Mặt thực của Hồ

(Kỳ 2)

 

IVX) Quan hệ môi hở răng lạnh

Về địa lư chính trị Việt Nam đóng một vai tṛ vô cùng quan trọng vùng Đông Nam Á. Vai tṛ  này nếu ta không có lực mạnh, một đường lối ngoại giao sáng suốt như đường lối ngoại giaocủa tiền nhân. Nếu ta lụy hay tay sai của một cường lực nào đó, biến đất nước chúng ta thành một căn cứ quân sự bủa vây Trung Cộng th́ tai hại khốc liệt cho dân tộc như đường lối ngoại giao của Hồ. Chúng ta phải đội trên đầu, một dân tộc khổng lồ trên tỷ người. Ḍng máu Hán tộc đă đồng hóa, thống trị nhiều dân tộc từ nhiều thế kỷ nay, luôn luôn bành chướng về phương Nam. Trung Cộng phải qua cửa ngơ Việt Nam. V́ vai tṛ chiến lược ấy, giải đất Việt Nam như cô gái nhan sắc nên luôn bị các cường quốc sở khanh tán tỉnh, lợi dụng, khai thác. Những tên háo danh như Hồ, những tên Việt gian như Hồ trở thành đắt khách. Với một anh như Xuân tóc đỏ, nhiều thù hận như Hồ. Lư do thầm kín nào ? Tại sao ?. Đây là những bằng chứng:- Năm 1975, bọn lănh đạo CSVN bất chấp hiệp định Paris, xua quân chiếm miền Nam với sự đồng t́nh của Hoa Kỳ. Ôi, bên ngoài th́ kẻ thù đánh, bên trong th́ đồng minh đâm th́ miền Nam không bức tử sao được. CSBắc Việt chiếm miền Nam, những chú Ba Tầu Chợ Lớn bắt mạch lầm, treo cờ Trung Cộng,ngày hôm sau bị Việt Cộng bắt hạ cờ Trung Cộng xuống, mấy bữa sau, đài phát thanh tiếng Việt, phát từ Bắc kinh, Mao Trạch Đông lên tiếng rằng :

« Cuộc cách mạng Việt Nam phải làm lại và căn cứ vào cổ thư minh định biên giới của Trung Hoa đến tận tỉnh Quảng B́nh Việt Nam » 

Hành động ấy chứng tỏ: Trung Cộng không hỗ trợ cho CSCVN chiếm toàn cơi Việt Nam. Lư do: - Hội nghị Tour của đảng xă hội Pháp năm 1920, hành động của Hồ, dơ tay tán thành chi bộ đảng Cộng Sản Pháp, tách khỏi đảng Xă Hội và Hồ tán thành đảng CS Pháp nhập đệ tam QTCS. Hành động  của Hồ đă lọt vào « mắt xanh » của CSNga. Năm 1923, Hồ được CS Nga cung ứng phương tiện, đáp tàu từ Đức vào Mạc TưKhoa, làm gián điệp cho Đông phương bộ QTCS. Năm 1924, cơ quan này phái Hồ về hoạt động tại Quảng Châu, Hồ là cố vấn thông dịch viên cho Borodine. Giai đoạn này ở Trung Hoa quốc Cộng hợp tác đánh Nhật. Hồ thường gặp gỡ, thảo luận  với giới lănh đạo của 2 phe một cách công khai. Những lănh tụ Trung Cộng như: Mao, Lưu thiếu Kỳ, chu Ân Lai. Các tướng như Bành Đức Hoài, Chu Đức, Diệp kiếm Anh, Lâm Bưu…..Họ đều biết rơ Hồ là gián điệp củaQTCS. Thời gian hợp tác Quốc Cộng tan vỡ, tướng Bạch sùng Hy của Tưởng giới Thạch hành quân tảo thanh CS Tàu ở Hương Cảng, Hồ thoát chết, nhờ đi bộ qua sa mạc Gôbi về Nga. Năm 1928, Hồ từ Berlin đáp tầu thuỷ tới Xiêm, gây dựng cơ sở cho QTCS. Năm 1930 từ Xiêm đi tầu thủy tới Thượng Hải. Năm 193O tại Thượng Hải, Hồ nhận lệnh của QTCS thống nhất 3 đảng CS thành đảng CSCVN ngày 3 tháng 2 năm 1930. Lời mở đầu đảng CSVN ra đời :

« Nhận chỉ thị của QTCS giải quyết vấn đề cách mạng ở nước ta, tôi đă hoàn thành nhiệm vụ và thấy có trách nhiệm phải gửi tới các anh em và các đồng chí lời kêu gọi này : Đảng CSVN đă được thành lập. Đó là đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ d́u dắt giai cấp vô sản lănh đạo công cuộc cách mạng Việt Nam » 

Lời tuyên bố kể trên đă rơ - thực rơ : Hồ đă là điệp viên của đệ tam quốc nên mọi hành động của Hồ cho Việt Nam Hồ đều tuân theo đệ tam quốc Tế Công sản !!!

Ngày 6 tháng 6 năm 1931, Hồ bị bắt tại Hương Cảng. Vào tù Hồ gặp Hồ tùng Mậu, ra tù nhờ một luật sư danh tiếng người Anh căi cho Hồ. Năm 1933, Hồ được tha . Nhờ bắt được liên lạc với Paul Veillant Couturier, Hồ liên lạc với QTCS. Hồ được cơ quan này ra lệnh một chiếc tàu buôn của Nga vào bến cảng Thượng Hải, giả vờ cần sửa chữa để đón Hồ về Nga. :

« Lúc đó là muà xuân năm 1934, một chiếc tàu Liên Xô chở hàng, trên đường vềVla di vô Xtoc rẽ vào Thượng Hải để sửa chữa nhỏ. Người thuyền trưởng được cấp trên báo cho biết phải bí mật nhận một hành khách người Á Châu lên tàu.Lúc hoàng hôn một chiếc thuyền mành tiến đến gần chiếc Tàu của Liên Xô sơn cờ đỏ búa niềm trên ống khói, rồi áp thẳng vào mạn tàu nơi đặt sẵn thang. Một người tầm thước mảnh khảnh, có râu và ria mặc chiếc áo mầu đen cài sát nách kiểu Trung Quốc bước lên boong tàu một cách nhẹ nhàng, như rất quen sóng gió trên biển »                      ( Bác Hồ trên đất nước Lénine )

Thời gian trở lại Nga, Hồ theo học khóa nghiên cứu lư luận của trường Quốc tế Lénine ở Mạc Tư Khoa, trường này thành lập năm 1926, chuyên đào tạo các nhà lănh đạo Cộng Sản, các nước tư bản , các nước thuộc địa. Cuối năm 1938, chiến tranh thế giới đại chiến lên cao, lan rộng nhưng có chiều hướng kết thúc. Hồ được CSNga phái về Trung Quốc, t́m đường  về nằm ở biên giới Việt Trung cung ứng tin tức quân đội Nhật cho đồng minh. Hồ ẩn ở hang Pắc Bó năm 1941. Theo nguồn tin của sắc dân thiểu số miền Bắc Việt Nam. Hang Pác Bó quá chật hẹp, thiếu thốn mọi tiện nghi, tiếp tế khó khăn, tuy kín đáo nhưng dễ bị lộ nên Hồ chỉ ở đó một thời gian để đánh lạc hướng những con mắt ṭ ṃ, rồi Hồ ẩn ở lán người Thượng,  nhà một đảng viên Cộng Sản tên Nông văn Cún. Thời gian này Hồ tằng tịu với vợ Cún, sinh ra Nông Đức Mạnh, đương  kim tổng bí thư CSVN ngày nay. Nông văn Cún bị lính của Cung đ́nh Vận bắt, sử tử h́nh tại sân vận động Thái Nguyên năm 1944. Hồ từ Nga về Á Đông chỉ đạo phong trào cách mạng Đông Nam Á3 lần. Cả 3 lần Hồ đều đến Trung Quốc, hoạt động cho CS Nga, tổng cộng trên dưới 10 năm. Như thế giới lănh đạo CS Trung Quốc hiểu xuất xứ  đường đi nước bước của tện gián điệp trung thành của Nga. Năm 1949 Mao  chiếm toàn cơi Hoa Lục, nhà nước cộng ḥa nhân dân ra đời. Giữa lúc giao hảo liên bang Xô Viết và Trung Cộng c̣n nồng đượm. Mao viện trợ cho CSVN,  nhưng ở mức độ bảo vệ môi không bị hở khiến răng không bị lạnh bằng quân viện  cho CSVN chúng bằng xương máu của thanh niên Việt Nam, đánh phá những đồn bốt, những hàng rào chiến lược, giáp phía Nam Trung Quốc như đánh Cao Bắc Lạng, cứ điểm Điện biên phủ. Vốn bản chất lưu manh Hồ bóng gió hù nhân dân Việt Nam và phe thù địch biết : Đảng CSVN có Trung Cộng hỗ trợ đằng sau và tung ra những khẩu hiệu, người Việt Nam có chút liêm sỉ đọc thấy đỏ mặt.

« VN và TQ có mối t́nh hữu nghị lâu đời » 

Khẩu hiệu trên, chúng tôi có một chút kỷ niệm, gần tết năm 1956, bạn tôi là Đào Tường Lục và tôi. Chúng tôi đi ngang qua nhà hát lớn Hànội. Khẩu hiệu trên như đập vào mắt chúng tôi. Đào Tường vốn quen ăn to nói lớn…..hơn nữa chúng tôi học sinh trong thành chưa biết rơ mặt thực của CS. Anh nói bô bô, chỉ tay vào khẩu hiệu, rồi cười ngặt nghẽo. Bộ đội gác nhà hát lớn, giữ chúng tôi và giao cho công an hàng Trống. Một ngày một đêm bị hạch hỏi, khai báo, kiểm thảo…..May chúng tôi không  bị đi tù, nhưng bị ghi vào lư lịch :Xuyên tạc t́nh hữu nghị Việt Trung. Hiệp định Geneve, chia đôi đất nước Việt Nam, một vài hành động của Trung Cộng do Việt Cộng x́ ra : mối quan hệ môi và răng, không tốt đẹp như Việt Cộng tuyên truyền. Chớm Đông năm 1976 tôi vượt biển , được chấp nhận vào Pháp. Tôi không c̣n nhớ rơ thời gian, vô t́nh tôi đọc cuốn sách mỏng, in bằng giấy bổi. Cuốn bạch thư của CSVN, chúng gọi là cuốn sách trắng, trong đó chúng tố cáo Trung Cộng không hỗ trợ cho chúng khi chúng đ̣i vĩ tuyến phân đôi đất nước vào khỏi Huế. Chúng phanh phui :

« Chính Chu ân Lai nói với em Ngô đ́nh Diệm về việc đặt ngoại giao giữa Bắc Kinh và Sàig̣n ». Tôi ngạc nhiên vô cùng. Thời gian đó, tôi là tổng thư kư các hội đoàn và người Việt tự do tại Pháp. Ban tổ chức ngày 30 tháng 4 năm 1976, mời cụ Trần văn Đỗ nói chuyện với đồng bào, dêm không ngủ rạp Maubert. Tôi tới nhà cụ Đỗ quận 16 mời cụ. Sau khi hiểu rơ lư do, lời cụ Đỗ, tôi c̣n nhớ: « Đất nước mất mồ mả ông bà, cha mẹ tôi cũng mất th́ tôi tiếc ǵ cái thân già này, nếu làm việc ǵ cho đất nước tôi sẵn sàng……nhưng t́nh thế chưa thuận lợi,biết nói ǵ với đồng bào đây ». Dần dà câu chuyện tôi thưa với cụ Đỗ, cuốn bạch thư của Việt Cộng nó viết….. như thế……có đúng sự thực hay không ? Cụ Đỗ ngưng nói chuyện cụ nh́n tôi, nói :

Sao ông biết ?

Thưa cụ, cháu đọc cuốn bạch thư của VC.

Ư đúng , nó nói đúng. Cụ kể phái đoàn Trung Cộng do Chu ân Lai cầm đầu, phái đoàn Trung Cộng  mời hai phái đoàn : Bắc Việt và phái đoàn VNCH dự lễ ǵ đó của Trung Cộng dự tiệc. Trong bữa tiệc  ông cố vấn Ngô đ́nh Luyện ngồi phiá tay phải của Chu. Phạm văn Đồng ngồi phiá tay trái của Chu. Nhân câu chuyện bàn tới chuyện phân chia vĩ tuyến. Ông Ngô đ́nh Luyện bằng ngôn ngữ ngoại giao nói , đại khái ông nói thế này :

«  Chúng tôi giữ Huế phiá miền Nam vĩ tuyến 17 thuộc miền Nam, v́ Huế là cố đô của chúng tôi, nơi đây có nhiều lăng tẩm và mộ phần của nhà Nguyễn, hơn thế nữa Huế có nhiều di tích lịch sử của dân tộc chúng tôi. » 

Chu nhanh nhảu , đáp lờ́ ông Ngô đ́nh Luyện :

« Việc đó có khó khăn ǵ ? Quư vị chỉ việc đặt quan hệ với Bắc Kinh th́ quư vị sẽ t́m thấy rất nhiều di tích lịch sử của quư vị trên đất nước chúng tôi, nhất là tỉnh Quảng Đông » 

( có lẽ  Chu nhắc tới sự kiện lịch sử ḍng Bách Việt, không di được về phương Nam, ở lại Quảng Đông nên bị TrungHoa đồng hóa, nhưng c̣n  lại di tích Việt Nam )

(Lời ghi chú của tác giả)

Lời Chu mở đường cho đường lối ngoại giao của Bắc Kinh. Lời Chu  ngoại trưởng Trần  văn Đỗ nghe, c̣n một nhân chứng là ông Ngô đ́nh Luyện. Tôi được biết ông Ngô đ́nh Luyện qua luật sư Nguyễn duy Tỏan. gặp ông lần đầu, tôi đă có cảm t́nh với ông……. một người xa quê hương trên nửa thế kỷ, ông đỗ kỹ sư và hành nghề tại Pháp, ông nói tiếng Việt như người Sàig̣n, những tiếng thời thượng như những danh từ kiếm hiệp, ông xử dụng nhuần nhuyễn. Tôi nghĩ rằng : Một người phải yêu quê hương, bao nhiêu năm đằng đẵng nơi quê người mà không hao ṃn tiếng mẹ đẻ….. Ngoài  ngôn ngữ cách ăn mặc , phong thái, cử chỉ của ông toát ra một tinh thần dân chủ. Bữa cơm giản dị, tiệm ăn của người Tàu, quận 13,tôi hỏi ông Luyện  về những điều tôi đă hỏi cụ Đỗ. Ông Luyện đặt chén cơm xuống bàn, mặt ông hướng về phiá tôi ông hỏi :

« - Ông c̣n trẻ , sao ông lại biết chuyện lịch sử bí mật này ?

Tôi đọc cuốn bạch thư củaCSVN, công bố cuốn sách mỏng này, chúng gọi là cuốn sách trắng.

