|
(Kỳ
1)
Cảm tạ
Quyển
sách này chào đời, tôi có chích, một số tài liệu của quư vị ở
quốc nội hay ở hải ngoại, tôi không rơ điạ chỉ của quư vị. Quả
là diệu vợi đối vơí người nghèo như tôi. Mong quư vị thông cảm
và xin nhận nơi đây ḷng biết ơn của tôi.
Quyển sách này
được ra mắt độc giả là do sự góp tay và tiếp sức của quí vị:
nhà thơ Phạm Công Huyền, bạn vàng Nhữ tiên sinh và Nguyễn Mai
Ninh, Châu hoài An. Tôi quên sao được, nhà báo Phạm Kiểm đă
vượt biên giới đến với tôi với tấm ḷng rộng mở, bác sỹ Nguyễn
ngọc Quỳ đă cho những tài liệu quư giá. Trong t́nh bằng hữu
giữa chung tôi: hai anh Từ Thái và Đoàn văn Hưng,
đă khổ cực giúp tôi để cuốn sách này được đưa in.
Tôi đang bước
vào tuổi “ thất thập cổ lai hy “. như cánh chim non bay vào
bầu trời cao rộng bao la, văn nghệ” Ước mong để lại cho thế hệ
sau:- Chứng nhân của một thời đại nhiều oan nghiệt của máu và
nước mắt. Cánh chim có bay bổng vào bầu trời bao la, do sự hỗ
trợ của quư vị.
Xin quư vị
nhân nơi đây long biết ơn của tôi.
Phạm Hữu.
Tiểu sử tác
giả:- Phạm Hưũ sinh năm 1938, nguyên quán làng Nghi Tàm HàNội.
Cuộc đời tác giả có thể tóm lược như sau: Từ thuở ấu thời tới
khi đỗ tú tài ̀I (1955) ông học tại Hànội. Mùa Đông năm 1957,
ông vượt ḍng Bến Hải vào Nam, ông học dại học Sàig̣n. V́ sống
tự lâp, năm 19 tuổi ông dạy học các tỉnh miền Đông Nam phần.?
Thập niên, mấy năm đầu 196O ông đậu cử nhân văn chương và cử
nhân triết đông, ông dây học ở lục tỉnh. Thập niên 1970 ông
chuyển về Sàig̣n dạy triết ở các tư thục: Hồng Lạc, Hưng đạo,
Văn Học và Văn khôi, Thăng long và văn hoá
Năm 1976, ông
vượt biển tời Singapour và xin ty; nạn chính trị ở Paris. Năm
1977, ông cùng chị Minh Đức Hoài Trinh và anh Ngô Tất Thái làm
tuần báo Hồn Việt Nam. Cuối năm 1978, ông đơn thương độc mă
làm tờ Chiến Hữu? Thập niên 198O nhà văn kiêm sư gia Nguyên Vũ
từ Mỹ sang Paris sưu khảo tài liệu để nôp luận án tiến sỹ sử.
Dịp này ông đă khám phá một tài liệu lịch sử:- Đơn xin học
trường thuộc điạ của Pháp của Hồ để ra làm quan cho Pháp taị
Đông Dương. Ông Chiêu ưu ái cho báo Chiến Hữu, độc quyền công
bố văn kiện lịch sử. Mấy năm cuối thế kỷ 20, tác giả bị bệnh
ngặt nghèo nên phải ngưng làm báo để chờ chết. Thời gian nghỉ
bệnh ông đă khám phá văn kiện lịch sử, Phạm văn Đồng thủ tướng
Cộng sản miền Bắc kư văn thư cho Chu Ân Lai thủ tướng Trung
Cộng (năm 1958) Đồng công nhận từ ngày kư văn thư này hai hải
đảo Hoàng và Trường sa của Việt Nam nay thuộc lănh hải của
Trung Cộng. Ông làm báo Tiếng Dân số 16 để công bố văn kiện
bán nước của Đồng.
Mấy năm đầu
thế kỳ 21, Phạm Hữu đă bước vào tuổi già. Ông thân cô và thế
cô, lực cùng, sức kiệt không dủ sức làm một ḿnh một tờ báo
nên ông ngừng làm báo và chuyển sang viết sách. Ông đă phát
hành hai lần được ba tác phẩm:
1) Bộ mặt thực
của Hồ.
2) Cải cách
ruộng đất củ Hồ trên đất Bắc.
3) Bàn về vấn
đề khủng hoảng lănh đạo ở miền Nam.
Lời ngỏ:
1945 – 1969,
Hai muơi bốn năm Hồ độc quyền độc đảng “lănh đạo” lănh đạo dân
tộc. Từ năm nước Nga và các quốc gia Đông Âu từ bỏ chế độ cộng
sản và trôi theo ḍng tiến hoá của nhân loại: chế độ dân chủ,
đa nguyên và tự do.Nhiều tài liệu bí mật của các lănh tụ được
công bố.
Các thư viện lớn trên thế giới dă dữ kín tài liệu và hành
động của các lănh tụ, thời gian khoảng bốn hay năm mươi năm,
hết thời hạn đó họ tung tài liệu ra ngoài quần chúng, gọi là
thời kỳ giải mật nhưđơn xin học trường thuộc điạ của Hồ đă
được nhà văn Vũ Ngự Chiêu khám phá.
30 năm đánh đổ
hai cường lực Pháp và Mỹ. Xương và máu, công và sức, tài và
trí của nhiều thế hệ Việt Nam đă đổ, để xây dựng độc lập và
đời sống dân chủ và tự do……chỉ v́ sự thống trị của loài độc
vật CSVN mơ ước c̣n trong viễn mơ:
“
Thân ta, ta bắc nên cầu
Cho đàn con
trẻ xây lầu tự do”
Hoàng Cầm
Đă hơn 30, hoà
b́nh để xây dựng lại đất nước,ḷai độc vật chỉ là loài thống
trị và bán nước! Thời gian nửa thế kỷ đăsoi tỏ nhiều vấn đề:
Mặt thực của Hồ đă được bày văn nô, đánh bóng từ đầu tới chân.
Người Việt hải ngoại, đă làm công việc lột mặt Hồ, khởi từ tờ
Chiến Hữu ở Paris. Từ đó đến nay bùa ngải của Hồ đă tỏ ra hết
linh!
Chúng tôi đă
gạn sạch tâm tư những thù nghich, oán ghét, cố gắng tôn trọng
sự thưc viết thực khách quan chúng ta tiếp tục lột mặt Hồ, v́
bọn văn nô ở trong nước đă tô son trát phấn biến độc vật Hồ
thành một thần tượng! Có như thế người Việt trong nước mới hết
u mê, mới thức tỉnh và người Việt ở ngoài nước và trong nước,
sẽ góp phần đắc lực vào công cuộc giải thể chế độ thống trị
của CSVN và tự cứu của dân tộc chúng ta…..
Ước mong nhỏ
bé cũa chúng tôi chỉ có vậy…
Phạm - Hữu
I) Nhóm Ngũ
Long và bút hiệu Nguyễn Ái Quốc :
I) Nhóm Ngũ
Long:
Cụ Phan chu
Trinh, tới Pháp , năm 1911. Năm 1912, cụ ở chung nhà với cụ
Phan văn Trường. Nhóm ngũ long được thành lập những năm đầu
1910, ở số 6 đường Gobelin, quận 13 Paris. Nhóm này gồm đa số
các nhà khoa bảng Á Âu. Cụ Phan chu Trinh đỗ phó bảngchữ hán,
cụ Phan văn Trường luật sư, cụ Nguyễn thế Truyền người nổi
tiếng thông minh, đang chuẩn bị luận án tiến sĩ ở Sorbonne, cụ
Nguyễn an Ninh cử nhân Luật. Năm 1917, Nguyễn Tất Thành đến
Paris, Nộp đơn xin học trường thuộc địa, ra làm quan cho
Pháp. Đơn xin học của hắn bị từ chối. Nguyễn tất Thành t́m
đến cụ Phan chu Trinh, người bạn cùng khóa thi với thân phụ
Hồ,từ đấy ông ở số 6 Gobelin. Ông nhập nhóm ngũ long và vào
đảng CSPháp. Nhóm ngũ Long kư chung bút hiệu Nguyễn Ái Quốc,
khi làm việc tuy không phân công, nhưng họ làm theo khả năng
từng người trong nhóm. Khi viết bài đăng báo, người đưa tư
tưởng, lập trường, đường lối đấu tranh thường do cụ Phan chu
Trinh, một người đă có nhiều kinh nghiệm tranh đấu. Khi chuyển
sang tiếng Pháp, th́ do các cây Pháp văn như: cụ Trường, ông
Truyền hay ông Ninh……năm 1917 Thành nhập nhóm Ngũ Long. Xét về
tŕnh độ văn hóa, Nguyễn tất Thành trinh độ văn hóa quá thấp
kém (cuối lớp nhất tiểu học) nên chỉ có khả năng và thích hợp
với công việc, đưa bài đến ṭa soạn các báo Pháp. Khi các cụ
trong nhóm Ngũ Long về hay chuẩn bị về nước tranh đấu, kẻ đưa
thư Nguyễn Tất Thành tự nhận bút hiệu Nguyễn ái Quốc là của
riêng ḿnh. Năm 1923 Nga đón Thành về Mạc tư khoa, hoạt động
cho Đệ Tam quốc tế, Thành vỗ ngực tự nhận bút hiệu, Nguyễn ái
Quốc được dư luận thế giới chú ư :
"Trao lời
hỏi để giới thiệu th́ thanh niên tự nhận ḿnh là Nguyễn Ái
Quốc, làm cho khán giả chăm chú nghe và thám tử đêm ấy vô cùng
sung suớng, v́ đă viết được bản phúc tŕnh cho bộ trưởng. Bộ
trưởng thông tin th́ nghĩ rằng: Nguyễn Ái Quốc chỉ là bút hiệu
của Phan
chu Trinh mà
thôi.Nhưng trước sự thật bằng xương, bằng thịt dù là ông bộ
trưởng làm sao mà căi bây giờ. Bèn ra lệnh đến bộ thuộc địa
gặp ông bộ trưởng, nhưng trát lại mang đến nhà cụ Phan chu
Trinh, cụ Tây Hồ gọi Nguyễn tất Thành đến giao tờ trát. Nguyễn
Tất Thành cầm đến ông bộ trưởng Pháp và câu đầu tiên nói xỏ
rằng: Nguyễn ái Quốc là tôi. May mà trát gưỉ đến nhà chú tôi
là Phan chu Trinh nên được chú tôi đưa lại, không th́ lạc mất
rồi. Từ nay về sau,hễ muốn gặp tôi, th́ gởi ngay tôi nơi điạ
chỉ…….đừng làm phiền đến chú tôi. Bộ trưởng đành câm miệng hến.”
(Hồ hữu Tường
41 năm làm báo)
Cũng trong 41
năm làm báo, Hồ Hữu Tường đă viết: - nó như cái chià khoá, đă
giúp ta nhận định rơ ràng, tách bạch về vai tṛ người trẻ
Nguyễn Tất Thành trong nhóm Ngũ Long. Ông viết rằng:
"Khi thi
thạc sỹ toán ở Lyon xong, chưa biết đậu hay rớt, sáng hôm sau
ông đáp xe về Paris nhập nhóm Ngũ Long để hoạt động chính trị……..dù
kém, ông đă thi thạc sỹ mà các cụ không chỉ định viết bài,
huống hồ Nguyễn Tất Thành mới học lớp nhất th́ làm sao viết về
chính trị, nghị luận về Việt Nam để chinh phục giới trí thức,
báo chí Pháp và dư luận qưốc tế cho được"
Thực vậy,
tŕnh độ Pháp văn của luật sư Phan văn Trường, Nguyễn thế
Truyền hay Nguyễn an Ninh trong nhóm Ngũ Long so với tŕnh độ
Pháp văn Nguyễn Tất Thành quá non kém, cách xa nhau lắm lắm.
Cách xa đến mức độ không thể nào lầm lẫn được……nó như trắng
với đen, như thày với tṛ……Hồ chí Minh không thể nào, chẳng
bao giờ là bút hiệu của Nguyễn Ái Quốc ? V́ cuối đời Hồ, hắn
gần70 tuổi viết đi sửa lại đến năm lần bằng tiếng mẹ đẻ mà bản
di chúc của Hồ gần nửa trang giấy học tṛ tới 14 lỗi chính tả……c̣n
thơ của Hồ toàn thơ con cóc….nên rơ ràng đến hiển nhiên Nguyễn
Ái Quốc không thể nào ? chẳng bao giờ là bút hiệu của Hồ chí
Minh !
Người ta nói
rằng “Cái ǵ của César phải trả về cho César” th́
Nguyẽn Ái Quốc là bút hiệu của nhóm Ngũ Long. Hồ đă làm việc
lập lờ đánh lận con đen, chiếm đoạt bút hiệu của nhóm Ngũ
Long.Ngay từ bây giờ sự kiện lịch sử đă được phơi bày dưới ánh
mặt trời chúng ta phải tách bạch Nguyễn Ái Quốc và Hồ chí Minh
chẳng bao giờ, không thể là một . Những người cộng sản nếu c̣n
chút liêm sỉ phải dẹp ngay những cơ quan c̣n mang tên hiệu
Nguyễn Ái Quốc. V́ nó không c̣n lừa bịp được ai, nếu quí vị
c̣n chiếm đoạt bút hiệu Nguyễn Ái Quốc th́ người dân Việt Nam
chỉ nghĩ đến, một chuỗi dài hành động vô liêm, vô sỉ của quư
vị mà thôi!.
Hồ bước đầu
đời, nơi xứ lạ quê người, gặp nhiều may mắn, nghề nghiệp không
có, chữ Pháp chỉ bập bẹ. Được ở chung với hai cụ Phan, Hồ đă
t́m được nơi chốn an thân. Có việc làm ( cụ Phan dậy nghề rửa
ảnh cho Hồ), có người đồng hương dẫn dắt, giới thiệu Hồ tập
tễnh bước vào giới báo chí Pháp. Nhóm Ngũ Long, lúc đầu kư
chung bút hiệu Nguyễn Ố Pháp, được độc giả ái mộ, viết thư hỏi
Nguyễn Ố Pháp mang ư nghĩa ǵ ?. Các cụ ngay t́nh trả lời
Nguyễn Ố Pháp là anh họ Nguyễn ghét Pháp. Độc giả Pháp phản
đối: Các anh đang chiến đấu cho Việt Nam trên đất Pháp, các
anh được người Pháp hỗ trợ, sao các anh lại ghét người Pháp ?
V́ nước Pháp, người Pháp, đâu có thể đồng hóa với thực dân
Pháp với người Pháp ?. Nghe độc giả phản đối hợp lư,
các bài sau, các cụ đổi bút hiệu Nguyễn Ái Quốc. Năm 1923, Hồ
lọt vào mắt xanh của CS Nga, chúng đón Hồ về Mạc Tư Khoa hoạt
đông cho đệ tam quốc Tế. Cũng năm 1923, các cụ về nước hay
chuẩn bị về nước hoạt động, Hồ “chiếm đoạt “ bút hiệu Nguyễn
Ái Quốc là bút hiệu của riêng Hồ. Hồ đă chinh phục dược nhiều
người. Nguyễn Ái Quốc với Hồ, nó như cái thang để Hồ leo lên
đài danh vọng.
