ có lực lượng vô cùng, đồng
thời khiến mỗ nhận thức được giá trị nhân nghĩa, trí,
tín, dũng theo hành động.
Hoàng Phi
Bằng ngó Chu Thông một lúc rồi gọi :
― Chu Thông
hiền đệ, huynh tặng đệ Ung Huyền bảo kiếm nó có một uy
lực vô cùng, đệ đến đây mà tiếp kiếm.
Chu Thông có
vẻ e ngại, rồi gật đầu nói :
― Thưa đại
huynh tiểu đệ kiến thức bất tài, vơ công kém cỏi bây giờ
tiếp nhận bảo kiếm chỉ lo cho đệ không biết cách sử dụng
th́ hóa ra phụ ḷng yêu thương của đại huynh.
Hoàng Phi
Bằng có ư khuyến khích, chàng cười "ha hà…" nói :
― Hiền đệ
đừng có tự xem thường ḿnh, cây kiếm này có duyên với ai
th́ người đó tiếp nhận. Hiền đệ phải quư Ung Huyền bảo
kiếm này ví nó có từ thời đại Hoàng đế Câu Chiếu nước U
Việt, đúc từ thiên ngoại phi tiên mà thành, nó không
những chẻ núi mở đá và khiến cho hiền đệ lập nghiệp
trùng sanh, cho nên bảo kiếm này có ư nghĩa là làm người
phải biết xả thân diệt bạo, cứu người nguy cơ, bảo kiếm
này rốt cuộc đă t́m được chủ nhân. |