Ông có thể cho tôi mượn cuốn bạch thư đó, được không ?

Vâng ……tôi sẽ gửi tới ông vào tuần tới .

Tôi xin nhắc lại một huyền thoại : - Năm 1973,  hải quận  VNCH đóng ở đảo Hoàng Sa,  bị  hải quân Trung Cộng tấn công. Chính phủ VNCH, có lẽ chưa biết 2 quần đảo Hoàng va Trường Sa, Phạm văn Đồng năm 1958 đă kư dâng hai ḥn đảo này cho Trung Cộng ( Báo Tiếng Dân ở Paris công bố văn kiện này, số 16), bắt được  mấy chục lính hải quân Việt Nam đem về Thượng Hải…..Theo dư luận quần chúng không được phổ biến rộng : cho rằng Trung Cộng mượn cớ bắt hải quân Việt Nam đem về để tạo thế tiếp xúc giữa CHVN và Trung Cộng. Nhưng đ̣n ngoại giao ấy đă bị Việt Nam cộng ḥa làm ngơ như không biết đến. Tôi tỵ nạn chính trị ở Paris, cuối hè năm 1976 hay 1977, tôi không nhớ rơ thời gian chính xác. Tiếc rằng người cùng tôi tham dự việc này, nay đă trở thành người mất trí ? Thời gian kể trên , người Việt ở Paris đồn đại, ông Mérillon đại sứ Pháp ở Sàig̣n trước năm 1975, có viết cuốn hồi kư, tiết lộ vài bí mật của Sàig̣n trước năm 1975. Khi cuốn sách phát hành, tôi tới nhà sáchGilbert jeune, nhà văn Nguyễn văn Hảo , gưỉ mua một cuốn. Người bán sách nói với tôi :

« Rất tiếc ông tơí trễ, chiều hôm qua cuốn sách c̣n bán , nhưng sáng nay  đă có lệnh ngưng phát hành » 

Thời gian sau : bỗng tôi nhận được tập in ronéo, khoảng 20 trang không rơ tác giả là ai ? và gửỉ bằng đường bưu điện. Tác giả tập ronéo nói rằng : Ông tóm dịch cuốn sách của ông Meillon. Xét về mặt văn chương ông viết sáng sủa, diêu luyện. Tuy giới thiệu là tóm lược, nhưng độc giả cũng nắm được diễn biến của vấn đề. Vấn đề diễn biến nhưsau :

« Phía cổng sau của hai toà đại sứ Mỹ và Pháp đối diện hay bên cạnh nhau. Cuối trung tuần tháng 3 năm 1975, ông Martin đại sứ Mỹ ở Sàig̣n,biết đại sứ Phápcó đường giây liên lạc điện thoại với chính phủ CSVN tại HàNội. Ông Martin nhờ ông Mérillon báo cáo cho chính phủ VN ở HàNội biết : Mỹ chủ trương rút khỏi miền Nam. Chính phủ CSVN chuẩn bị gấp để tiếp thu Sàig̣n và ông Martin bật đèn xanh cho ông Mérillon toàn quyền hành động để cưú mảnh đất này. Ông Mérillon diện thoại qua Nam Dương từ Nam Dương có liên lạc với chính phủ HàNội. Người bên kia điện thoại là Phan Hiền. Ôngnhắc lại những lời ông Mérillon. Phan Hiền cười nói vui vẻ lắm và hắn hỏi lại ông Mérillon rằng. Chuẩn bị gấp nhưng gấp là ngày nào ? Ông Mérillon hứa với Phan Hiền sau khi hỏi ông Martin sẽ cho HàNội biết rơ chiều nay. Sau khi gặp ông Martin, đại sứ Pháp cho HàNội biết : Gấp là không quá ngày đầu tháng 5 năm 1975 » 

Ông Mérillon báo cáo t́nh h́nh về Pháp cho tổng thống  Pháp Giscard d estaing. Ông Mérillon tiết lộ rằng : ông là bạn của tổng thống Pháp, thời hai ông cùng học trường ENA. Tổng thống Pháp đă bật đèn xanh cho ông toàn quyền hành động để cứu miền Nam khỏi rơi vào tay Cộng Sản. Một thể chế trung lập, một chế độ liên hiệp để keó Mặt Trận Giải Phóng miền Nam ra khỏi Cộng Sản Bắc Việt. Một phái đoàn của bộ ngoại giao Pháp dược thiết lập để tham khảo ư kiến những quốc gia, có đặt quan hệ ngoại giao với CS miền Bắc Việt Nam. Ṭa đại sứ Nga ở HàNội  trả lời : - Không muốn xen vào nội bộ của nước khác. Ṭa đại sứ Trung Cộng nhiệt liệt cho giải pháp miền Nam và c̣n hứa nếu cần thiết Trung Quốc c̣n hỗ trợ về phương diện quân sự- áp lực phiá miền Bắc VN. Các nước Đông Nam Á như Mă Lai, Singapour, Nam Dương, Nhật Bản đều tán thành cho giải pháp miền Nam c̣n hỗ trợ tức thời về kinh tế. Mỹ rút, chính quyền miền Nam gặp phải khó khăn đến độ không đương đầu nổi là vấn đề kinh tế. Nay với sựhỗ trợ của các nước Đông Nam Á về kinh tếcộng với 200 triệu quan Pháp cho Việt Nam cộng ḥa được tháo khoán. Như thế khó khăn của VNCH được giải quyết. Vấn đề liên hiệp với MTGPMN đă được phác họa: tướng Dương Văn Minh củaVNCH và tướng Trần văn Trà của MTGPMN là đồng chủ tịch. Thành phần nội các đă được dự liệu. Đại sứ Pháp ở Sàig̣n giữ vai tṛ trung gian, dàn xếp ,móc lối, hai phe đă đă tiến được những bước khá quan trọng. Đại sứ Pháp tiếp xúc với phái đoàn Dương văn Minh nhiều lần, có lần Dương Văn Minh gặp đại sứ Pháp có cả ngoại trưởng Vũ văn Mẫu, hiểu biết về ngoại giao nên có thể bàn luận được công việc, lần sau ông Dương văn Minh mang theo cả ni sư Huỳnh Liên và Huỳnh tấn Mẫm, hai người này chẳng hiểu ǵ về ngoại giao mà c̣n nói toàn dọng tuyên truyền. Đại sứ Pháp thúc dục Dương Văn Minh, tướng Trần văn Trà đang đợi ông ở Hóc Môn th́ Dương văn Minh lại nói trong chiều hướng khác : Ông kể rằng : mọi việc đă được con trai ông ở bên Pháp là Dương Văn Đức đă tiếp xúcvới toà đại sứ Việt cộng ở Paris lo liệu hết rồi ? Chúng tôi nghĩ rằng Dương văn Minh là một lá bài của CS Bắc Việt nên đă dùng dằng trong thời gian c̣n lại rất ngắn mà không tiến hành được việc ǵ ? Tất nhiên Dương Văn Minh có dụng ư riêng của ông ? Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, CS Hànội tiến quân chiếm Sàig̣n và từ đấy vai tṛ điạ lư chiến lược Việt Nam đă thay đổi. Ông Mérillon kể rằng : Buổi chiều ngày hôm sau Lê đức Thọ đến ṭa đại sứ Pháp nói với ông Mérillon rằng :- Ông không rút về Pháp c̣n ở lại đây làm ǵ ? Lê đức Thọ chỉ thị cho ông đại sứ Pháp bay ra Hànội để lấy giấy tờ về Pháp ? Ngày hôm sau ông đại sứ Pháp lấy máy bay ra HàNội….nhưng máy bay ra khỏi không phận Sàg̣n, ông ra lệnh cho viên phi công bay thẳng sang Thái Lan. Tài liệu trên tôi đă đọc 3O năm, nay chỉ c̣n nhớ lăng đăng. HàNội chiếm được miền Nam rơi vào t́nh trạng trong không ấm , ngoài không êm. Nhân dân miền Nam có lẽ đă trên 20 năm , sống dưới chế độ khác nhau, nhưng tương đối có đời sống tự do……Đời sống của miền Nam cao hơn miền Bắc gấp bội. Chính sách của CS cho dân miền Nam hiểu rằng : danh từ giải phóng ngày xưa chỉ là chiêu bài, chỉ là lạm dụng. Tất nhiên CS dở ngón bùa ngải của Hồ,nhưng đối với nhân dân miền Nam bùa ngải này tỏ ra hết linh, vô dụng. Tôi xin dẫn chứng một vài phản ảnh nhỏ nhưng là phản ảnh của quần chúng. Tôi đèo thằng bạn lên đa Kao, lúc về qua đường Trần Quang Khải, đường vào xóm chùa, bức tường khá rộng lớn, như đập vào mắt chúng tôi hàng chữ khá to, viết nguệch ngoạc « Hồ chí Minh bú cặt…… » thằng bạn ngồi sau tôi cười khúc khích, rồi bấm vào lưng tôi nói : Bú cặt th́ đúng là dân Nam kỳ rồi mày ạ !Cuốinăm 1975 dân Sàig̣n rỉ tai nhau rằng : Mấy em học sinh lớp đệ thất trường Pétrus Kư bí mật lập một phiên ṭa sử tội phạm Hồ chí Minh……nhà văn Duyên Anh gặp mấy em trong tù, ông đă viết một chuyện ngắn về vụ này. Mấy anh lính VNCH cộng sản chiếm Sàig̣n, chẳng biết làm ǵ hơn, kiếm tư tiền c̣m làm mấy sị đế quên sầu…. rượu vào lời ra….một anh cất tiếng chửỉ lớn :

Đù mẹ thằng Hồ chí Minh !

Người cùng bàn , tát mạnh một cai vào mặt bạn như trời giáng, anh bị tát gầm lên nói :

Tao tội t́nh ǵ mà mày đánh tao ?

Đ…M….mày đă biết tội mày là tội ǵ chưa ?

  Anh bị tát đập tay xuống bàn th́nh th́nh…tao tội ǵ mày đánh tao ?Nghe đây mày, nghe kỹ về tội tầy trời của mày ? không chỉ có mày khổ , tao khổ…mà toàn dân VN khổ…..may thằng đó nó đă chết, nay mày đ̣i đ…m…nó, nó sinh ra thằng Hồ em th́ toàn dân chịu sao thấu !

Anh bị tát, nghe bạn giải thích về tội của ḿnh, khoái quá cười lăn xuống đất. Hai người bạn ôm nhau cười mà nước mắt họ chẩy ḍng ḍng.

Bên ngoài biên giới Việt Nam Kampuchia luôn luôn có đụng độ về quân sự. Tương quan Hoa Việt như bầu trời u ám CSVN lùa thanh niên Việt Nam xâm chiếm nước láng giềng, chúng gọi là nghĩa vụ quốc Tế. Năm 1979 Đặng tiểu B́nh sang Mỹ tuyên bố sẽ dậy cho CSVN bài học. Vài tháng sau cuộc chiến khốc liệt diễn ra ở biên giới Hoa Việt. Tướng Lê trọng Tấn tham mưu trưởng quân đội đă mô tả :

« Đây là cuộc chiến chống một kẻ thù hung hăn , liền đất, liền biển , liền trời » Về biên giới đường bộ của lănh thổ Trung Quốc và Việt Nam chỉ cách nhau bởi làn cỏ phân mao, như mao ngựa. Về lănh hải biển , hai quần đảo Hoàng và Trường Sa, thủ tướng CSBắc Việt Phạm văn Đồng đă kư dâng cho quan thày Tàu từ năm 1958. Nay Hoàng và Trường Sa trở thành căn cứ quân sự bao vây CSVN !về địa lư dân tộc Trung Hoa to lớn hơn chúng ta gấp bội, về biên giới lại gắn liền vào nhau  về biển, trời và đất liền như hai cơ thể song sinh dính chặt vào nhau. Về phương diện lịch sửTrungHoa và Việt Nam đánh nhau trên 10 trận. Trận nào TrungHoa cũng tấn công Việt Nam bằng ba mũi dú. Hai gọng ḱm đường bộ từ Vân Nam và Quảng Đông tiến sang Việt Nam. Gọng ḱm thứ ba, chiến thuyền của Trung Hoa bao vây đường biển Việt Nam. Thế , dân tộc Việt Nam vẫn dữ được Độc Lập, tự chủ hàng bao thế kỷ. Phải yên mặt phương Bắc mới thanh b́nh để kiến tạo đất nước nên dân tộc chúng ta đă có nền ngoại giao truyền thống với Trung Quốc. Nay hai ḥn đảo Hoàng và Trường Sa Việt cộng đă kư dâng cho Trung Cộng th́ số phận dân tộc Việt Nam như nằm trong túi của Trung Cộng . Nghiệp chướng gây ra có lẽ bởi Trung Cộng đă biết Hồ là điệp viên của QTCS. Khi Nga Trung Cộng giữ được thế tương quan tốt đẹp th́ Trung Cộng giúp CSVN ở mức dộ môi không hở, răng không lạnh. Hồ và bọn CSVN lợi dụng được sự viện trợ của Trung Cộng lớn tiếng tuyên bố để kẻ thù miền Nam Việt Nam và qưốc tế rằng : Đằng sau Việt Cộng có Trung Cộng. Nhưng không phải , khi CS Nga và Trung Cộng trở thành thù nghịch phải giải quyết bằng quân sự th́ miền Bắc Việt Nam và sau này cả miền Nam Việt Nam, đă trở thành căn cứ của Nga bao vây Trung Cộng. Việt Nam như mũi dùi của Nga chĩa thẳng vào yết hầu Trung Cộng……

Bài học năm 1979 của Tầu, ngay từ chiến cuộc mở đầu, giới thức giả nhận định rắng : Trong cuộc chiến Trung Cộng chỉ nhằm dậy cho CSVN một bài học và không có dấu hiệu Tầu không muốn chiếm Việt Nam ? Sao biết ? Trong cuộc xâm chiếm Việt Nam, bao giờ Trung Cộng cũng phải chuẩn bị trước như mở rộng đường giao thông từ Vân Nam và Quảng Đông sang Việt Nam để hành quân được mau chóng và phải chuẩn bị những kho tiếp liệu về lương thực,quân nhu. Như ta biết một trung đoàn tham chiến th́ phải có mấy trung đoàn lo về hận cần và tiếp liệu. Không có những chuẩn bị kể trên chứng tỏ cuộc đụng độ không kéo dài và không tiến sâu vào lănh thổ Việt Nam. Người ta nhận định cuộc chiến biên giới Việt và Trung chỉ nhằm việc tháo gỡ, phá hủy những căn cứ quân sự của Nga, trên đất Việt , nhắm bao vây Trung Cộng.Chỉ v́ Hồ và lũ CSVN nằm trong quỹ đạo của Nga nên nhiều năm liên tiếp Trung Cộng đánh phá ngầm CSVN về kinh tế…….Ḍng máu Hán tộc vốn thâm hiểm và thù dai……Giờ đây CSVN có dùng mọi nhục kế như dâng người , dâng cửa, dâng đất đai như chúng đă và đang làm th́ Trung Công vẫn không thể quên. Con đường duy nhất phải hủy diệt chế độ CSVN mới có hy vọng ḥa b́nh cho Việt Nam.Vai tṛ chiến lược của Việt Nam vô cùng quan trọng nên luôn luôn bị các cường lực nḥm ngó, mua chuộc , muốn chiếm đoạt. Nếu mảnh đất này  nằm trong độc quyền lănh đạo của bọn vô tổ quốc như CSVNngày nay th́ đất nước , dân tộc và tiềm lực nhân sự và kinh tế hao ṃn mà không thoát cái ṿng :

« Tránh vỏ dưa, mắc vỏ dừa

Tránh chàng Kim Trọng mắc lừa Sở Khanh »             

 

XV)- Những người đàn bà điqua đời Hồ :

1) Tăng Tuyết Minh, người vợ Trung Quốc của Hồ :

Lời toà soạn : Toàn văn bài này, Hồ chí Minh với người vợ Trung QuốcTăng Tuyết Minh, đă đăng trên báo tháng 11-2001 của tạp chí Đông Nam tung hoành (Dọc ngang Đông Nam Á) xuất bản tại Nam Ninh. ? Tác giả Hoàng Tranh  là nhà sử học , viện phó viện khoa học Quảng Tây, tác giả cuốn Hồ chí Minh với Trung Quốc. Bản dịch của Minh Thắng. Theo thông tin từ HàNội, một tạp chí sử học có ư định đăng bài này, nhưng đă bị chặn lại. Đoạn chữ thẳng cuối bài là tóm tắt của Diễn Đàn.