1) Phan chu
Trinh:
Phan chuTrinh
,sinh ngày 9 tháng 9 năm1872,nguyên Quán làng Tây Lộc, huyện
Tuy
Phước tỉnh
Quảng Nam, hiệu là Tây Hồ, bút hiệu Tư Mă. Thân phụ cụ là Phan
văn B́nh, làm quản cơ sơn pḥng. Cụ theo cha vào núi và
nhập hội Cần Vương chống Pháp. Cụ mồ côi mẹ năm 14 tuổi, 16
tuổi cụ mồ côi cha. Phong trào Cần Vương tan ră, cụ Tây Hồ trở
về làng theo nghiệp sách đèn, cụ đậu cử nhân năm 1900, đậu phó
bảng năm1901. Năm 1903 cụ được bổ làm thừa phái bộ lễ. Hai
năm làm quan cụ dành thời gian đọc tân thư của Khang Hữu Vi,
Đàm tự Đồng, Lương Khải Siêu. Cụ kết thân với cụ Phan Bộ Châu,
Huỳnh thúc Kháng, Trần quư Cáp. Năm 1905 cụ từ quan, ra thăm
miền Bắc, cụ tiếp xúc ông Hoàng Hoa Thám, ở Yên Thế, cụ sang
quan sát t́nh h́nh nước Nhật. Về nước cụ tranh đấu công khai
và bất bạo động. Năm 1906 cụ gửi quan toàn quyền Đông Dương và
khâm sứ Huế lá thư cụ kết tội vua quan. Năm 1907, cụ ra Bắc
diễn thuyết tại trường viễn đông bác cổ, cụ hô hào cải cách
theo tân học. Năm 1908 miền Trung biểu t́nh chống sưu thuế, cụ
bị bắt và bị kết án tử h́nh, sau đổi ra lưu đầy vĩnh viễn ở
Côn Đảo từ năm 19O9 đến năm 1911, nhờ ông Barbus và hội nhân
quyền Pháp can thiệp, cụ được trả tự do. Tháng 4 năm 1911 cụ
cùng con trai là Phan văn Dật sang Pháp. Đến Paris cụ viết
cuốn “ Trung Kỳ dân biểu thi mạt kư “ cụ tả nỗi khổ của dân
chúng v́ sưu cao thuế nặng mà nổi lên đ̣i giảm thuế. Cụ viết
cuốn “Đông Dương Chính Trị luận “, cụ tŕnh bày về chính trị
hà khắc, cụ kết tội thực dân. Năm 1912 cụ cùng cụ Phan văn
Trường lập hội: “Đồng bào Thân ái “. Pháp nghi ngờ hai cụ hoạt
động chính trị, bắt giam hai cụ tại ngục Santé. Nhờ hội nhân
quyền can thịệp, hai cụ được trả tự do. Ra tù cụ Tây Hồ bị cúp
tiền trợ cấp (450f) mỗi tháng, cụ phải học nghề để sinh nhai.
Năm 1919, hội nghị hoà b́nh họp ỏ Verseilles, cụ gửi cho hội
bản yêu sách.Năm 1920 cụ đến bộ thuộc địa gặp ông bộ trưởng,
xin ân xá chính trị phạm Việt Nam; xin mở thêm trường học. Năm
1922, vua Khải Định ngự du nước Pháp cụ gưỉ cho nhà vua lá thư,
cụ kể tội nhà vua 7 điều. Cụ trở về nước năm 1925. Ở Sàig̣n cụ
diễn thuyết hai lần. Cụ từ trần tại Sàg̣n ngày 24 thgáng 3 năm
1926.
2) Cụ Phan văn
Trường:
Phan Văn
Trường, sinh năm 1872, nguyên quán làng Đông Ngạc, phủ Hoài
Đức , tỉnh Hà
Đông, cụ
thuộc ḍng dơi sử gia Phan Phụng Tiên., Phan tuấn Phong anh
trai cụ, Phan trọng Kiên em trai cụ, đều hoạt động chống Pháp,
cả hai bị lưu đày ở đảo Guyanne. Cụ học trường thày ḍng, nổi
tiếng thông minh, giỏi tiếng Pháp. Cụ làm thư kư thông ngôn
phủ Bắc Kỳ. Năm 1908, cụ đậu kỳ thi tham tá thông ngôn phủ
thống sứ Bắc Kỳ. Cụ được biệt phái sang Pháp làm ôn tập ngôn
ngữ trường Đông Phương ngữ Paris. Cuối năm 1912 cụ thôi làm
việc cho trường Đông Phương ngữ, cụ ghi tên tập sự luật sư tại
ṭa thượng thẩm Paris. Tháng 4 năm 1919 cụ măn lính về Paris
làm luận án tiến sĩ với đề tàỉ “khảo luận về luật Gia Long “;
Cụ kết duyên với thiếu nữ Pháp, sanh được một người con trai
là Robert Phan văn Trường năm 1921. Năm 1930cụ về nước mở văn
pḥng luật sư tại Sàig̣n. Cụ về thăm quê miền Bắc, cụ tạ thế
tháng 4 năm 1933.
3)Nguyễn thế
Truyền:
Cụ Nguyễn thế
Truyền, sinh ngày 17 tháng 12 năm 1898,.nguyên quán làng Hành
Thiện,
phủ Xuân
Trường, tỉnh Nam Định. Thân phụ cụ là Nguyễn duy Nhạc, hai lần
đỗ tú kép. Ông nội cụ là tuần phủ Nguyễn duy Hàn. Là con nhà
giàu gia thế, ngay c̣n nhỏ cụ Nguyễn thế Truyền nổi tiếng
thông minh. Nhờ học giỏi Nguyễn thế Truyền được học bổng.
Năm 1910 ông Charles Maries Gaston là phó sứ Bắc kỳ về
Pháp nghỉ phép, ông dẫn theo cậu bé Nguyễn thế Truyền học một
trường tư ở ngoại ô Paris. Nguyễn thế Truyền học xuất sắc,
luôn luôn đứng đầu lớp nên được công hội Alliance xin chính
phủ Đông Dương cấp học bổng cho cậu. Năm 1915 Nguyễn thế
Truyền đậu bằng brevet Supérieux, tương đương với bằng tú tài
toàn phần. Nguyễn thế Truyền đáp tàu thuỷ về thăm quê hương.
Năm 1916, Nguyễn thế Truyền đi Pháp du học, cậu dẫn theo các
cậu Nguyễn thế Tắc và Nguyễn thế Phu. Đợt sau 5 người cũng du
học Pháp: Nguyễn Đương Năng, Nguyễn thế Rục, Nguyễn thế Thạch,
Nguyễn thế Vinh.Năm 1920, ông Truyền dậu cử nhân khoa học và
kỹ sư ông về thăm nhà và cưới vợ. V́ nh́n lầm mặt vợ, đêm động
pḥng chú rể không vào pḥng cô dâu chú ngủ ở hàng hiên.
Nguyễn thế Truyền viết cho cô dâu mấy chữ để cô đi lấy chồng.
Ông Nguyễn thế Truyền lại đi Paris du học, ông vẫn được học
bổng. Ông truyền ghi tên nộp luận án tiến sỹ khoa học ở
Sorbonne. Ông Nguyễn thế Truyền kết duyên với cô Madelaine
Marie Clatour. Ông sinh được bốn người con: Nguyễn Trưng Trắc
( christaine) Nguyễn trưng Nhị ( Niquette), Nguyễn quốc Tuấn (
Claude) và Nguyễn thế Hào ( Jean) sinh ở Nam Định. Ông Nguyễn
thế Truyền học ở Sorbonne, ông thường lui tới thăm hai cụ Phan.
Ảnh hưởng tư tưởng cụ Tây Hồ, ông nhập nhóm Ngũ Long và trở
thành bạn thân của hai cụ. Về nước ông từ chối mọi mua chuộc
của chính quyền Đông Dương dành cho ông. Năm 1941, ông bị an
trí Madagasscar, năm 1946, ông được tự do trở về nước, ông
tiếp tục hoạt đông chính trị. Năm 1954 di cư vào Nam, ông sống
cuộc sống nghèo. Nhưng tinh khiết của một người trí thức đối
lập. Vợ ông mất năm 1940, ông đang ngồi tù, con ông không rơ
lưu lạc phương nào, ông không rơ. Ông từ giă cuộc đời năm 1969
tại Sàig̣n.
4 ) Nguyễn tất
Thành:
Nguyễn Tất
Thành, có nhiều năm sinh khác nhau, theo Trần dân Tiên bút
hiệu mạo danh của
Hồ. Nguyễn
tất Thành sinh năm 1890, nguyên quán làng KimLiên, huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An (miền Trung). Là con ông phó bảng Nguyễn
sinh Huy làm tri huyện B́nh Khê. Cơn say rượu, cụ đă khai thác
chết một tù nhân tên Quang, v́ án sát nhân cụ bị cách chức
tri huyện. Cụ cúi dầu bỏ quê hương và 3 đứa con dại, vào
Sàig̣n ngồi bắt mạch, cho đơn thuốc Bắc để sinh sống. Bản chất
gia đ́nh Nguyễn Tất Thành rất nghèo, khi bà nội ông có bầu
với gia sư Hồ Sĩ Toàn, ông Toàn đă có vợ.. Để tránh tai tiếng
dị nghị, phạt vạ của dân làng….Gia đ́nh họ Hoàng, thương lượng
gả bà nội ông cho người nông dân nghèo Nguyễn Sinh Nhậm goá vợ,
có đứa con trai. Thân mẫu Nguyễn sinh Huy ôm bụng về nhà chồng.
Lấy chồng trong hoàn cản miễn cưỡng , lứa đôi không xứng nên
duyên chẳng lành, thân mẫu Nguyễn Sinh Huy sống trong cảnh hờn
tủi. Năm sinh Huy được 4 tuổi th́ mồ côi mẹ, ít lâu sau mồ côi
cha hờ. Sinh Huy phải sống với người chị dâu vốn đanh đá,
nhiều lời, lại không cùng máu mủ với ông. Sau Sinh Huy lọt vào
“ mắt xanh”Một gia d́nh giầu có - ông tú làng Hoàng Trừu thấy
đứa trẻ lanh lợi, hiếu học ông nhận làm con nuôi, cho di học.
Sinh Huy chuyển từ kiếp con hoang sang thân phận con nuôi. Tất
Thành ra đời trong cảnh nghèo nàn cùng cực của một gia đ́nh,
hai vợ chồng và 3 đứa con thơ mà chỉ có vài sào ruộng ! Cũng
như sau này đôi vợ chồng và 3 dứa con chỉ sống bằng học bổng
của một người! Năm 1915, Thành 15 tuổi, cùng cả gia đ́nh vào
Huế. Thân phụ ông có học bổng trường Quốc tử Giám và anh em
ông được vào học, lớp vỡ ḷng:
“Anh em
ông vào học lớp vỡ ḷng, chữ quốc ngữa,a, b chưa biết, chữ
Pháp un, deux cũng chưa”
Nguyẽn Đắc
Xuân
Năm 1909, thân
phụ Thành làm tri huyện B́nh Khê, Thành về nơi cha đang làm
tri huyện, ghi tên thi lớp giáo viên tiểu học nông thôn, không
trúng tuyển thành bỏ học, t́m đường vào Phan Thiết rồi vào
Sàig̣n xin làm phụ bếp dưới tàu thủy, t́m đường đi Pháp. Tháng
6 năm 1911, Thành xin được một chân phụ bếp tàu Touche
Tréville, chạy qua và ngừng lại ở nhiều hải cảng Âu Á. Năm
1917, Thành từ Anh qua Paris nộp đơn xin học trường thuộc địa
để ra làm quan cho thực dân Pháp. Đơn xin học của Thành bị từ
chối. Thành t́m đến cụ Phan chu Trinh, ở số 6, đường Gobelin,
quận 13 Paris. Thành được cụ Trinh dậy nghề rửa ảnh để mưu
sinh. Thời gian này Thành nhập nhóm Ngũ Long, nhập đảng CS
Pháp, hoạt động cho hội Việt Kiều và viết báo Paria. Năm 1920,
hội nghị Tour của đảng xă hội Pháp, đảng CS Pháp nằm trong
đảng xă Hội.? Thành dơ tay tán thành chủ trương chi bộ đảng
CS Pháp tách rời khỏi đảng xă hội Pháp và gia nhập đệ tam Quốc
Tế của Nga. Hành động ấy của Thành lọt vào “mắt xanh” CS Nga.
Thành được CS Nga đón về Mạc tư Khoa để hoạt động điệp viên
cho đệ tam quốc tế CS. Năm 1923. 1924, Thành được Quốc tế CS
biệt phái phục vụ phai doan Komintern, làm thông dịch viên
Hoa ngữ cho Brorodine và từ đấy Thành chiếm đoạt bút hiệu
Nguyễn Ái Quốc, có tầm vóc quốc tế . Năm 1938, Thành được quốc
tế CS cử về biên giới Việt Trung ở hang Pắc Bó để lấy tin tức
của quận đội Nhật cung ứng cho quân đội đồng minh. Thời gian
này Thành bắt liên lạc với viên thiếu tá người Mỹ, trong một
tổ chức, tiền thân của C.I.A.. Viên thiếu tá này đă cung ứng
cho bộ đội của Hồ ở chiến khu một ít vũ khí và dậy cho du kích
Việt cộng nghệ thuật đánh du kích. Năm 1945 Thành trở về HàNội
ra mắt quốc dân nơỉ vườn hoa Ba Đ́nh với cái tên, hoàn toàn xa
lạ với quốc dân Việt Nam là Hồ chí Minh. Hồ chí Minh là cái
tên Nguyễn tất Thành trở về với ḍng dơi, máu mủ của ḿnh, ông
nội Hồ Sỹ Toàn.
5 )Nguyễn
an Ninh:
Nguyễn an Ninh
sinh ngày 15 tháng 9 năm 1900, tại làng Long Thượng. Nguyễn
an Ninh
thừa hưởng
truyền thống cách mạng. Thân phụ ông là Nguyễn an Khương thủ
lănh phong trào Duy Tân ở Nam kỳ, đồng thời là nhà báo nổi
tiếng làm trợ bút báo Nông Cổ Mím Đàm. Cuối năm 1922 ông về
nước tranh đấu bằng ng̣i bút, ông ra báo La Cloche Fêleé,
chống thực dân Pháp và đ̣i quyền sống cho đồng bạ. Năm 1 924,
Nguyễn an Ninh đi Pháp hoạt động chung với Nguyễn thế Truyền
trong hội đồng Liên Hiệp Việt Kiều. Năm 1925, ông đưa cụ Phan
về nước và tiếp tục làm báo. Năm 1925, ông nhường quyền điều
khiển tờ báo cho cụ Phan văn Trường. Năm 1927, ông sang Pháp
hoạt động với ông Nguyễn thế Truyên trong đảng Việt Nam Độc
Lập. Thời kỳ mặt trận B́nh dân cầm quyền tại Pháp các năm
1936, 1937, 1938, ông được bầu là hội viên đô thành Sàig̣n.
Ông Nguyễn an Ninh là người thông minh, quả cảm, suốt đời
chiến đấu cho độc lập quốc gia. Thế chiến thứ hai bùng nổ ông
bị bắt, đầy ở Côn Đảo, ông mất tại đây năm 1 943
I I) - Hồ được
bầy ruồi nhặng văn nô sơn phết, đánh bóng:
Hồ chí Minh ra
mắt quần chúng, vào ngày đầu thu tại vườn hoa Ba Đ́nh HàNội
năm 1945, tới khi Hồ tắc thở, năm 1969. 24 năm ¼ thế kỷ độc
quyền lănh đạo dân tộc Việt Nam. Hồ đă được bày ruồi nhặng
văn nô, ca vang bài ca lănh tụ. Bầy ruồi nhặng, lũ văn nô của
Hồ, chúng đông đảo lắm, dưới nhiều h́nh thức, ở nhiều mặt: văn
nô, thi nô, báo nô, họa nô, ca nô, nhạc nô…….chúng đua nhau
bằng ống đu đủ thổi vào lỗ đít lănh tụ Hồ, khiến con ễnh ương
Hồ trở thành con ḅ mộng….biến một con người dưới mức tầm
thường, tŕnh độ văn hoá quá thấp kém, đang t́m mọi kẽ hở chui
vào quan trường làm quan cho Pháp, đă trở thành người trọn đời
yêu nước, hiến dâng cả cuộc đời cho độc lập của dân tộc, người
có tầm vóc quốc tế…….một vị thánh, từ đầu tới chân của Hồ đều
được bầy ruồi nhặng văn nô đánh bóng sơn phết, khiến Hồ ngày
càng xa với con người thực, bộ mặt thực, chân tướng thực. Khi
Hồ trở thành lănh tụ độc tôn, bầy ruồi nhặng văn nô đă trổ hết
tài, tạo không khí mờ mờ ảo ảo của lịch sử của quá khứ để mập
mờ đánh lận con đen, như tráo bài tây ba lá, tuyên truyền bịp
bợm, xuyên tạc bóp méo sự thật hay hạ người khác để đề cao Hồ…….Đó
là văn phong, bút pháp, dọng điệu của bầy văn nô, bộ mặt thực
của Hồ càng ngày càng dầy……khiến Hồ quyền uy hơn cả đấng con
trời thời phong kiến, đôi khi trở thành thần thánh…..Bài thơ
Hồ ở đền Kiếp Bạc nơi thờ đức Trần Hưng Đạo vị anh hùng của
dân tộc đă 3 lần chiến thắng quân Mông Cổ ở thế kỷ 13. Thời đó
1945 hay 1946, Hồ 55 tuổi!
“So ra tôi
bác cũng anh hùng
Bác giết quân
Nguyên thanh kiếm bạc
Tôi trừ giặc
Pháp ngọn cờ hồng
Bác giắt nước
nhà qua nô lệ
Tôi dẫn năm
châu đến đại đồng”
Văn phong đó
là văn phong của người trẻ, thiếu học, thiếu giáo dục. Nó hực
lên tinh thần của kẻ thô lỗ, cuồng bạo, ngu xuẩn…...chúng coi
thiên hạ không ra cái thá ǵ cả. Quả là ngôn ngữ của bọn ngu
đần mà lại ngạo mạn, Hồ đem đức Trần Hưng Đạo ra so sánh để
người Việt coi sự nghiệp của Hồ c̣n hơn cả sự nghiệp của đức
thánh Trần:
“Bác giắt
nước nhà qua nô lệ
Tôi dẫn năm
châu đến đại đồng”
Ôi ! cái thế
giới “ đại đồng “ của Hồ đă dược xây dựng trên nền tảng của
bao xương máu, bao xác chết, bao đổ vỡ của nhiều thế hệ Việt
Nam. Cái thế giới “đạị đồng“ chỉ là sản phẩm ảo tưởng của lũ
xuẩn động và thiếu giáo dục. Cho đến nay c̣n âm hưởng của
phường đá cá lăn dưa.
Ngạo ngược với
anh hùng Trần Hưng Đạo một người ở thế kỷ 13, cách xa Hồ 7 thế
kỷ. Không c̣n biết trọng người thế hệ tiền bối như Hồ hay đối
với cụ Phan chu Trinh. Trở mặt lật lọng với những người Hồ
mang ơn đă dẫn giắt Hồ vào giới chính trị, báo chí Pháp như cụ
Phan và cụ Nguyễn. Hồ là con trai cụ phó bảng, ta lầm tưởng
rằng tuổi trẻ ở gần cha. Hồ được giáo dục của gia đ́nh. Nhưng
không, Hồ không có giáo dục của gia đ́nh và học đường. Hồ ra
đời và lớn lên như cây mọc rừng hoang. Văn nô Vũ Kỳ, tổ tiên
hắn được “phúc đức” nên hắn được gần “quân vuơng” của hắn.có
lẽ được đức tốt của gia đ́nh hắn đă hy sinh cả liêm sỉ để bốc
thơm “lănh tụ” của hắn:?
“Nghe kể
lại, sáng nay khi mọi người ở ruộng lúa đă về hết để đề pḥng
máy bay giặc đến đánh phá, giữa cánh đồng ngoại thành bao la,
có một lăo ông tóc bạc, cứ chống cuốc hết nh́n theo dấú chân
bác Hồ trên những ruộng lúa lại ngước mắt nh́n lên bầu trờ́
tháng năm xanh ngắt mà thốt lên lời sung sướng: phải chăng
đang được sống thời kỳ Nghiêu Thuấn? Cái thời Nghiêu Thuấn xa
xưa ngày xưa vua đi cày với dân, có thực hay không th́ tôi
không biết……..nhưng ở nước Việt Nam ta từ ngày có cụ Hồ chí
Minh về làm chủ tịch nước đến nay đă được 30 năm tṛn, th́
toàn dân sống những ngày hạnh phúc, trước hết là được quyền
làm người và làm công dân một nước độc lập, tự do. Sau gần một
trăm năm nô lệ. Cội nguồn của niềm hạnh phúc lớn lao đó chính
là dân tộc ta, như sự sắp đặt của lịch sử may mắn gặp được vị
lănh tụ kính yêu của ḿnh. Chính là vào cái đêm trước cách
mạng đó, khi hàng triệu người đang quằn quại trong cảnh đói
rét th́ Hố chí Minh xuất hiện như ngôi sao sáng giữa bầu trời
càng bước đi ngôi sao càng toả sáng. “
( Bác Hồ viết
di chúc – Vũ Kư )
Đem một sát
nhân tay c̣n dính đầy máu của đồng bào, So với những anh hùng
của dân tộc !Qua những lời tâng bốc kể trên, chứng tỏ cho mọi
người thấy rằng: bầy ruồi nhặng, lũ văn nô Vũ Kỳ không c̣n một
đốm nhỏ liêm sỉ khi hắn so sánh sát nhân với Nghiêu Thuấn. Vũ
Kỳ c̣n mang Nguyễn Trăi để làm cái thang cho Hồ. Vũ Kỳ đă làm
công việc b́ phấn với vôi…….:
“ Cách nhau
hơn năm thế kỷ mà có những trùng hợp kỳ lạ, y như cuộc hẹn
lịch sử đă định sẵn. Hai nhà chính trị, hai nhà quân sự kiệt
xuất, hai nhà thơ lớn, và bao trùm lên tất cả là gặp nhau ở
ḷng tin tuyệt đối và sức mạnh to lớn của nhân dân, là tấm
ḷng thiết tha đối với hạnh phúc của nhân dân. Người việt đă
từng nói:” chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân “.
B́nh Ngô đại cáo bằng câu bất hủ “Việc nhân nghĩa cốt ở ư dân
“. Hôm nay như hẹn gặp vĩ nhân của thời đại với chân lư:
“ Gốc có vững
cây mới bền
Xây lầu thắng
lợi trên nền nhân dân “
(Bác Hồ viết
di chúc – Vũ Kư)
Chính Hồ mang
bút hiệu Trần dân Tiên đă ấn đầu những nhân vật lịch sử, những
anh hùng chống Pháp xuống để đề cao ḿnh:
“ Khi Hồ
chủ tịch c̣n là người thiếu niên15 tuổi. Người thiếu niên ấy
đă sớm hiểu biết và đau xót trước thống khổ của đồng bào. Anh
tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc. Anh khâm
phục cụ Phan đ́nh Phùng, Hoàng
Hoa Thám và
Phan chu Trinh và Phan bội Châu, nhưng không hoàn toàn theo
cách làm của người nào. V́ cụ Phan chu Trinh chỉ yêu cầu Pháp
thực hiện cải lương. Anh nhận điều đó là sai lầm chẳng khác ǵ
đến xin giặc rủ ḷng thương. Cụ Phan Bôị Châu, hy vọng ở người
Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp chẳng khác ǵ: đưa hổ ra cửa trước,
rước beo vào cửa sau. Cụ đề Thám c̣n thực tế hơn, v́ cụ c̣n
tiếp tục đấu tranh chống Pháp. Nhưng nghe người ta kể th́ cụ
c̣n nặng cốt cách phong kiến.”
Nhận dịnh và
phê b́nh đường lối của ba nhà lănh đạo chống Pháp, nếu được
Trần Dân Tiên gắn vào miệng cụ Nguyễn sinh Huy th́ nghe c̣n
hợp lư. C̣n gắn vào miệng Nguyễn Tất Thành mới 15 tuổi. Một
cậu bé từ nhà quê ra tỉnh lần đầu, chữ A chữ B cậu chưa biết,
chữ Pháp un, deux, cậu cũng chưa học, thế mà câu nhận thức và
phê b́nh như một độc giả ở tưổi thất thập cổ lai hy, nó ḷi
đuôi dốt mà lại hay khoe khoang, nghe nó dị hợm lắm!. C̣n giới
thiệu thành tích của thằng nhỏ 15 tuổi: anh tham gia công tác
bí mật và nhận công tác liên lạc. Lúc Thành từ quê hương ra đi
phong trào Đông Du âm ỉ mạnh ở giới sỹ phu Nghệ Tĩnh, nó lên
cao điểm năm 1907. Giữa lúc ấy thân phụ Thành, đang được học
bổng quốc tử giám, để ra làm quan cho Pháp, th́ sỹ phu nào dám
đến liên lạc móc lối với gia d́nh nhà Thành nữa ?. Thành tham
gia công tác bí mật và nhận công việc liên lạc? Thành công tác
bí mật với đảng nào ? tổ chức nào ?; Liên lạc với ai ? tổ chức
nào ?. Thôi đừng mập mờ đánh lận con đen nữa. Sự thực chỉ có
việc Thành theo cha vào Huế học chữ Tây ?. Nguyễn sinh Huy
nhận chức thừa phái bộ lễ.
“Trước mùa
nước lũ năm 1905, gia đ́nh ông phó bảng rời quê hương lên
đường vào Huế. Lần đó ông cũng như ba người con đi theo, có lẽ
không có ai nghĩ rằng: bốn người ra đi chuyến ấy sẽ có người
không về nữa, có người phải năm mươi năm sau mới trở về. Anh
vào lớp sơ đẳng chữ quốc ngữ AB, anh cũng không biết, Pháp ngữ
un, deux cũng chưa!
(bác Hồ thời ở
Huế - Nguyễn đắc Xuân)
Văn nô Hồng Hà:
Thời thanh niên của bác Hồ, đă bơm bác của hắn – thày giáo
Nguyễn Tất Thành kiến thức như trời như biển, như những học
giả xấp xỉ tuổi thất thập cổ lai hy. Vốn chữ nghĩa của Thành
quá kém, áng chừng thày dậy lớp vỡ ḷng hay lớp tư trựng Dục
Thanh Phan Thiết :
“Thầy giảng
cho học tṛ hiểu tư tưởng của Rút Xô, Mông tét xkiơ, Vôn te ……Những
nhà văn hào và triết gia Pháp đă xuớng ra những thuyết nhân
đạo, nhân quyền, tự do, b́nh đẳng trong khuôn khổ chế độ tư
bản chủ nghĩa chống lại.những học thuyết phong kiến cổ hủ”
Văn nô Hồng Hà
sao lại qưá tối tăm, đến mức tội nghịêp, hắn như con khỉ ưa
phô trương, nó say mê, muá, đến dộ người ngoài thấy nó để lộ
: cái đuôi dài thờng cốt khỉ ! Đừng nói học tṛ Thành c̣n tḥ
ḷ muĩ, ngay chính Thành c̣n phải học lâu lắm mới được học
những triết gia, học giả Pháp kể trên. !
Văn nô Vơ
Nguyên Giáp trong Cải cách ruộng đất đă bị Hồ chặt hết vây
cánh, phe nhóm để Hồ tránh hậu lọạn về sau. Giáp đă bị loại
khỏi bộ chính trị , Hồ đă nâng Nguyễn chí Thanh lên hàng tướng
ngang với Giáp, nhưng hơn Giáp về quyền lănh đạo đảng trong
quân đội. Lê Đức Thọ, trưởng ban tổ chức trung ương đảng. Lê
Duẩn tổng bí thư đảng CS,th́ phe Vơ Nguyên Giáp, Trường Chinh
c̣n dẫy dụa ǵ được nữa ! Từ chiến khu về Hà nội Năm 1955 bà
Bích Hà là con gái cụ Đặng Thái Mai, dạy văn học Trung Quốc,
đại học Tổng Hợp Hà Nôị. Bà Bích Hà vợ Giáp, học chung với
chúng tôi ở Tổng Hợp Văn một số giờ. Bà c̣n trẻ, cởi mở, phong
thái con một nhà giáo, đúng hơn là một bà đại tướng. Gị ra
chơi, sinh viên xúm lại hỏi bà chuyện thâm cung bí sử:
─
Đại tướng độ này ra sao hả chị ?
─
Hồ chủ tịch bảo, chú Giáp giờ chú già rồi, để chú nghỉ nên đại
tướng có nhiều th́ giờ học piano và nghệ thuật chụp h́nh…..
Giới sỹ quan
cấp tá, cấp úy ,giải ngũ về đại học khá nhiều. Họ nói rằng:
Sau Điện Biên Phủ Hồ và Giáp có chủ trương mâu thuẫn: - Giáp
chủ trương : ḥa b́nh rồi quận đội cần có thời gian dưỡng quân
và phải hiện đại hoá quân đội, mới có thể Nam tiến được. Hồ
chủ trương phải chuẩn bị quân đội cho cuộc Nam tiến ngay…..Ít
lâu sau Giáp bị phe Hồ, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ “chơi tưởng
chừng không toàn thây?” Giáp bị đẩy vào góc tường, với chức
đại tướng làm chủ tịch Ủy Ban hạn chế sinh đẻ, chịu tiếng đời
mai mỉa:
“Ngày xưa
đại tướng cầm quân
Ngày nay đại
tướng cầm quần chị em”
Hẳn là Giáp
căm thù đến “ứa gan “, nhưng muốn c̣n sống, với thân phận
tướng Quảng Lạc, Giáp phải tận dùng kiến thức cử nhân luật làm
kiếp văn nô, như những ống đu đủ thổi vào đít lănh tụ:
“Hồ chủ
tịch là một nhà yêu nước vĩ đại, một nhà lê lin nít xuất sắc.
Một nhà chiến lược thiên tài, là người cha thân yêu của lực
lượng vơ trang nhân dân Việt
Nam
“
(Vơ Nguyên
giáp – nhà xuất bàn sự th ật)
III)Ḍng
dơi điên v́ Rượu, ḍng dơi con hoang, gia cảnh khốn cùng:
I) Ḍng dơi
điên v́ rượu :
Chúng ta
thường thấy có người mang ḍng máu điên v́ rượu. Gọi là ḍng
máu v́ họ di truyền trong huyết quản. Họ thích uống rượu, họ
nghiện rượu thực nặng. Khi họ say rượu: lư trí, phán đoán, suy
luận của họ như bị che mờ. Những thú tính trong họ có cơ nổi
dậy, thể hiện qua những hành động thô bạo như: tra tấn , đánh
đập người khác. Người có ḍng máu điên v́ rượu có những hành
động cuồng bạo hay thích nghe người ta rên rỉ. Khi họ lên cơn,
thường có ngôn ngữ tục tằn, cử chỉ hung hăng. Mẫu người này
thường thấy ở những tên lấy khẩu cung. Những nạn nhân khi rơi
vào tay chúng, chúng càng khai thác, nghĩa là đánh được người
ta đau, rên rỉ, quằn quại, chúng càng thoả măn thú tính. Nhưng
dẫu sao những người điên v́ rượu, chúng vẫn tiềm ẩn chất
người.Hành động tra tấn như ném đá xuống nước, tạo ra làn sóng.