Sinh thời chủ tịch Hồ chí Minh đă sống độc thân suốt thời gian dài hoàn toàn không phải người suốt đời không lấy vợ. Thực ra Hồ Chí Minh từng có một giai đoạn sống trong hôn nhân chính thức. Đó là thời kỳ những năm 20 đầu thế kỷ XX khi người tiến hành công tác cách mạng tại Quảng Châu Trung Quốc. Nói cụ thể là vào tháng 10năm1926, Hồ chí Minh từng lấy cô gái Quảng Châu Tăng Tuyết Minh làm vợ, đă cử hành hôn lễ, sau khi cưới đă chung sống với nhau hơn nửa năm. Vào tháng 5 năm 1927, sau khi rời Quảng Châư, Hồ chí Minh đă mất liên lạc với vợ từ đó không gặp lại nữa. Từ đó đôi t́nh nhân ấy, người không bao giờ bước đi bước nữa,người không lần nào cưới vợ, mỗi người một phương trời, đều sống độc thân cho tới khi từ biệt cơi đời này.

Tăng Tuyết Minh, người vợ Trung Quốc của Hồ chí Minh, quê ở huyện Mai tỉnh Quảng Đông, sinh tháng 10 năm 1905ở thành phố Quảng Châu. Thân phụ Tăng Tuyết Minh là Tăng Khai Hoa, thời trẻ một ḿnh đến Hương Sơn(Honolulu)lúc đầu làm công, sau buôn bán . Khi tích luỹ được ít vốn, trở về nước tiếp tục buôn bán. Gia cảnh khấm khà vui vẻ. Người vợ đầu của Tăng Khai Hoa họ Phan, sanh được hai trai một gái. Sau khi bà Phan bị mất, ông lấy bà vợ kế họ Lương là người huyện Thuận Đức sinh được7 cô con gái nữa. Tăng Tuyết Minh là con gái út, bởi vậy những người quen Tăng Tuyết Minh thường gọi cô là cô Mười. Khi cô 10 tuổi th́ cha cô qua đời, để lại bất động sản. Bà Lương Thị cùng Tuyết Minh sống qua ngày nhờ vào tiền thuê nhà, gia cảnh không được như trước. Năm 1918, mới 13 tuổi Tăng Tuyết Minh đă bắt đầu theo chị là Tăng Tuyết Thanh, một y sĩ sản khoa, học viện hộ lư và đỡ đẻ. Đầu năm 1923, người chị ấy đưa Tăng Tuyết Minh đếnPhiên Ngung để học cao đẳng tiểu học. Nửa năm sau , chẳng may Tăng Tuyết Thanh ĺa đời, Tăng Tuyết Minhmất đường chu cấp, ngay tháng 7 năm ấy phải vàotrường hộ sinh Quảng Châu học tập.Tháng 6 năm 1925, Tăng Tuyết Minh tốt nghiệp trường trợ sản, được ông hiệu trưởng giới thiệu đến trạm y tế La Tú Vân làm nữ hộ sinh. Chính thời gian này Tăng Tuyết Minh làm quen với Hồ chí Minh lúc ấy tiến hành cách mạng ở Quảng Châu.

     Tháng 11 năm 1924, Hồ chí Minh từ Mạc tư Khoa tới Quảng Châu, lấy tên là Lư Thụy, làm việc tại pḥng thông dịch của Borodine thuộc hôị lao  liên của Tôn Trung Sơn, trú ngụ tại nhà ôngBào tại quảng trường Đông Hiệu. Sau những giờlàm công tác thông dịch. Hồ chí Minh dành nhiều th́ giờ và tâm sức liên kết và tổ chức  các chiến sỹ cách mạng Việt Nam, sáng lập tổ chức cách mạng Việt Nam, huấn luyện cách mạng Việt Nam trong công tác. Trong thời gian ấy, những thanh niên cách mạng Việt Nam đến Quảng Châu trước Hồ như Hồ tùng Mậu, Lâm đức Thụ để trở thành  trợ thủ đắc lực cho ông. Lâm đức Thụ cùng người vợ Trung Quốc của ông là Lương Huệ Quân chính là ông bà mối cho cuộc hôn nhân của Hồ chí Minh và Tăng Tuyết Minh

    Lâm đức Thụ vốn tên là Nguyễn công viễn, người huyện Kiến xương tỉnh Thái B́nh Việt Nam, sinh năm 1890. Hồ chí Minh và cả gia đ́nh Lâm đức Thụ có thể nói là chỗ giao hảo nhiều đời. Hai người quen biết nhau từ thuở thiếu thời, lại cùng chí hướng. Năm 1911, Hồ chí Minh đến Châu Âu t́m chân lư cách mạng, gần như đồng thời hưởng ứng lời hiệu triệu của nhà chí sĩ chống Pháp lăo thành Phan Bội Châu. Lâm đức Thụ muốn qua Nhật, nhưng khi nổ ra cách mạng Tân Hợi, Phan bội Châu tới Trung Quốc , sáng lập Việt Nam Quang Phục hội ở Quảng Châu, Lâm Đức Thụ theo Phan bội Châu đến Quảng Châu  và gia nhập hội đó. Đầu năm 1922một số thanh niên trong VNQP hội cảm thấy thất vọng về cánh già bảo thủ nên đă ly khai VNQP hội và để lập ra một đoàn thể cấp tiến hơn làTâm Tâm xă. Sau khi đến Quảng Châu, Hồ chí Minh nhanh chóng liên hệ với Tâm Tâm xă và quyết định cải tạo tổ chức này thành một tổ chức cách mạnh chân chính của giai cấp vô sản Việt Nam. Hồ chí Minh vốn quen biết Lâm đức Thụ từ trước nên ở Quảng ChâuHồ coi Lâm đức Thụ là cốt cán có thể tin cậy.

   Lâm đức Thụ họat động ở Quảng Châu khá lâu. Ở đây ông đă lấy cô gái Trung Quốc làLương huệ Quần làm vợ. Mẹ của Lương huệ Quần là thày thuốc đă mở tại Quảng Châu một dịch vụ y-tế. Lương huệ Quần  làm công tác y tế tại đó. Năm 1925Tăng Tuyết Minh tốt nghiệp trường bảo sinh hộ sản, qua sự giới thiệu của ông hiệu trưởng đă tới cơ sở y tế của mẹ Lương huệ Quần làm cô đỡ nên đă nhanh chóng quen biết Lương huệQuần và trở nên thân thiết. Lương huệ Qần hơn Tăng Tuyết Minh 3 tuổi nên thường gọi là chị Quần, hai cô đối xử với nhau như chị em ruột

    Lâm đức Thụ sau năm 1927 đă từng bước phản bội,ly khai hàng ngũ cách mạng Việt Nam làm không ít điều hại cho cách mạng VN. Nhưng tại thời diểm mấy năm Hồ chí Minh đến Quảng Châu th́ ông ta cũnglà một thanh niên cách mạng hăng hái có triển vọng. Hồ chí Minh chẳng những được Lâm đức Thụ phối hợp và chi viện trong công tác mà c̣n được Lâm giúp đỡ cả về mặt kinh tế. Hồ chí Minh đă đem cả việc trăm năm của ḿnh phó thác cho Lâm đức Thụ. Mùa hè năm 1926Hồ chí Minh đề xuất với Lâm đức Thụ rằng : do công việc quá bận rộn, anh cũng muốn t́m một cô gái Trung Hoa đểtiện trong cuộc sống nơi cư ngụ có người săn sóc. Lâm đức Thụ và Lương huệ Quần bàn bạcthấy Tăng Tuyết Minhlà đối tượng thích hợpbèn giới thiệu cho Tăng Tuyết Minh và Hồ chí Minh làm quen với nhau. Hồ chí Minh sau khi gặp mặt Tăng Tuyết Minh đă rất có cảm t́nh với cô gáiQuảng Châu có gương mặt traí xoan, da trắng nơn, điềm đạm đoan trang, thông minh, sáng dạ, v́ vâỵ sau giờ làm thường hẹn gặp và nói chuyện với cô. Nơi gặp gỡ thường là nhà Lương Huệ Quần. Cảm t́nh của đôi bên ngày càng sâu sắc, nhanh chóng đi đến việc trao đổi về hôn lễ. Thời gian này Hồ chí Minh thường đưa Tăng Tuyết Minh đến nhà hàngcủa ông Bào về việc hôn nhân của họ. Phu nhân họ Bào nhiệt liệt tán thành việc kết hôn của họ. Thế nhưng mà bà mẹ Tăng Tuyết Minh ngay từ đầu không đồng ư việc hôn nhân này v́ thấy Hồ chí Minh là nhà cách mạng phiêu lưu bạt xứ, ở không định nơi, con gái lấy người như vậy sẽ khổ đau một đời. Đúng vào lúc ấy người anh hai của Tăng Tuyết Minh là Tăng Cẩm Tương, sau một thời gian sang Mỹ học đă trở về Quảng Châu. Anh gặp Hồ chí Minh, dùng tiếng Anh tṛ chuyện, thấy Hồ chí Minh có học vấn rất tốt, lăo luyện và cẩn trọng, lại tâm huyết với sự nghiệp, v́ thế anh thuyết phục bà mẹ đồng ư cho cuộc hôn nhân này.

    Hồ chí Minh gặp Tăng Tuyết Minh luôn luôn. Một mặt cố nhiên anh thích tính giản di, đoan trang, thông minh, chăm chỉ của cô gái ,mặt khác anh cũng cảm thấy cô c̣n non nớt, cần phải giác ngộ chân lư cách mạng hơn, hiểu đời hơn nữa và nâng cao năng lực hoạt động. V́ vậy anh động viên Tuyết Minh thôi việc ở cơ quan dịch vụ y tếvà tham gia học tập ở lớp huấn luyện vận động phụ nữ. Lúc ấy ban phụ vận của trung ương quốc Dân Đáng Trung Quốc do  bà Lương Nghi chủ tŕ, đang định mở một cơ sở huấn luyệnvận động phụ nữ tại Quảng Châu nhắm bồi dưỡng cán bộ phụ nữ trong nước. Hồ chí Minh thông qua sự quen biết trực tiếpvới các vị Chu ân Lai , Đặng dĩnh Siêu, Lư Phú Xuân , Tháí xướng xin được hai xuất cho Tăng Tuyết Minh và Lương huệ Quần cùng vào lớp huấn luyện phụ nữ. Kỳ ấy lớp khai giảng ngày 16 tháng 9năm 1926 và kết thúc ngày 26 tháng 3 năm 1927, thời gian học tập là nửa  năm. Quảng Châu thời ấy là trung tâm cách mạng Trung Quốc quá tŕnh huấn luyện phụ vận tiến hành, người ta chẳng những đă mời không ít các đồng chí   có trách nhiệm của đảng Cộng Sản Trung Quốc đến giảng mà c̣n tổ chức cho các học viên tham gia họat động xă hội. Nhờ được học tập quả nhiên Tăng Tuyết Minh tiến bộ quá nhanh, trong khóa học, được bạn đồng học là Trịnh Phúc Như giới thiệu cô đă gia nhập đoàn thanh Niên Xă Hội chủ nghĩa.

   Do Hồ chí Minh cứ thúc giục nên hôn lễ hai người đă cử hành vào tháng 10 năm1926. Lúc ấy Hồ chí Minh36 tuổi, c̣n Tăng Tuyết Minh 21 tuổi. Điạ điểm tổ chức hôn lễ là nhà hàng Thái B́nh Dương trước ty tài chính ở trung tâm thành phố. Đó cũng là địa điểm một năm trước đấy Chu ân Lai và Trương Dĩnh Siêu mời khách đế dự lễ kết hôm của ḿnh. Tham dự hôn lễ có phu nhân Bào La Đ́nh, Thái Xướng và Đặng Dĩnh Siêu và một bộ phận khóa phụ vận. Phu nhân họ Đào tặng một lẵng hoa tươi. Mấy ngày đầu sau lễ cưới. Hồ chí Minh và Tăng Tuyết Minh tạm trú trong tổng  bộ thanh niên cách mạng đồng chí hội vốn là nơi nghỉ ngơi của Hồ chí Minh. Lúc ấy Hồ chí Minh đang trụ ch́ khoá huấn luyện chính trị đặc biệt thứ ̀̀I, củaViệt Nam, do học viên khá đông nên địa điểm học tập đă chuyển từ tổng bộ thanh niên cách mạng đồng chí hội đến phố Nhân Hưng, đường Đông Cao. Mấy ngày sau Hồ chí Minh và Tăng Tuyết Minh dọn đến ở quán ông Bào, lúc đầu dùng bếp tập thể. Sau tự nấu nướng. Hồ chí Minh bận rộn công tác, mọi việc nhà đều do Tăng Tuyết Minh quán xuyến. Cô lo chu đáo mọi việc ăn uống, sinh hoạt hàng ngày của Hồ chí Minh, giúp anh từ 21 tuổi đă xa nhà bôn tẩu làm kẻ phiêu du góc bể chân trời, th́ sau 15 năm lại có được cảm giác ấm áp ở nhà ḿnh. Hồ chí Minh rất rất măn nguyện về cô vợTrung Quốc của ḿnh sau ngày cưới.Hồ chí Minh từng nhiều lần đàm đạovới Lâm đức Thụ và Huệ Quần về vợ ḿnh, đều nói rơ điều đó.