Theo nhà Phật, những hành động có dụng ư đều tạo ra nghiệp,
nghiệp lớn hay nhỏ tùy theo hoàn cảnh nguời gây ra tội ác cho
người khác. Người Việt Nam trên nửa thế kỷ nay, triền miên
trong cuộc chiến thảm khốc, bom đạn của những cường lực tư bản
hay của phiá CS đổ vào, biết bao kẻ đă tạo ra nghiệp ác. Người
ta kể rằng: người phi công lái máy bay thả trái bom nguyên tử
xuống thành phố Hirosima. Đồng ư rằng anh ta chỉ là kẻ thừa
hành. Nhưng trong anh ta nhiều chất người, anh đă rung động
tạo ra những ám ảnh do những hành động của ḿnh gây ra. Traí
bom nguyên tử nổ, cả một bầu trời mầu xanh ngả sang mầu tím
bao phủ cả một thành phố……. lương tri của anh lên tiếng:-
Chúa ơi! Thê thảm đến thế à ?
Tay lái của
anh chuệnh choạng như người say rượu. Máy bay đáp xuống đất
liền…….từ đó anh trở thành mất trí…..C̣n những hành động không
dụng ư không tạo ra nghiệp. V́ lương tâm, chất người không bị
ám ảnh, ray rứt. Trường hợp người lính ra trận giết nhiều quân
thù nhưng anh đâu có bị ám ảnh, đến mặt kẻ thù anh c̣n chưa
biết, nếu anh không giết họ cho lẹ, họ sẽ giết anh.Chúng tôi
viết dài ḍng về nghiệp quả……V́ tôi tin một người gây đổ vỡ
chết chóc cho một dân tộc như Hồ, không thể chết yên lành ,
thanh thản được. !!!
Không rơ Hồ Sỹ
Toàn ra sao ? có bị điên v́ rượu hay không ? con trai của ông
là Nguyễn Sinh Huy và 3 người cháu của ông đều có ḍng máu di
truyền điên v́ rươụ !
2) Nguyễn Tất
Đạt
Nguyễn tất Đạt,
tên khai sinh lúc ra đời là Nguyễn sinh Khiêm. Năm 1894, thân
phụ ông đỗ cử nhân. Năm sau 1895,Ông Huy bị trượt. Năm 1905
gia d́nh ông dọn vô Huế, để cả Đạt và em là Thành theo học chữ
quốc ngữ và chữ Pháp. Năm 1898, ông Huy thi hội lại bị trượt.
Hai lần thi trượt, nhưng đó là con đường duy nhất, mở cho gia
đ́nh ông lối thoát, ông Huy bằng mọi giá để t́m lối. Có lẽ v́
tâm lư ấy, ông đổi tên ông là Sắc thành Huy, hai người con
trai ông là Khiêm và Côong, ông vui đùa nói lái là không cơm,
đổi thành Đạt và Thành. Nguyễn Tất Đạt sau này làm thày địa lư.
Hành tung của Nguyễn Tất Đạt không có những nét mờ ảo, phủ đầy
những huyền thoại, khóac vào những bộ áo vinh quang như Hồ.
Ông không phải là ḍng máu nhà Nguyễn Sinh ở Kim Liên, nhưng
ông trụ ở làng này cả cuộc đời. Khi Hồ Sỹ Tạo mất, bà Nguyễn
thị Thanh hàng năm về làng Quỳnh Đôi góp giỗ. Hành động của bà,
gián tiếp nói lên bà là ḍng họ Hồ.Ông Nguyễn Tất Đat, có lẽ
cũng biết ḍng dơi họ Hồ của ḿnh. Nhưng ông không trở về
nhận gốc như bà Thanh. Sinh viên làng Kim Liên ra đại học Hà
Nội than với bạn bè rằng: - Làng Kim Liên có ông cả Đạt
anh
bác Hồ, khi ông Đạt có đĩa thịt chó và một chai rựơu th́ cả
làng phải khổ v́ cơn say cuồng nộ của ông…..ông la hét, ông
muá vơ, ông đá vào bụi gai dứa, cho đền khi hết hơi rượu ông
mới trở lại b́nh thường.
Lúc đó, tôi
nghe mà không tin, bây giờ vỡ lẽ ông cả Đạt mắc bệnh điên v́
rượu như bố ông.
3) Bà Nguyễn
thị Thanh
Bà Nguyễn thị
Thanh con gái cụ Nguyễn Sinh Huy.Bà thừa hưởng ḍng máu điên
v́ rượu của người cha. Giáo sư Đặng Thái Mai, thân phụ bà Bích
Hà, trong cuốn hồi kư ông đă viết:
“Trong câu
chuyện chị nói nhiều về chi Bạch Xỉ, chị cố nhiên nói nhiều
về Nguyễn thái Bạt. Chị đă bảo tôi đọc lại hai bài thơ có liên
quan , người hồi này đổi tên là Nguyễn phong Di và đang làm
việc tại ṭa khâm. Kể ra lúc này chị có muốn thành lập gia
đ́nh th́ có phần chắc chắn hẳn là không phải không t́m ra chỗ
nương tựa.
Nhưng rơ ràng
chị đă chán trường quá đỗi. Trong bữa cơm, dưới ngôi nhà nhỏ
Kim Luông hôm đó, tôi thấy chị uống rượu hơi nhiều, tôi ngỏ ư
khuyên chị nên bỏ cái tật này đi. Nhưng chị nói:Ngày xưa có
nhiều người đàn ông bất đắc chí suốt ngày chè chén, ḿnh vẫn
chê trách, thế mà bây giờ ḿnh chẳng biết làm ǵ khác để quên
buồn, cái khổ của cuộc đời chẳng nghĩa lư ǵ”
(Huy Phong,
Yến Anh)
May bà Thanh
là đàn bà, bà c̣n có gắng ḱm hăm được những cuồng nộ, như
người cha, người anh và em của bà nên bà chỉ biết chôn vùi
mối hận t́nh trong chén rượu. Bà Thanh mượn rượu để tiêu sầu.
4)- Hồ chí
minh con ma men !
Hồ chí Minh về
mặt quốc tế đă được bọn quốc tế CS. Cơ chế này đă được Lénine
thành lập năm 1919, chủ đích để lôi kéo những nhà cách mạng Âu,
Á, Phi vào quỹ đạo của CS Nga. Hồ là gián điệp của cơ quan đó
nên CS tô son trát phấn cho Hồ, cho một vài chức tước để lừa
bịp dư luận thế ǵới, lầm tưởng tên gián điệp của Nga là nhân
vật lẫy lừng, kiệt hiệt, chẳng hạn như chức ban chấp hành CS
nông nghiệp là để phục vụ cho Nga. Cả một cơ quan tuyên truyền
ở trong nước, xuyên tạc, bóp méo lịch sử, cướp đoạt , rồi đẩy
Hồ độc tôn, độc quyền lănh đạo một dân tộc…..để Hồ đem thân
khuyển mă để phục vụ cho đế quốc Nga xô. Bầy ruồi nhặng văn nô
trổ tài khuyển mă để đánh bóng Hồ, khiến Hồ từ đầu đến chân là
con người yêu nước……người tuyệt hảo, tuyệt mỹ, trở thành nhân
vật có tầm cỡ lớn trong lịch sử. Bầy ruồi nhặng văn nô Ca bài
ca lănh tụ đến chói tai, nhức óc, để ễnh ương Hồ trở thành con
ḅ mộng……Ruồi nhặng thi nô Tố Hữu lựa những lời cao đẹp nhất
để ca tụng Hồ:
“Bác ngồi
đó lớn mênh mông
Trời cao, biển
rộng, ruộng đồng, nước non
Bác là cha của
chúng con, hồn của muôn hồn”
Chiến trường
Điện Biên Phủ, quân Tàu sang giúp vũ khí, tướng Tàu trực tiếp
chỉ huy, súng đại pháo tư biên giới Hoa Việt,bắn sang Điện
Biên Phủ, cán cân thắng bại đă quá rơ. Hồ dép râu, nón cối
khệnh khạng tới……để lũ ruối nhặng văn nô bơm, bóng gió ra điều
ta đây là yếu tố quan trọng của chiến thắng. Hồ ngồi trước tấm
bản đồ, bên cạnh có Trường Chinh, Phạm văn Đồng, Vơ Nguyên
Giáp. Hồ cầm bút ch́ khoanh môt ṿng quanh ngọn đồi Him Lam.
Bọn văn nô thu h́nh, viết lời thuyết minh, khi phim Điện Biên
Phủ ra mắt đồng bào.:
“Bác cầm
cây viết ch́ khoanh một ṿng quanh ngọn đồi Him Lam, như cái
tḥng lọng đă tḥng vào cổ địch”
Việt Thường
trong tác phẩm: Truyện thâm cung dưới triều đại Hồ, viết:
“Việt
Nam
có một ông già
Râu tóc đều
bạc tên là Chí Minh
Ông hay uống
rượu một ḿnh
Hễ bưồn ông rủ
Trường Chinh uống cùng
Say rồi ông
nói lung tung
Việt Nam ḿnh
sẽ sánh cùng Năm châu
Này ông chuyện
đó c̣n lâu!”
Nhân dân đă
vạch mặt Hồ, rơ tên và họ cùng cá tính và thói quen.
IV) Ḍng dơi
con hoang :
Xă hội ViệNam,
những năm đầu thế kỷ 2O, c̣n ảnh hưởng tư tưởng phong kiến khá
nặn
nề, nhất là
xă hội miền Bắc và miền Trung. Thân phận người đàn bà bị nhiều
ràng buộc khắt khe. Trong xă hội trọng nam khinh nữ “Nhất nam
viết hữu, thập nữ viết vô”. Người đàn bà phải giữ nhiều thứ,
chẳng hạn vấn đề hôn nhân.Người đàn bà khi có bầu hay không có
chồng mà chửa, có thể bị những h́nh phạt rất nặng nề về tinh
thần cũng như vật chất. Người Bắc thường nguyền rủa những cô
con gái tính lẳng lơ, hư thân mất nết là đồ “quạ mổ”, là đồ “
gái chết trôi sông “. Người phụ nữ không chồng mà chửa đẻ, già
chết. Người làng bó xác cô gái ép vào hai cây chuối, thả trôi
sông. Khi xác cô x́nh thối, quạ ngửi mùi mổ trên xác cô. Về
phương diện tinh thần gia đ́nh cô gái chửa hoang phải mang
tiếng xấu, cả ḍng họ cô phải chịu ảnh hưởng. Họ Hà ở làng
Chùa giàu có, cô gái lớn tên Hà thị Ty, đă 3O tuổi mà chưa có
chồng. Cô ưa nhẩy muá nhất là múa đèn nên được gọi là cô Đèn.
Nhà cô có ông Hồ Sỹ Toàn ngồi dậy học. Đội trai tài gái sắc
gần nhau như lửa gần rơm lâu ngày cũng bén. Cô gái không có
chồng, bụng càng ngày càng lớn. Ai cũng biết tác giả bào thai
là ông Hồ Sỹ Toàn, nhưng ông này đă có vợ. Gia d́nh họ Hà phải
mau chóng t́m cho cô gái tấm chồng để khỏi phạt vạ và dị nghị
của làng xóm. Ông nguyễn Sinh Nhậm người làng Kim Liên, tỉnh
Nghệ An, nhà nghèo có vài ba sào ruộng. Vợ ông mới chết,. Ông
có đưá con trai đă có vợ. Gia đ́nh họ Hà đến thương lượng để
gả chồng cho cô gái. Có lẽ ham người vợ trẻ đẹp, gia đ́nh giàu
có. Người nông dân Nguyễn Sinh Nhậm đă chấp thuận làm kẻ tráng
men. Cô gái nhà họ Hà ôm bụng về nhà chồng. Cô sống trong buồn
tủi v́ lưá đôi như đôi đũa lệch. Đưá trẻ ra dời theo ḍng họ
Nguyễn sinh Nhậm tên Nguyễn sinh Huy. Năm Huy 4 tuổi, mẹ trước
, bố hờ sau đều từ trần. Nguyễn Sinh Huy phải sống trong thảm
cảnh. Ông phải sống với bà chị dâu …... Đứa trẻ mồ côi Sinh
Huy chăm học và lanh lẹ lọt vào mắt xanh ông Tú làng Hoàng
Trừu. Ông nhận Huy là con nuôi và cho đi học. Huy bước vào
tuổi thanh niên, ông tú gả cho cô gái đầu ḷng của ông là Hà
Thị Loan. Ông dựng nhà và cho mấy sào ruộng để vợ nuôi chồng
ăn học. Khóa thi năm Mậu Tuất,kỳ thi đ́nh Huy bị rớt.Thiên hạ
đồn, sự can thiệp của ông Hồ Sỹ Toàn mà Huy được học bổng
trường hậu bổ. V́ trên danh nghĩa Huy là con một nông dân,
trường hậu bổ dành cho gia đ́nh quan lại. Năm 1905, ông Huy
đưa cả gia đ́nh vào Huế. Gia đ́nh ông có đôi vợ chồng và ba
đưá con chỉ sống chỉ sống bằng học bổng của trường Quốc tử
Giám. Khóa thi đ́nh Huy lại rớt, học bổng của Huy bị cúp. Gia
đ́nh quá quẫn bách Sinh Huy, phải t́m đường về làng DươngLỗ
ngồi dậy học. Ông Huy mang theo hai người con trai, ở lại Huế,
người vợ đang có bầu. Bà Huy sinh thêm cậu bé Xin. Một ḿnh bà
phải vừa nuôi con lại phải dệt vải nuôi ḿnh, sức lực của bà
ngày cạn kiệt. Bà Huy phải sống những ngày cùng quẫn, đau ốm
không c̣n sữa. Bà phải bế con sang nhà hàng xóm để xin bú nhờ.
Có lẽ v́ thế cậu út mới được đặt tên là Xin. Đầu năm 1900,
thầy Huy lên kinh để xung vào ban tổ chức khoá thi hương tại
Thanh Hóa, ngày 22 tháng chạp năm19O1 bà cử Huy chết trong
cảnh nghèo nàn cùng cực tại Huế, thọ chưa đầy 40 tuổi. Sinh
Huy hay tin về đến nhà th́ xóm giềng lo việc chôn cất cho cô
cử xong xuôi. Khoá thi đ́nh năm 1901Nguyễn sinh Huy đậu phó
bảng, ông phó bảng đă đưa vợ con về làng Hoàng Trừu. Một thời
gian dân làng Kim Liên không muốn ông ở rể , họ làm nhà 5 gian
mời ông về làng kim Liên . Dịp này ông đă đổi Sinh Khiêm thành
Tất Đạt, Sinh coông thành Tất Thành. Bé Xin về quê được thời
gian rồi mất. Đạt theo ông phó bảng đi dạy học, chị Thanh lo
việc nhà. Thành học chữ hán với thày Vương thúc Quư người cùng
làng. Năm 1905, ông Huy đưa con vào Huế, ông nhận chức thừa
lại bộ lễ nên các con trai của ông được vào trường Quốc Học ở
Huế. Năm 1909Nguyễn sinh Huy nhận chức tri huyện B́nh Khê tỉnh
B́nh Định. Trong cơn say ông đă đánh chết một tù nhân, v́ án
sát nhân ông bị cách chức tri huyện. Sự việc này ví như ly
nước đă đầy, nhỏ thêm vài giọt, nước tràn ly chẩy ra ngoài.
Sinh Huy cả cuộc đời sống trong cùng cực của cảnh nghèo, thêm
vào đó ḍng máu con hoang, khiến mọi người xa lánh, dị nghị.
Nay thêm án đánh chết người th́ làm sao ông ngó nh́n giới sỹ
phu và dư luận khắc nghiệt của Nghệ Tĩnh cho được. Có lẽ về 3
lư do vừa kể, ông phó bảng đă bỏ quê hương và 3 con dại, cúi
đầu ra đi biền xứ như người chạy tội. Nguyễn Sinh Huy vào
Sàig̣n, rồi trôi dạt xuống Hồng Ngự, sống bằng nghề bắt mạch
cho đơn thuốc Bắc và chết tại đó năm 1908. Nguyễn Tất Thành bỏ
học năm 1909 anh làm phụ bếp cho tàu buôn đi Pháp.
V)- Gia cảnh
cùng khốn:
Phần lớn các
nhà nho đều nghèo, nhưng đa số t́m thấy cảnh nghèo một phong
vị:
“Ngày ba
bữa,vỗ bụng rau kêu b́nh bịch
Người quân tử
ăn chẳng cầu no
Đêm năm canh
ăn giấc ngáy kho kho
Đời thái b́nh
cửa thường bỏ ngỏ”
(Nguyễn công
Trứ )
Nghèo vẫn ấp ủ
chí lớn như Cao Bá Quát :
“Quyết ném
thanh khâm sang cẩm tú
Quyết xoay
bạch ốc lại lâu đài “
Tú Xương cười
vang, thiên hạ hơn ông cái giầu, ông cũng hơn thiên hạ cái
nghèo:
“Người ta hơn tớ cái phong lưu
Tớ
cũng hơn ai một cái nghèo »
Khi
ông được học bổng, Sinh Huy đem vợ, con ông vào Huế cho con
ông được học tiếng Pháp. Một gia đ́nh có đôi vợ chồng và ba
đưá con nhỏ, chỉ sống bằng chợ cấp của trường Quốc Tử Giám.
Ông rớt kỳ thi đ́nh, học bổng của ông bị cắt. sống trong cảnh
cùng quẫn. cùng đường ông phải t́m đường ngồi dậy học, mang
theo hai người con trai, để lại Huế, người vợ đang có bầu: “Cô
cử Sắc đă sinh thêm được
em bé Xin. Hai mẹ con không
được khoẻ mạnh. Một ḿnh vừa phải làm nuôi con dại, vừa phải dệt
vải để kiếm sống nên sức lực cô càng ngày càng kiệt. Nhiều hôm
cô ốm không dệt được vải, cô phải bồng con sang nhà hàng xóm ở
miệt chợ Xép, ngă tư âm hồn để ăn đậu một bữa, người ta nói
chính v́ lư do đó cô đặt tên con là Xin.”
(Nguyễn đắc Xuân)
Trả lời
người quen, cụ cử Sắc có dịp nói về gia thế của ḿnh:
“
Thằng này là thằng Khơơm, thằng này là thằng Côong là không
cơm. Nên bày tôi đi mô th́ đem hai đứa đi nấy để nhờ gia chủ
nuôi “
(Nguyễn đắc Xuân)
Đầu
năm canh tư19ƠO, bộ lễ cử thày cử Sắc, đi chấm thi trường
Thanh Hóa. Ngày22 tháng Chạp, năm canh tư cô cử mất ở cái tuổi
gần 40:
“Hàng
xóm láng giềng rất cám cảnh nghèo của cô, người có t́ền đem
cúng tiền, người có công giúp công “
(Nguyễn đắc Xuân )
Được
hung tin, vợ mất thầy cử Huy trở về đến nhà th́ xóm giềng đă
lo việc, chôn cất cho cô cử xong xuôi. Năm 1901 ông Nguyễn
Sinh Huy đậu phó bảng. Ông và đàn con trở về quê ngọai làng
Hoàng Trừu. Cậu Xin về quê được ít lâu thí mất. Dân làng Kim
Liên không muốn ông phó bảng ở rể nữa.. Họ làm ngôi nhà mới mời
ông về làng Sen. Phó bảng Nguyễn Sinh Huy tiếp tục dậy học để
nuôi thân. Chị Thanh lo việc nhà. Cả Đạt đi theo cha. Tất
Thành học chữ Hán với thàyVương Thúc Quư người cùng làng. Thời
gian sau ông nhận chức thưà phái bô Lễ. Thời gian sau ông bảng
Huy nhận chức tri huyện B́nh Khê, cơn say rựơu ông đánh chết một
người tù nên ông bị cách chức tri huyện. Nh́n lại quăng đời vừa
qua, có lẽ ông không đủ can đảm, trở về quê để nối tiếp con
đường đầy chông gai đó .!nên ông cúi đầu lặng lẽ ra đi biền
biệt như người lẩn trốn…..vào Sàig̣n ,rồi trôi dạt xuống miền
Hồng Ngự rồi chết ở đây
VI) –Báo Paria,
báo Việt Nam hồn.
─
Kháng thư gửi hôị nghị Versaille
─
Bản án chế độ thực dân Pháp
Năm 1917 Thành
từ Anh về Paris, nộp đơn xin học trường thuộc địa của Pháp.
Đơn xin của Thành bị từ chối. Thành t́m tới cụ Phan,cụ cho
Thành ở số 6, phố Gobelin-75O13 Paris. Thời gian này Thành
nhập nhóm Ngũ Long, nhập đảng CS Pháp, viết báo Paria. Nguyễn
Thế Truyền, coi như đă khai quang mở nhĩ cho Nguyễn tất
Thành,giới thiệu Thành những nhân vật chính trị ở Paris, tận
t́nh dạy Thành tiếng Pháp, sửa chữa bài bằng tiếng Pháp cho
Thành để Thành tập tễnh đi vào giới báo chí Pháp. Nguyễn Thế
Truyền và Nguyễn tất Thành coi như cặp bài trùng, có lẽ họ
không quá xa cách nhau về tuổi tác. Ngoài tinh thần tranh đấu,
lẽ ra Thành phải coi cụ Truyền như một ân nhân. Người Việt
thường nói: “ một miếng khi đói bằng gói khi no “ hay “Đêm
nằm bằng năm ở “. Cụ Phan chu Trinh, về vai vế đă đỗ cùng
khoá với thân phụ Thành.. Nhưng Thành là người có lẽ khô cạn
t́nh cảm. Những thủ đoạn đạp ngựi xuống để đề cao ḿnh là bản
chất của Hồ và bọn CSVN. Văn nô Hồng Hà trong cuốn : Thời
Thanh Niên Của Bác Hồ, đă ngang nhiên hạ hai cụ Phan xuống để
đề cao lănh tụ của chúng:
“Nguyễn ái
Quốc nổi lên là lănh đạo có uy tín đối với người Việt tại Pháp,
trong khi đó vai tṛ cuả Phan
chu Trinh và
Phan văn Trường bị lu mờ”
Nguyễn ái Quốc
không phải bút hiệu của Thành mà là bút hiệu của nhóm Ngũ
Long, đến Nguyễn thế Truyền văn nô Hồng Hà mô tả:
“Đoàn thanh
niên quận 1 7, đi tham gia cuộc biểu t́nh của thanh niên
chống đế quốc và chống chiến tranh ở quảng trường cộng Ḥa,
trong cuộc này Nguyễn thế Truyền cùng đi với anh Nguyễn vừa
thấy lực lượng cảnh sát xuất hiện , Truyền bỏ chạy về nhà”
Đấy là lối
viết mô tả, tường thuật của đạo đức Hồ chí Minh đă chỉ dậy cho
chúng, viết cho ai , viết làm ǵ ?:
“Người đảng
viên , người cán bộ muốn trở thành người cách mạng chân chính,
không có ǵ là khó cả. Điều đó hoàn toàn do ḷng ḿnh mà ra.
Ḷng ḿnh chỉ biết v́ đảng, v́ đồng bào th́ ḿnh sẽ đến chỗ
chí công vô tư “
(Đạo đức cách
mạng - Hồ chí Minh)
Nhiều người đă
biết, nhà cách mạng Nguyễn thế Truyền ở Paris cũng như khi về
Việt Nam ông đều tranh đấu công khai , trực diện, với những
hành động dũng cảm, chứ đâu phải người tranh đấu trong bóng
tối hay giật giây người khác mà phải dấu mặt, dấu tên…Người
cầm bút trên cơi đời phải có thiên chức phải viết đúng hay gần
sự thật. Nhưng dưới ánh sáng của đạo đức Hồ chí Minh, người
cầm bút trước khi viết phải đặt vấn đề viết cho ai ? viết cho
đảng, v́ đảng, viết làm ǵ để phục vụ đảng như thế lũ văn nô
khi cầm cây viết, khi làm câu thơ, làm bài ca , khi vẽ một cái
ǵ…về đảng , về lănh tụ Hồ, là họ tuân theo đạo đức của Hồ đấy
chứ ?
Sau hiệp định
Genève, chia đôi đất nước. Hồ và đảng CSVN chuẩn bị tiếp thu
thành Hà Nội và cai trị một nửa đất nước. Hồ cần người có
thành tích cách mạng , có uy tín trong nhân dân, có lợi cho
việc củng cố cái ghế chủ tịch của Hồ, cũng như thời điểm 1946
Hồ cần uy tín của cụ Nguyễn Hải Thần. Hồ mang cái ghế phó chủ
tịch nhà nước ra dụ cụ Nguyễn thế Truyền:
“Ông Nguyễn
thế Truyền cũng cho cụ tú Nguyễn vân Anh và chúng tôi biết là
ông mới nhận được lá thư của Hồ chí Minh gửi cho ông do một
cán bộ nội thành trao cho ông sau hiệp định Genève kư kết.
Trong thư Hồ chí Minh nhắc lại đến t́nh bạn hai ông Hồ Nguyễn
khi ông c̣n ở Paris, ba mươi năm về trước. Ông Hồ khẩn khoản
mời ông Nguyễn thế Truyền ở lại Bắc Việt, ông sẽ trao chức phó
chủ tịch nhà nước có thực quyền cho Nguyễn thế Truyền để ông
và ông Hồ là chủ tịch nhà nước cùng coi việc nước.”
Ông Nguyễn thế
Truyền dặn người cán bộ thưa lại với ông Hồ là ông cảm tạ
thịnh t́nh của ông Hồ nhưng ông không thể nhận lời mời được.
V́ nay mỗi người theo đuổi một lư tưởng, đi hai hướng khác
nhau trong vấn đề phục vụ Quốc gia dân tộc”
1)- Báo Le
Paria:
Văn nô Đặng
Ḥa trong tác phẩm: “Những Năm Tháng Ở Nước Ngoài” ca tụng,
huênh hoang, muá may……như khoác lên người bác của hắn cái vóc
dáng trí thức chứ đâu có “xần xùi “ như anh phụ bếp dưới tàu
hay anh quét tuyết……mà là người sáng lập ra tờ báo , giữ vai
tṛ chủ chốt trong việc tổ chức, nhất là bác của chúng vô cùng
“ to lớn”, hoá thân như Phù Đổng thiên vương: chỉ đạo ban biên
tập, sửa chữa bài th́ đúng là vai tṛ của ông chủ bút rồi! Ông
chủ bút Nguyễn Tất Thành học lực cuối lớp nhất, mấy năm tự học
tiếng Pháp mà làm công việc chỉ đạo biên tập, sửa chữa bài vở
một tờ báo tiếng Pháp có tầm vóc quốc tế như tờ Paria th́ khó
tin quá ? và không khỏi đặt một câu hỏi:- Nếu văn nô Đặng Ḥa
viết bác của chúng sửa bếp gaz hay sửa khung h́nh …..th́ không
có ai thắc mắc. V́ đó là nghề sinh sống của Hồ, c̣n tô hồng Hồ
chỉ đạo ban biên tập hay sửa chữa cho tờ báo Paria th́ khó
chinh phục được niềm tin. V́ Paria là cơ quan ngôn luận của
liên đ̣an thuộc địa phần lớn là những người da đen dâu có phải
là những người da đen thường gặp ở Simca hay Peugoet hay quét
rác ở métro…..Mà da đen là những người luật sư, nhà văn , nhà
báo. Chuyện Hồ sửa bài cho báo Paria cũng lạ như chuyện Hồ chỉ
huy dàn nhạc ḥa tấu vậy! Con khỉ già thành tinh, dôi khi đội
cốt người: nhẩy muá ca hát sảng khoái, nó thường để lộ cái
đuôi dài tḥong. Người hay nói phét, khi hứng khởi thường bốc
ḿnh lên cao quá, lên mây, lộ đuôi trong lúc quá hứng đấy:
“Ta con ông
cống cháu ông nghè
Nói có trên
trời dưới đất nghe
Bữa nọ qua
chơi vườn thượng uyển
Một đàn công
chuá chạy ra ve”
(ca dao)
Văn nô Đặng
Ḥa viết:
“ Xuất bản
tờ báo Paria bằng tiếng Pháp. Ông Nguyễn là một trong những
người sáng lập, đồng thời là chủ nhiệm kiêm chủ bút của báo.
Ông giữ vai tṛ chủ chốt trong việc tổ chức, chỉ đạo biên tập,
sửa chữa những bài cũng như viết bài cho báo “
Nguyễn tất
Thành là chủ bút kiêm chủ nhiệm th́ rất có thể. V́ ở một nước
tự do như Pháp chỉ cần biết đọc biết viết là có thể đúng chủ
nhiệm, chủ bút tờ báo, c̣n giữ chủ chốt là linh hồn của tờ báo
th́ Nguyễn Tất Thành mới học cuối năm lớp nhất mà chỉ đạo biên
tập, sửa chữa những bài cũng như viết bài cho báo khiến người
đọc phải đặt một câu hỏi ? Báo Paria là báo quốc tế viết bằng
tiếng Pháp mà người học lực như Hồ làm công việc sửa bài bằng
tiếng Pháp th́ không ai tin đó là sự thực. Nguyễn thế Truyền
người viết lâu năm cho Paria, cụ Đặng Ngọc Thụ viết:
“Ông Nguyễn
thế Truyền bắt đầu viết báo Paria từ năm 1922, kỳ báo nào cũng
được ông gửi về Việt Nam 200 bản. Đầu năm 1925 ông Nguyễn thế
Truyền được hôi liên hiệp thuộc địa mời ra làm chủ bút tờ
Paria. Dười quyền điều khiển của ông, báo Paria tăng số trang,
mỗi số in từ 2000 bản, tăng lên5000 bản và sau cùng tăng lên
10.000 bản “
(Đặng Ngọc Thụ
)
Khi viết báo
Paria, Nguyễn thế Truyền có lẽ v́ tinh thần đồng đội đă bênh
vực Hồ khi hắn bị một tờ báo Pháp tấn công là có nhiều tham
vọng và chẳng có sứ mạng ǵ của Việt Nam giao cho. Ngược lại
Hồ lúc nào, trong t́nh huống nào cũng thể hiện bản chất cuả Hồ.
Chúng đúng là ruồi nhặng văn nô thứ thiệt. Bọn văn nô đă đá
gị lái người đă từng lên tiếng bảo vệ Hồ.