 

Uyên ương chia ĺa đội ngả :

    Nhưng hạnh phúc chẳng lâu dài. Ngày 12 tháng 4 năm 1927, mới nửa năm Hồ chí Minh và Tăng Tuyết Minh kết hôn, Tưởng giới Thạch phản bội cách mạng, phát động cuộc chính biến cách mạng tại Thượng Hải, t́nh thế Quảng Châu cũng chuyển biến theo. Trước đó chính phủ Quốc Dân đă rời tới Vũ Hán. Trụ sở cố vấn hội Lao Liên cũng rời tới Vũ Hán. Vàtất nhiên Hồ chí Minh cũng phải chuyển đến Vũ Hán. Trung tuần tháng 5, Hồ chí Minh lưu luyến chia tay với Tuyết Minh, trước lúc lên đường dặn đi dặn lại Tuyết Minh : « Em phải bảo trọng, đợi tin tức của anh , ổn dịnh nơi chốn một chút là anh đón em ngay” Thế rồi, Hồ chí Minh rời Quảng Châu đến Vũ Hán, rồi lại chuyển đến Thượng Hải, đi đường Hải Sâm Uy, khoảng giữa tháng 6 năm 1927 đến Mạc tư Khoa, sau đó Hồ chí Minh lại vội vàng đến Đức , Pháp , Bỉ, Thụy Sĩ,Italia….tạm ngừng công tác, cuối cùng tháng 8 năm 1929 đến Thái Lan.

     Do Tưởng giới Thạch phản bội thành Quảng Châu rơi vào cuộc khủng bố trắng. Sau khi chia tay với Hồ chí Minh, Tăng Tuyết Minh một ḿnh về sống với mẹ và những người thân. Trong hai năm từ tháng 7 năm 1927 đến khoảng tháng 6 năm 1929, Tăng Tuyết Minh vào trường Anh văn Kiêm Bá và trường nữ sinh Tân Á học tập. Thời gian đầu cô  c̣n giữ được liên lạc với một số nừ đồng chí cách mạng quen biết ở cơ sở huấn luyện phụ vận. Về sau do Quốc Dân Đảng càng ngày càng đàn áp thô bạo các đảng viên Cộng Sản, các đồng chí mà Tăng Tuyết Minh quen biết đều rời Quảng Châu, mối liên hệ về tổ chức của cô với đoàn thanh niên xă hội chủ nghĩa Trung Quốc cũng bị gián đoạn. Tháng 7 năm 1929, Tăng Tuyết Minh rời Quảng Châu về quê nhà của mẹ ở Thuận Đức làm nữ hộ sinh tại một trạm y tếtư, ở thị trấn Lạc Lưu. Đầu năm 1930, cô lại chuyển đến làm nữ hộ sinh ở y xá Quần Ancủa Dư Viễn, thị trấn Lạc Ṭng huyện Thuận Đức.Thời gian này, Hồ chí Minh có hai lần nhờ người mang thư và gửi thư liên hệ đến Tăng TuyếtMinh, nhưng đều không kết quả. Sau khi đến Thái Lan, Hồ lấy tên lá Đào Cửu tiến hành công tác tuyên truyền và tổ chức cách mạng trên đất Thái, đă hơn một năm Hồ chiMinh mất liên lạc với Tăng Tuyết Minh, nhớ thương da diết. Nơi đây cách Trung Hoa tương đối gần, nhờ người gửi thư cũng tiện, bèn cầm bút viết cho Tăng Tuyết Minh. Hồ chí Minh cũng nghĩ tới thời cuộc biến loạn, t́nh huống thiên biếnvạn hóa, thư có đến vợ được hay không, thật khó dự đoán. V́ vậy anh quyết định dùng lời lẽ ngắn gọn ,hàm xúc, viết một bức thư ngắn, báo cho biết ḿnh vẫn b́nh an và thăm hỏi người thân. Nội dung bức thư đó nhu sau :

    «  Từ ngày chia tay với em, đă hơn một năm trôi qua. Nhớ thương khắc khoải chẳng nói cũng hiểu. Nay mượn cánh hồng gửi mấy ḍng thư để em yên tâm, đó là điều anh mong mỏi, và cầu chúc nhạc mẫu vạn phúc.

                    Anh trai vụng về

                           Thụy    

                           Phiên âm

                        « Dữ muội tương biệt

                          Chuyển Thuấn niên dư

                          Hoài niệm t́nh thâm, *

                          Bất ngôn tự hiểu

                         Tư nhân hồng tiện

                         Dao kư thốn tiên

                         Tỷ muội an tâm

                        Thị ngă ngưỡng vọng

                        Tinh thỉnh

                        Nhạc mẫu vạn phúc                        

                        Chuyết huynh Thụy

 

                        Cùng em xa cách

                        Đă hơn một năm

                        Thương nhớ t́nh thâm

                        Không nói cũng rơ                         

                        Cánh hồng thuận gió

                        Vắn tắt vài ḍng

                        Để em an ḷng

                        Ấy anh ngưỡng vọng

                        Và xin kính chúc                          

                        Nhạc mẫu vạn phúc

                           Anh Ngu vụng:

                                    Thụy

                             (Bản dịch củaN.H.Thành )

     Thư của Nguyễn ái Quốc (lư Thụy) gửi Tăng Tuyết Minh, bị mật thám Đông Dương chặn được ngày 14 tháng 8 năm 1928, hiện tàng chữ tại C..A.O.M(aix en Provence ) xuất xứ: Daniel HéméryHồ chí Minh de l indochine au Việt Nam. Gallimad Paris 1990.

   Không rơ người mang thư sơ xuất, hay anh ta vốn dĩ không thể tin cậy mà bức thư dó đă nhanh chóng lọt vào tay cơ quan mật thám Pháp ở Đông Dương, cuối cùng thành vật lưu trữ tại cục hồ sơ công an quốc gia của nước Pháp. Năm 1990 trong dịp kỷ niệm một trăn năm, sinh nhật của chủ tịch Hồ chí Minh, nhà xuất bản Gimard ở Pháp đă cho ra mắt bạn độc cuốn sách Hồ chí Minh từ Đông Dương đến Việt Nam, giữa tranh ảnh minh họa trong sách có in bản chụp bức thư bằng Trung văn nói trên của Hồ chí Minh gửi cho vợ, với những ḍng thuyết minh: „thư của Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ chí minh ) viết cho vợ. Chuyển tới cơ quan đặc vụ Đông Dươngngày 14 tháng 8 năm 1928. Một tác giả tên là Bú Đ́nh kế trên báo nhân dân của Việt Nam, số ra ngày 15 tháng 9 năm 1991, đă dẫn lại bức thư, bài nhan đề về một tài liệu liên quan đếnsinh hoạt cá nhân của Nguyễn Ái Quốc.. Bài báo đă phân tích bức thư dó liệu có phải của Hồ chí Minh hay không. Tuy nhiên đă không đưa ra kết luận rơ ràng. Thực ra bức thư đóchính xác là do Hồ chí Minh viết. Một là đối chiếuvới những thư cảo Trung văn của Hồ chí Minh th́ bức thư đó hoàn toàn ăn khớp với bút tích của Hồ. Hai là Hồ chí Minhviết bức thư dó cách thời điểm chia tay Tăng Tuyết Minh đúng là hơn một năm như nói ỏ trong thư. Ba là, Tăng Tuyết Minh từ nhỏ mất cha, chỉ có mẹ lúc ấy c̣n sống, và Hồ chí Minh nắm rơ điều đó, nên trong thư chỉ vấn an nhạc mâũ. Căn cứ những điều trên, bức thư đó là do Hồ chí Minh viết, không c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Thư viết xong đă rơi vào tay mật thám Pháp, đó là điều Hồ chí Minh không thể lường trước được.

     Lúc ấy Hồ chí Minh công tác ở Thái Lan đến tận tháng 11 năm 1929. Sau đó , Hồ được QTCS cử đến Hương Cảng, triệu tập thống nhống nhất ba tổ chức CS thành một đảng Cộng Sản. Hội nghị thống nhất đă khai mạc tại Hương Cảng ngày 3 tháng 2 năm 1930, chính thức tuyên bố thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam. Sau hội nghị tháng 3 năm đóHồ chí Minh trở lại Thái Lan, tháng 4 lại đến Hương Cảng. Sau nhiều lần  từ Hương Cảng đến Thượng Hải, tiến hành công tác tuyên truyền và tổ chức cách mạng  trong giới Việt Kiều ở tô giới Pháp ởThượng Hải. Lúc ấy đảng viên CSVN Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Lương Bằng…..Cũng đang hoạt động Việt Kiều ở Thượng Hải. Đầu tháng năm năm 1930, Hồ chí Minh lại viết bức thư nữa từ Thượng Hải gửi Tăng Tuyết Minh. Bức thư này gửi qua Quảng Châu cho Tăng Tuyết Minh lúc ấy đang làm nữ hộ sinh ở cư xá dịch vụ y tế tại Gia Viễn, thị trấn Lưu Lạc huyện ThuậnĐức. Nội dung yêu cầu Tăng Tuyết Minh mau đến Thượng Hải để đoàn tụ, trong thư có hẹn kỳ hạn và nói rơ nếu quá hạn đó mà Tăng Tuyết Minh không đến sẽ đành một ḿnh xuất ngoại. Thế nhưng, với cả bức thư này nữa, cũng đă xâỷ ra chuyện ngoài ư muốn, Tăng Tuyết Minh cũng không sao nhận được. Tài liệu hồi ức do Tăng Tuyết Minh viết cũng như kể lại của bà qua thư trao đổi với tác giả bài này đều nói tới hoàn toàn cảnh sự của sự cố này. Hoá ra tháng 7 năm 1929Tăng Tuyết Minh sau khi đă rời Quảng Châu làm nữ hộ sinh cho bác sỉ DưBắc Văn mới mở ra ở thị trấn Lưu Lạc, huyện Thuận Đức đến cuối năm. Đầu năm sau cô lại chuyển đến làm nữ hộ sinh tại y xá Quần An của Sa Khiếu ở thị trấn Lạc Ṭng cũng huyện Thuận Đức. Bức thư của Hồ chí Minh chuyển đến y tế của DưBắc Văn ở thị trấn Lưu Lạc th́ lúc ấy Tăng Tuyết Minh đă rời đi rồi. Trưởng trạm y tế DưBác Văn chẳng những không kịp thời chuyển thư đến Tăng Tuyết Minh mà ngược lại c̣n tự ư mở thơ ra trước mặt vợ ḿnh, lại c̣n gọi thêm cả nữ sĩ Hoàng Nhă Hồng xem trộm nội dung thư, sau đó dem đốt đi. Nửa năm sau xẩy ra chuyện dó, Tăng tuyết Minh trở lại Quảng Châu thăm mẹ và nhận lời mời đến dự lễ khai trương cơ sở y tế tại nhà đồng học cũ. Tại đây cô bất ngờ gặp nữ y sĩ Hoàng nhă Hồng, người đă cùng làm việc tại thị trấn Lưu Lạc, huyện Thuận Đức. Nữ y sĩ đă đem toàn bộ sự việc tuôn ra hết ngọn ngành. Lúc ấy so với thời gian Hồ chí Minh hẹn gặp nhau ở Thượng Hải th́ đă qua nửa năm. Tăng Tuyết Minh chỉ c̣n biết kêu khổ khôn nguôi, nuốt nước mắt trong ḷng. Như vậy con người đă gieo tai hoạ. Tăng Tuyết Minh mất đi cơ hội trở lại bên chồng, cũng gây cho cô một bi kịch xuốt đời  . Đến cuối năm 1931, rồi rốt cuộc Tăng Tuyết Minh cũng có một cơ hôi gặp mặt Hồ chí Minh nhưng lại là toà án của nhà đương cục Anh tại Hương Cảng xét sử Hồ chí Minh. Tăng Tuyết Minh chỉ có thể nh́n Hồ chí Minh từ xa. C̣n Hồ chí Minh hoàn toàn không biết vợ ḿnh có mặt tại toà. Cuối những năm 20 đầu 30 hoàn toàn cách nhà cách mạng hoạt động tại Hương Cảng rất tồi tệ. Trong hàng ngũ cách mạng có kẻ phản bội, các cơ sở bí mật bị phá hoại, chính quyền thực dân Pháp và nhà đương cục Anh bắt rồi trao cho mật thám dẫn độ về Việt Nam  giam cầm.Hồ chí Minh cũng bị nhà đương cục Anh bắt ngày 5 tháng 6 năm 1931, lư do làm tay sai cho hội Lao Liên, âm mưu tiến hành hoạt động phá hoại Hương Cảng. Sau khi Hồ chí Minh bị bắt, Quốc tế Cộng Sản thông qua hội chữ thập đỏ quốc tế kêu gọi cứu giúp. Tổ chức đó  mời một luật sư tiến bộ người Hương Cảng là ôngLoseby bào chữa cho Hồ chí Minh.Sau vài tháng bị giam  giữ. Hồ chí Minh được đưa ra xét xử. Lần này đến Hương Cảng, Hồ lấy bí danh là Tống văn Sơ. Nhưng bị nhà đương cục Anh đă phát hiện chính là Lư Thụy. Lúc ấy rất nhiều báo Hương Cảng đưa tin. Cùng thời gian này thân mẫu Tuyết Minh bị bệnh. Cô cùng mẹ đến Hương Cảng trú ngụ tại cơ sở chữa bệnh của anh cả là Tăng Cẩm Nguyên. Được tin ṭa án xét sử chồng ḿnh là Lư Thụy, liền nhờ bạn bè. Người đến dự sửrất đông .Tăng Tuyết Minh phải ngồi nghe cách xa pḥng xử án. Nh́n thấy h́nh giáng tiều tụy của người chồng xa cách đă 5năm mà ḷng khôn ngăn  trăm mối ngổn ngang. Nhưng do hoàn cảnh khá xa, lại giữa toà án vợ chồng chẳng những vô phương tṛ chuyện mà Hồ chí Minh thậm chí chắc chắn không hề biết mặt Tăng Tuyết Minh đang ở trước ḿnh. Tăng Tuyết Minh muốn đến thăm nom nhưng có lời truyền ra rằng đây là một tội phạm chính trị không được phép thăm hỏi gặp gỡ.? Tăng Tuyết Minh hỏi ḍ nhiều nơi và biết được rằng hội đồng thập tự Quốc Tế và luật su Loseby đang t́m cách cứu Hồ chí Minh, t́nh cảnh có lẽ cũng sẽ chuyển biến, đành cùng thân mẫu trở về Quảng Châu, ḷng hoang mang không biết làm sao.