“Ban biên
tập người cùng khổ quyết định phê phán ngay dọng lưỡi láo xược
của tờ báo lá cải của thực dân giao cho Nguyễn thế Truyền một
Việt kiều anh Nguyễn mới giới thiệu vào hội, viết bài trả lời
trên báo cùng khổ “
Chung ta tự
hỏi: Nguyễn thế Truyền giới thiệu Tất Thành vào báo Parisa hay
ngược lại. Báo Paria, số ra mắt tháng 4 năm 1922, tháng
4 năm 1923 Hồ bỏ đi Nga. Nếu quả Hồ, là linh hồn của tờ báo
Paria , như văn nô của Hồ đă bóp mèo sự thực để khoe, th́ Hồ
cũng không lănh đạo được bao lâu, v́ chỉ có một năm, số phát
hành thời Hồ lănh đạo chỉ bằng 1/ 5 thời Nguyễn thế Truyền làm
chủ bút tờ Paria ? Thế mà Hồ và lũ ruồi nhặng văn nô cứ lẻo
mép tuyên truyền: Hồ với báo Paria là một - Hồ là báo Paria –
báo Paria là Hồ. Mặc dù cái ám ảnh của quá khứ làm báo ở Paris
vẫn vô t́nh thoát ra cửa miệng Hồ, dưới bút hiệu Trần Dân Tiên,
Hồ kể::
“Ông Hồ
chí Minh không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu
cầu ông Phan văn Trường viết thay. Ông Trường viết giỏi mà
không muốn đề tên mà chính ông phải kư tên những tờ báo đó”
Vấn đề thực là
dễ hiểu: Hồ là chủ bút linh hồn của tờ báo là người sửa bài
của người khác. Báo Paria Hồ viết bài phải năn nỉ nhờ người
khác viết hộ. Vấn đề xem ra có ǵ xuyên tạc, che đậy trong đó?
Một anh học lực như Hồ không thể nào viết được báo Pháp, càng
không thể sửa bài cho người khác là điều hiển nhiên là sự thực.
Thế mà con người ấy là linh hồn của tờ báo, viết bài và sửa
chữa bài của người khác trước khi đăng báo là điều bịp bợm hay
nhập nhằng đánh lận con đen.
2) Ai chủ
trương Việt Nam hồn ?
Báo Hồn Việt
Nam chỉ sống được 8 số. Số ra mắt tháng 1 năm 1926, bị đóng
cửa do lệnh của
ông tổng
trưởng nôị vụ Pháp. Xuất bản ở Paris, nhưng nó về Việt Nam với
số lượng lớn. Giới trí thức, nhà nho, người yêu nước, công
chức, học sinh…..đọc Việt Nam hồn một cách say mê. Những nhà
cách mạng danh tiếng như cụ nghè Ngô đức Kế, cụ cử Lương văn
Can, giám đốc trường Đông Kinh Nghĩa thục. Cảnh sát khám nhà
hai cụ đă t́m được báo Việt Nam hồn và hai cụ bị kết tội tàng
chứa đồ quốc cấm. Có lẽ khơi dậy ḷng ái quốc của người Việt
Nam mà Việt Nam Hồn bị chết yểu. Xuất xứ của Việt Nam Hồn đă
được thuật lại đầy trung thực rằng: Sáng kiến Việt Nam hồn
bằng ba thứ tiếng: Việt Nam, Hán và Pháp là sáng kiến của Hồ
và chính Hồ viết tờ truyền đơn kêu gọi giới Việt kiều mua báo
dài hạn. Cuối lời kêu gọi Hồ c̣n nhấn mạnh:- nếu không đủ 100
người mua báo dài hạn th́ báo không thể ra được! Năm 1923, Hồ
đi Nga, không trở lại Paris nên báo Việt Nam Hồn chỉ có
trong dự định của Hồ chưa có ở ngoài đời…..đến năm 1926 báo
Việt Nam Hồn được ra mắt độc giả bởi ông Nguyễn thế Truyền.
Báo Việt Nam Hồn kích thước lớn lao, uy tín sâu rộng, bọn ruồi
nhặng văn nô của Hồ liền dở ngón sở trường của chúng là mập mờ
đánh lận con đen để tô điểm vóc dáng trí thức cho Hồ. Văn nô
Đặng Ḥa trong cuốn: Bác Hồ Những năm Tháng ở nước ngoài đă
viết:
“Ông
Nguyễn không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu,
ông Phan văn Trường viết thay, ông Trường viết giỏi, nhưng
không muốn kư tên mà chính ông Nguyễn phải kư tên những bài
báo. Nhược điểm về trí thức làm ôngNguyễn rất khó chịu. Nhất
là ông Trường không viết tất cả những điều mà ông nguyễn muốn
nói”
Thế là rơ ràng
sáng tỏ như ban ngày. Hồ phải nhờ người viết bài. Hồ đưa bài
của nhóm Ngũ Long đến ṭa sọan baó chí Pháp th́ ai cũng hiểu
được, c̣n viết rằng Hồ là linh hồn của tờ báo, sửa chữa bài
trước khi báo lên khuôn th́ chỉ có thể, có ở đưới chế độc CSVN.
Báo Việt Nam Hồn ra mắt năm 1926, trước đó 3 năm- năm 1923 Hồ
đi Nga và không trở lại Paris, thế mà tụi ruồi nhặng văn nô vô
liêm và vô sỉ, bóp méo lịch sử là bác Hồ làm báo Việt Nam Hồn
ở Paris. Câu chuyện Hồ viết báo và là linh hồn của tờ báo rơ
ràng là câu chuyện lạ không thể có ở thủ đô báo chí Paris! Ở
cuộc đời này!
3) Bản án chế
độ thực dân Pháp
Trước khi đi
Nga năm 1923, Hồ viết cuốn sách nhỏ “ Le proces de la
colonisation Française “ là những tiểu luận kết án chính sách
thâm độc của thực dân Pháp đối với dân tộc Việt Nam như bắt
dân Việt Nam uống rượu Fontaine và thuốc phiện bán công khai
hợp pháp, vấn đề sưu cao thuế nặng…….Sách in ở Paris , với lời
tựa đề và sửa chữa của Nguyễn thế Truyền. Cụ Đặng ngọc Thụ
viết:
“Ông Bửu nghi
chánh án ṭa án sơ thẩm Định Tường năm 1967 cho chúng tôi biết
khi chúng tôi làm việc tại ṭa này. Ông du học bên Pháp năm
1926, ông là bạn thân ông Nguyễn Thế Truyền.Ông Nguyễn thế
Truyền đưa cho ông cuốn bản thảo bản án chế độ thực dân Pháp
mà ông Nguyễn ái Quốc trao cho ông Nguyễn thế Truyền nhờ sửa
dùm các lỗi chính tả, văn phạm, sửa đổi lời văn. Ông Nguyễn
thế Truyền nhờ ông Bửu Nghi sửa trước. Sau ông Nguyễn thế
Truyền sửa chữa lần nữa, gọt rũa câu văn, viết- lại nhiều
trang mà ư tưởng thiếu mạch lạc, trước khi trao cho nhà in.
Ông Nguyễn ái Quốc tuy rất thông minh nhưng chỉ mới học hết
bậc tiểu học nên bài ông viết phải sửa chữa lại bài viết”
Trong tác phẩm
kể trên viết về tờ tŕnh của viên chánh kiểm soát quân đội
Đông Dương và người Đông Dương tại Pháp gửi cho toàn quyền
Đông Dương, năm 1923 về việc ông Nguyễn Ái Quốc nói và viết
tiếng Pháp như sau:
“Les
articles publié sous le nom eté au moin des plus sérieu ses
retouches cet Annam »
Túi
khôn dân tộc đă dậy rằng: « Tốt đep khoe ra,xấu xa đậy lạị ». Dù
sao đi nữa cũng là chủ tịch một nước, kiêm chủ tịch một đảng
đang độc quyền thống trị dân tộc, tiền thân tự xưng là kư giả
lừng danh trên thế giới mà Hồ không đủ tŕnh độ nhận định về bản
chúc thư đầy lỗi chính tả của ḿnh. Người học sinh ngày nay
cũng không có người viết tồi tệ như Hồ. Tác giả bức di chúc và
những bài thơ con cóc của Hồ, hùng hồn minh chứng rằng: Hồ
không có tŕnh độ văn hóa nhà trường nên mới bị lộ tẩy nguyên
con. Lũ văn nô ếch nhái cứ xa xả ca tụng văn tài của bác, nào
bác của chúng là nhà văn lớn, nhà triết học …Lời ca lâu năm Hồ
tưởng giả thành thực. Một lần nữa minh chứng rằng: Hồ và lũ ruồi
nhặng văn nô có tài thay trắng đổi đen, có tài nói không làm
có. Văn nô Đặng Ḥa trong phần đầu tác phẩm: Bác Hồ những năm
đầu ở hải ngoại đă viết :
« Theo
nghị quyết của tổ chức văn hóa, giáo dục và khoa học( UNESCO )
thuộc liên hiệp quốc, ngày 19 tháng 5 năm nay, nhân dân toàn
thế giới tổ chức trọng thể kỷ niệm ngày sinh nhật 100 năm sinh
của chủ tịch Hồ chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn
hóa lớn. Vinh dự tự hào là dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất
nước ta đă sinh ra chủ tịch Hồ chí Minh. Nhà nước cộng hoà xă
hội chủ nghĩa Việt Nam đón nhận quyết định của UNESCO với ḷng
kính trọng với sự cám ơn sâu sắc »
Hồ và
lũ văn nô chúng có bản chất có tài đổi trắng thành đen, đổi
không thành có……đă diễn ra trên giấy trắng mực đen dưới chế độ
Cộng Sản hay không ??. Điều rơ ràng hiển nhiên rằng : Việc
văn hoá liên hiệp quốc trao giải thưởng cho Hồ chưa hề diễn
ra. Người tỵ nạn Cộng sản ở Paris khá đông, có người ở gần cơ
quan văn hóa liên hiệp quốc, không ai thấy UNESCO trao gỉải
thưởng cho Hồ. Những năm sống dưới chế độ cộng sản đồng bào ta
đă có câu: « Ăn gian nói dối, ăn có nói không như vẹm »
Tới giơ phút này, đồng bào, nông dân ở trong nước , xa thành
thị và thông tin vẫn tin tuyên truyền của Việt cộng mà hoang
tưởng rằng : Hồ được lănh giải thưởng của liên hiệp quốc !
4)
Kháng thư gửi hội nghị Versailles
Hội
nghị ḥa b́nh họp ở Versailles , ruồi nhặng văn nô t́m mọi cơ
hội, bất chấp thực tế để đề cao bác của chúng. Văn nô Hồng Hà
trong cuốn : thời thanh niên của bác Hồ viết :
« Biết
tin có hội nghị Versailles, Nguyễn tất Thành đă cùng anh em
trong hội người Việt Nam yêu nuớc ở Paris họp bàn và quyết định
nhân dịp này và đưa ra một yêu sách của nhân dân Việt Nam. Mọi
người giao cho anh Thành soạn thảo và đứng tên đại diện kư dưới
bản yêu sách. Và lần đầu tiên Nguyễn ái Quốc xuất hiên »
Hội
người Việt Nam yêu nước không phải của Hồ.
Hội nghị hoà b́nh họp ở
Versaille năm 1919, cụ Phan chu Trinhviết kháng thư tám điểm.
Kháng thư được cụ Phan văn Trường dịch sang Pháp văn. Bọn văn
nô lại phịa ra truyện : « anh Thành soạn thảo và đứng tên đại
diện ».Như thế có hai bản yêu sách khác nhau : Bản của
Phan chu Trinh, bản không tưởng, phịa không ra có của Nguyễn
tất Thành. Sự thực ai là bản kháng thư gửi hội nghị
Versailles. Nếu Hồ được mọi người yêu cầu viết kháng thư th́
chúng ta đặt ra một câu hỏi ; - Hồ học lực quá thấp đến Paris
được 2 năm , th́ không thể nào viết được kháng thư, tŕnh bày
trước hôi nghị quốc tế. Nếu viết rằng Thành mang kháng thư đến
hội nghị th́ không ai chối căi được. C̣n viết kháng thư th́ chữ
nghĩa đâu mà Thành viết. Cái ǵ của César phải trả về cho
César th́ kháng thư phải trả về cho Phan chu Trinh..
VII)
Quan hệ môi hở răng lạnh. Gián điệp Nga trên đất Tàu.
Đơn
xin học trường thuộc địa bị từ chối. Đó là bước ngoặt của một
thanh niên con nhà khoa bảng mà bị trầm luân trong cảnh nghèo.
Bị người đời xa lánh v́ cha mang ḍng máu con hoang, thêm vào
đó người cha c̣n bị tiếng sát nhân. Nguyễn tất Thành cũng như
thân phụ anh ta, cả hai đều muốn trốn cái dĩ văng trầm luân.
Con dường chẳng những thoát nghèo, c̣n có thể rửa mặt trả thù
đời là con đường hoạn lộ, với Nguyễn tất Thành đă bị bế tắc. Vốn
bản tính lưu manh và bén nhậy, nhiều mưu thâm hiểm độc. Hồ đă
làm thân tầm gửi, bám trên các cây của nhóm Ngũ Long làm hành
trang cách mạng và làm bậc thang vào đời…… để tiếp tục những bịp
bợm khác. Có lẽ vận mạng dân tộc chúng ta đến thời mạt vận nên
mới sinh ra đời một thứ « hung tinh đắc điạ », bao nhiêu thảm
họa đổ xuống đầu dân tộc Việt Nam. Ta biết làm ǵ hơn, như người
thiếu phụ trong Cung oán ngâm khúc, cao đầu chất vấn hoá công :
«
Xanh kia thăm thẳm từng trên
V́
ai gây dựng cho nên lỗi này »
VIII) - Hội nghị Tour ở Pháp đánh dấu bước ngoặt của đời Hô.
Đại
hội Tour họp cuối tháng 12 năm 1920, có bức h́nh Hồ dơ tay
phát biểu trước đại hội. Đó là bức h́nh ăn ảnh nhất đời Hồ. Hồ
nhập đảng CS Pháp, đảng này là chi bộ của đảng xă hội. Trong đại
hội Hồ chỉ có cử chỉ đơn giản là tán thành chủ trương của
Cachin là đảng CS Pháp, tách ra khỏi đảng xă hội và nhập đệ
tam Quốc tế. Tấm h́nh được lũ văn nô dở ngón sở trường của
chúng: Mập mờ đánh lận con đen:- Hồ là người sáng lập đảng CS
Pháp, ban chấp hành quốc tế CS. Hồ là người sáng lập đảng CS
Pháp ? Chúng tôi xin nhắc lại sự kiện để quí vị thấy rơ ngón
bịp bợm của Hồ và lũ văn nô. Năm 1917 Hồ mới trở lại Pháp, năm
1920 họp đại hội . Hồ sinh sống ở Paris bao lâu mà là sáng lập
viên đảng CS Pháp ?
Kích
thước vă n hoá của Hồ chỉ là anh học lực quá thấp. Vốn liếng
tiếng Pháp của Hồ chỉ là mấy năm tự học. Thành tích tranh đấu
của Hồ chỉ là anh liên lạc thư từ của nhóm ngũ Long. Những người
thành lập đảng CS Pháp tầm cỡ như Henri Barbusse…..th́ Hồ nói
bằng tiếng ǵ, bàn bạc ǵ với họ ? Chẳng lẽ họp trung ương đảng
thảo luận bằng dơ tay ra dấu hay sao ?Lũ ếch nhái chỉ biết
nhai nhải ca vang lănh tụ ! Chúng không biết người biết ta.