    Tháng 10 năm 1932, thâm mẫu Lương thị của Tăng Tuyết Minh bệnh nặng qua đời hưởng thọ 76 tuổi. Tăng Tuyết Minh chuyển công tác ở y xá Quần An huyện Đông Hoàn. Lúc này cha mẹ của cô đều mất, anh em đông người nhưng người thi đi xa, người th́ chết sớm. Tăng Tuyết Minh côi cút thực là buồn. Năm 1943, thày giáo cũ là Trương Tố Hoa mở tại đường Long Tân ở Quảng Châu một pḥng chẩn trị, có mời Tăng Tuyết Minh đến giúp sức. Cô bèn thôi việc ở Đông Hoàn đến pḥng chẩn trị của Trương Tố Hoa  làm việc ở đó cho đến ngàyTrung Quốc giải phóng. Sau khi nước Trung Hoa mới được thành lập, chính phủ tiến hành cải tạo và chỉnh đốn các cơ sở kinh tế tư nhân, thành lập cơ sở vệ sinh các cơ sở  vệ sinh bảo vệ sức khỏe tại các khu . Tăng Tuyết Minh hưởng ứng lời kêu gọi của chính phủ, đă đến công tác tại trụ sở số 8 ở khu vực phiá Tây và saư trạm này đổi gọi là viện vệ sinh KimHoa. Tăng Tuyết Minh  công tác ở đóhành nghề hộ sinh đến tận năm 1977 th́ về hưu. Thế là từ sau lần trông thoáng thấy chồng ở Hương Cảng, không bao giờ Tuyết Minh gặp Nguyễn Ái Quốc nữa. Theo tác giả Hoàng Tranh, tháng 5 năm 1950, thấy Hồ chí Minh đăng trên Nhân Dân nhật báo cùng tóm tắt tiểu sử, bà tin chắc Hồ chí Minh là chồng ḿnh, nhất là sau khi t́m mua được cuốn truyện Hồ chí Minh.Bà đă báo cáo với tổ chức, đồng thời gửi mấy bức thư cho chủ tịch Hồ chí Minh thông qua đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh là Hoàng văn Hoan. Những bức thư ấy như ch́m biển khơi.. Thậm chí chúng có được ra khỏi Quảng Châu hay không ?là điều c̣n đáng hoài nghi. Tuy nhiên một cán bộ Trung Quốc đă gặp Tăng Tuyết Minh, trao cho bà lá thư của bà Thái Sướng:  Chứng thực Hồ chí Minh chính là Lư Thụy, cũng tức là chồng Tăng Tuyết Minh. Cán bộ này cũng giải thích lư do tại sao không liên lạc với chủ tịch Hồ chí Minh, hy vọng Tăng Tuyết Minh Hiểu và lượng thứ việc này, yên tâm công tác. Vẫn theo sử gia Hoàng Tranh th́ phần ḿnh Hồ chí Minh đă từng thông qua tổng lănh sự Việt Nam tại Qưảng Châu ḍ t́m tin tức của Tăng Tuyết Minh, năm 1960 lại nhờ bí thư trung Nam cục Đào Chú ḍ ḍ t́m dấu vết của bà, song việc trên đương nhiên không có kết quả v́ điều này vào thời ấy hoàn toàn không kỳ lạ.

    Bà Tăng Tuyết Minh đă yên tâm công tác cho đến năm 1977 mới về hưu. Sau 52 năm tận tụy với nghề nữ hộ sinh. Theo Hoàng Tranh, gia đ́nh bà theo đạo công giáo từ đời ông nội, và bà thường xuyên đi lễ giáo đường. Bà có thói quen ăn uống đạm bạc không dùng cá thịt, cuộc sống vô cùng giản dị, luôn luôn vui vẻ giúp người.

    11 giờ 15 phútngày 14 tháng 11Năm 1991, sau 86 năm trải qua con đường đầy lận đận long đong tại nơi cư ngu đường Long Tân Đông, Quảng Châu cụ bà Tăng Tuyết Minh đă b́nh yên nhắm mắt, thanh thản trút hơi thở cuối cùng .

                           Hoàng Tranh .

 

-Hồ, tự xưng là cha già dân tộc đ̣i cưới vợ !

     Hồ, một nhân vật đă đi vào lịch sử Việt Nam với nhiều giai thoại, nhiều vấn đề bí ẩn và khuất tất. Hơn nữa khi chế độ Cộng Sản c̣n đang tồn tại trên đất nước Việt Nam th́ những bí ẩn ấy măi măi nằm trong sự yên lặng. Thế nhưng cổ nhân có câu nói: „”Cái kim bọc rẻ, lâu ngày cũng ra” những năm tháng gần đây  nằm trong số bí ẩn đó dần dần được đưa ra ánh sáng với những bằng chứng, nhân chứng,  vật chứng, chính xác cụ thể.

       Đặc biệt gần đây nước Cộng Sản „ Trung Hoa anh em“lại công bố những tài liệu  rất công khai và cụ thể về những “ điều lâu nay đối vơí cộng sản Việt Nam vẫn là điều tuyệt đối cấm kỵ. Trong thời gian gần đây do các tài liệu đă đến thời “giảỉ mật”( Sau 40 hay 50 năm, tuỳ theo hạn định )một số những chuyện được gọi làthâm cung bí sử „ trong giai đoạn h́nh thành chế độc Cộng Sản ở trung Quốc và Việt Nam đă được những tờ báo rất có uy tín và uy thế ở Trung Quốc sưu tầm và đăng tải. Chúng tôi xin dịch lại nguyên văntài liệu dưới đây từ báo Tin nhanh Văn Hóa, kỳ 421, ra ngày 30 tháng 8 năm 2006. Sự việc nhà báo nêu ra có thể là một thông tin rất hiển nhiên và được biết đến từ lâu đối với một số ngụi th́ vẫn hầu như không được biết chính  xác hoặc vẫn coi như những lời đồn vô căn cứ, nói xấu lănh tụ của “ thế lực phản động”   Do vậy, mong rằng qua tài liệu này có thêm chứng cứ chính xác để hiểu rơ sự thực này và nhiều sự thực khác mà mấy chục năm qua luôn  bị chế độ Cộng Sản che lấp, bóp méo , tô hồng. Chúng ta cũng mong rằng càng ngày sẽ có nhiều hơn những tài liện khác được công bố để đem sự thực ra trước ánh sáng công lư,  vạch trần bản chất chế độn Cộng Sản.

Nguyên tác: Viên Xuân Thu

Người dịch: Quan công Nhân

 

Hồ tự xưng là cha già dân tộc đ̣i lấy vợ!

       Hồ chí Minh, một nhân vật lịch sử đă đi vào lịch sử Việt Nam với nhiều giai thoại, nhiều điều bí ẩn và khuất tất. Hơn nũa, khi chế độ cộng sản trên đất nước Việt Nam  c̣n đang tồn tại trên dất nước Việt Nam th́ những diều bí ẩn vẩn măi măi nằm trong im lặng. Thế nhưng cổ nhân có nói,

„Cái kim bọc nằm trong  bọc  lâu ngày rồi cũng ṇi ra „những năm tháng gần đây: một số bí ẩn đó, dần dần được đưa ra ánh sáng với những, vật chứng xác nhận là cự thể.

    Đặc biệt gần đây chính từ nước cộng sản „Trung Hoa anh em „ lại công bó những tài liệu công khai và rất- cụ thể về những điều rất công khai và cụ thể về những điều lâu nay đối với cộng sản Việt Nam vẫn là điều tuyệt đối cấm kỵ.Trong thời gian gầnđây do các tài liệu đă đến thời

„giải mật „(Sau 40 năm hay 50năm tuỳ theo hạn định ) một số những chuyện được gọi là „thâm cung bí sử „ trong giai đoạn h́nh thành chế độ cộng sản ở Trung Quốc và Việt Nam đă được một số các tờ báo rất có uy thế và uy tín ở Trung Quốc sưu tầm và đăng tải. Chúng tôi xin dịch lại nguyện văntài liệu dưới đâytừ báo Tin Nhanh Văn Hóa, số 421, ra ngày tháng 8năm 2006. Sự việc mà báo nêu racó thể là một thông tin hiển nhiên và được biết từ lâu dối với một số người, nhưng đối với đa số nhân dân Việt Nam th́ vẫn không  được biết chính xác hoặc vẫn cứ coi như lời đồn không chính xác để hiểu rơ sự thực này và nhiều sự thực khácmà mấy chục năm qua luôn luôn bị chế độ cộng sản che dấu, bóp méo tô hồng. Chúng ta cũng mong rằng càng ngày sẽ có càng nhiều hơn những tài liệu khác được công bố để đem sự thực ra ánh sáng và công lư, vạch trần bản chất của chế độ cộng sản.

 

Người dịch: Quan công nhân

  

Năm 1930, trong lúc khu hành chánh Bạch Sắc bị khủng bố, các địa điểm khác cũng bị địch tăng cường lùng bắt các phần tử cộng sản. Lúc ấy Hồ chí Minh đến Quảng Châu. Xuất phát từ suy nghĩ bảo vệ an toàn cho ḿnh, ông ta nhờ tỉnh ủy bí mật ở Quảng Đông giúp đỡ.Tỉnh ủy Quảng Đông  cử Đào Chú xắp xếp cho Hồ chí Minh cùng một nữ đảng viên cộng sản tên là Lâm Y Lan đóng giả làm một cặp vợ chồng để baỏ vệ Hồ chí Minh.

     Hôm ấy , Hồ chí Minh đến chỗ ở mới, vừa bước vào đến cửa liền đứng sững lại v́ kinh ngạc, v́ người đứng trước mặt ông ta rơ ràng là người ấy mà ngày đêm ông tưởng nhớ: Nguyễn thanh Linh tựa như giấc chiêm bao, Hồ chí Minh liền hỏi :“ Thanh Linh em ….em chưa chết ư?“. Cô gái ngỡ ngàng chưa hiểu được chuyện ǵ, nh́n kỹ ông ta rồi nói: „Ông có phải là Hồ chí Minh…tôi là Lâm y Lan“

Hồ chí Minh lúc ấy mới biết ḿnh lầm ngườỉ „ vội cười xin lỗi „xin lỗi cô tôi thất thố quá“. Lát sau, Hồ chí Minh chậm răi kể lại:1O năm về trước ông có yêu một người con gái tên là Nguyễn thanh Linh, nói đến chuyện ấy lạiđộng ḷng rơi lệ, gạt tay lau nước mắt lưng tṛng. Hồ chí Minh viết trong hồi kư „ Tôi phát hiện ra rằng: tự bản thân ḿnh không thể là con người „vô thần“, nhất định tấm ḷng chân thành của tôi đă làm cảm động đến thượng đế, tôi quyết không để một lần nữa chia ly cô ấy „

    Để yểm trợ cho Hồ chí Minh triển khai công việc tại Quảng Đông Hương Cảng, Lâm Y Lan đă thực hiện vai tṛ người vợ  thực sự chăm sóc cho Hồ chí Minh từng ly từng tư trong mọi sinh hoạt hàng ngày. Hồ chí Minh cảm động vô cùng, nhưng lại lo rằng thời cơ vẫn chưa chín mùi, sợ bị Lâm Y Lan cự tuyệt, cuối cùng không dám biểu lộ ra t́nh yêu của ḿnh . Về phần Lâm Y Lan thấy rằng Hồ chí Minh đă dốc hết tâm sự với ḿnh, nên cũng rất sớm từ trong trái tim hứa hẹn những điều rất tốt đẹp, nhưng cũng nhận thấy chưa đến lúc nói ra t́nh cảm của ḿnh một cách rơ ràng nên vẫn im lặng.

    Không lâu sau do kẻ phản bội bán rẻ, Hồ chí Minh bị bắt. Lúc sắp chia tay Hồ chí Minh ôm hôn Lâm Y Lan, lấy khăn tay lau mặt cô rồi nói: „ Kiên cường lên em, đừng để kẻ địch nh́n thấy chúng ta yếu mềm „  nói xong liền lấy trong người một quyển nhật kư được dấu kỹ đưa cho Lâm Y Lan và nói:“ Tôi để lại trái tim lưu lại với em , hăy giữ lấy nhé „

    Ba hôm sau , Hồ chí Minh được cứu ra , ông ta mang hoa đến tặng Lâm Y Lan với thái độ ngượng ngùng, Hồ chí Minh nói :“em đă xem qua quyển nhật kư chứ ? Tôi tin tưởng hoa Lan trong trái tim này măi măi không bao giờ khô héo „

   

Dự dịnh bí mật tổ chức hôn lễ tại Hànội:

    Bánh xe lịch sử lay chuyển đến thập niên 50 của thế kỷ 20, đất nước Trung Hoa được giải phóng. Lúc ấy Lam Ư Lan  cán bộ lănh đạo cao cấp của tỉnh Quảng Đông, Hồ chí Minh đă về nước tiếp tục sự nghiệp cách mạng.

    Hồ chí minh từ khi tạm biệt Y Lan ,ḷng yêu thương nhớ nhưng ngày càng da diết. Vài năm sau đó, Hồ chí Minh nhận lời đến thăm Trung Quốc, nhân tiện đó đề nghị với chủ tịch Mao Trạch Đông thu xếp cho ḿnh được gặp các bạn cũ từng hoạt động ở tỉnh Quảng Đông để ôn lại chuyện cũ. Chủ tịch Mao Trạch Đông lập tức diện cho tỉnh ủy Quảng Đông bố trí cho Đào Chú và Lâm Y Lan và một vài người khác đến Bắc Kinh để gặp mặt Hồ chí Minh.

     Năm 1958, tại HàNội bên bờ sông có hai người bạn già ngồi , thong thả buông câu, họ chinh là Đào Chú và Hồ chí Minh. Hồ chí Minh nói với Đào chú một cách nghiêm túc: „ Trung Quốc có câu nói : trẻ là vợ chồng , già là bạn.

Tôi và Lâm Y Lan thương nhau đă trên 20 năm, cũng v́ sự nghiệp cách mạng làm lỡ đi tuổi thanh xuân, giờ đây tuổi tác đều đă cao, tôi cảm thấy cô đơn gấp bội lần, cho nên càng sớm được cùng Y Lan đoàn tụ. Xin ông về bên ấy xin ư kiến của Mao chủ Tịch và thủ tướng Chu Ân Lai giúp xem giải quyết việc này như thế nào ? Nếu quả Mao chủ Tịch và thủ tướng tán thành th́ tôi dự định đón Lâm Y Lan về HàNội và bí mật tổ chức hôn lễ., đấy chính là đạt nguyện vọng lâu nay của tôi „    Sau khi Đào Chú về Bắc Kinh liền truyền đạt ngay ư nguyện của Hồ chí Minh với trung ương đảng và Mao chủ Tịch trầm ngân giây lát rồi nói : „ chúng ta đề xướng tự do yêu đương, tự chủ hôn lễ „ cá nhân tôi ủng hộ đề nghị của Hồ chủ tịch, thế nhưng việc này quả là việc „ nhỏ  mà không nhỏ „, nó liên hệ đến hai đảng hai nước Việt Trung, không thể lơ là được. Thủ tướng Chu Ân Lai cũng nhận thấy rằng cần phải bàn bạc với các đồng chí trong trung ương đảng cộng Sản Việt Nam về việc này .

 

Lê Duẩn giơ tay phải rồi lại bỏ xuống:

     Trong pḥng họp của trung ương đảng cộng sản Bắc Việt. Hồ chí Minh  và Lê Duẩn ngồi đối diện nhau, hai bên bố chí cho các ủy viên. Tất cả trong pḥng đều ngồi im lặng không lên tiếng. Cuối cùng Hồ Chí Minh đứng dậy đập bà n nói: „ Tôi chịu như vậy đủ rồiTôi không muốn sống như con người khác nữa. Tôi cũng có những quyền lợi của ḿnh để đưa ra quyết định chứ , lần này các anh đừng mong thuyết phục tôi „

   Lê Duẩn không hề tỏ ra nóng nảy, b́nh tĩnh diềm đạm nói: „Cụ Hồ ,cụ đừng quá nóng vội!Phàm làm việc ǵ cũng phải suy tính cho kỹ, không thể không tính trước tính sau, tôi cũng v́ lo cho cụ mà khuyên cụ thế này . Chẳng phải cụ đă từng nói: v́ Việt Nam thống nhất cụ trọn đời không lấy vợ ? Câu ấy có ảnh hưởng rất lớn, một khi cụ phạm vào lời hứa đó có nghĩa là chúng ta hủy bỏ việc giải phóng miền Nam thiêng liêng, như thế không chỉ ảnh hưởng đế h́nh tượng „người cha già dân tộc „  của cụ đối với nhân dân, mà c̣n mất đi thanh danh của đảng cộng sản Việt Nam. V́ vậy tôi thà bị cụ quở trách, căm ghét cũng không thể để nhân dân oán ghét chúng ta là phạm nhân thiên cổ „

    Hồ chí Minh không giữ nổi b́nh tĩnh, nói : Đúng là tôi có nói câu ấy, nhưng con người tôi không phải là thần thánh, ai cũng phải trải qua? Vả lại nhân dân cũng không nh́n vào lời nói của tôi, điều quan trọng là công việc tôi làm như thế nào chứ. Tôi tin rắng nhân dân sẽ lượng thứ cho tôi „

    Hồ chí Minh không thấy Lê Duẩn nói một lời, nghiến chắt răng nói:„ đă thế,  bàn bạc không thống nhất được  th́ mọi người biểu quyết, dựa theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số để giải quyết việc này. Ai đồng ư với tôi th́ xin giơ tay „

     Hồ Chí Minh đưa mắt nh́n bốn bên, số ủng hộ và phản đối tương đương nhau, đang nh́n xem thái độ của Lê Duẩn thế nào. Lúc ấy , Lê Duẩn ngập ngừng giơ tay lên rồi đột nhiên lại hạ xuống, thở dài nói :“ Tôi  không thể hại cụ được „    Diều Lê Duẩn bất ngờ  là Hồ chí Minh không nổi giận đùng đùng , chửi mắng ầm ỹ, ngược lại ông ta chỉ cười gượng một cách khô khan rồi bước ra ngoài.

 

Giũa lúc hấp hối vẫn nhớ đến Y Lan:

    T́nh yêu của Hồ chí Minh với Lâm Y Lan đă ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần Lâm Y Lan, bà mất vào năm 1968, trước lúc lâm chung cũng không quên lấy ra quyển „nhật kư t́nh yêu „ mà Hồ chí Minh tặng cho ḿnh nhờ chuyển lại cho Hồ chí Minh, cũng nhắn Hồ chí Minh không nên quá buồn phiền.

     Hồ Chí Minh được tin người yêu mất, buồn không muốn sống nữa, lệ rơi như mưa. Cách một năm sau đó , ngày 2 tháng 9 năm 1929, Hồ chí Minh, đột ngột qua đời , giữa lúc hấp hối vẫn c̣n nhắc đến Lâm Y Lan.

Viêm Hoàng Xuân Thu

 

2)Nguyễn thị Minh Khai:

     Quăng đời , Hồ làm điệp viên cho Quốc Tế Cộng Sản, đă được Sophie Quinn Judge, nghiên  cứu liên tục tại thư viện của Nga và viện Marx- Lénin cũ, là nơi tàng chữ hồ sơ mật của QTCS ngày nay đổi thành Trung tâm bảo tồn và nghiên cứu lịch sử thuôc thời hiên đại của nước Nga, mở cửa cho các nhà nghiên cứu tham khảo. Tài liệu được Trần Ngọc dịch, đăng trên thế kỷ 21về khám phá Nguyễn thị Minh Khai là vợ của Hồ, Quinn Judge viết như sau:

    „ Về đời tư của họ Hồ, tôi đă t́m được bằng cớ, chứng tỏông ta đă từng lấy vợ, vào một khoảng thời gian nào đó.

Một cô đồng chí cách mạng tên là Minh Khai. Người phụ nữ này đă từng hoạt động bên cạnh ông Hồ ở Hồng Công năm 1930- 1931 và cũng từng có mặt đồng thời với ông ở Mouscow từ khoảng 1934 đến 1937. Cấp lănh đạo CSVN ngày nay, cảm thấy cần bác bỏ sự hiện diện của Hồđă có một thời có mốt mối t́nh lăng mạn, với ư định lâu dài, dù bất cứ một h́nh thức nào, và kể cả chuyện ông ta có con với ai. Lập trường kiên tŕ của họ về vấn đề này h́nh như xuất phát từ ư muốn biến Hồ thành vị thánh, v́ ông ta đă được mô tả như  người hoàn toànhiến dâng đời ḿnh choxứ sở, vượt lên những giao t́nh cá nhân“

     Minh  Khai là người như thế nào? Duyên cớ nào lọt vào mắt xanh của Hồ:“ Theo như lư lịch chính xác của Minh Khai, cô ta là một trong những người đấu tranh của đảng Tân Việt ở miềnTrung Việt Nam, được mời ra nhập đảng CS thống nhất của Việt Nam ngày naysau khi đảng này được thành lập. Trước đó cô đă từng là người hoạt độnglâu năm và là kẻ sống sóttrong trận đàn áp dữ dội đă từng triệt tiêu cấp lănh đạophần lớn của đảng Tân Việt năm 1929.Năm 193OMinh Khai được chỉ định hoạt động ở Hải Pḥng và sau đó được phái đi Hồng Kông để phụ giúp Hồ. Có lẽ thời gian này do sự gần gũi, nhất là Minh Khai người phụ nữ có nhan sắt, đă trrở thành vợ Hồ:

    Đồng chi Lư Thụy , mỗi buổi sáng, thường có thói quen xuất hiện tại trụ sở quốc Tếcủa ông vào lúc 6giờ sáng. Những lúc không quá bận rộn, ông thường dành ra độ một tiếng đồng hồ mỗi buổi sáng để bàn chuyện chính trị với hai cô học sinh trẻ tuổi. Minh Khai và người phụ nữ trẻ hơn nữađược gửi từ Thái Lan sang…………chẳng bao lâu sau,có vẻ như ông Nguyễn chuyển sang t́nh cảm lăng mạn. Một bức thư gửi từ viễn đông cục ở Mouscow đề tháng giêng năm 1931, yêu cầu ông phải thông báocho dảng biết trước 2 tháng nếu ông định lấy vợ.

   Về bằng chứng Minh Khai là vợ của Hồ Quinn Jude viết:

   „ Minh Khai đến Mouscow vào năm 1934, sau khi gặp một đồng chí cũ từT hái Lan và nhờ họ cô bắt được liên lạc với đảng, cô công khai tuyên bố đă làm vợ của đồng chí Lin. Trong khi điền vào lư lịch đự đại hội, ở hàng khai báo t́nh cảm  gia đ́nh cô ta viết tên „lin“ bên cạnh chữ có gia đ́nh. Một bức thư gửỉ từ văn pḥng hải ngoạilúc đó đặt ở Hồng Kông, tỏ ra xác định t́nh trạng gia đ́nh của cô. Bức thư xác quyết những đại biểu được cử về dự đại hội quốc tế kỳ 7 gồm những người nhu sau: Livinov ( Lê Hồng Phong )Quốc , Kao Bang, vợ quốc và hai người dân quân từ Nam Kỳ và Lào đi dự, cô chính là vợ của Quốc đă nói tới. Một lá thư viết vào tháng 3 năm 1931, cũng từ trong hồ sơ đề cập ở trên, cũng liệt Livov là đảng viên hàng đầu của Ủy Ban Trung UơngCSĐD và Nguyễn ái Quốc liệt vào hạng thứ 13 như một ủy viên dự khuyết „

  

 3)  Cô Xuân người có với Hồ đứa con trai.

       Dầu năm 1955, một cô gái người Thượng, có nhan sắc đậm đà, da trắng như trứng gà bóc, đương lứa tuổi 2O, thân xác khêu gợi, cười tươi như hoa,đang làm „ công tác „ở cơ quan „hộ lư „được gặp Trần đăng Ninh trong bộ chính trị,Ninh đưa cô Xuân về Hà Nội để phục vụ cho bác Hồ. Nhưng Hồ v́ giữ tiếng „Suốt đời không lấy vợ „nên không cho cô Xuân ở trong dinh chủ tịch mà giao cho Trần Quốc Hoàn quản lư cô Xuân nên cô Xuân ỡ trên gác hàng Bông Thợ Nhuộm. Khi Hồ cần giải quyết sinh lưcó nhân viên bảo vệ  Hồ, cô Xuân được xe hơi đón vào dinh chủ tịch để gặp Hồ . Năm 1956 , cô Xuân sinh với Hồ  một đứa con trai Hồ. đặt tên là Nguyễn Tấn Trung.Cô Xuân xin Hồ, em đă sinh con trai với Bác, xin bác cho mẹ con em ra công khai. Hồ trả lời cô Xuân : điều cô xin rất hợp lư, nhưng phải được các ông trung ương đảng chấp thuận mới được . nên cô phải chờ đợi một thời gian. Hồ hỏi cô xuân :“ Chỗ ở của chị em cô , có nhiều người đến thăm phải không ?“

    -Thưa, ở Cao Bằng, gia đ́nh không biết địa chỉ các em .C̣n HàNội chúng em không hề quen ai ?“

Năm 1957, cô Xuân bị bộ trưởng Công An Trần Quốc Hoàn đè ra hiếp tại nhà cô và trước mặt hai cô em gái cô Xuân, cùng chứng kiến. Một hôm cô Xuân được an ninh phủ chủ tịch mang xe đến nói với cô Xuân: Vào gặp Hồ chủ tịch. Họ đă tạo ra vụ đụng xe hơi để ám hại cô Xuân. Khi bác sỹ khám nghiệm thi thể cô Xuân, tuyên bố, có mặt em gái cô Xuân:thi thể cô Xuân không có dấu vết ǵ chứng tỏ cô Xuân không hế có dấu vết ǵ v́ tai nạn xe hơi. Khám tử cung cô Xuân không hề có chất nhờm, chúng tỏ cô Xuân không hề bị hăm hiếp. Chỉ có trên đầu cô Xuâncó một lỗ  thủng khá lớn, điều này có thể nạn nhân bị chụp chăn lên đầu rối dùng búađập nên bể sọ. Cô Xuân chết trong sự im lặng. Những người thân của cô Xuân, như anh phế bịnh chồngchưa cưới của cô Xuân có làm đơn tố cáo gưỉ cho những nhân vật quyền thế ở chính phủ và quốc hội. Nhưng người ta cố t́nh ỉm đi vụ án cô Xuân . Những người em gái của cô, ở với cô ở phố hàng Bông Nhuộm , đều bị ám sát, xác quẳng xuống sông để bịt kín đường giây. Cho tới nay vụ án mấy chị em cô Xuân bị ám hại chị em cô Xuân  c̣n trong nghi vấn ? Năm 1957 cô Xuân bị bộ trưởng công an Trần Quốc Hoàn hăm hiếp tại nhà cô, trước mặt hai cô em gái . Vụ án này c̣n bị bưng bít nên chưa sáng tỏ chính danh thủ phạm là ai. Nhưng chúng ta đặt một nghi vấn, nếu Hồ không ra lệnh sai khiến th́ không bao giờ Trần quốc Hoàn cả gan hăm hiếp và thủ tiêu cô Xuân, người đă có  với Hồ một đứa con; Đă có triệu trứng bị lộ nên Hồ saiTrần quốc Hoàn thủ tiêu cô Xuân để giữ bí mật, giữ danh tiếng ?

     Ví lư do nào đi chăng nữa, người ta không thấy người thư hai như Hồ. Cô Xuân chỉ là thứ giải trí, đứa con 2 tuổi giết mẹ nó chết. Nguyễn Tấn Trung giọt máu của chính Hồ mà Hồ cam tâm không nuôi dưỡng , không doái hoài tới…Quả là có sự trùng hợp khó giải thích. Thân phụ của Hồ phó bảng Nguyễn Sinh Huy, khị bị cách chức tri huyện B́nh Khê, ông  ngoảnh mặt cúi đầu ra đi, ông không đoái hoài đến 3 đức con thơ….Ông đi biền biệt vào Nam và không bao giờ trở lại….Quả là có sự trùng hợp khó giải thích. Quả là rau nào sâu ấy, cha nào con đó. Chúng tôi đă minhchứng rằng: Hồ  thừa hưởng ḍng máu con hoang và thừ hưởng ḍng máu điên v́ rượu. Đến nay ta thấy Hồ thừa hưởng cha ḍng máu lạnh lùng, đến độ độc ác với gia đ́nh và những người cùng màu mủ với ông.

    

 4) Hồ là người chỉ có Dục, không có ái?