Chúng tâng bốc quá mức, khiến Hồ như loài chồn cáo, khoái chí
nhẩy múa để lộ ra cái đuôi dài. Hành động của Hồ trong hội nghị
Tour lọt vào mắt xanh của QTCS.Tổ chức này do lénine thành lập
năm 1919, đưa ra chiến lược bịp: Quốc tế cộng sản hỗ trợ
cho các dân tộc nhược tiểu và bị trị dành lại Độc lập. Giữa
lúc các nước thực dân chỉ tin vào sức mạnh đàn áp của ḿnh
và bả vinh hoa mua chuộc bọn tay sai bản xứ. Chiến lược hỗ trợ
các dân tộc nhược tiểu nhữngnhà cách mạng nôn nóng, hiểu lầm ,
tự đút đầu cạm bẫy giải phóng. Vùng lên hỡi các dân tộc ở trên
thế gian, vùng lên hỡi ai cực khổ bần hàn……Người ta đă vùng
lên…… để tự đút đầu vào cái tḥng lọng, rơi vào quỹ đạo của
Nga. Hồ được cung ứng phương tiện giấy tờ, đưa đường từ Paris
qua Đức, rồi tù Đức bằng thông hành giả, đưa người cán bộ
QTCS vào Mạc tư khoa :
« Tránh
vỏ dưa mắc vỏ dừa
Tránh chàng Kim Trọng mắc lừa Sở Khanh »
Những
nhà cách mạng của những dân tộc bị trị được Nga sơn phết cho
sắm những vai tṛ ǵ trong QTCS ? Là nhân viên hay ban chấp
hành đi nữa. Thực chất của họ chỉ là kẻ « nằm vùng » hay « gián
điệp» t́nh báo cho Nga. Những kẻ bán linh hồn cho Nga , điển
h́nh là Kim Nhật Thành và Hồ. Họ bị uống bùa mê thuốc lú hay bị
cấy sinh tử phù, hay họ sợ sự thanh trừng đẫm máu của bàn tay
sắt Stalin ? ;Bọn làm gián điệp cho QTCS thực ra chúng làm việc
của những tên nội ứng, nằm vùng, tai mắt cho CS Nga. Người Việt
gọi chúng là chó săn. Chúng phải dữ tuyệt đối trung thành với
mẫu quốc là Nga để giữ mạng sống. Như hành động của Hồ và bọn
CSVN, chúng bằng xương máu của thanh niên Việt Nam đẩy họ đi
chiếm nước láng giềng mà chúng gọi là nghĩa vụ quốc tế. Tồn tại
trên nửa thế kỷ QTCS rèn luyện được một đoàn tay sai, chúng
tung ra khắp năm châu bốn biển. Đặc diểm của những tên tay sai
của QTCS chúng đều mất dân tộc tính, tuyệt đối trung thành
theo lệnh của Nga. Hồ sau 30 năm trở lại quê hương của ḿnh,
núp trong hang Pác Bó, việc đầu tiên Hồ gọt đẽo nhũ đá trong
hang thành tượng Marx để hắn thờ. Con suối nhỏ trong hang Hồ
đặt tên là suối Lênin. Ngoài xă hội khi chúng cầm quyền: tượng
Phật, tượng chuá, tượng các anh hùng dân tộc như Trần Hưng Đạo,
trong nhà thờ ông bà thờ gia tiên…..đều biến đi hết. Những chuỗi
ngày dài hoạt động của đời Hồ cho đến khi chết, Hồ chỉ thờ mấy
tên ; tóc râu sồm soàm : Marx, Lénin, Stalin, Mao , Hồ…..cúc
cung phục vụ cho đến khi chết Hồ chỉ ước mong được gặp các cụ
Marx, lénin…..Trong đầu óc và tâm trí Hồ không có tổ quốc,
không có cha mẹ, không có gia đ́nh, tổ quốc của Hồ chỉ có quốc
tế CS Từ khi đến Nga năm 1923, Hồ như t́m được ngôi trường mới,
cả chuỗi dài hoạt động của Hồ cho đến khi chết chỉ do Nga và
v́ Nga :
« Anh
mời các đồng chí Tây ban nha công tác ở Mát cơ va đến chơi để
hỏi t́nh h́nh và kinh nghiệm chiến đấu. Anh chia sẻ với chiến
sỹ yêu nước Tây Ban Nha niềm hy vọng cùng những năm đau khổ và
lo âu. Cuộc chiến đấu anh dũng của họ làm anh xúc động. Anh đề
nghị với QTCS cho anh được đứng trong hàng ngũ 4 vạn quân t́nh
nguyện của 55 nước sang chiến đấu giúp Tây Ban Nha chống phát
xít. Nhưng anh đă được nhân vật lănh đạo QTCS trả lời : Việt
Nam cần đồng chí hơn »
(Bác
Hồ trên đất nước lénin - Hồng Hà)
Như
ta thấy Hồ làm bất cứ công việc ǵ, dù lớn hay nhỏ đều theo lệnh
của QTCS ! Nhà cách mạng Nguyễn thế Truyền, chúng tôi đă mô tả,
chắc không xa với sự thực.- Người trí thức Nguyẽn thế Truyền
đă góp phần tích cực việc nhào lặn nên Hồ.Chúng ta hăy tửơng
tượng một người thanh niên 21 tuổi, vốn liếng tiếng Pháp chỉ
bập bẹ, sống ở Paris, nếu không gặp duyên may có người hướng dẫn,
có chỗ dựa như bao thanh niên khác th́ Hồ chỉ có thể trở thành
người làm tàu già hay anh đầu bếp của nhà hàng Việt Nam hay
công nhân già của hẵng Simca hay Peugoet. Hồ đă may rợi vào
nhóm Ngũ Long. Trước hết Hồ được yên tâm về cuộc sống, có cơm
ăn , có chỗ ở, có người dậy nghề, nhất là có người tha hương để
san sẻ vui buồn……. Sau này có t́nh của những người đồng chí
hướng dẫn giắt Hồ trên bước đường tranh đấu.Trong nhóm Ngũ
Long Hồ chỉ có khả năng thích hợp là mang bài viết của nhóm đến
toà soạn các báo Pháp…Nguyễn thế Truyền bản tính năng động,
yêu nước nồng nàn. Ông yêu thương hơn hết những người tranh đấu
cho Việt Nam. Nguyễn thế Truyền đă dậy cho Hồ tiếng Pháp, đă
như cây gậy mở đường cho Hồ đến với giới trí thức và báo chí
Pháp……đă vẽ mày vẽ mặt cho Hồ, đă viết lời tựa và sửa văn phạm,
có khi phải viết lại từng đoạn, từng trang trong cuốn « Bản án
chế độ thực dân Pháp » của Hồ và đưa nhà in, khi đó Hồ đang
có mặt tại Nga. Năm 1954, Hồ chuẩn bị tiếp thu HàNội hắn cần đến
uy tín cụ Nguyễn thế Truyền Hồ đă mời Nguyễn thế Truyền ở lai
miền Bắc và Hồ trao cho cụ Tuyền chức phó chủ tịch nhà nước :
« Ông
cho biết ông dứt mọi đường giây liên lạc với Hồ từ khi Hồ đi
Liên Xô theo hẳn chủ nghĩa Cộng Sản. Ông là người quốc gia
sao có thể sống chung với CS được »
Hồ
chí Minh thực chất chỉ là con cờ hay lá bài của QTCS
hay CS Nga. Nhất cử nhất động của Hồ đều do QTCS hay CS Nga chỉ
huy, điều khiển. Lời Hồ dặn Minh Khai khi về nước :
« Khắp
nơi kể cả nước Việt Nam, bọn tờ rốt kít đă bộc lộ chân tướng
phản động của chúng. Đảng ta phải t́m mọi cách để lột mặt nạ,
chúng tay sai cho chủ nghĩa phát xít, phải tiêu diệt chúng về
mặt chính trị.Không được có một thỏa hiệp nào, một nhượng bộ đối
với chúng. Cố nhớ những điều tôi dặn nhé và kể lại cho
anh Duy. Tôi nhắc
lạị : dứt khoát không được thỏa hiệp với bọn tờ rốt kít đấy »
(
Bác Hồ trên đất nước Lénin)
Với
chủ trương độc tôn, độc đảng của QTCS tức CS Nga, nhiều nhà
trí thức Việt Nam như : Tạ Thu Thâu, Phan văn Hùm, Dương văn
Giáo…….đă bị CS thanh toán. Nước Nga đă trở thành ḷ sát sinh,
dưới bàn tay của Stalin. Những tên gây bao đổ vỡ, đau thương
chết cḥc cho nước mẹ của chúng kém ǵ đổ vỡ cho nước Nga. Đồng
bào của Hồ đă từng bị khổ nhục với bọn Việt gian Cho Tây, cho
Nhật, Cho Tàu. Nhưng không loại Việt gian nào ác hiểm , tác hại
như bọn tay sai của đế quốc Nga. Hồ và bọn CS đầu xỏ mọi họat
động của chúng chỉ v́ Nga, cho Nga :
IX)-
Cộng Sản nó ở nước Nga :
Nhà
văn Phan Khôi đỗ tú tài Nho học, uyên thâm Tây học. Năm 1955
cụ từ kháng chiến trở về Hà Nội : cụ được cử đi đọc diễn văn
,trước mộ nhà văn lớn Trung Hoa Lỗ Tấn. Dịp này cán bộ CS Tàu
dẫn ông đi khoe nhà máy hiện đại ở Bắc Kinh.Nh́n máy chạy ông
nói với cán bộ CS rằng :
-
Các đồng chí coi máy chạy như thế mà Marx bảo : Lao động là
sáng tạo là sai ? mà phải nói trí thức sáng tạo mới đúng. Có lẽ
lúc hứng trí cụ ứng khẩu hai câu thơ để cảnh giác bọn CS Tàu :
« Cộng sản nó ở nước Nga
Chính danh thủ phạm tên là Lénin »
Mùa
thu năm 1976, cụ là một trong cột trụ của phong trào Nhân văn,
giai phẩm. Cụ đă bằng ng̣i bút bóng gió đả kích chủ trương :
Văn nghệ phải do đảng lănh đạo của CSVN và hạ bệ Hồ. Truyện ngắn
Ông Năm Chuột, Phan khôi mượn lời anh thợ bạc tài hoa, bóng
gió nói với tụi lănh đạo CS đ̣i lănh đạo văn nghệ như
sau :
« Người ta cái ǵ biết ít chỉ nên nghe chứ không nên nói.
Tôi không nói chuyện văn chương chữ nghĩa với ông, cũng như
ông không dậy nghề thợ bạc cho tôi »
Bài cây cộng sản Phan Khôi kể : Ở rải rác mấy tỉnh Phú Thọ và
nhiều nhất là ở Thái Nguyên và ở Tuyên Quang, có nơi gọi là bù
xít, nơi gọi là cây cứt lợn, nơi gọi là cây chó đẻ, thứ cây ấy
những người có học không gọi bằng cây cứt lợn dạị mà gọi là
cây Cộng Sản. Cây này được ông già người Thổ giải thích :
« Hỏi cây đó là cây ǵ ,. Ông nói tên nó là « cỏ cụ Hồ » thứ
cây này trước kia ở đây không có, từ ngày cụ Hồ về đây lănh đạo
cách mạng th́ thấy nó mọc lên, không mấy lúc mà đầy cả đường
xá, đồi đống ; Người ta bảo không biết tên nó là ǵ, thấy nó
cùng một lúcvới cụ Hồ th́ gọi như vậy »
Giải thích ông b́nh vôi của Lê Đạt. Cụ Phan Khôi nhắm đả kích
Hồ. Ví Hồ như cái b́nh vôi càng ngày càng đóng cặn nên ruột nó
càng ngày càng nhỏ lại, nó càng ngày càng tồi :
« Những kiếp sống lâu trăm tuổi
Y như một cái b́nh vôi
Càng sống lại càng tồi
Càng sống càng bé lại »
X-) Chồn bị ḷi đuôi
Cửa
vùa mở , đồng chíMa Nu In Xki, khổ người to đậm, đứng dậy bắt
tay đồng chí Nguyễn :
« Thế nào đồng chí Nguyễn , đồng chí nóng ḷng vào
trận rồi phải không ?
Tôi nóng ḷng thiệt. Đại hội Quốc Tế vừa qua trang bị cho các
nước một chương tŕnh hành động. Mặc dù Việt Nam chưa có đảng,
nhưng tôi thiết nghĩ đại hội kêu gọiBôn Xê Vích hoá đảng CS ỏ
các nước tư bản chủ nghĩa và xây dựng tư tưởng tổ chức và chiến
thuật theo nguyên tắc bôn xê vích, cũng là kêu gọi chúng tôi.
Chúng tôi phải làm ǵ nhanh chóng xây dựng ở Đông Dương một đảng
theo kiểu bôn xê vích »
( Hồng Hà )
Qua đấy chúng ta thấy rơ : Hồ không có sáng kiến ǵ mà
theo chỉ thị của tụi CS Nga, được che dấu,vỏ bọc ngoài để lừa
gạt người yêu nước : thay v́ đem quân Tầu vào như Lê Chiêu Thống
, Hồ đem chủ nghĩa duy vật,chính sách của Lénin, Staline……nhất
nhất phải tuân theo……Sức mạnh ,tàn phá của nó c̣n gấp bội về mặt
dân tộc, văn hoá, tôn giáo và tiềm năng của dân tộc. ? Tới
đây lại liên hệ đến vấn đề trọng đại của dân tộc : Các nhà
cách mạng tiền bối của Việt Nam như các cụ Phan bội Châu, Phan
chu Trinh, Nguyễn hải Thần , Nguyễn thế Truyền, Nguyễn an Ninh,
Tạ Thu Thâu…….đều bôn ba hải ngoại, t́m đường cứu nước, đều biết
đến nước Nga, đều biết học thuyết duy vật. Nhưng tại sao ? lư
do nào ? Các cụ không rơi vào quỹ đạo QTCS như Hồ ? Phải chăng
quư vị có vốn qúy nhất trong đời là vốn học thức ? như ta biết
là con người ai cũng có lư trí, gọi là lư trí bẩm sinh. Nhà
trường , học hỏi đă cung ứng cho người có học lư trí cấu tạo.
Nhờ lư trí cấu tạo, những người có học suy luận , phán đoán,
so sánh , lựa chọn mau lẹ nên họ có cái nh́n xa, thấy rộng. Những
người lănh đạo phải có óc viễn kiến . Chính học thức cung ứng
cho những nhà cách mạng tiền bối những suy luận , những phán
đoán, những viễn kiến. Ngược lại hành trang vào đời của Hồ
như. những người ít học, thường chỉ đối phó với cuộc đời bằng
kinh nghiệm. Hồ vốn ít học nên ứng phó với cuộc đời bằng kinh
nghiệm, bằng cá tính bén nhậy, lưu manh, thủ đoạn, khéo đóng kịch.
Khi Hồ ở trong nhóm Ngũ Long, nhóm có 5 người. So với Hồ 4 người
tŕnh độ kiến thức ,học vấn của họ cách nhau quá xa, cũng như
tướng Đỗ Mậu khoe là đồng chí của thượng thư Ngô đ́nh Diệm, có
lẽ ông Mậu hiểu chữ đồng chí là ngang hàng của những người đồng
hội đồng thuyền . Khi Pháp từ chối chức vụ uỷ viên quân sự của
ông tại ṭa đại sứ VNCH ở Paris ?. Tướng Đỗ Mậu giải thích rằng :
Pháp thù ngài thiếu tướng bởi những hành động chống Pháp của
ông . Ông lính lệ chống Pháp mà lịch sử và dân tộc đều không
biết đến…. ??? . hay những người không may kém học thức, khi
có điạ vị ,nói về ḿnh thường tô hồng dị văng, huênh hoang quá
lố, người đời dựa trên sự quá lố ( như khỏi ḷi đuôi ) đó mà
t́m ra sự thực :
« Chủ tịch Hồ chí Minh c̣n là người thiều niên 15 tuổi. Người
thiếu niên ấy đă sớm hiểu biết và rất đau ḷng trước cảnh thống
khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ anh có chí đuổi thực dân Pháp,
giải phóng đồng bào. Anh đă tham gia công tác bí mật, nhận
công việc liên lạc. Anh khâm phục cụ Phan đ́nh Phùng, Hoàng
hoa Thám, Phan chu Trinh, Phan bội Châu, nhưng không hoàn toàn
tán thành cách làm của ai »
(Trần dân Tiên )
Từ
khi có loài người chưa bao giờ có thần đồng chính trị như Hồ,
mới 15 tuổi ở nhà quê mới ra tỉnh được một năm, đang học lớp vỡ
ḷng mà đă có kiến thức , quan điểm cách mạng để phê b́nh các
nhà lănh tụ lăo thành. Nếu lời phê b́nh ấy đặt vào miệng của
thân phụ Hồ, th́ người nghe có vẻ hợp lư ! Hồ c̣n viết :
« Cụ
Phan Bội Châu
muốn đưa anh và một số thanh niên sang Nhật »
Câu
trên chỉ do Hồ phịa ra, để tỏ ta là ḍng dơi cách mạng. Để phô
trương. Nhưng mập mờ không đánh lận được con đen. Lư do rất
đơn giản và cụ thể. Gia d́nh Hồ đâu phải gia đ́nh cách mạng,
thân phụ Hồ làm tri huyện. Hồ cũng nọp đơn xin học trường thuộc
địa của Pháp.