      Hồ đúng với bản chất của hắn,ta phải công nhận Hồ là kịch sĩ thiên tài.. Con người Hồ từ đầu đến chân, đều do lũ văn nô tô vẽ, người từ bộ quần ào kaki màu lá vàng uá, dôi dép râu, đến cái nhà sàn được xây dựng trong phủ chủ tịch đều là kịch. Hành động của Hồ cử chỉ ôm ấp, chỉ thương các cháu thiếu nhi, thăm người nghèo ,  người cùng khổ. Đến cơ quan nào , Hồ sồng sộc vào thăm nghà xí, rồi nhà bếp để chứng tỏ Hồ chú ư đến vệ sinh, Hồ chú ư đến cán bộ. Ra hội trường câu hỏi đầu tiên của Hồ: - Các cô các chú có khoẻ không ? Tuị cán bộ đa số là nông dân ít học nên óc suy luận và phán đoán kém…..làm sao không qúy mến, hy sinh cho Hồ cho được. Ngoài kịch sĩ Hồ c̣n tinh quái , đánh hơi bén nhậy như cáo. Có lẽ bản chất ấy của Hồ, nhân dân Việt Nam gọi Hồ là cáo. Khi ra trước ống kính hay ra mắt quần chúng, Hồ hiền lành như con nai tơ, khi nhe nanh nhe vuốt để giết người th́ Hồ hiển hiện nguyên h́nh một con ác quỷ, một con Hồ ly tinh.Trong cuộc đời trường giang đại bịp của Hồ, chỉ bị duy nhất ng̣i bút của Nguyễn chí Thiện,  sống trong ṿng kiềm tỏa của Hồ mà dám vạch mặt giả nhân giả nghĩa của Hồ:

                    „ Bác Hồ rồi lại bác Tôn

              Cả hai đều khoái ôm hôn nhi đồng

                      Nước da hai bác mầu hồng

            Nước da các cháu nhi đồng mầu xanh

                    Giữa hai cái mặt bành bành

            Những khăn quàng đỏ bay quanh cỏ c̣!“

Hồ thường tuyên bố, như h́nh thức „tự phê „ của chế độ Công Sản, nhưng thực ra Hồ tự đề cao ḿnh: „ Bác có hai thói xấu, không lấy vợ và nghiện thuốc lá nặng „kẻ viết bài này đă nh́n tận mắt, nghe tận tai. Năm 1956, có lẽ cuối mùa Thu th́ phải. Phái đoàn Vorochilov chủ tịchchủ tịch đoàn tối cao Liên Xô đếm thăm trường Đại Học Hà Nội. Hồ dẫn phái đoàn thăm trường, thời gian đó tôi đang học lớp tổng hợp Văn, dù phái xếp hàng khu dành cho sinh viên quần chúng, khá xa khán đài. Phái đoàn Việt Nam có Hồ, bác sỹ Trần duy Hưng chủ tịch Ủy ban hành chánh HàNội,bác sỹ Hồ đắc Dji  viện trưởngviện đại học Hà Nội và một thông ngôn. Hồ đă mở đầu cuôc thăm viếng bằng những lời giới thiệu thành tích và địa vị chủ tịch đoàn của Vorochilov, rồi cười toe toét:

 Dây là con trai bác Vorochilov. Chẳng những là cha là ông, bác Vorochilov c̣n là ngũ đại đồng dường, c̣n bác chỉ là nhất đại đồng đường. Ở tuổi gần kề thất thập cổ lai hi, Hồ c̣n nhanh nhẹn. Nh́n h́nh ảnh của Hồ, toát ra một mẫu người rất quen thuộc với dân Bắc Kỳ : Lăng nhăng , láu cá, khôn vặt, biết lợi dụng ngừời khác để đề cao ḿnh : đôi hàm răng giả trắng muốt, khiến khi cười che bớt bộ mặt quắt, dâu dê thưa thớt. Thỉnh thoảng Hồ ghé vào tai người thông dịch, ra cái điều ta giỏi tiếng Nga và đang chỉ huy người thông  !.

    Dưới ánh sáng mặt trời, không có ǵ có thể che dấu được măi. Thuờng t́nh lănh tụ đa tài thường đa t́nh. Cuộc đời bôn ba thăng trầm th́ lănh tụ có vợ , có con hay con rơi con văi là chuyện thường t́nh. Như người anh hùng Nguyễn công Trứ, trong bao công nghiệp lớn lao của ông ngày nay, ông c̣n để lại hai huyện Kim Sơn, Tiền Hải ở Thái B́nh những miền mầu mỡ bát ngát. Khi ông làm quan tướng công, lính hầu báo có bà đàn bà nhà quê xin vào gặp ông. Ra mắt tướng công, bà quê mùa, không nói năng ǵ, bà rút cái phách gơ nhịp hát :

                     « Giang sơn một gánh giữa đồng

             Thuyền quyên ứ hự , anh hùng nhớ chăng » 

Mới nghe đến đấy, Nguyễn Công Trứ vỗ đùi đánh đét một cái, miệng gieo…..đúng là cố nhân của ta . Ngày xưa hàn sĩ Nguyễn công Trứ, làm nghề hát chầu văn, một đêm chàng và nàng cô đầu đang đi giữa cánh đồng th́ trời tối….cái tiếng ứ hự của thuyền quyên đă gợi ông nhớ về dĩ văng thơ mộng. Cái đa t́nh của người anh hùng Nyuyễn công Trứ rất người. Hồ đeo mặt nạ muốn trở thành người vẹn toàn mười phân vẹn mười . Cả đời Hồ chỉ nghĩ đến dân đến nước, không nghĩ đến ḿnh. V́ thế cả cuộc đời Hồ chỉ toàn một chuỗi lừa bịp , xảo trá, gian dối , đóng kịch…..Cuộc đời t́nh ái của Hồ, gọi là t́nh ái cũng không đúng nghĩa với Hồ. V́ Hồ chỉ có dục không có ái. Cô Xuân chỉ là cô gái để giải quyết sinh lư. Khi đă chán hay có cô khác Hồ giết cô Xuân để cắt đứt đường giây.

   

XVI) Chữ nghiă thơ phú của Hồ chưa đầy chiếc lá đa  hay Hồ là nhà thơ con cóc !

      Giữa thế kỷ 20, thi ca Việt Nam xuất hiện một trường phái thơ con cóc. Cái  đáng phục  tác giả nhà thơ con cóc là tác giả thơ  mặt dầy- phải là dầy lắm nên học sinh, đến tuổi ngồi ghế nhà trường đều thuộc thơ con cóc của Hồ. Cái đáng phục thứ hai, thơ con cóc nặng mùi như mùi của con thuyền Nghệ An, thế mà những nhà thơ danh tiếng, bất chấp cả danh dự,  liêm sỉ của con người xúm vào ca ngợi thơ văn của bác như thái độ của những kẻ nịnh thần ngày xưa nếm phân nhà vua rồi đua nhau khen : - thơm lắm ! thơm lắm :

                « Con cóc trong hang

                  Con cóc nhẩy ra

                 Con cóc ngồi dó

                 Con cóc nhẩy vô”

   Từ đó văn chương của Việt Nam, xuất hiên văn phái thi ca thơ con cóc. Thi đoàn này gồm những bài thơ cỡ như Hồ, như người đánh cờ mà chưa sạch nước cản, như con chim chưa vỡ bụng cứt mà đ̣i bay bổng . Ngày xưa bác cử Nhu tôi thường kể chuyện tiếu lâm cho con cháu nghe: Ngày xa xưacó hai anh nhà Nhovốn nhác học, chuyên phá làng phá xóm và ưa ghẹo gái như loại hoc sinh cao bồi, du đăng ngày nay. Kỳ thi hương mở ở HàNội. Hai chàng cũng lều chơng lên đường dự thi….Đi một quăng khá xa, hai anh nào cũng muốn trở tài chữ nghiă cho bạn đồng hành khâm phục, trước mặt thấy cái tháp, một anh nói lớn:

 Mi nghe ta ra vế câu đối đây.

-   Sẵn sàng, ta cả một bụng chữ, đang chờ đợi mi dây.

 - Trước mặt hai chàng có cái tháp lớn, một chàng lớn tiếng ra câu đối: -Viễn viễn nhất tháp.

  Chàng thư sinh thứ nh́, cúi gằm đầu,vừa đi vừa bópdầu Suy nghĩ. Chàng dặn măi không ra chữ, đi tới gần cái tháp Chàng mới t́m được nguồn cảm hứng, nói lớn:- Mi nghe ta đối đây: - Cận cận nhất tháp. Rồi hai chàng cười vang coi như thiên hạ không c̣n ai nữa:

Cái thủ khoa kỳ thi hương này không vào tay tao th́ vàotay  mày , chứ c̣n vào tay ai được nữa!

  Trước mặt có quán bán nước, hai chàng tạm ngưng vào quán . Hai chàng thấy một cô chủ quán, vào lứa tuôi 2O, vẻ đẹp chim sa, cá lặn, liền dở tṛ khoe ḿnh để tán tỉnh:

Chúng tôi là thư sinh, lên HàNội dự thi, đi được một quăng tôi ra một câu đối, anh bạn tôi đây tức thời đáp lại.

Thưa hai ngài, câu đối ra sao ạ?

Tôi ra vế câu đối: Viễn viễn nhất tháp. Bạn tôi đối lại bằng câu: Cận cận nhất tháp.

- Đấy cô nghe, kỳ thi hương này, không vào tay chúng tôi th́ c̣n vào tay ai được nữa ?

Cô gái khóc như mưa như gió!

Một anh thư sinh hỏi bạn, tại sao cô gái lại khóc?

-Th́ c̣n tại sao nữa, cô khóc v́ cô không biết lựa chọn ai, lựa mày th́ mất tao, lưạ tao th́ mất mày!

- Không phải vậy đâu, thưa hai chàng nho sinh. Em khóc đây v́ quá thương bố em:Ngày nhỏ em rất ngu đần, bố em có thề độc với em: Bao giớ mày gặp người ngu hơn mày, th́ tao sẽ chết.

Đă 2O tuổi, em chưa bao giờ gặp người ngu hơn em. Nay gặp hai thày, em sợ bố em sẽ chết. Em thương bố em mà em khóc!

Hai chàng nh́n nhau, miệng ấp úng như chó ăn vụng bột. Mặc dù  chưa uống một ngụm nước, nhưng hai chàng cảm thấy quá ô nhục, mặt tiu ngỉu, đứngdậy ra đi……..

    Nhà thơ “nhớn” Hồ nổi bật trong  trường phái con cóc. Thường  Hồ sáng tác theo thể thơ  Đường luật. V́ thân phụ của Hồ là ông phó bảng. Hồ cũng đă từng là môn đồ của cửa Khổng sân Tŕnh……nhưng thơ Đường của Hồ nó đă bất chấp khuôn khổ, c̣n niêm luật đối với Hồ chúng như những giai cấp phản động, cần phải tiêu diệt tận gốc , trốc  tận ngọn như trong cải cách ruộng đất của Hồ. Bài thơ thi đua của Hồ nếu ta nín hơi “dặn” thêm chút nữa th́ lập trường nhất định thắng, dược kiên định hơn nữa. Chẳng hạn như:

                          Người người thi đua

                          Nhà nhà thi đua

                          Xóm xóm thi đua

                          Làng làng thi đua

                          Xă xă thi đua

                          Huyện Huyện thi đua

                         Tỉnh Tỉnh thi đua

                         Miền Miền thi đua

                         Cả nước thi đua

                         Đoàn đoàn thi đua

                         Ngành ngành thi đua

                         Nghề nghề thi đua

                         Bố bố thi đua

                         Mẹ mẹ thi đua

                         Con con thi đua

                         Cháu cháu thi đua

                         Đời đời thi đua,

                         Kiếp kiếp thi đua

                         Cả nước thi đua

                         Trâu trâu thi đua

                         Ḅ ḅ thi đua

                         Người vật thi đua

                          ……………..

                         Ta nhất định thắng

                         Giặc nhất đinh thua

      Hồ có “đức”  tính như Nguyễn văn Thiệu nói. Làm chính trị phải lỳ mơí đươc. Ĺ ở đây có nghĩa là ĺ lợm. Ĺ lợm là những kẻ bất chấp liêm sỉ. Những hạng người không c̣n sỉ và danh dự. Những người, mà nhà văn Dương Thu Hương khic̣n  ở quốc nội, gọi là “mặt mẹt” :”Cái bọn mặt mẹt, chúng không biết nhục hay sao? Mà cứ vác mặt lên đài hoài “. Mặt tượng trưng cho danh dự, nên người ta thường nói,: tát vào mặt nó một cái hay đẹp mặt chưa. V́, Hồ không hề biết trời cao đất dầy….. Huênh hoang về thơ con cóc của ḿnh. Ĺ hơn cả Hồ là bọn thi nô quá khứ chúng có điạ vị trong văn đàn như : Tố Hữu, Chế Lan viên , Nguyễn đ́nh Thi, Xuân Diệu , Huy Cận , Nguyễn công Hoan…..

Chúng đua nhau, hết lời ca tụng nhà thơ con cóc , đến độ chúng bỏ cái cao quư nhất của con ngườilà liêm sỷ. Chúng hết lời ca ngợi bác của chúng là nhà thơ lớn, nhà thơ vĩ đại. Chúng ta hẳn không có khứu giác về thơ như Cao Bá Quát, Nhưng thơ Hồ sặc mùi nước mắn. Bọn thi nô chúng phần lớn là những nhà thơ lớn, sao chứng không ngửi thấy mùi khắm lặm thơ của Hồ. Chúng cũng đáng thương, ngày xưa có kẻ nếm cứt cho nhà vua để được ḷng tin. Mang kiếp “ruồi bọ “ nên chúng chỉ biết tung hô, không bao giờ dám nói lên sự thực….Chúng c̣n định biến thơ Hồ thành một thứ chuông mang đánh xứ người đấy. !

     Chúng tôi xin dẫn chứng một vài câu thơ của Hồ, cùng lời b́nh luận của thi nô, kẻo độc giả cho rằng v́ ghét Hồ  về chính trị, ghét oan Hồ về nhà thơ . Một viện sỹ của viện ngôn ngữ cộng sản, trong cuốn : Học Tập Phong Thái Ngôn Ngữ  của chủ tịch  Hồ chí Minh, trang 110 đến trang 114 viết :

                “ Người trong tù cũng thưởng Trung Thu

                      Trăng thu, gíó Thu, đều đượm sầu “

Đỗ Phủ nói : “ trăng núi theo người về “Bác lại nói:

                 “Người ngóng về cửa sổ ngắm trăng trong

                  Trăng nh́n qua khe cửa ngắm nhà thơ”

   Chúng ta có thể dẫn nhiều thí dụ nữa, nhưng làm thế là phân tách, chứ không phải đọc thơ của bác. Những sự giống nhau này chỉ là giống tự bên ngoài. Trong thực tế cách xử dụng của bác là cách nh́n hiện đại của chủ nghiă cộng sản, có xử dụng thành tựu đường thi, chứ không phải cách nh́n của thơ Đường. Nhưng chính v́ vậy mới có tứ thơ rất đường theo lối sáng tạo chứ không theo lối tập cổ. Nhà thơ Đường xây dựng sự thống nhất giữa thiên nhiên và con người, trên cơ xở tính thống nhất ấy là tiên nghiệm, không phải do chứng minh mà có, trong đó con người ch́m thẳng  vào thiên nhiên. Bác là nhà thơ cách mạng thấy sự thống nhất giữa thiên nhiên  là ở con người, con người tạo  nên sự thống nhất ấy, Sự thống nhất ấy là do đấu tranh cách mạng mà có, chứ không phải do tiên nghiệm. Bài vào nhà laohuyện Tỉnh Tây là một thí dụ:

                “Trong ngục tù cũ đón từ mới

               Trên trời mây tạnh duổi mây gây mưa.

                 Mây gây mưa, mưa tạnh tan đi hết

              C̣n lại trong pḥng khách tự do “

Nh́n bê ngoài là một bố cục hoàn toàn đường thi:Con người như bâng khuâng giữa mây trời. Nhưng dưới cái vẻ quen thuộc ấy chứa đựng một quan hệ cách mạng, tự dođược thể hiện ở chỗ mây tạnh đă đưổi mây mưa đihết, bầu trời đă trong suốt……………….:

          Một buổi sáng mặt trời mọc lên từ đỉnh nuí

              Chiều cả núi nơi nào cũng đỏ rực

             Chỉ v́ trước ngục có bóng đen

            Mặt trời chưa chiếu đến nhà lao                        

                          ( Cảnh buổi sáng )

             Hiên nay nhà lao hăy c̣n đen tối

          Ánh sáng đă chiếu rọi trước cửa mặt

                       (Buổi sáng )

          Trong nhà lao giấc ngủ ngon lành

          Một giấc ngủ mê mêt suốt mấy giờ       

                    (Buổi trưa )

          Đáp thuyền xuôi ḍng đi U Ninh

      Lủng lẳng chân treo tựa h́nh phạt treo cổ

Hay là:

         Làng xóm hai  bên bờ sông

  Thuyền câu người đánh cá lướt giữa ḍng sông

Dân chủ hóa ngôn ngữ Người theo đuổi suốt đời. Để làm cho lời và câu văn không xa cách nhau. Người chủ trương trước hết  là: Phải học cách nói của quần chúng. Trong thơ văn của Người, ta gặp những lời thơ chân chất như của dân gian:

                  Thấy Tây cứ đánh phứa

                 Thấy Nhật cứ chặt nhào

Buffon đă từng nói :”Phong cách tức là người, điều đó đúng. Muốn t́m hiểu cách nói cách viếtcủa Hồ chủ tịch Không thể tách rời nó với lư tưởng đạo đức, tác phong , lối sống của Người. Cuối cùng đi đến kết thúc việc phân tích những nét tiêubiểu trong số bài thơ của bác. Có lẽ chúng ta cũng cần đọc thêm bài Không Đề để biết trước khi bác mất trên một năm:

                     Đă lâu không làm bài thơ nào

                       Nay thử làm xem ra sao

                   Lục khắp giấy tờ vẫn chẳng thấy

             Bỗng nghe tiếng “thắng “ vút lên cao

    Phần đánh chữ nghiêng là thơ của Hồvà bài viết viện sỹ CSVN)

    Thơ là bằng chứng văn chương chữ nghĩa của Hồ, mọi người đều thấy. Bản chúc thư đă đựợc ông o bế, gọt  rũa, thên bớt , chau chuốt……đem hết khả năng văn hóa của người 79 tuổi, viết bằng tiếng mẹ đẻ, được sửa đi sửa lại liên tục trong 5 năm của những năm c̣n lại

    “ Trong mấy năm chuẩn bị văn kiện tuyệt mật này, bác Hồ chỉ giao cho đồng chí thư kư riêng của ḿnh là Vũ Kỳ giữ ǵn. Cứ đến tháng 5 của năm c̣n lại. Bác Hồ lại sửa chữa viết thêm “

          ( Bác Hồ viết hồi kư – Vũ Kư )

     Điều ngạc nhiên đến sững sờ, ai có thể nghi ngờ, một người 79 tuổi, viết bằng tiếng mẹ đẻ mà bài viết của hắn khoảng nửa trang giấy học tṛ mà sai đến 14 lỗi chính tả, trong dó có những câu vô cùng nghiêm trọng. Khi ta học lớp tiểu học, thày hay cô giáo, đă nhắc nhở ta nhiều lần, đôi khi trừng phạt nặng đến độ suốt đời ta không quên, không tái phạm rằng: Những chữ i ngắn , e, ê, bao giờ cũng phải đi liền với ngh….như nghi….như nghe…..như nghề như xă hội chủ nghĩa mà Hồ viết là xă hội chủ ngĩa, dân chủ Hồ viết Zân chủ…..Khiến tôi có ư nghĩ: Những năm học tiểu học, Hồ không được học hành nghiêm túc! Xét về văn phong của Hồ có ai trong chúng ta tin được rằng: Tác giả bức di chúc, cách đây trên nửa thế kỷ có thể là người cách đây gần thế kỷ mang bút hiệu Nguyễn ái Quốc văn phong lưu loát, sắc bén , kiến thức uyên thâm đă chinh phục giới trí thức Pháp ở Paris.    Đọc bản di chúc của Hồ, ta nẩy ra nhận định:Hồ từng ngồi trên ghế chủ tịch một dân tộc đă có trên 5000 năm văn hiến lại kiêm chức chỉ tịch một đảng đang độc quyền lănh đạo dân tộc, không lẽ Hồ không đủ tŕnh độ nhận thức bức di chúc đầy lỗi chính tả của ḿnh ngay người học tṛ lớp đệ thất ngay nay cũng không viết tồi tệ như Hồ. Tác giả bức di chúc cùng những bài thơ con cóc của Hồ minh chứng hùng hồn rằng: Hồ không đử tŕnh độn văn hóa nên mới viết lách như vậy hay lũ ếch nhái văn nô xa xả ca vang bài ca lănh tụ, khiến Hồ bị nhuốm tuyên truyền của lũ ếch nhái nên Hồ tưởng giả là thực! Hồ  là người thiếu văn hoá.Các lănh tụ CS như Lénine, Stalin, Maotrạch Đông , Lưu thiếu Kỳ …..họ đều có tác phẩm về chủ nghĩa Mác. Riêng Hồ không có tác phẩm nào mang tính chất nghiên cứu về học thuyết Marx cả? người ta chỉ nghe Hồ hay tụi văn nô khoe: Hồ viết khá nhiều báo Pháp từ 1921 - Đến 1923 với bút hiệu Nguyễn Ái Quốc. Nhưng tới nay mọi người đều quá rơ: bút hiệu Nguyễn ái Quốc là của các ông Phan văn Trường , Nguyễn thế Truyền , Nguyễn an Ninh. Hồ chỉ là kẻ tiếm danh Nguyẽn Ái Quốc. Những năm đầu kháng chiến chống Pháp, trang trong ( trang 2) báo nhân dân có một mục nhỏ, đóng khung CB. Bọn cán bộ diễn giải rằng CB là của Bác, trong đó , chuyên viết về những công việc thực tế đời sống hàng ngày của một nông dân như: bón phân ,  ủ phân, trồng cây , tưới cây……Những nhà lănh đạo,những nhà trí thức tầm cỡ Nguyễn ái Quốc thường ưa viết về những vấn dề lư thuyết, lư luận hay chỉ đạo. Nếu không phải là những cuốn sách, th́ ít ra cũng phải những bài dài nhiều trang giấy về lư thuyết, lư luận , chính trị kinh tế, quân sự. Như ta đă biết một vấnđề sẵn có trong đầu óc, thể hiện những nhận định ấy trên giấy trắng mực đen đ̣i hỏi người viết phải có tŕnh độ văn hoa và kỹ thuật.Người học tṛ lớp 12nhiều năm mài đũng quần trên ghế nhà trườngđă có tŕnh độ nhận thức nên suy luận và phán đoán lẹ. Người học sinh  lớp nhất đi thi phải làm bài luận mô tả ,,thi trung học phải làm bài luận nghị luận, đến tú tài một một phải làm bài nghị luận. Tất nhiên  người học tṛ không c̣n hay c̣n rất hiếm lỗi chính tả. Khi qua cửa ải tú tài ̀I không c̣n gặp những khó khăn  diễn  tả tư tưởng  đă có trong đầu óc, ra giấy trắng mực đen. Có lẽ Hồ biết ḿnh yếu kém về mặt văn hóa nên viết hay đọc những bài diễn văn dài, ta chỉ thấy ở Trường Chinh, Phạm văn Đồng , Vơ Nguyên Giáp là những người cộng sản có học. Thăm viếng chỗ này chỗ kia Hồ chỉ khai thác, kích động của một người nhiều kinh nghiệm sống.

      Cuộc đời Hồ dầy đây mai đó, cái nhà tù luôn luôn sừng sững ở trước mặt hay trong giấc ngủ. Trong hoàn cảnh đó, Hồ làm sao tĩnh tâm mà học hay nghiên cứu cho được Những người học hành giang dở, khi vạ trường tranh đấu họ được trang bị những danh từ triết học duy vật như : Vạn vật  mâu thuẫn ,vạn vạt biến đổi, quy luật tiến hóa của lịch sử, hủy thể của hủy thể, biện chứng pháp duy vật, hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc…..Họ thiếu kiến thức để nhận định và không có khả năng tiêu thụ những điều ḿnh đă học…..Họ tưởng ḿnh lớn mạnh - họ trở thành người định kiến. Với họ không có ǵ hơn học thuyết duy vật. Họ trở thành những người cuồng tín

       Giới sinh viên HàNội  , rỉ tai nhau về chuyện giáo sư Trần Đức Thảo, trước khi từ Pháp về núi rừng Việt Nam tham dự kháng chiến , ôngtuyên bố: “Tôi trở về Việt Nam hướng dẫn các đồng chí trong chính phủ và trung ương đảng, nghiêu cứu triết lư duy vật”.

    Tôi học giáo sư Trần đức Thảo một thời gian, nhưng đại giảng đường đại học HàNội, xây cất từ thời Pháp thuộc,  rộng lớn mênh mông,  chứa khoảng ba, bốn trăm người, làm sao tôi hỏi thầy về câu hỏi tế nhị kể trên. Thời gian giữa thập niên tám muơi, nghe tin giáo sư Thảo tới Pháp, thắc mắc của tôi có dịp sống lại. Tôi t́m gặp thày . Tôi mang 2 hộp Farmaton biếu thầy. Thày Thảo từ trên gác bê xuống một khay,  có một chén cơm , một chén nước mắm, một quả chứng luộc. Giáo sư khoẻ mạnh nhưng ông đă mất hết vẻ tinh anh của năm đầu ông từ kháng chiến về Hànội. Tôi kể lai lịch học ông ở đâu, thời gian nào? Khung cảnh của trường dại học HàNội và hỏi thăm một số thày cũ của tôi, là giáo sư bạn của ông ….Thày Thảo gật gù như nhớ lại dĩ văng…..Tôi biếu thày 2 hộp farmaton, th́ ông xua tay từ chối quyết liệt. “C̣n nhớ đến thăm thầy là tốt lắm rồi. Về vật chất thày đầy đủ không thiếu một thứ ǵ. Lần sau đến thăm thày  mang theo hai chai nước Eviand nhỏ, thày tṛ ḿnh mỗi người một chai, ta ra vường Luxembourg nói chuyện vừa mát vừa ngắm cảnh đẹp  “ Ghế đá công viên Luxembourg ? Một buổi chiều, tôi thưa với thày thắc mắc từ lâu chưa được giải đáp. Thày Thảo ừ ừ trong miệng, gật gật cái đầu một lúc rồi nói:

   “ Nội dung câu chuyện gần như thế, c̣n ngôn ngữ th́ không phải vậy. Khi tôi về đến chiếu khu rừng núi Bắc Việt, mấy ngày sau , tôi được hướng dẫn  tới chào các đồng chí lănh đạo đảng và nhà nước . Tôi không gặp cụ Hồ mà gặp các ông Trường Chinh,Phạm văn Đồng , Vơ nguyên Giáp. Cuối buổi họp mặt ông Trường Chinh hỏi tôi: Giáo sư giúp kháng chiến là việc tốtnhưng bây giờ giáo sư bắt tay vào công việc ǵ để chúng tôi xắp xếp “

     Tôi từ khi tới Paris, để hết thời gian nghiên cứu học thuyết Marx, tôi về nước để nếu cần, cúng qúi vị nghiên cứu học thuyết Marx một cách sâu rộng”

Ông nh́n thẳng vào mặt tôi ông nói :

“ – Anh biết sao , thày nói thế là từ tâm của thày.V́ thày thấy rằng: Thời kư 1920Paris bán những loại sách nhỏ, bỏ túi, viết về học thuyết Marx một cách sơ đẳng. Các nhà trí thức , nhà báo đọc ngấu nghiến nên đâu có lănh hội được yếu tính cốt tủy của Marx. Thái độ nghiên cứu học thuyết Marx chẳng khác nào, chúng ta ở Việt Nam, nhà chúng ta ở gần chùa, ta thấy sư ăn chay, quần áo nâu sồng, đời sống khổ hạnh…..rồi ta chủ quan khoe rằng: Nhà tôi bên cạnh chùa, tôi biết rơ Phật giáo. Thực chúng ta chỉ biết đến cổng chùa, chứ chưa biết- ǵ về triết lư của đức Phật…..loại sách tóm tắt đơn giảnvề triết lư duy vật du nhập vào Việt Nam cuối thập niên 1930, các nhà trí thức, các nhà cách mạng Việt Nam đă đọc nó với thái độ không thận trong, hời hợt….. chưa kể những người ít học, tŕnh độ thấp kém nên hiểu sai lầm nó !”.

     Thưa thầy : con nghĩ rằng: Trường Chinh , Phạm văn Đồng , Vơ Nguyên Giáp, giờ họ là những là những người lănh đạo đảng và nhà nước nên họ lầm tưởng rằng họ là “đỉnh cao của trí tuệ loài người “những lời của thày , có thể gây cho họ ác cảm và ngộ nhận chăng ?

     Giờ đây bên tai tôi c̣n văng vẳng lời giới thiệu của ông Trần văn Giầu khi ôngThảo từ rừng về dậy triết ở trường đại học HàNội:

     “ Giáo sư Thảo đă bước lên đỉnh ngọn cao của triết học duy tâm và ông đă bước sang đỉnh cao của triềt học duy vât”

Từ ngọn cao của ngọn núi duy vật, giáo sư thạc sị Trần đức Thảo đủ khả năng phán xét nhữnganh tập tễnh ở chân núi duy vật. Những người kém  khả năng văn hoá, họ đọc Marx nhưng không hiểu ǵ hết. Hồ đến hội nghị quốc tế bằng cái vốn văn hoá: - lớp nhất, năm  cuối  của tiểu học, th́ ông kém óc lư luận, phán đoán, suy luận. Chiến thuật, chiến lược ông c̣n chưa biết, nói chi những ngôn ngữ trừu tượng của triết học duy vật. Ông ngồi trong đại hội mà tưởng như vịt nghe sấm: Rô Đơ một người Pháp  làm thư kư cho đại hội đồng hỏi ông Hồ:

“Đồng chí, bây giờ đồng chí hiểu tại sao chúng tôi đă bàn căi nhiều như thế rồi chứ ? “

Hồ trả lời :

Không, chưa hiểu thật đâu!

“- Thế th́ tại sao đồng chí lại bỏ phiếu cho đệ tam quốc tế?:

    “- Rất đơn giản, tôi không hiểu chị nói thế nào  là chiến lược, chiến thuật, vô sản và nhiếu điểm khác. Nhưng tôi rơ một điều, đệ tam quốc tế rất chú ư đến vấn đề giải phóng thuộc điạ. Đệ tam quốc tế nói  sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do độc lập của họ. C̣n đệ nhị quốc tế không hề nhắc đến vận mạng các dân tộc thuộc điạ. V́ vậy tôi bỏ phiếu tán thành đệ tam quốc tế “

 

Phạm Hữu.

Mặt thực của Hồ

Kỳ  ‒  1 ‒ ‒  3 ‒  ‒  5  ‒  6  ‒ 

 

 

Trang Nhà  :

 

Tiếp nhận thư tín :