XI)- Gián điệp của Nga trên đất Tầu :
QTCS
chỉ thị cho Hồ chỉ đạo phong trào cách mạng Đông Nam Á Châu. Hồ
tới Quảng Châu ngày 11 tháng 11 năm 1924. Nơi đây có trụ sở cuả
Komintern do Borodine chỉ huy. Văn nô Hồng Hà tác phẩm :Bác Hồ
Trên Đất nước Lênin đă kể thành tích tay sai của Hồ với đầy vẻ
kiêu hănh :
« Cương
vị của anh trong QTCS và nhiệm vụ công tác của anh ở Quảng
Châu chỉ cóBorodine và vợ là đồng chí Phi nhi a mê nô vô na
Brorô d́ na biết. Về công khai anh là cố vấn riêng là người
phiên dịch cho đồng chí Borodine, đồng thời là phóng viên của
hăng Rôxta. Trong cơ quan của Borodine , người ta gọi là phủ
nguyên soái Liên Xô. Làm việc giữa các tập thể đồng chí chuyên
gia Xô Viết. Anh Nguyễn mang tên Nga. Ni lốp Xki. Nhưng các bạn
anh quen gọi anh là đồng chí Nguyễn »
Là
gián điệp trung thành của QTCS, Hồ về Quảng Châu không phải
nơi đây gần với tổ quốc của Hồ mà do lệnh của QTCS nên nhất cử
nhất động Hồ đều phải báo cáo Cho QTCS. Văn nô Hồng Hà trong
tác phẩm kể trên đă khoe rằng :
«
Anh Nguyễn có cơ sở. Anh viết thư ngay bằng tiếng Anh vững chắc
và thuận tiện để hoạt động. Anh viết thư bằng tiếng Anh báo
cáo cho QTCS »
Quảng
Châu ngày 12 tháng 12 năm 1924
Tôi vắn tắt để đồng chí biết, hôm qua tôi đă tới Quảng Châu và
tôi đang ở tại cơ quan của đồng chí Bôrôdine với hai đồng chí
Trung Quốc. Tôi chưa gặp ai, mọi người ở đây rất bận rộn về
cuộc Bắc phạt của đồng chíTôn dật Tiên. Tôi sẽ viết cho đồng
chí sớm. Cho tôi gửi lời chào anh em tới đồng chí và các đồng
chí ở QTCS »
(Nguyễn Ái Quốc)
CS
Nga có sơn phết cho Hồ là quốc tế hay ǵ ǵ đi nữa , thực chất
của Hồ chỉ làm công việc của người làm nội tuyến hay nằm vùng.
Bọn ăn trộm hay ăn cướp nhà nào, chúng phải có nội tuyến chỉ
điểm cho chúng. Bọn cướp nước Nga, chúng chiếm những xứ ở xa ,
đất nước lạ, người lạ, phong tục tập quán đều lạ nên chúng phải
có tay sai người bản xứ chỉ điểm cho chúng. Anh hùng Nguyễn Huệ
có nhiều kinh nghiệm đương đầu với bọn da trắng Tây Phương,
ông đă nhận định :
« Ta không sợ tụi Tây Dương , mắt xanh mũi lơ, chúng ta đánh
đâu ta thắng đó. Chúng đánh trên bộ , ta thắng trên bộ……..chúng
đánh đưới biển , ta thắng dưới biển….nhưng ta sợ những
kẻ làm nội ứng cho giặc đâm sau lưng ta ».
Từ hội
nghị Tour tới khi Hồ đến với CS Nga, v́ Nga năm 1923 cho đến
khi chết hắn làm gián điệp cho Nga. Một thanh niên nghèo cùng
và ít học, tâm hồn nhiều u uất, thù hận……t́m đường để chốn
dĩ văng nặng nề. Tưởng rằng Hồ sẽ chết già nghề làm tàu, không
ngờ định mệnh của hắn dẫn hắn tới những con rồng, những tinh
hoa của Việt Nam, những nhà cách mạng đa số là những ng̣i bút
sắc bén, những cây Pháp văn, Hồ ít học, không có viễn kiến mà
hắn chỉ đối phó với đời bằng kinh nghiệm : Sắc bén , kiên tŕ,
can đảm , nhiều mưu sâu, bịp và đóng kịch giỏi. Mùa đông năm
1957, Ngô chí Thậm và tôi t́m đường vượt tuyến và Nam, đến Đồng
Hới , thị xă Quảng B́nh, chúng tôi sẵn có tiền và vàng của nhà
mang theo . Chúng tôi ngừng lại Đồng Hới khá lâu,, gọi là để
nghiên cứu t́nh h́nh. Từ Đồng Hới vào chợ huyện Vĩnh Linh
chúng tôi đi bộ. Quận Lệ thủy thuộc Quảng B́nh quê hươngcủa
Ngô đ́nh Diệm và Vơ nguyên Giáp, sau này tôi biét thêm « Đất
anh linh, sinh người hào kiệt » Đỗ Mậu. Ôi khúc ruột miền
Trung nghèo chi mà nghèo rứa nh́n bên trái là sóng biển ́ ùm vỗ
vào bờ , băi biển phẳng ĺ, chỉ thích hợp với dưa hấu . Những
giây dưa hấu hầu như không có lá, quả dưa hấu như heo mẹ heo
con, mọc ngổn ngang , dân ở đây cho biết, dưa hấu nhiều đến độ
không thể bán được. Người ta cắt dưa hấu, lấy chân đạp để lấy
hạt dưa hấu để bán.Nh́n sang bên phải là rừng thưa. Khúc ruột
miền Trung thắt lại như cơ thể ốm yếu, chỉ có chiều dài, chiều
ngang tóp lại.Không một quán nước bên đường , không một quán
cơm. Chúng tôi phải vào trọ nhà dân. khoảng một giờ sau tụi an
ninh đến hỏi giấy…… Ngô chí Thậm , anh bạn lớn tuổi hơn tôi ,
lanh lẹ hơn tôi, anh đưa giấy ra tŕnh. Anh đưa cả hai cái thẻ
thư viện trung ương, đường Trường Thi Hà Nội ra tŕnh .Thẻ này
chỉ cần học hết lớp đệ tam là được cấp thẻ. Tôi nói nho nhỏ và
rút cái thể trong tay Ngô Chí Thậm :
─
Đưa cái thẻ này ra làm ǵ .
Thậm
chừng mắt trừng mắt, cầm cái thẻ phất nhè nhẹ nói :
─
Đây là các đồng chí cán bộ như người nhà cả, làm ǵ phải giữ
bí mật .
Cán bộ
cuí đầu vào nhau để xem thẻ, có hàng chữ lớn Thư Viện Trung
Ương, có tên , có gián h́nh, có đóng dấu, có chữ kư, thấy hai
chữ trung ương, tụi cán bộ nói nho nhỏ với nhau :
─
Nhỏ tuổi mà làm lớn hung.
Đêm
ngủ có giừơng chiếu đàng hoàng, Ngô chí Thậm rỉ tai tôi :
« Cái
bùa ngải này linh lắm, tụi cán bộ trông mặt là biếtchúng ngu đần
rồi, chúng biết cái đếch ǵ, nghe hai chữ trung ương là chúng
sợ chết cha chết mẹ chúng rồi, nghe Hồ, người sáng lập ra đảng
CSPháp, ban chấp hành cộng sản quốc tế, chúng coi Hồ như thần
nhưthánh…..Mặc sức mà bịp. »
Họạn
quan Vũ Kỳ tháp tùng Hồ sang thăm Trung Quốc, Hồ thăm Khổng
Phu tử ở Sơn Đông, Hồ giảng cho Vũ Kỳ nghe chủ trương lấy dân
làm gốc của Khổng Phu tử đă được Mạnh Tử phát triển thêm một
bước :
« Dân
vi quư
Xă
tắc thứ chi
Quân vi khinh »
Hồ
khoe chính Hồ dịch sang tiếng Pháp, năm 1921, đăng báo Pháp ,
cách đây 44 năm « L Inté rêt du peuple avants tous, ce lui
de nation vient apres, celui du roi nest rien » . Khoe
xong Hồ hỏi vũ Kỳ để chờ sự chúc tụng của hoạn quan « Chú
xem bác dịch như vậy có được không ? »Bác dịch hay cụ
Phan văn Trường, Nguyễn thế Truyền hay Nguyễn an Ninh dịch
sang tiếng Pháp mang bút hiệu Nguyễn Ái Quốc ?
Văn
nô Hồng Hà trong tác phẩm : Bác Hồ trên đất nước Lénine, đă viết
những lời tâng bốc Hồ nghe muốn lợm dọng :
« Đối
với anh Nguyễn , t́nh h́nh nước sôi lửa bỏng ấy không cho phép
anh tiếp tục công việc ở pḥng nghiên cứu. Anh đủ sức để trở
thành nhà văn lớn, một nhà thơ có tài, một nhà báo lỗi lạc, một
triết gia sâu sắc, một nhà học giả uyên bác »
Đề
cao chi mà nghe dị hợm đến như vậy : -một người học đến cuối
năm lớp nhất mà đủ sức là nhà văn lớn, một nhà thơ có tài, nhà
báo lỗi lạc, một triết gia sâu sắc, một học giả uyên bác ! tụi
văn nô của Hồ chúng không c̣n chút liêm sỉ ! Triết gia sâu sắc
mà đến năm 79 tuổi , viết bảng chúc thư bằng ¼ trang giấy bằng
tiếng mẹ đẻ mà đầy lỗi chính tả. Được Đông phương bộ trong
QTCS, phái về Đông Nam Á. Dù là công tác mật, nhưng Hồ vô học
đến nằm mơ cũng không tưởng ḿnh trở thành « nhân vật quốc tế »
được ! Hồ khoái chí nên Hồ mượn cớ thăm hỏi để khoe :
«
Các đồng chí thân mến,
Đảng
CSVN đă được thành lập. Về vấn đề tổ chức, tôi đă báo cáo cho
bộ phương Đông. Việc đó tôi không nhắc lại ở đây, các đồng chí
xem báo cáo đó ở ban chấp hành CSQT »
(thư
gửi đảng CS Pháp)
«
Các đồng chí thân mến,
Tôi đang ở Trung Quốc. Khó có thể viết dài cho đồng chí lúc
này. Chỉ vắn tắt mấy chữ : Đảng đă được thành lập ở Đông Dương.
Có thể 2 tháng nữa tôi có thể viết cho đồng chí dài hơn. Hai
tháng nữa sẽ có tin vui cho liên đoàn »
(thư
gửi đoàn thể chống đế quốc ở Berlin)
« Các đồng chí thân mến,
Trong hoàn cảnh sống không hợp Pháp, tôi cần có một nghề để
khai với người ta. Tôi đóng vai phóng viên của báo chí. Nhưng
cần chứng minh được danh nghĩa của tôi. Trong tất cả các báo của
đảng chúng ta, tôi thấy có mỗi tờ báo không mang tính chất phá
hoại và có thể cấp cho tôi một giấy chứng nhận thuận tiện, đó
là báo Thế Giới .
Nguyễn Ái Quốc
(
gửi cho cs Đức )
XII)- Trích những lá thư Hồ báo cáo với QTCS, chỉ thị của QTCS
gửi Hồ.
« Chúng
tôi khẩn thiết yêu cầu các đồng chí làm việc có thể làm được để
giúp đỡ nạn nhân cuộc dàn áp đẫm máu. Đề nghị cho biết ngay
chúng tôi phải làm ǵ và các đồng chí có thể làm giúp họ thông
qua tổ chức Quốc tế cứu tế đỏ. Tôi đă viết thư sang Xiêm và Mă
Lai khỏang một tháng trước đây, nhưng chưa nhận được thư trả lời »
Lời
chào anh em
(
thư Hồ gưỉ ban chấp hànhQTCS )
«
Tôi chuyển đền Đông Phương Bộ những thứ của trung ương nguyên
vẹn như khi tôi nhận được. Nhiệm vụ của tôi là do Đông Phương
bộ ấn định. Vậy nếu có việc ǵ xảy ra, Đông phương bộ sẽ cho
tôi biết và tôi có ư kiến ǵ, tỷ như sự phê b́nh mới đây đối với
Trung và Bắc là tôi được sự đồng ư của Đông phương bộ, cho nên
đảng cần quyết định điều ǵ tôi cần được biết »
Suốt
cuộc đời Hồ cống hiến cho QTCS hay CS Nga. Hồ không có hành động
nào tự chủ mà chỉ là những hành động thừa hành cho QTCS hay CS
Nga đă nhào lặn nên Hồ.
XIII-) Giấy chứng nhận Hồ là điệp viên của bộ phương Đông QTCS :
«
Quốc tế Cộng sản
Ban chấphành vô sản các nước đoàn kết lại
Mát cơ Va ngày 14 tháng 4 năm 1924
Giấy chứng nhận
Đồng
chí Nguyễn ái Quốc là cán bộ của Đông phương Quốc tế Cộng Sản.
Phụ trách bộ phương Đôngban chấp hành Quốc tế Cộng Sản Pê tô Rốp
ban bí thư phụ trách.
(Bác
Hồ trên đất nước Lênin)
Do những
người đưa đường chỉ lối của QTCS ở Quảng Châu. Hồ bắt được
liên lạc với nhóm Thâm Tâm Xă, những thanh niên hoạt động cách
mạng theo cụ Phan bộ Châu. Nhóm này gồm có :
Lê Hồng
Sơn
Hoàng
tùng Mậu
Lê Hồng
Phong
Lâm đức
Thụ
Vương
thúc Óanh
Trương văn Lễnh
Lê quảng
Đạt
Lư quốc
Long
Hồ lấy
danh nghĩa QTCS và bút hiệu Nguyễn Ái Quốc để lôi kéo nhóm
Thâm Tâm xă vào tổ chức CS do Hồ lănh đạo, và từ đấyQTCS thêm
người và thêm tai mắt ở Việt Nam và cũng từ đấy t́nh h́nh cách
mạng , chính trị đảng phái Việt Nam được báo cáo về Nga. Uy
tín của bút hiệu Nguyễn Ái Quốc đă như chắp cánh cho Hồ và Hồ
lập công với mẫu quốc CS Nga.
« Đồng chí thân mến,
Tôi gửi đồng chí một báo cáo về t́nh h́nh Đông Dương. Tôi đă tổ
chức ở đây vài người Đông Dương mà tôi hy vọng làm được một số
việc. Tôi sẽ gửi đồng chí sau một báo cáo về công tác chính trị
của tôi.
Quảng
Châu ngày 22 tháng 12 năm 1924 0
Lời
chào Cộng Sản
Nguyễn Ái Quốc
(Báo
cáo của Hồ gửi CSQT)
Mặt thực của Hồ
Kỳ ‒
1
‒ 2
‒ 3 ‒
4 ‒ 5 ‒ 6
‒
|